Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

báo cáo thực tập quản lý rủi ro tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (598.35 KB, 80 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam phát triển khá nhanh kể từ sau khi thực hiện chính sách
mở cửa 1986. Và trong những năm gần đây tốc độ tăng trưởng của tất cả các lĩnh vực
đều cao. Do sự tất yếu của quá trình Quốc tế hóa, toàn cầu hóa nên nước ta không
ngừng mở của hội nhập kinh tế Thế giới. Đặc biệt, năm 2006 Việt Nam gia nhập
WTO, đó vừa là cơ hội, cũng là thách thức lớn đối với nước ta.
Một trong những khó khăn quan trọng là sự cạnh tranh khốc liệt của các quốc
gia từ bên ngoài vào trong tất cả các lĩnh vực. Trong đó phải kể đến lĩnh vực tài chính
- ngân hàng, hiện nay hệ thống Ngân hàng ở Việt Nam phát triển khá rộng cả bề dài
lẫn bề sâu. Trong những năm vừa qua, lợi nhuận của hệ thống ngân hàng thương mại
Việt Nam liên tục gia tăng, tuy nhiên song hành cùng với những khoản lợi nhuận đó
luôn tiềm tàng những rủi ro rất lớn.
Một trong những rủi ro mang tính truyền thống và đặc trưng của nghành ngân
hàng đó là rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng xảy ra kéo theo rất nhiều hậu quả nghiêm
trọng. Rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi nhưng làm thế nào để quản lý được nó,
hạn chế được nó luôn là câu hỏi lớn luôn được các nhà làm ngân hàng quan tâm.
Chính vì vậy, việc đưa ra các biện pháp nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các
rủi ro tín dụng, đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng luôn là vấn đề được đặt lên
hàng đầu trong hoạt động của mọi ngân hàng.
Quản lý rủi ro tín dụng là một trong những mục tiêu cơ bản trong quá trình
thực hiện đề án cơ cấu lại một cách toàn diện và nâng cao năng lực cạnh tranh của các
ngân hàng Việt Nam nói chung và Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng
(VPBank) nói riêng trước yêu cầu mở cửa thị trường tài chính dịch vụ theo các cam
kết quốc tế của Việt Nam. Xuất phát từ thực tế hoạt động tín dụng của VPBank, em
xin chọn đề tài: “ Quản lý rủi ro tín dụng tại Phòng giao dịch Trần Xuân Soạn”
1
Chuyên đề tốt nghiệp
Chương 1: Quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.1. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1 Khát quát về Ngân hàng Thương mại


Vào thế kỷ III, các thợ kim hoàn bắt đầu nhận các khoản tiển gửi, tài sản quý
củakhách hàng và thu một khoản phí nhất định.
Sang thế kỷ X các thợ kim hoàn nhận thấy không chỉ có thể hưởng các khoản
phí mà họ còn có thể hưởng lợi ích từ việc sử dụng tiền của người này cho người khác
vay. Lúc này hoạt động của một ngân hàng thực thụ ra đời bao gồm trao đổi ngoại tệ,
chiết khấu thương phiếu, nhận tiền gửi, cho vay thương mại, bảo quản vật có giá, tài
trợ cho hoạt động của Chính Phủ (chiến tranh), cung cấp các dịch vụ ủy thác. Sang thế
kỷ XVIII hình thành nghiệp vụ phát hành tiền, phát hành CD. Để kiểm soát hoạt động
này Chính Phủ đưa ra các điều luật về phân định các ngân hàng phát hành với các
ngân hàng kinh doanh tiền tệ.
Thế kỷ XIX, có một loạt các nghiệp vụ khác được phát triển thêm. Lúc này đã
có thêm nghiệp vụ cho vay tiêu dùng, bán bảo hiểm, tư vấn tài chính, cung cấp dịch
vụ môi giới đầu tư, dịch vụ quản lý tiền mặt.
Cuối thế kỷ XIX các quốc gia không để ngân hàng thực hiện việc phát hành
tiền mà tập trung vào một ngân hàng thống nhất là NHTW Ngân hàng có thể được
chia làm 2 loại, ngân hàng đầu tư và ngân hàng kinh doanh thông thường.
Nếu ngân hàng đồng thời thực hiện cả hoạt động kinh doanh thông thường và
hoạt động đầu tư có thể sẽ làm cho rủi ro của ngân hàng gia tăng. Bằng chứng là trong
thế kỷ XIX có rất nhiều ngân hàng bị đổ vỡ. Những năm 20-30 của thế kỷ XX, các
quốc gia đưa ra các đạo luật phân định hoạt động của Ngân hàng đầu tư với NHTM.
Theo đó các Ngân hàng kinh doanh tiền tệ chỉ được thực hiện các nghiệp vụ cơ bản,
chỉ có các Ngân hàng đầu tư mới được thực hiện các hoạt động đầu tư, môi giới
chứng khoán.
Những năm 70, các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại mới xuất hiện như thẻ tín
dụng, thẻ rút tiền, mạng lưới thanh toán tại điểm bán hàng, Internet Banking, Home
Banking
Những năm 90 một loạt các nghiệp vụ mới ra đời dựa trên sự phát triển của
khoa học - kỹ thuật như ngân hàng ảo, công ty sở hữu ngân hàng (các ngân hàng phát
triển dưới hình thức công ty sở hữu ngân hàng chứ không phải là các ngân hàng đơn
thuần

Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam:
a. Ngân hàng thương mại Quốc doanh (State owned Commercial bank): Là
ngân hàng thương mại được thành lập bằng 100% vốn ngân sách nhà nước. Trong
2
Chuyên đề tốt nghiệp
tình hình hiện nay để tăng nguồn vốn và phù hợp với xu thế hội nhập tài chính với thế
giới các ngân hàng thương mại quốc doanh việt nam đang phát hành trái phiếu để
huy động vốn; đã và đang cổ phần hóa để tăng sức cạnh tranh với các chi nhánh ngân
hàng nước ngoài và các ngân hàng cổ phần hiện nay.
Thuộc loại này gồm:
– Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Bank for
Agriculture and Rural Development)
– Ngân hàng công thương Việt Nam (Industrial and commercial Bank of viet
man –ICBV) gọi tắt là Vietinbank – đã cổ phần hoá)
– Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (Bank for Investement and
Development of Viet nam – BIDV)
– Ngân hàng ngoại thương Việt Nam (Bank for Foreign Trade of Viet nam –
Vietcombank) đã cổ phần hoá.
– Ngân hàng phát triền nhà Đồng bằng sông Cửu Long (Housing Bank of
Mekong Delta).
b. Ngân hàng thương mại cổ phần (joint Stock Commercial bank): Là ngân
hàng thương mại được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần. Trong đó một cá
nhân hay pháp nhân chỉ được sở hữu một số cổ phần nhất định theo qui định của ngân
hàng nhà nước Việt Nam.
c. Ngân hàng liên doanh (thuộc loại hình tổ chức tín dụng liên doanh)
Là Ngân hàng được thành lập bằng vốn liên doanh giữa một bên là ngân hàng thương
mại Việt Nam và bên khác là ngân hàng thương mại nước ngoài có trụ sở đặt tại Việt
Nam, hoạt động theo pháp luật ở Việt nam
d. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: là ngân hàng được thành lập theo pháp
luật nước ngoài, được phép mở chi nhánh tại Việt Nam, hoạt động theo pháp luật

Việt Nam
1.1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của Ngân hàng thương mại
a. Khái niệm
Ngân hàng thương mại(NHTM) là tổ chức kinh doanh tiền tệ tín dụng có vị trí
quan trọng nhất trong nền kinh tế thị trường ở các nước. Có nhiều khái niệm khác
nhau về ngân hàng thương mại:
Ở Mỹ: NHTM là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính
và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
Ở Pháp: NHTM là những xí nghiệp và cơ sở nào thường xuyên nhận của công
chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ
vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.
3
Chuyên đề tốt nghiệp
Ở Ấn Độ: NHTM là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay hay tài trợ đầu tư.
Theo Pháp lệnh Ngân hàng năm 1990 của Việt Nam: Ngân hàng thương mại là
một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà nghiệp vụ thường xuyên và chủ yếu là nhận tiền
gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, chiết
khấu và làm phương tiện thanh toán.
Theo luật Các tổ chức tín dụng Việt Nam có hiệu lực vào tháng l0/1998: “Ngân
hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các
hoạt động kinh doanh khác có liên quan”.
Nghị định của Chính phủ số 49/20001NĐ-CP ngày 12/9/2000 định nghĩa:
“Ngân hàng thương mại là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần
thực hiện các mục tiêu kinh tế của nhà nước
Pháp lệnh ngân hàng ngày 23/5/1990 của hội đồng Nhà nước Việt Nam xác
định: "Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà họat động chủ yếu và
thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng
số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán".
b. Đặc điểm

Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc thù kinh doanh trong
lĩnh vực tiền tệ-tín dụng. Các hoạt động của NHTM nhằm thúc đẩy và lưu chuyển các
dòng tiền tệ phục vụ cho việc giao dịch, thanh toán, phát sinh hàng ngày trong nền
kinh tế, đồng thời thông qua các hoạt động huy động vốn và cho vay. Các NHTM có
khả năng tạo tiền từ các nghiệp vụ kinh doanh của mình thông qua các công vụ lãi
suất tỷ giá. Vì vậy, NHTM là một mắt xích quan trọng góp phần ổn định chính sách
tiền tệ quốc gia, đặc biệt là đối với các quốc gia đang chuyển đổi nền kinh tế để tham
gia hội nhập khu vực và quốc tế như Việt Nam.
NHTM có đặc điểm giống như các DN khác trong nền kinh tế, cũng sử dụng
các yếu tố sản xuất như lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động (tiền vốn) làm
yếu tố đầu vào, để sản xuất ra những yếu tố đầu ra dưới hình thức dịch vụ tài chính
mà khách hàng yêu cầu. Tuy nhiên, khác với các doanh nghiệp khác, NHTM là loại
hình doanh nghiệp đặc biệt, trong hoạt động kinh doanh thể hiện qua các đặc điểm
sau:
- Thứ nhất: Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính.
Với đặc điểm là một trung gian tài chính, NHTM đóng vai trò là cầu nối giữa
người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với đặc điểm này, ngân hàng thương mại
4
Chuyên đề tốt nghiệp
vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi
nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo
lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và người đi vay.
Đặc điểm trung gian tài chính được thể hiện qua các yếu tố sau:
+ Vốn: Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng xuất hiện đầu tiên và phổ
biến nhất hiện nay. Đây là tổ chức nhận tiền gửi (depository institutions) đóng vài trò
là trung gian tài chính huy động tiền nhàn rỗi thông qua các dịch vụ nhận tiền gửi rồi
cung cấp cho những chủ thể cần vốn chủ yếu dưới hình thức các khoản vay trực tiếp.
Hoạt động của NHTM là cầu nối giữa các nhà đầu tư và doanh nghiệp, những
cá nhân có vốn nhàn rỗi và các nhà đầu tư, các doang nghiệp, các cá nhân có nhu cầu
vay vốn. Các NHTM góp phần không nhỏ vào việc giải quyết nạn thất nghiệp, nâng

cao thu nhập và mức sống của dân cư cũng như góp phần bảo đảm vốn đối với các
ngành kinh tế nhằm phát triển ngành nghề, chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế của một
quốc gia.
Các ngân hàng thương mại huy động vốn chủ yếu dưới dạng: tiền gửi thanh
toán (checkable deposits), tiền gửi tiết kiệm (saving deposits), tiền gửi có kỳ hạn
(time deposits). Vốn huy động được dùng để cho vay: cho vay thương mại
(commercial loans), cho vay tiêu dùng (consumer loans), cho vay bất động sản
(mortage loans) và để mua chứng khoán chính phủ, trái phiếu của chính quyền địa
phương.
+ Kỳ hạn: một đặc điểm của ngân hàng thương mại đó là các món vay hoặc
món huy động luôn gắn với thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ.
Các giới hạn về thời hạn luôn được các nhà quản lý ngân hàng chú ý vì kỳ hạn
liên quan đến thanh khoản và rủi ro ngân hàng cũng như chu kỳ kinh doanh của người
vay. Chính sách thời hạn giải quyết mối quan hệ thời hạn của nguồn (chủ yếu là do
người gửi và người cho ngân hàng vay quyết định) và thời hạn tài trợ (xuất phát từ
yêu cầu của người vay do đặc điểm luân chuyển vốn và quy mô thu nhập quyết định).
Từ đó ngân hàng xác định kỳ hạn nợ cụ thể đảm bảo cân bằng kỳ hạn trung bình.
Ngân hàng thường dựa trên kỳ hạn của nguồn để quyết định chính sách kỳ hạn
cho vay nếu khả năng tìm kiếm nguồn và chuyển hoán kỳ hạn nguồn của ngân hàng
không cao.
+ Rủi ro: Ngân hàng nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng luôn luôn
đối đầu với rủi ro như rủi ro tín dụng, rủi ro hối đoái, thanh khoản, rủi ro lãi suất. Bởi
phần lớn nguồn tiền của Ngân hàng là các khoản tiền gửi phải trả khi có yêu cầu.
Hoạt động kinh doanh của NHTM là hoạt động chứa nhiều rủi ro, bởi lẽ nó tổng
hợp tất cả các rủi ro của khách hàng, đồng thời rủi ro trong hoạt động kinh doanh
5
Chuyên đề tốt nghiệp
ngân hàng có thể gây ảnh hưởng lớn cho nền kinh tế hơn bất kỳ rủi ro của loại hình
doanh nghiệp nào vì tính chất lây lan có thể làm rung chuyển toàn bộ hệt hống kinh
tế. Do đó, trong quá trình hoạt động các NHTM phải thường xuyên cảnh giác, nghiên

cứu, phân tích, đánh giá, dự báo và có những biện pháp phòng ngừa từ xa có hiệu quả.
Ngoài ra, điều này cũng đòi hỏi ngân hàng tự đánh giá được khả năng chịu đựng rủi
ro của mình.
+ Thanh toán: với đặc điểm thanh toán, NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các
doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như
trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập
vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo
lệnh của họ. Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện
lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng…
Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp.
Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp
chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương
thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết
kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn.
Đặc điểm này vô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ
thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế. Đồng thời việc
thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng đã giảm được lượng tiền mặt trong lưu
thông, dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt như chi phí in ấn, đếm nhận, bảo
quản,…Ngân hàng thương mại thu phí thanh toán. Thêm nữa, nó lại làm tăng nguồn
vốn cho vạy của ngân hàng thể hiện trên số dư có trong tài khoản tiền gửi của khách
hàng
+ Thông tin: Thông tin tín dụng là yếu tố không thể thiếu trong quyết định cấp
và quản lý tín dụng bởi quan hệ tín dụng được hình thành chủ yếu dựa vào niềm tin và
niềm tin này được xác lập dựa vào nội dung, chất lượng thông tin có được. Ngân hàng
cần phải nắm được thông tin phi tài chính (tư cách, uy tín, năng lực quản lý, kinh
doanh, quan hệ xã hội ) và thông tin tài chính (khả năng tài chính, kết quả kinh
doanh quá khứ, công nợ, nhu cầu vốn hợp lý, hiệu quả hoạt động SXKD, khả năng trả
nợ, tài sản thế chấp ) về khách hàng vay vốn.
NHTM là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt nên hoạt động của các ngân
hàng cũng có những “đặc thù” khác với các công ty. Đó là sự không rõ ràng của một

số nguồn thông tin tài chính khiến khó đánh giá chất lượng hoạt động và rủi ro; sự đa
dạng về các đối tượng thụ hưởng nên khó quản lý; độ rủi ro lớn, nhiều khoản nợ ngắn
hạn nên rủi ro trong hoạt động là rất cao và rất dễ dẫn đến phá sản; chịu sự quản lý
6
Chuyên đề tốt nghiệp
chặt chẽ với nhiều quy định khắt khe và chi tiết do tầm quan trọng trong hệ thống, nếu
đổ vỡ có thể gây ra tổn thất lớn và trên phạm vi rộng. Vì thế, bản thân các ngân hàng
cũng phải đưa ra các quy định rất cụ thể, rõ ràng như các hạn chế về hoạt động (sản
phẩm, chi nhánh), yêu cầu về đảm bảo an toàn (phân loại tín dụng, dự trữ bắt buộc…).
Trong tình hình cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gay gắt như hiện nay,
vai trò của CIC (trung tâm thông tin tín dụng) là rất quan trọng trong việc cung cấp
thông tin kịp thời, chính xác để các ngân hàng có các quyết định cho vay hợp lý.
- Thứ hai: Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp kinh doanh
có điều kiện
Điều kiện kinh doanh được thể hiện dưới các hình thức như: Giấy phép kinh
doanh; Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh; Xác nhận vốn pháp định;
Với lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, quy định của Luật Ngân hàng và Luật các Tổ chức tín
dụng. Với các ngân hàng thương mại, mức vốn pháp định áp dụng cho đến năm 2010
là 3.000 tỷ đồng; chi nhánh ngân hàng nước ngoài là 15 triệu USD; với ngân hàng
chính sách, ngân hàng phát triển là 5.000 tỷ đồng; ngân hàng đầu tư, ngân hàng hợp
tác và quỹ tín dụng nhân dân Trung ương là 3.000 tỷ đồng;
Vốn pháp định là số vốn tối thiểu ban đầu khi ngân hàng được pháp luật công
nhận , việc quy định vốn pháp định nhằm đảm bảo khả năng thực tiễn và mục đích
kinh doanh chân chính của ngân hàng cũng như bảo hộ quyền lợi của những tổ chức
và cá nhân có mối quan hệ với ngân hàng
- Thứ ba: Ngân hàng thương mại có sản phẩm khác với các loại hình doanh
nghiệp khác:
Sản phẩm mà NHTM kinh doanh và làm dịch vụ là hàng hóa tài chính (finacial
goods). Nói cách khác đó là tiền và các chứng từ có giá như là: cổ phiếu, thương
phiếu, tín phiếu, trái phiếu, hối phiếu. Đây là những sản phẩm cao cấp của thị trường.

Vì vậy được vận hành theo một quy trình và được điều hành bởi một nguồn lực có
trình độ chuyên môn nhất định, dựa trên cơ sở pháp lý do Luật quy định
Trong quá trình hoạt động, NHTM tạo ra sản phẩm và dịch vụ trực tiếp cung ứng
cho người tiêu dùng khi có nhu cầu. Do vậy hoạt động của ngân hàng dựa vào thương
hiệu và uy tín tạo ra đối với khách hàng. Cho nên hoạt động của NHTM là một chuỗi
không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ cung cấp và quảng bá tiếp thị
hình ảnh của mình tới khách hàng.
- Thứ tư: Ngân hàng thương mại có đặc điểm về vốn và tài sản
+ Vốn: Công ty tài chính và ngân hàng đều phải có vốn pháp định, song vốn
pháp định của công ty tài chính thấp hơn ngân hàng. Theo Nghị định 141/2006/NĐ-
CP, ngày 22/11/2006 của Chính phủ, công ty tài chính được cấp giấy phép thành lập
7
Chuyên đề tốt nghiệp
và hoạt động sau ngày Nghị định 141/2006/NĐ- CP của Chính phủ có hiệu lực và
trước ngày 31/12/2008 thì phải có mức vốn pháp định là 300 tỷ đồng; công ty tài
chính được cấp giấy phép thành lập và hoạt động sau ngày 31/12/2008 thì phải có
mức vốn pháp định là 500 tỷ đồng. Nhưng vốn pháp định đối với một ngân hàng áp
dụng cho đến năm 2008 không thấp hơn 1.000 tỷ đồng, tùy theo loại hình ngân hàng
và áp dụng cho đến năm 2010 trở đi không thấp hơn 3.000 tỷ đồng.
Vốn và tiền vừa là phương tiện, vừa là mục đích kinh doanh nhưng đồng thời
cũng là đối tựơng kinh doanh của NHTM. Và chính đặc điểm này sẽ bao trùm hơn và
rộng hơn so với các loại hình DN khác.
NHTM kinh doanh chủ yếu bằng vốn của người khác. Vốn tự có của NHTM
chiếm một tỷ lệ rất thấp trong tổng nguồn vốn hoạt động, nên việc kinh doanh của
NHTM luôn gắn liền với một rủi ro mà ngân hàng buộc phải chấp nhận với một mức
độ mạo hiểm nhất định. Bởi vì trong hoạt động kinh doanh hằng ngày của mình,
NHTM không những phải bảo đảm nhu cầu thanh toán, chi trả như mọi khi loại hình
DN khác, mà còn phải đảm bảo tốt nhu cầu chi trả tiền gửi của khách hàng. Từ đó cho
thấy, việc phân tích khả năng thanh khoản của NHTM có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
+ Tài sản: Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ. Do đặc

thù đó nên phần lớn tài sản của ngân hàng là các tài sản tài chính đó là các hợp đồng
cho vay, hợp đồng thuê – mua, các chứng khoán, các khoản tiền gửi Một phần nhỏ
trong khối tài sản của ngân hàng là tài sản cố định như nhà cửa, trang thiết bị. Các tài
sản đều tập trung đảm bảo an toàn ( an toàn thanh khoản, an toàn tín dụng và các an
toàn khác) và tăng khả năng sinh lời cho ngân hàng. Tài sản có của ngân hàng bao
gồm các tài sản sinh lời và tài sản không sinh lời, trong đó tài sản sinh lời luôn chiếm
phần chủ yếu. Tài sản có sinh lời là những tài sản đem lại nguồn thu nhập chính cho
ngân hàng đồng thời cũng là những tài sản chứa đựng nhiều rủi ro. Những tài sản này
bao gồm các khoản cho vay, cho thuê tài chính, các khoản đầu tư vào chứng khoán,
góp vốn liên doanh, liên kết trong đó chiếm tỷ trọng cao nhất là các khoản cho vay.
- Thứ năm: Hoạt động của Ngân hàng thương mại luôn luôn được kiểm soát
“Kiểm soát là khả năng của một thực thể trong việc chi phối quá trình ra quyết
định, trực tiếphoặc gián tiếp, trong mối quan hệ với các chính sách tài chính và vận
hành của một thực thểkhác, qua đó tạo khả năng cho chủ thể đó vận hành theo các
mục tiêu của chủ thể kiểm soát”.
Kiểm soát nội bộ đóng vai trò rất quan trọng đối với sự an toàn và khảnăng
phát triển trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Việc xây dựng
vàthực hiện được một cơ chế kiểm soát nội bộ phù hợp và hiệu quả sẽ cho phép các
ngân hàng thương mại chống đỡ tốt nhất với rủi ro.
8
Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.1.2 Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại chủ yếu có các hoạt động sau:
a) Hoạt động huy động vốn.
Tiền gửi của khách hàng (gồm cá nhân và tổ chức) là nguồn vốn quan trọng
nhất của NHTM, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng.Để huy
động được nhiều tiền có chất lượng ổn định, các ngân hàng phải đưa ra được nhiều
sản phẩm dịch vụ phục vụ được mọi đối tượng và đa dạng hoá các hình thức huy động
vốn như: tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội,
cơ quan, tiết kiệm của dân cư ,linh hoạt về lãi suất. Là đối tượng phải dự trữ bắt buộc

với NHNN, nên chi phí tiền gửi của NHTM trả cho khách hàng cao hơn thực tế.Ngoài
ra tiền gửi ngắn hạn hoặc không kỳ hạn thường rất nhạy cảm với biến động của lãi
suất và những yếu tố kinh tế khác như lạm phát.
Ngoài tiền gửi của khách hàng, NHTM còn huy động vốn từ nguồn đi vay của
NHNN hay của các NHTM khác và quốc tế.Tuy nhiên tỷ trọng của nguồn vốn này
thấp hơn nguồn tiền gửi
b) Hoạt động cho vay và đầu tư
Hoạt động quan trọng của NHTM là tìm cách sử dụng nguồn vốn của mình để
thu lợi nhuận. Việc sử dụng vốn là quá trình biến tài sản nợ thành tài sản có khác
nhau, trong đó cho vay và đầu tư là tài sản quan trọng nhất. Do vậy quản lý tài sản là
nhiệm vụ quan trọng của NHTM để tránh rủi ro, đảm bảo an toàn vốn.
* Hoạt động cho vay
Cho vay là việc NHTM đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải
hoàn trả cả gốc lẫn lãi cho Ngân hàng trong một khoảng thời gian xác định (hay còn
gọi là thời hạn tín dụng)
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm kiếm
mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay. Một trong những nguồn vốn quan trọng là
các khoản tiền gửi tiết kiệm gửi tiết kiệm của khách hàng – một quỹ sinh lợi được gửi
tại ngân hàng trong khoảng thời gian nhiều tuần, nhiều tháng, nhiều năm, đôi khi
được hưởng mức lãi suất tương đối cao. Trong lịch sử đã có những kỷ lục về lãi suất,
chẳng hạn các ngân hàng Hy Lạp đã trả lãi suất 16% một năm để thu hút các khoản
tiết kiệm nhằm mục đích cho vay đối với các chủ tàu ở Địa Trung Hải với lãi suất gấp
đôi hay gấp ba lãi suất tiết kiệm.
Ngân hàng thương mại sử dụng đa dạng các phương thức cho vay vốn lưu
động truyền thống cũng như các sản phẩm đặc thù phù hợp với từng loại hình kinh
doanh khách hàng như: Cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay
9
Chuyên đề tốt nghiệp
theo hạn mức thấu chi, cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng…. Và các sản phẩm
đặc thù theo hoạt động kinh doanh của khách hàng.

* Hoạt động đầu tư:
Hiện nay, hầu hết các ngân hàng thương mại đều tham gia vào hoạt động đầu
tư, đầu tư chứng khoán, bất động sản, đầu tư dự án ,
Theo Luật các Tổ chức tín dụng thì các NHTM muốn đầu tư vào lĩnh vực
chứng khoán hay bất động sản, thì họ phải thành lập công ty con dưới dạng công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên, hay một tư cách pháp nhân khác. Mục đích của
việc này là để dễ dàng kiểm soát hoạt động, vì NHTM thì chịu sự kiểm soát của Ngân
hàng Nhà nước còn công ty chứng khoán thì chịu sự kiểm soát của Ủy ban Chứng
khoán. Do đó để tách bạch các hoạt động đồng thời đảm bảo quản lý rủi ro cho các
NHTM, các công ty con không được phép đầu tư ngược lại vào NHTM mẹ, và
NHTM mẹ ko được cho vay công ty con.
NHTM là tổ chức nhận tiền gửi do đó ảnh hưởng của nó khá lớn đến thị trường
tài chính, khi các NHTM đầu tư tức là đổ vốn vào các công cụ tài chính có lợi nhuận
cao đồng thời rủi ro cao. Đó cũng là lý do vì sao NHTM có thể đầu tư nhưng phải
tách hoạt động đó ra khỏi hoạt dộng ngân hàng.
NHTM chủ yếu thực hiện các hoạt động đầu tư sau:
Hoạt động tài trợ dự án đó là việc NHTM trực tiếp tham gia cùng với chủ đầu
tư (2 bên sẽ thành lập 1 công ty chung là công ty dự án và luồng tiền thu về là từ DỰ
ÁN) > gọi là "lời ăn lỗ chịu".
Đối với việc đầu tư chứng khoán, Ngân hàng thương mại được phép trực tiếp
tư vấn tài chính doanh nghiệp, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp và tư vấn đầu tư
chứng khoán; lưu ký chứng khoán, mua bán trái phiếu Chính phủ.
Với các nghiệp vụ như bảo lãnh phát hành chứng khoán; tự doanh chứng khoán
bao gồm cả mua bán cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp; môi giới chứng khoán; quản
lý, phân phối chứng chỉ quỹ đầu tư; quản lý danh mục đầu tư chứng khoán… ngân
hàng không được trực tiếp thực hiện mà phải thông qua các công ty con của mình.
c) Hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính khác
NHTM là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết
kiệm thành đầu tư, tức chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi có nhu cầu sử dụng. Với chức
năng này NHTM làm cầu nối giữa cá nhân và tổ chức có thu nhập lớn hơn chi dùng

với những cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt trong chi tiêu, hay thu nhập không bù
đắp nổi nhu cầu chi tiêu nên họ cần bổ xung vốn.
Ngoài trung gian tài chính,NHTM còn là trung gian thanh toán. Ngân hàng
thay mặt khách hàng chi trả giá trị hàng hoá và dịch vụ trong và ngoài nước.Để thanh
10
Chuyên đề tốt nghiệp
toán được nhanh chóng, thuận tiện, an toàn và tiết kiệm, ngân hàng dùng nhiều hình
thức thanh toán không dùng tiền mặt như:séc chuyển tiền, uỷ nhiệm chi, bù trừ qua
NHNN hoặc qua trung tâm thanh toán, nhờ thu v v bằng các biện pháp kỹ thuật
như:thư, điện tín, hệ thống máy tính điện tử v v
Tư vấn tài chính: Các ngân hàng từ lâu đã được khách hàng yêu cầu thực hiện
hoạt động tư vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. Ngân hàng ngày nay
cung cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và kế hoạch tài
chính cho các cá nhân đến tư nhân về các cơ hội thị trường trong nước và ngoài nước
cho các khách hàng kinh doanh của họ.
Dịch vụ thuê mua thiết bị. Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh
doanh quyền lựa chọn mua các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê
mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Ban đầu các qui định
yêu cầu khách hàng sử dụng dịch vụ thuê mua thiết bị phải trả tiền thuê (mà cuối cùng
sẽ đủ để trang trải chi phí mua thiết bị) đồng thời phải chịu chi phí sửa chữa và thuế.
Năm 1987, quốc hội Mỹ đã bỏ phiếu cho phép ngân hàng quốc gia sở hữu ít nhất một
số tài sản cho thuê sau khi hợp đồng thuê mua đã hết hạn. Điều đó có lợi cho các ngân
hàng cũng như khách hàng bởi vì bới tư cách là một người chủ thực sự của tài sản cho
thuê, ngân hàng có thể khấu hao chúng nhằm làm tăng lợi ích về thuế.
Cho vay tài trợ dự án. Các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc
tài trợ cho chi phí xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao.
Do rủi ro trong loại hình tín dùng này nói chung là cao nên chúng thường được thực
hiện qua một công ty đầu tư, là thành viên của công sở hữu ngân hàng, cùng với sự
tham gia của các nhà thầu, là thành viên của công ty sở hữu ngân hàng, cùng với sự
tham gia của các nhà đầu tư khác để chia sẻ rủi ro. Những ví dụ nổi bật về loại hình

công ty đầu tư này là Bankers Trust Venture Capital anh Citicorp Venture, Inc
Bán các dịch vụ bảo hiểm. Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo
hiểm tín dụng cho khách hàng, điều đó bảo đảm việc hoàn trả trong trường hợp khách
hàng vay vốn bị chết hay bị tàn phế. Trong khi các quy định ở Mỹ cấm ngân hàng
thương mại trực tiếp bán các dịch vụ bảo hiểm, nhiều ngân hàng hi vọng có thể đưa ra
các hợp đồng bảo hiểm cá nhân thông thường và hợp đồng bảo hiểm tổn thất tài sản
như ôtô hay nhà cửa trong tương lai. Hiện nay, ngân hàng thường bảo hiểm cho khách
hàng thông qua các liên doanh hoặc các thỏa thuận đại lý kinh doanh độc quyền theo
đó một công ty bảo hiểm đồng ý đặt một văn phòng đại lý tại hành lang của ngân
hàng và ngân hàng sẽ nhận một phần thu nhập từ các dịch vụ ở đó. Một số bang như
Delawake và South Dakota đã cho phép ngân hàng cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
được quy định trên toàn quốc. Những ngân hàng hoạt động trên toàn quốc nếu được
11
Chuyên đề tốt nghiệp
phép sẽ có thể cung cấp các dịch vụ về bảo hiểm thông qua các chi nhánh riêng biệt,
những quy mô đầu tư của nó chỉ được giới hạn ở mức 10% tổng số vốn chủ sở hữu.
Gần đây, Citicorp đã thông báo kế hoạch sáp nhập với công ty bảo hiểm Travelers
tromg một số nỗ lực nhằm đưa ra các dịch vụ bảo hiểm đa dạng hơn.
Cung cấp các kế hoạch hưu trí: Phòng ủy thác ngân hàng rất năng động
trong việc quản lý kế hoạch hưu trí mà hầu hết các doanh nghiệp lập cho người lao
động, đầu tư vốn và phát lương hưu cho những người đã nghỉ hưu hoặc tàn phế. Ngân
hàng cũng bán các kế hoạch tiền gửi hưu trí (được biết như IRAS và Keogle) cho các
cá nhân và giữ nguồn tiền gửi cho đến khi người sở hữu các kế hoạch này cần đến.
Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán. Trên thị trường tài
chính hiện nay, nhiều ngân hàng đang phấn đấu để trở thành một “bách hóa tài chính”
thực sự, cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thỏa mãn mọi nhu
cầu tại một địa điểm. Đây là một trong những lý do chính khiến các ngân hàng bắt
đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ
phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh
chứng khoán. Trong một vài trường hợp, các ngân hàng mua lại một công ty môi giới

đang hoạt động (ví dụ Bank of America mua Robertson Stephens Co.) hoặc thành lập
các liên doanh với một công ty môi giới.
Cung cấp dịch vụ quỹ tương hỗ và trợ cấp. Do ngân hàng cung cấp các tài
khoản tiền gửi truyền thống với lãi suất quá thấp, nhiều khách hàng đã hướng tới việc
sử dụng cái gọi là sản phẩm đầu tư (investment products) đặc biệt là các tài khoản của
quỹ tương hỗ và hợp đồng trợ cấp, những loại hình cung cấp triển vọng thu nhập cao
hơn tài khoản tiền gửi dài hạn cam kết thanh toán một khoản tiền mặt hàng năm cho
khách hàng bắt đầu từ một ngày nhất định trong tương lai (chẳng hạn ngày nghỉ hưu).
Ngược lại, quỹ tương hỗ bao gồm các chương trình đầu tư được quản lý một cách
chuyên nghiệp nhằm vào việc mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán phù hợp
với mục tiêu của quỹ (ví dụ: Tối đa hóa thu nhập hay đạt được sự tăng giá trị
vốn). Trong khi quá trình phát triển của các kế hoạch trợ cấp diễn ra khá chậm do
những vụ kiện tụng bởi các đối thủ cạnh tranh chống lại sự mở rộng của ngân hàng
sang lĩnh vực dịch vụ mới này thì việc cung cấp cổ phiếu trong quỹ vốn ngân hàng
quản lý chiếm 15% tổng giá trị tài sản của quỹ tương hỗ trong những năm 90. Một vài
ngân hàng đã tổ chức những chi nhánh đặc biệt để thực hiện nhiệm vụ này (ví dụ:
Citicorp’s Investment Services) hoặc liên doanh với các nhà kinh doanh và môi giới
chứng khoán. Gần đây, hoạt động cung cấp nghiệp vụ quỹ tương hỗ của ngân hàng đã
có nhiều giảm sút do mức thu nhập không còn cao như trước, do những qui định
nghiêm ngặt hơn và đồng thời do sự thay đổi trong quan điểm đầu tư của công chúng.
12
Chuyên đề tốt nghiệp
Cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn. Ngân hàng
ngày nay đang theo chân các tổ chức tài chính hàng đầu trong việc cung cấp dịch vụ
ngân hàng đầu tư và dịch vụ ngân hàng bán buôn cho các tập đoàn lớn. Những dịch
vụ này bao gồm xác định mục tiêu hợp nhất, tài trợ mua lại Công ty, mua bán chứng
khoán cho khách hàng (ví dụ: bảo lãnh phát hành chứng khoán), cung cấp công cụ
Marketing chiến lược, các dịch vụ hạn chế rủi ro để bảo vệ khách hàng. Các ngân
hàng cũng dấn sâu vào thị trường bảo đảm, hỗ trợ các khoản nợ do chính phủ và công
ty phát hành để những khách hàng này có thể vay vốn với chi phí thấp nhất từ thị

trường tự do hay từ các tổ chức cho vay khác.
Ở Mỹ, các dịch vụ ngân hàng đầu tư (như bảo lãnh phát hành chứng khoán)
liên quan tới việc mua bán cổ phiếu mới và nợ do ngân hàng thương mại thực hiện
thay mặt cho các công ty đã bị cấm sau khi Quốc hội thông qua các Đạo luật Glass-
Steagall năm 1933. Tuy nhiên, trước áp lực lớn từ các công ty ngân hàng trong nước
hàng đầu, và do thành công của các đối thủ cạnh tranh nước ngoài, vào những năm 80
Cục lữu trữ liên bang đã bắt đầu nới lỏng các quy định đối với việc ngân hàng kinh
doanh chứng khoán do khách hàng của chúng phát hành. Thông qua nghiệp vụ bảo
lãnh phát hành, ngân hàng đã tạo cho các công ty một kênh huy động vốn mới bên
cạnh hình thức cho vay vốn truyền thống. Nhiều công ty đã đánh giá rất cao nghiệp vụ
này của ngân hàng, hơn cả hình thức cho vay truyền thống bởi vì nó cung cấp cho họ
một nguồn vốn dài hạn với chi phí thấp hơn. Cho tới cuối những năm 90, Cục dự trữ
Liên bang Mỹ đã cấp cho hơn 40 ngân hàng đặc quyền cung cấp dịch vụ bảo lãnh
phát hành chứng khoán. Trên thực tế, điều này cho phép nhân viên tín dụng ngân
hàng cộng tác chặt chẽ với giới kinh doanh chứng khoán trong quá trình tìm nguồn tài
trợ cho khách hàng. Năm 1996, Cục quản lý tiền tệ Mỹ ra quy định mới cho phép các
ngân hàng có giấy phép hoạt động trên toàn quốc có thể cung cấp dịch vụ bảo lãnh
phát hành nếu như dịch vụ này được thực hiện thông qua các công ty con, với điều
kiện ngân hàng không được đầu tư quá 10% vốn cổ phần vòa một công ty. Một sự nới
lỏng hơn nữa trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán và như vậy, ngân hàng có thể
cung cấp toàn bộ dịch vụ tài trợ và tư vấn quản lý đối với hoạt động kinh doanh
chứng khoán. Một ví vụ gần đây là sự kiện ngân hàng NationBank mua Mortgetary
Security Inc., Bank America mua công ty Robertson Stephens và ngân hàng Banker
Trust of New York mua công ty Alex Brow.
1.1.2 Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1 Khái niệm hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
Tín dụng là quan hệ vay mượn, tạm thời sử dụng vốn của nhau dựa trên
nguyên tắc hoàn trả và sự tin tưởng. Trong nền kinh tế thị trường, nhiều loại hình
13
Chuyên đề tốt nghiệp

quan hệ tín dụng cùng tồn tại như tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng
nhà nước, tín dụng thuê mua, tín dụng tiêu dùng, tín dụng quốc tế. Song căn cứ vào
chức năng và vai trò của NHTM với nền kinh tế mà tín dụng ngân hàng có thể được
coi là loại quan hệ tín dụng quan trọng nhất, phổ biến nhất với nền kinh tế và thường
xuyên được quan tâm nghiên cứu.
Tín dụng ngân hàng được hiểu là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng,
một tổ chức chuyên kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, một bên là các chủ thể còn lại
của nền kinh tế. Tuy nhiên, quan niệm phổ biến về tín dụng ngân hàng là: Tín dụng
ngân hàng được hiểu là việc cho vay của NHTM với các chủ thể của nền kinh tế.
Theo luật tổ chức tín dụng năm 1998 của Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam thì: “Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử
dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết
khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác” và “Hoạt động
tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để
cấp tín dụng”
1.1.2.2 Phân loại hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
Có nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau tùy theo yêu cầu của khách hàng
và mục tiêu quản lý của ngân hàng. Sau đây là một số cách phân loại:
- Phân loại theo thời gian (thời hạn tín dụng): Phân chia theo thời gian có ý
nghĩa quan trọng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín
dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng được phân
thành:
+ Tín dụng ngắn hạn: từ 12 tháng trở xuống
+ Tín dụng trung hạn: từ trên 1 năm đến 5 năm
+ Tín dụng dài hạn: trên 5 năm
Thời hạn tín dụng thường được xác định cụ thể (ngày, tháng, năm) và ghi
trong hợp đồng tín dụng, là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho
khách hàng 1 khoản tín dụng.Thời hạn tín dụng có thể được tính từ lúc đồng vốn
đầu tiên của ngân hàng được phát ra đến lúc đồng vốn và lãi cuối cùng phải thu
về. Ví dụ, cho vay 3 tháng từ 1/3 đến 1/6 có nghĩa ngân hàng sẽ phát tiền gốc đầu

tiên vào lúc 1/3 và đến 1/6 sẽ phải thu hết gốc và lãi. Thời hạn tín dụng có thể là
thời gian mà khi kết thúc, ngân hàng sẽ xem xét lại quan hệ tín dụng với khách
hàng. Ví dụ, ngân hàng cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng 500 triệu trong 3
tháng, hết 3 tháng ngân hàng sẽ xem xét lại, có thể tăng giảm hoặc chấm dứt quan
hệ tín dụng với khách hàng. Tuy nhiên cũng có khoản cho vay không xác định
trước thời hạn như cho vay luân chuyển. Khách hàng thỏa thuận với ngân hàng về
14
Chuyên đề tốt nghiệp
việc ngân hàng được quyền trích tiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán để thu nợ
khi tài khoản có tiền.Việc xác định trước thời hạn thu nợ trong trường hợp này có
thể gây khó khăn cho khách hàng trong việc tiêu thụ sản phẩm.
- Phân loại theo hình thức: gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho
thuê.
+ Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng
tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở
hữu 1 thương phiếu chưa đến hạn (hoặc 1 giấy nợ). Về mặt pháp lí thì ngân hàng
không phải đã cho vay đối với chủ thương phiếu. Đây chỉ là hình thức trao đổi
trái quyền. Tuy nhiên đối với ngân hàng, việc bỏ tiền ra hiện tại để thu về 1 khoản
lớn hơn trong tương lai với lãi suất xác định trước được coi như là hoạt động tín
dụng. Ngân hàng tuy ứng tiền cho người bán, nhưng thực chất là thay thế người
mua trả tiền trước cho người bán.
+ Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách
hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
+ Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ
khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho
khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi.
+ Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê
theo những thỏa thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả
gốc lẫn lãi cho khách hàng.
- Phân loại theo tài sản đảm bảo:

+ Tín dụng không có đảm bảo: là tín dụng không có tài sản cầm cố, thế chấp
không có bảo lãnh của người thứ ba.
+ Tín dụng có đảm bảo: là tín dụng có tài sản cầm cố thế chấp hay có bảo
lãnh của người thứ ba.
- Phân loại tín dụng theo rủi ro: Để phân loại theo tiêu thức này, ngân
hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để chia loại rủi ro. Một số ngân hàng
lớn chia tới 10 thang bậc rủi ro theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao cho các
khoản mục tài sản, bao gồm cả nội và ngoại bảng, cho vay, bảo lãnh, chứng
khoán. Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an toàn
của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời. Có thể kể các loại tín
dụng sau:
+Tín dụng lành mạnh: là các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
15
Chuyên đề tốt nghiệp
+Tín dụng có vấn đề: là các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như
khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch chậm, khách hàng gặp thiên
tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính…
+ Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn
và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn…
+ Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ kém, tài sản thế
chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì
- Căn cứ vào mục đích của tín dụng:
+ Tín dụng bất động sản: đây là các khoản tín dụng được bảo đảm bằng bất
động sản, bao gồm: tín dụng ngắn hạn cho xây dựng và mở rộng đất đai và tín
dụng dài hạn để mua đất đai, nhà cửa, căn hộ cơ sở dịch vụ, trang trại và bất động
sản ở nước ngoài.
+ Tín dụng công và thương nghiệp: đây là các khoản tín dụng cấp cho các
doanh nghiệp để trang trải chi phí thu mua nguyên vật liệu, trả thuế và chi trả
lương.
+Tín dụng nông nghiệp: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các hoạt động

nông nghiệp, nhằm trợ cấp cho các hoạt động nông nghiệp, trợ giúp các hoạt động
trồng trọt, thu hoạch mùa màng và chăn nuôi gia súc.
+Tín dụng cá nhân: Đây là các khoản tín dụng cấp cho cá nhân để mua sắm
hàng hóa tiêu dùng đắt tiền như xe hơi, nhà cửa, trang thiết bị trong nhà…
+ Tín dụng cho các tổ chức tài chính: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các
ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác.
+ Cho thuê tài chính: là việc ngân hàng mua các trang thiết bị, máy móc và
cho thuê lại chúng.
+ Tín dụng khác: bao gồm các khoản tín dụng chưa được phân loại ở trên( ví
dụ như tín dụng kinh doanh chứng khoán)
1.2 Quản lý hoạt động rủi ro tín dụng của Ngân hàng Thương mại
1.2.1 Rủi ro tín dụng trong hoạt động của Ngân hàng thương mại
1.2.1.1 Khái niệm rủi ro tín dụng
Đã có rất nhiều cách tiếp cận về rủi ro dưới rất nhiều góc độ khác nhau và
thống nhất ở quan điểm “Rủi ro là khả năng có thể xảy ra các biến cố không lường
trước và thường gây ra các hậu quả xấu”. Rủi ro luôn xuất hiện bất ngờ và đe dọa sự
sống còn của doanh nghiệp. Thường thì những hoạt động kinh doanh mang lại lợi
nhuận càng cao thì ẩn chứa rủi ro càng lớn, mâu thuẫn này luôn tồn tại. Do vậy muốn
có lợi nhuận càng cao thì cần phải chấp nhận rủi ro có thể xảy ra để tìm biện pháp hạn
chế, phòng ngừa nhằm giảm thiểu thiệt hại do rủi ro gây ra.
16
Chuyên đề tốt nghiệp
Là một đơn vị hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, Ngân hàng thương
mại phải thường xuyên đối mặt với rất nhiều loại rủi ro như: rủi ro tín dụng, rủi ro hối
đoái, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh toán, rủi ro tồn đọng vốn và các loại rủi ro khác.
Trong điều kiện hiện nay tín dụng vẫn là hoạt động cơ bản nhất của ngân hàng
và đồng thời rủi ro tín dụng cũng là loại rủi ro lớn nhất, thường xuyên xảy ra và gây
hậu quả nặng nề nhất đối với hoạt động của ngân hàng. Sở dĩ vậy là vì dư nợ tín dụng
thường chiếm một tỷ lệ lớn giá trị tổng tài sản và tạo ra một phần không nhỏ nguồn
thu của ngân hàng. Do vậy rủi ro tín dụng cũng được đề cập đến rất nhiều trong hoạt

động kinh doanh ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng.
Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Ngân hàng nhà
nước Việt Nam thì “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng
là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng do
khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình
theo cam kết”.
Rủi ro tín dụng được hiểu một cách đơn giản là một khả năng trong tương lai
người đi vay ngân hàng hoặc người cho vay thất bại trong việc thực hiện đúng các
điều khoản trong hợp đồng tín dụng. Như vậy rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng
vay vốn không thanh toán được tiền lãi hoặc vốn gốc hoặc cả hai. Rủi ro tín dụng
không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay, mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính
chất tín dụng khác của ngân hàng như bảo lãnh, cam kết, chấp thuận tài trợ thương
mại, cho vay ở thị trường liên ngân hàng, được thuê mua, đồng tài trợ…
Rủi ro tín dụng là một tất yếu mà các ngân hàng không thể loại bỏ hoàn toàn
ra khỏi hoạt động tín dụng của mình, họ buộc phải chấp nhận sự tồn tại của rủi ro và
cố gắng tìm mọi phương thức để có thể hạn chế tới mức thấp nhất rủi ro tín dụng, đặc
biệt là khi thế giới đang tiến dần tới giai đoạn toàn cầu hóa, các hoạt động của ngân
hàng trở nên vô cùng phong phú và không chỉ giới hạn quốc gia như trước đây mà
còn hướng ra các thị trường quốc tế. Trong bối cảnh đó, các hoạt động tín dụng chứa
đựng nhiều rủi ro hơn, yêu cầu có một phương thức quản trị rủi ro tín dụng hiệu quả
là vấn đề trọng tâm trong công cuộc đổi mới và phát triển của các ngân hàng hiện nay.
Đồng thời, sự tăng cường kiểm soát quốc tế, như Hiệp ước Basel do ủy ban Basel ban
hành, đặt ra yêu cầu các ngân hàng cần có những biện pháp hữu hiệu để hạn chế rủi ro
và đáp ứng được những tiêu chuẩn quy định.
1.2.1.2 Nguyên nhân rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng. Bao gồm những nguyên nhân
sau:
* Những nguyên nhân thuộc về ngân hàng.
17
Chuyên đề tốt nghiệp

Có nhiều yếu tố gây ra rủi ro tín dụng mà nguyên nhân thuộc về ngân hàng, có
thể kể ở đây một số nguyên nhân như sau:
+ Chiến lược kinh doanh của ngân hàng: Tùy theo chiến lược kinh doanh cụ
thể mà mỗi ngân hàng đưa ra các mức độ chấp nhận rủi ro khác nhau, ví dụ Ngân
hàng An Bình có thể chấp nhận một mức độ rủi ro cao hơn nhằm thu được một mức
lợi nhuận kỳ vọng cao hơn hoặc một thị phần lớn hơn, trong khi đó, một Ngân hàng
Vietcombank chỉ chấp nhận một tỷ lệ rủi ro nhỏ mặc dù các khoản lợi nhuận kỳ vọng
chỉ ở mức trung bình, song có độ an toàn cao hơn so với Ngân hàng An Bình.
+ Bản chất và mức độ phức tạp của các hoạt động ngân hàng: Các hoạt động
ngân hàng ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp hơn, mạng lại nhiều lợi nhuận hơn
song mức độ rủi ro cũng cao hơn. Tùy thuộc vào mức độ phức tạp của các hoạt động
ngân hàng mà xác định được khả năng chấp nhận rủi ro của mình. Ngân hàng tiến
hành mở rộng hay đưa ra một sản phẩm tín dụng mới phải phù hợp về mức độ tin cậy
đối với khả năng trả nợ của người vay. Các rủi ro trong từng sản phẩm mang tính chất
đặc thù riêng biệt, do đó ngân hàng cần xác định các rủi ro thông qua bản chất của
từng sản phẩm và thực hiện biện pháp hạn chế rủi ro tốt nhất theo các tiêu chuẩn cho
từng loại.
+ Áp lực cạnh tranh trong hoạt động tín dụng: Hiện nay khi các ngân hàng
đang bước vào cuộc cạnh tranh gay gắt và quyết liệt, các khoản tín dụng được chấp
nhận dễ dàng hơn nhằm tăng thêm thị phần cho ngân hàng song cũng đem lại nhiều
rủi ro hơn.
+ Mức độ tập trung của danh mục tín dụng: Mức độ tập trung trong danh mục
tín dụng theo các đặc thù riêng trực tiếp ảnh hưởng đến rủi ro của danh mục tín dụng.
Một khoản vay mang một đặc điểm bất lợi nào đó sẽ có khả năng gây ra thất thoát
trầm trọng hơn nếu ngân hàng có mức độ tập trung cao các khoản cho vay có cùng
các đặc điểm này. Ngân hàng có thể hạn chế các rủi ro do tập trung trong danh mục
tín dụng bằng cách thường xuyên đánh giá rủi ro trong từng thị trường, trong từng
ngành, từng vị trí địa lí, sản phẩm và hình thức thế chấp, loại tiền tệ và hình thức đáo
hạn, từ đó bảo đảm duy trì một danh mục tín dụng đa dạng.
+ Các hệ thống đánh giá và quản lý rủi ro tín dụng chưa đạt được yêu cầu về

sự tổng hợp, chặt chẽ, thống nhất và hợp lý.
+ Do bản thân các ngân hàng khi phát sinh các khoản nợ xấu thường không
phản ánh vào tài khoản và chuyển thành nợ khó đòi vì như vậy sẽ ảnh hưởng tới thành
tích của ngân hàng, khiến cho bảng cân đối “không đẹp”. Điều này dẫn tới việc ngân
hàng tiếp tục gia hạn cho khách hàng nhiều lần, cho phép khách hàng đảo nợ và dẫn
đến việc không thực hiện thu nợ đúng theo hợp đồng tín dụng.
18
Chuyên đề tốt nghiệp
+ Hệ thống thông tin chưa đầy đủ, cập nhật và chíng xác khiến cho quá trình
đánh giá rủi ro gặp rất nhiều khó khăn.
- Ngân hàng chưa có được thông tin đầy đủ về toàn bộ thị trường của khách
hàng.
- Ngân hàng không có những kênh thông tin chính xác để kiểm tra về khách
hàng như thông qua các ngân hàng khác, thông qua các khách hàng khác, thông qua
báo chí và các cơ quan có liên quan… Ngân hàng không đánh giá được chính xác mối
quan hệ đã và đang có của doanh nghiệp đối với các định chế tài chính khác, mà chủ
yếu là các ngân hàng thương mại khác do các doanh nghiệp có thể vay cùng một lúc
nhiều ngân hàng (doanh nghiệp đang vay cụ thể bao nhiêu, của những tổ chức nào, đã
trả nợ được bao nhiêu, chưa trả nợ hoặc quá hạn bao nhiêu…).
+ Xuất phát từ những cán bộ tín dụng.
- Cán bộ tín dụng chưa có những nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc
hạn chế rủi ro tín dụng.
- Cán bộ tín dụng chưa có những đánh giá chính xác về khách hàng và khả năng
trả nợ của họ (bao gồm ngành nghề kinh doanh, mùa vụ, tư cách phẩm chất của khách
hàng, chiến lược kinh doanh, thị phần trên thị trường trong nước và quốc tế, uy tín của
doanh nghiệp).
- Cán bộ tín dụng chưa có những đánh giá chính xác về ngành hàng kinh doanh,
tiềm năng và vị trí của ngành hàng đó trong toàn bộ nền kinh tế; xu hướng phát triển
của ngành hàng đó hiện nay và trong tương lai trên thị trường trong nước, khu vực và
quốc tế; các chủ trương của Nhà nước về sự phát triển của ngành hàng này trong

tương lai, chứng minh bằng các con số cụ thể và các văn bản pháp luật cụ thể.
- Cán bộ tín dụng chưa có những đánh giá chính xác về phương án kinh doanh
của khách hàng.
- Cán bộ tín dụng chưa có những đánh giá chính xác về những đối tác tham gia
bảo lãnh cho các khoản tín dụng.
- Cán bộ tín dụng chưa có những đánh giá chính xác về các tài sản đảm bảo cho
khoản tín dụng.
- Cán bộ tín dụng không dự báo được những vấn đề có thể phát sinh từ phía
khách hàng có thể gây bất lợi cho ngân hàng (việc dự đoán các vấn đề này còn tùy
thuộc vào thời hạn của từng khoản vay, ví dụ như các khoản vay nhắn hạn thì việc dự
đoán cũng chỉ trong một thời gian ngắn, còn các khoản vay dài hạn thì việc dự đoán
phải bao quát một khoảng thời gian dài hơn và yêu cầu cụ thể hơn, chặt chẽ hơn).
- Đạo đức nghề nghiệp của cán bộ khiến cho việc xem xét các khoản cho vay
không được khách quan và đúng đắn, có thể gian lận hoặc cố tình làm sai:
19
Chuyên đề tốt nghiệp
• Làm trái quy trình tín dụng để mưu lợi cá nhân.
• Định giá tài sản thế chấp không đúng với giá trị thực tế do có sự thông đồng
với khách hàng.
• Trực tiếp thu nợ gốc và lãi những không nộp lại cho ngân hàng mà dùng cho
mục đích cá nhân.
• Lập hồ sơ giả để vay tiền cá nhân, vay hộ, nhờ người vay hộ, vay tiền ngân
hàng chuyển cho công ty TNHH gia đình.
• Tẩy xóa, sửa chữa chứng từ có giá để thế chấp vay tiền ngân hàng.
* Những nguyên nhân thuộc về khách hàng.
+ Những nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ năng lực quản lí của khách hàng, bao
gồm:
- Khả năng quản lí trong lĩnh vực kinh doanh của khách hàng không tốt dẫn đến
những thua lỗ và không có khả năng trả nợ cho ngân hàng.
- Sự yếu kém trong việc tính toán những bất trắc có thể xảy ra trong tương lai

của khách hàng hoặc do họ quá mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao.
- Sự không minh bạch về tài chính của khách hàng gây khó khăn cho ngân hàng
trong việc đánh giá rủi ro.
- Tính thanh khoản không cao trong các hoạt động của khách hàng, khiến cho
nguồn vốn thu hồi chậm và không hiệu quả.
- Những thay đổi bất ngờ trong tổ chức nội bộ của khách hàng mà ngân hàng
không kiểm soát được.
+ Những nguyên nhân xuất phát từ sự không tuân thủ các điều kiện trong hợp
đồng tín dụng mà khách hàng đã kí với ngân hàng, bao gồm:
- Sự cố ý của khách hàng trong việc gian lận nhằm lừa đảo ngân hàng.
- Khách hàng sử dụng khoản vay không đúng với mục đích ban đầu khi xin cấp
tín dụng.
- Sự cố ý không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn của khách hàng nhằm sử dụng
được vốn vay trong thời gian lâu dài hơn. Trong thực tế, nguyên nhân này có thể
mang tính khách quan nhiều hơn, trong trường hợp doanh nghiệp chưa thu được tiền
đúng thời hạn phải chi trả cho ngân hàng. Đây không phải là do hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp không có hiệu quả mà chỉ đơn thuần là vấn đề thời gian không phù
hợp. Trong trường hợp này ngân hàng phải xem xét kỹ và có thể gia hạn cho doanh
nghiệp để tạo điều kiện cho họ thanh toán nợ đầy đủ cho ngân hàng.
Đối với từng khách hàng khác nhau thuộc các ngành nghề khác nhau thì mức
độ rủi ro cũng khác nhau. Trong chiến lược kinh doanh của NHTM, việc lựa chọn
các khách hàng mục tiêu và ngành nghề mục tiêu là một việc làm thiết yếu. Sự tồn tại
20
Chuyên đề tốt nghiệp
của các ngân hàng gắn liền với sự tồn tại và sự phát triển của khách hàng hay ngành
nghề mà ngân hàng cấp tín dụng. Đối với những đối tượng khách hàng mục tiêu ngân
hàng cần có những nghiên cứu sâu rộng về ngành hàng, tình hình thị trường cũng
như khả năng phát triển trong tương lai.
* Những nguyên nhân bất khả kháng
Những nguyên nhân khách quan tác động tới người vay, làm họ mất khả năng

thanh toán cho ngân hàng. Ví dụ: thiên tai, chiến tranh hoặc những thay đổi tầm vĩ mô
(thay đổi chính phủ, chính sách kinh tế, hàng rò thuế quan…) vượt quá tầm kiểm soát
của người vay lẫn người cho vay.
Những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục tới người vay tạo
thuận lợi hay khó khăn với người cho vay. Nhiều người vay với bản lĩnh của mình có
khả năng dự báo, thích ứng hoặc khắc phục những tổn thất khó khăn. Trong những
trường hợp khác người vay có thể tổn thất song vẫn có khả năng trả nợ đúng hạn cho
ngân hàng cả gốc và lãi. Tuy nhiên, khi tác động của nguyên nhân bất khả kháng đối
với người vay là nặng nề, khả năng trả nợ của họ bị suy giảm.
1.2.2 Quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.2.2.1 Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại
Quản lý rủi ro tín dụng là hoạt động NHTM thực hiện trong quá trình cấp tín
dụng đối với khách hàng. Quản lý rủi ro tín dụng là toàn bộ quá trình kiểm tra, giám
sát, phòng ngừa liên tục, bắt đầu từ khâu kiểm định, đánh giá khách hàng cũng như
khoản vay của khách hàng trước khi có quyết định cho vay, đến giải ngân, theo dõi
và các biện pháp xử lý, những khoản nợ có vấn đề nhằm giảm thiểu mức độ rủi ro có
thể xảy ra nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng.
NHTM thường quản lý rủi ro tín dụng bằng cách áp dụng các mô hình quản lý
rủi ro tín dụng: Mô hình quản lý rủi ro tín dụng chính là hệ thống các mô hình bao
gồm mô hình tổ chức quản lý rủi ro, mô hình đo lường rủi ro và mô hình kiểm soát
rủi ro được xây dựng và vận hành một cách đầy đủ, toàn diện và liên tục trong hoạt
động quản lý tín dụng của ngân hàng.
Mô hình quản lý rủi ro tín dụng phản ánh một cách hệ thống các vấn đề về cơ
chế, chính sách, quy trình nghiệp vụ nhằm thiết lập các giới hạn hoạt động an toàn và
các chốt kiểm soát rủi ro trong một quy trình thực hiện nghiệp vụ; các công cụ đo
lường, phát hiện rủi ro; các hoạt động giám sát sự tuân thủ và nhận diện kịp thời các
loại rủi ro mới phát sinh và các phương án, biện pháp chủ động phòng ngừa, đối phó
một khi có rủi ro xảy ra.
Hiện nay ở Việt Nam đang có hai mô hình phổ biến được áp dụng. Đó là mô
hình quản lý rủi ro tín dụng tập trung và mô hình quản lý rủi ro tín dụng phân tán.

21
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.2.2 Nội dung quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại
Quản lý rủi ro tín dụng thể hiện trong các nội dung sau:
a. Tiêu chí phản ánh rủi ro tín dụng
Việc kinh doanh khó có thể thất bại qua một đêm, do vậy mà sự thất bại đó
thường có một vài dấu hiệu báo động. Có dấu hiệu biểu hiện mờ nhạt, có dấu hiệu
biểu hiện rất rõ ràng. Ngân hàng cần có phương pháp nhận ra những dấu hiệu này để
từ chối cho vay (trong trường hợp trước khi cho vay) hoặc để ngăn ngừa xử lý kịp
thời (trong trường hợp đã cho vay). Các dấu hiệu này đôi khi không phải có thể nhận
ra ngay trong một thời điểm mà phải sau một quá trình quan sát và nghiên cứu. Có
thể sắp xếp các dấu hiệu của rủi ro tín dụng theo các nhóm sau:
Thứ nhất: Nợ quá hạn.
Nợ quá hạn là những khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đến hạn
thanh toán đã ghi trên hợp đồng tín dụng.
Có thể nói đây là một chỉ tiêu rộng rãi nhất để đánh giá kết quả quản lý rủi ro
tín dụng của ngân hàng thương mại. Chỉ tiêu này càng cao thì mức độ rủi ro tín dụng
của Ngân hàng Thương mại càng lớn, việc quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng
chưa tốt.
Thứ hai: tỷ lệ nợ quá hạn
Nếu chỉ sử dụng chỉ tiêu nợ quá hạn thôi thì chưa đủ để đánh giá một cách
đúng đắn việc quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng. Ngoài chỉ tiêu số tuyệt đối
người ta còn sử dụng chỉ tiêu số tương đối là tỷ lệ nợ quá hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ
lệ giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ hiện có của ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn của ngân
hàng được xác định như sau:
Tỷ lệ nợ quá hạn trong kỳ =
Nợ quá hạn trong kỳ
*100%
Tổng dư nợ trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh bao nhiêu phần trăm tổng dư nợ chưa thanh toán bị quá

hạn. Tỷ lệ này càng cao thì rủi ro tín dụng của ngân hàng càng lớn, phản ánh việc
quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng chưa tốt. Ngược lại, tỷ lệ này thấp phản ánh
việc quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng đạt kết quả tốt.
Tuy nhiên tỷ lệ này thấp trong một số trường hợp không đồng nghĩa với việc
ngân hàng không có rủi ro tín dụng, vì rủi ro có thể đang tiềm tàng trong tổng dư nợ
hiện tại của ngân hàng, không phải là những khoản vay chưa đến hạn thanh toán
không có rủi ro. Vì thế ngoài hai chỉ tiêu định lượng cơ bản trên người ta còn sử dụng
chỉ tiêu định tính sau:
Thứ ba: Các khoản tín dụng có vấn đề
22
Chuyên đề tốt nghiệp
Là những khoan vay chưa đến hạn, chưa được xem là nợ quá hạn nhưng trong
quá trình theo dõi sử dụng vốn vay ngân hàng phát hiện thấy khách hàng có những
dấu hiệu có khả năng không trả được nợ. Như vậy trong trường hợp này rủi ro tín
dụng tiềm tàng ở những khoản vay chưa đến thời gian đáo hạn.
b. Quản lý rủi ro tín dụng trong phân loại và đánh giá khách hàng.
Đây chính là nội dung quản lý rủi ro tín dụng quan trọng nhất của các ngân hàng
thương mại hiện nay. Một cơ chế hoạt động quan trọng của ngành ngân hàng chính là
cơ chế sàng lọc, qua đó lựa chọn dự án tốt nhất để cho vay. Việc phân loại khách hàng
thường được thực hiện thông qua các mô hình đánh giá rủi ro tín dụng. Các mô hình
này rất đa dạng bao gồm các mô hình phản ánh về mặt định lượng và các mô hình
phản ánh về mặt định tính.
 Mô hình định tính về rủi ro tín dụng
Để tìm hiểu và phân tích về người đi vay, cán bộ tín dụng cần phải nghiên cứu
chi tiết “6 khía cạnh – 6C”của người xin vay là Charater (tư cách), Capacity (năng
lực), Cash (thu nhập), Collaterat (bảo đảm), Conditions (điều kiện), Controls (kiểm
soát). Tất cả các tiêu chí này phải được đánh giá tốt thì khoản vay mới được xem là
khả thi.
• Tư cách người vay: Cán bộ tín dụng phải tin chắc rằng người xin vay phải có
mục đích rõ ràng và có thiện chí khi đến hạn trả nợ, ngoài ra phải xem xét mục đích

xin vay có phù hợp với chính sách tín dụng hiện hành của ngân hàng hay không.
Thậm chí cho dù mục đích xin vay tốt thì cán bộ tín dụng cũng phải xem xét xem
người vay có thái độ trách nhiệm trong việc sử dụng vốn vay hay không, có trả lời các
câu hỏi một cách trung thực, có thiện chí và nỗ lực hết sức để hoàn trả nợ của người
vay gọi chung là tư cách người vay.
• Năng lực của người vay: Cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng người vay có đủ
năng lực hành vi và năng lực pháp lý để ký kết hợp đồng tín dụng. Tương tự cán bộ
tín dụng phải chắc chắn rằng người đại diện cho công ty kư kết hợp đồng tín dụng
phải là người ủy quyền hợp pháp của công ty. Trường hợp nếu công ty có đối tác kinh
doanh, thì cán bộ tín dụng phải biết thỏa thuận đối tác kinh doanh để xác định xem ai
là người có được ủy quyền ký kết hợp đồng tín dụng cho công ty. Một hợp đồng tín
dụng được ký kết bởi người không được ủy quyền sẽ không thu hồi được nợ, tiềm ẩn
rủi roc ho ngân hàng.
• Thu nhập của người vay: Người vay có ba khả năng để tạo ra tiền là: Luồng
tiền từ doanh thu bán hàng hay thu nhập, bán thanh lý tài sản, tiền từ phát hành chứng
khoán nợ hay chứng khoán vốn. Bất cứ nguồn thu nào từ ba khả năng này đều có thể
sử dụng để trả nợ vay cho ngân hàng. Tuy nhiên ngân hàng ưu tiên hơn cả là khả năng
23
Chuyên đề tốt nghiệp
thứ nhất và coi đây là nguồn thu đầu tiên và căn bản để trả nợ ngân hàng. Nguyên
nhân do: Việc bán thanh lý tài sản có thể làm cho năng lực người vay trở lên yếu hơn,
khiến cho ngân hàng là chủ nợ ít được bảo đảm.
• Bảo đảm tiền vay: Khi đánh giá khía cạnh bảo đảm tiền vay, cán bộ tín dụng
phải tự hỏi người vay có sở hữu một giá trị nào hay tài sản có chất lượng để hỗ trợ
cho khoản vay. Cán bộ tín dụng phải đặc biệt chú ý đến những yếu tố nhạy cảm như:
tuổi thọ, điều kiện, mức độ chuyên dụng của tài sản người vay. Khía cạnh công nghệ
cũng phải đặc biệt chú ý, bởi vì nếu tài sản của người vay có công nghệ lạc hậu thì giá
trị giảm rất nhiều và khó tìm được người mua trong trường hợp người vay không trả
được nợ.
• Các điều kiện: Cán bộ tín dụng là nhà phân tích tín dụng cần phải biết xu

hướng hiện hành về công việc kinh doanh và ngành nghề của người vay, cũng như khi
điều kiện kinh tế thay đổi sẽ có ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động kinh doanh của
khách hàng. Hầu hết các ngân hàng đều duy trì các files dữ liệu thông tin bao gồm các
dữ liệu cần quan tâm.
• Kiểm soát: Tập trung vào những vấn đề như: Các thay đổi trong luật pháp và
quy chế có ảnh hưởng xấu đến người vay hay không? Yêu cầu tín dụng của người có
đáp ứng tiêu chuẩn của ngân hàng và nhà quản lý về chất lượng tín dụng hay không?
Các chỉ tiêu 6C đã giúp cán bộ tín dụng và phân tích trong việc trả lời một câu
hỏi tổng quát: người vay có đủ tư cách? Khi câu hỏi này trả lời thì câu hỏi tiếp theo sẽ
là hợp đồng tín dụng được kí kết đúng đắn và hợp lệ, đáp ứng được yêu cầu của người
vay của ngân hàng?
Cán bộ tín dụng phải co trách nhiệm và làm thỏa mãn yêu cầu đồng thời của
hai đối tượng là người vay và chủ nợ của ngân hàng. Điều này đòi hỏi trước hết nội
dung hợp đồng tín dụng đáp ứng nhu cầu vốn của người vay theo một kế hoạch trả nợ
thuận lợi. Tạo điều kiện thuận lợi để người vay có khả năng xử lý các nghĩa vụ trả nợ,
bởi vì sự thành đạt cuả ngân hàng phụ thuộc vào sự thành công của khách hàng.
Ngoài ra cán bộ tín dụng phải có khả năng cố vấn tài chính cho khách hàng đồng thời
cố vấn khách hàng hoàn thành đơn xin vay.
Một hợp đồng tín dụng hợp lệ phải bảo vệ quyền lợi của ngân hàng bằng cách
quy định những điều khoản giới hạn hoạt động của người vay, nếu các hoạt động này
đe dọa khả năng thu hồi vốn của ngân hàng. Quá trình cưỡng chế thu hồi nợ vay cũng
phải được quy định cụ thể và rõ ràng trong hợp đồng tín dụng.
Trong khi những công ty lớn và các khách hàng khác có hệ số tín nhiệm cao
không cần bảo đảm tín dụng, những khách hàng còn lại thường được yêu cầu có biện
pháp bảo đảm tín dụng như: cầm cố, thế chấp tài sản hay bảo lãnh trả nợ của người
24
Chuyên đề tốt nghiệp
thứ ba. Việc ngân hàng nhận bảo đảm tín dụng nhằm hai mục đích: Thứ nhất là nếu
người không trả nợ đúng quy định, thì ngân hàng có quyền bán tài sản cầm cố hay thế
chấp để thu hồi nợ, thứ hai là nhận bảo đảm tín dụng tạo cơ sử thuận lợi cho ngân

hàng lợi thế về tâm lý cho người vay. Bởi vì một tài sản là vật đặt cọc buộc người vay
phải có trách nhiệm hơn trong việc hoàn trả nợ vay để khỏi phải gán những tài sản của
mình. Như vậy câu hỏi quan trọng thứ ba đối với mỗi hợp đồng tín dụng là ngân hàng
có thể đòi nợ thuận lợi bằng tài sản đảm bảo hay thu nhập của người vay?
Mô hình điểm số Z: Được hình thành để cho điểm tín dụng đối với các công ty
sản xuất của Mỹ và hiện nay có rất nhiều các ngân hàng áp dụng. Đại lượng Z là
thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng đối với người vay phụ thuộc vào:
1- Trị số của các chỉ số tài chính của người vay (Xi).
2- Tầm quan trọng của các chỉ tiêu này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của
người vay trong quá khứ.
Từ đó đi đến mô hình cho điểm sau:
Z = 1, 2 X1 + 1, 4X2 + 3, 3X3 + 0, 6 X4 + 1, 0X5
Trong đó:
X1: tỷ số vốn lưu động ròng/tổng tài sản
X2: tỷ số lợi nhuận trước thuế và tiền lãi/ tổng tài sản
X3: tỷ số “ lợi nhuận trước thuế và tiền lãi/tổng tài sản”
X4: tỷ số “trị giá cổ phiếu/giá trị ghi sổ của nợ dài hạn”
X5: tỷ số “doanh thu/tổng tài sản”
Trị số Z càng cao thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp, như vậy trị số Z thấp
hay là 1 số âm là 1 căn cứ để xếp khách hàng vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao.
Theo mô hình này, bất cứ công ty nào có điểm số Z thấp hơn 1,81 phải xếp vào
nhóm rủi ro tín dụng (RRTD) cao. Căn cứ vào kết luận này, ngân hàng sẽ không cấp
tín dụng cho khách hàng này cho đến khi cải thiện điểm số Z lớn hơn 1,81
Bên cạnh những ưu điểm thì mô hình điểm số tín dụng có những hạn chế sau:
- Mô hình không cho phép phân biệt khách hàng thành 2 nhóm “vỡ nợ” và
“không vỡ nợ”. Thực tế, vỡ nợ được phân thành nhiều loại từ không trả hay chậm trễ
trong trả lãi tiền vay đến việc không trả nợ gốc và tiền lãi nợ vay. Điều này hàm ý,
cần có 1 mô hình cho điểm chính xác hơn, toàn diện nhiều thang điểm để phân biệt
loại khách hàng thành nhiều nhóm tương ứng với mức đọ vỡ nợ khác nhau.
- Không có lý do rõ ràng để giải thích sự bất biến về tầm quan trọng của biến

số thời gian, dù trong ngắn hạn. Tương tự như vậy, các biến số X cũng không phải là
bất biến, đặc biệt là khi điều kiện thị trường và kinh doanh thường xuyên thay đổi.
25

×