ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của kinh tế thế giới, nền kinh
tế nước ta cũng đang có những bước chuyển mình và thu được những thành tựu đáng
kể. Tỷ lệ tăng trưởng hàng năm đạt mức tương đối cao. Đóng góp một phần quan trọng
vào những thành tựu đó phải kể đến hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Với
nhiệm vụ chính là cung ứng vốn và các dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế, hệ thống
ngân hàng thương mại Việt Nam đã từng bước phát triển, hoàn thành tốt nhiệm vụ của
mình và tạo đà để nền kinh tế phát triển cũng như hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Hiện nay, các ngân hàng thương mại Việt Nam đang hướng theo mô hình hoạt
động đa năng. Nhưng hoạt động tín dụng luôn là một trong những hoạt động chính của
các ngân hàng, giữ vai trò quan trọng trong việc tạo ra lợi nhuận cho mỗi ngân hàng nói
riêng cũng như thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Thực tế, lợi nhuận thu
được từ hoạt động tín dụng chiếm từ 70% đến 90% tổng lợi nhuận của ngân hàng và
chính hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng đáp ứng phần lớn nhu cầu vốn trong xã
hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động tín dụng trong thời
gian qua đã để lại cho ngành ngân hàng nói chung và Ngân hàng Công thương tỉnh Nam
Định nói riêng những tồn tại không nhỏ. Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta chịu ảnh
hưởng của nhiều nhân tố, từ những ảnh hưởng của môi trường kinh tế quốc tế và khu
vực cho đến những vấn đề của bản thân nền kinh tế đang gây cản trở rất lớn và chứa
đựng nhiều rủi ro cho hoạt động ngân hàng. Rủi ro tín dụng không chỉ gây thiệt hại về
tài sản cho mỗi ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến uy tín của bản thân ngân hàng đó
cũng như của toàn hệ thống ngân hàng. Nếu những rủi ro này không được xử lý kịp
thời, có thể dẫn tới hiện tượng dây chuyền mất khả năng thanh toán đó là sự sụp đổ
hàng loạt của các ngân hàng và doanh nghiệp trong toàn nền kinh tế. Chính vì vậy, một
trong những nhiệm vụ quan trọng của hệ thống ngân hàng thương mại là bên cạnh việc
SV : TRẦN VĂN PHONG 1 LỚP : TCDN46Q
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
mở rộng tín dụng phải có các biện pháp hữu hiệu để nhận biết, phòng ngừa và hạn chế
các rủi ro trong hoạt động tín dụng, làm lành mạnh hoá các hoạt động của ngân hàng.
Tháng 8/1998, Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định tiền thân từ Ngân
hàng Công thương tỉnh Hà Nam Ninh ra đời và đi vào hoạt động. Thực hiện nghị
quyết của Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, tháng 2/1992 tách
tỉnh Hà Nam Ninh thành hai tỉnh Ninh Bình và Nam Hà; tiếp đến tháng 1/1997,
tách tỉnh Nam Hà thành tỉnh Nam Định và Hà Nam. Ngân hàng Công thương tỉnh
Nam Định tiếp tục hoạt động trên địa bàn tỉnh Nam Định cho tới nay. Mười bảy
năm đi cùng đất nước trong sự nghiệp đổi mới, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử
thách và những diễn biến phức tạp của nền kinh tế thị trường, trải qua bao thăng
trầm để đạt được những thành tựu quan trọng, Chi nhánh đã có những bước tiến
mạnh mẽ trong hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng, góp phần thúc
đẩy nền kinh tế của tỉnh nhà phát triển. Với phương châm "Phát triển - an toàn -
hiệu quả" của Ngân hàng Công thương Việt Nam, Chi nhánh NHCT tỉnh Nam
Định trong những năm qua đã có nhiều chuyển biến mới mẻ trong hoạt động kinh
doanh của mình, thể hiện ở việc luôn cung cấp cho khách hàng các sản phẩm dịch
vụ có chất lượng cao nhất, giữ vững niềm tin với các bạn hàng trong và ngoài
nước. Trong thời gian qua, hoạt động tín dụng của NHCT tỉnh Nam Định đã có sự
tăng trưởng vượt bậc về quy mô và chất lượng tín dụng cũng có những chuyển
biến đáng mừng. Làm thế nào để mở rộng hoạt động tín dụng với chất lượng tốt,
đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng thương mại với mức độ rủi ro thấp nhất có
thể chấp nhận được? Đây vẫn luôn là vấn đề được các cấp lãnh đạo và các nhà
quản trị ngân hàng thương mại quan tâm hàng đầu.
Xuất phát từ nhận thức này, trong thời gian thực tập tại NHCT tỉnh Nam
Định tôi đã nghiên cứu đề tài "Nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tại
NHCT tỉnh Nam Định", với hy vọng hiểu rõ hơn về hoạt động tín dụng của ngân
hàng để làm tốt công tác tín dụng sau này, nhằm góp phần vào việc sử dụng vốn có
hiệu quả, mang lại lợi ích cho xã hội.
SV : TRẦN VĂN PHONG 2 LỚP : TCDN46Q
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Đề tài tốt nghiệp của tôi được kết hợp giữa các lý luận cơ bản về tín dụng và
rủi ro tín dụng ngân hàng với thực tế tình hình hoạt động tín dụng của NHCT tỉnh
Nam Định từ năm 2005 đến năm 2007.
Đề tài được chia làm ba chương:
Chương 1: Rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng trong hoạt động của Ngân
hàng Công thương tỉnh Nam Định
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động
quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định
SV : TRẦN VĂN PHONG 3 LỚP : TCDN46Q
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
CHƯƠNG 1:
RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NHTM
Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính tiền tệ trong nền kinh tế với các
hoạt động kinh doanh chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng, trên cơ sở đó tiến hành
các hoạt động cho vay và cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Thực tế hoạt động cho
vay là nghiệp vụ đem lại nhiều lợi nhuận nhất cho ngân hàng thương mại.
1.1. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG
1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng là hoạt động kinh tế ra đời từ rất sớm dưới hình thức tín dụng nặng
lãi trong điều kiện sản xuất thấp kém. Cùng với sự phát triển của xã hội, tín dụng
có các bước phát triển vượt bậc. Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức kinh tế
hoạt động độc lập và giữa chúng có mối quan hệ với nhau thông qua trao đổi, mua
bán để hình thành một hệ thống kinh tế thống nhất. Ở mỗi tổ chức kinh tế có lúc
thừa, có lúc thiếu vốn, nhưng đứng trên góc độ toàn bộ nền kinh tế thì tại một thời
điểm nhất định sẽ có một nhóm tổ chức kinh tế có vốn tạm thời chưa sử dụng, một
nhóm khác lại có nhu cầu bổ sung vốn.
Đây là hiện tượng khách quan tồn tại trong quá trình sản xuất xã hội, đồng
thời đó là mâu thuẫn của quá trình tuần hoàn chu chuyển vốn. Chính điều này đòi
hỏi tín dụng phải làm cầu nối giữa nơi thừa và nơi thiếu vốn.
Tín dụng và sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu
sang người sử dụng và sau một thời gian nhất định sẽ thu hồi được một lượng giá
trị lớn hơn ban đầu.
Như vậy, thực chất tín dụng là một quan hệ kinh tế giữa người cho vay và
người đi vay, giữa họ có mối quan hệ với nhau thông qua sự vận động của giá trị,
vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ và hàng hoá từ người cho vay
chuyển sang người đi vay và sau một thời gian nhất định quay về với người cho
vay với lượng giá trị lớn hơn ban đầu.
Quá trình vận động của vốn được biểu hiện qua các giai đoạn như sau:
- Giai đoạn 1: Vốn được chuyển từ người cho vay sang người đi vay
SV : TRẦN VĂN PHONG 4 LỚP : TCDN46Q
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Khi cho vay, người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị
vốn tín dụng nhất định. Giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hoặc dưới hình thái
hiện vật như hàng hoá, máy móc, thiết bị, bất động sản...
- Giai đoạn 2: Sử dụng vốn trong quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng
Sau khi nhận được vốn tín dụng, người đi vay được quyền sử dụng giá trị đó
để thoả mãn một mục đích nhất định. Ở giai đoạn này, vốn vay được sử dụng trực
tiếp nếu là hàng hoá hay được sử dụng để mua hàng hoá nếu là vay bằng tiền để
thoả mãn nhu cầu sản xuất hoặc tiêu dùng của người đi vay. Tuy nhiên, người đi
vay không được quyền sở hữu về giá trị đó mà chỉ được tạm thời sử dụng trong
một thời gian nhất định. Sau khi hết thời hạn sử dụng theo thoả thuận, người đi vay
phải hoàn trả cho người cho vay.
- Giai đoạn 3: Sự hoàn trả vốn
Đây là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn của vốn. Sau khi vốn đã hoàn
thành một chu kỳ sản xuất để trở về hình thái tiền tệ thì vốn được người đi vay
hoàn trả lại cho người cho vay kèm theo một khoản lợi tức trả cho việc sử dụng
vốn. Đây chính là giai đoạn quyết định buộc các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn của mình. Như vậy, sự hoàn trả tín dụng là đặc trưng thuộc về bản
chất vận động của tín dụng, là điểm khác biệt giữa tín dụng với các phạm trù kinh
tế khác.
Tín dụng là một phạm trù kinh tế không thể thiếu được trong nền kinh tế thị
trường, nó giúp cho việc nâng cao hiệu quả kinh tế của nhà sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là người cần vốn có thể tìm kiếm vốn tín dụng theo con
đường nào cho có lợi nhất. Có hai cách để bổ sung vốn tín dụng:
- Theo con đường tài chính trực tiếp: Nguồn vốn có thể vận động thẳng từ
người tích luỹ - là người cho vay cuối cùng đến người đi vay - người chi tiêu cuối
cùng.
- Theo con đường tài chính gián tiếp: Nguồn vốn vận động từ người cho
vay đến người đi vay thông qua sự hoạt động có hiệu quả của các trung gian tài
chính mà ngân hàng là tổ chức trung gian đóng vai trò quan trọng.
SV : TRẦN VĂN PHONG 5 LỚP : TCDN46Q
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Thông qua các nghiệp vụ nợ và nghiệp vụ có mà ngân hàng có khả năng
chuyển các nguồn vốn tích luỹ sang tiêu dùng để đem lại hiệu quả hơn. Nghiệp vụ
nợ là nghiệp vụ tạo vốn. Thông qua các hình thức huy động này ngân hàng tập
trung được những khoản tiền nhàn rỗi không sinh lời và tiến hành phân phối lại các
nguồn vốn đó qua việc thực hiện cho vay đối với nền kinh tế.
Quá trình huy động vốn diễn ra liên tục, nên ngân hàng có khả năng thoả mãn
nhu cầu vay của mọi đối tượng vào bất cứ lúc nào và trong một chừng mực nhất
định, vốn vay không bị hạn chế về mặt thời gian và không bị hạn chế về mặt số
lượng. Ở đây, với tư cách là trung gian tài chính, ngân hàng đã khắc phục được
nhược điểm của hình thức tín dụng trực tiếp là sự không phù hợp về mặt số lượng
cho vay và nhu cầu cần vốn, giữa thời gian tiền tệ được nhàn rỗi với thời gian cần
vốn của người đi vay. Như vậy, thông qua con đường tín dụng ngân hàng, nhu cầu
vốn trong nền kinh tế được đáp ứng một cách linh hoạt, kịp thời và đầy đủ nhất.
1.1.2. Hoạt động tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
Trước khi chuyển dịch sang cơ chế thị trường, toàn bộ nền kinh tế nước ta
hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, hoạt động của hệ thống
ngân hàng cũng chịu sự chi phối của cơ chế đó. Ngân hàng hoạt động theo cơ chế
một cấp. Ngân hàng Nhà nước vừa đảm nhiệm chức năng quản lý nhà nước về lưu
thông tiền tệ và tín dụng, vừa đảm nhiệm chức năng kinh doanh. Trên thực tế, ngân
hàng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh của mình hoàn toàn theo sự chỉ đạo bằng
kế hoạch của Nhà nước. Vốn hoạt động của ngân hàng phần lớn lấy từ nguồn cấp
phát chứ không phải từ nguồn vốn huy động trong xã hội. Việc cho vay của ngân
hàng thực hiện theo kế hoạch của Nhà nước với các đối tượng cho vay theo chỉ
đạo. Chính vì vậy, việc cấp tín dụng chỉ dựa trên kế hoạch và sự chỉ đạo cấp trên
mà không cần xem xét hiệu quả sử dụng vốn vay của khách hàng, khả năng thu hồi
vốn và lãi, các khoản cho vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng
không hề ảnh hưởng đến bản thân sự tồn tại cùng hoạt động của ngân hàng.
Trong cơ chế thị trường, hệ thống ngân hàng được chia thành hai cấp: Ngân
hàng Nhà nước đảm nhiệm chức năng quản lý vĩ mô và các ngân hàng thương mại
SV : TRẦN VĂN PHONG 6 LỚP : TCDN46Q
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
thực hiện kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Ngân hàng thương mại hoạt động kinh
doanh độc lập trên cơ sở hạch toán lỗ lãi, "lời ăn, lỗ chịu". Nguồn vốn trong kinh
doanh của ngân hàng thương mại giờ đây không còn do Nhà nước bao cấp mà phải
tự huy động từ những nguồn nhàn rỗi trong xã hội, tiến hành các hoạt động kinh
doanh mang lại lợi nhuận bù đắp các chi phí đầu vào, trên nguyên tắc phù hợp với
các chế độ, chính sách kinh tế - xã hội hiện hành của Nhà nước. Hoạt động tín
dụng là hoạt động kinh doanh quan trọng nhất, mang lại phần lớn lợi nhuận cho
ngân hàng thương mại, được thực hiện trên cơ sở tính toán về khối lượng các
nguồn vốn mà ngân hàng huy động có thể sử dụng cho vay và nhu cầu về vốn tín
dụng trong xã hội. Các khoản tín dụng mà ngân hàng thương mại cấp ra phải đảm
bảo được hiệu quả kinh tế, thu hồi được vốn và lãi đúng hạn. Lãi thu được không
những bù đắp phần lãi mà ngân hàng phải trả cho người gửi tiền và các chi phí
khác trong việc thực hiện khoản cho vay mà còn phải tạo ra lợi nhuận cho hoạt
động tín dụng.
Cũng như các doanh nghiệp khác trong cơ chế thị trường, hoạt động của ngân
hàng thương mại phải chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế khách quan, trong
đó có quy luật cạnh tranh. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường luôn dẫn đến kết
quả một người thắng và nhiều kẻ thất bại. Và cạnh tranh là quá trình diễn ra liên
tục, các doanh nghiệp luôn phải cố gắng để là người chiến thắng. Ngược lại, điều
đó cũng thể hiện kinh doanh trong nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn những rủi
ro, thất bại. Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế luôn phải đương đầu với áp
dụng của cạnh tranh và hoạt động của nó chứa đựng khả năng xảy ra rủi ro. Rủi ro
có thể xảy ra trong bất cứ loại hình hoạt động nào của ngân hàng thương mại như
rủi ro về tín dụng, rủi ro về thanh toán, rủi ro về lãi suất, rủi ro về tỷ giá hối đoái...
Trong đó, rủi ro tín dụng là rủi ro mà hậu quả do nó gây ra có thể tác động nặng nề
đến các hoạt động kinh doanh khác, thậm chí đe doạ sự tồn tại của chính ngân
hàng thương mại đó.
1.1.3. Đặc trưng của tín dụng
SV : TRẦN VĂN PHONG 7 LỚP : TCDN46Q
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
- Lòng tin: Là sự tin tưởng vào khả năng hoàn trả đầy đủ và đúng hạn của
người đi vay đối với người cho vay.
- Tính thời hạn: Là thời gian người đi vay sử dụng tiền vay.
- Tính hoàn trả: Đây là đặc trưng cơ bản nhất và sự hoàn trả là tiêu chuẩn
phân biệt quan hệ tín dụng với các quan hệ tài chính khác. Mặt khác, nếu không có
sự hoàn trả thì đó là một quan hệ tín dụng không hoàn hảo.
1.1.4. Vai trò của tín dụng ngân hàng
- Thứ nhất: Tín dụng đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình tái sản xuất
đồng thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế.
Vấn đề thiếu vốn thường xuyên xảy ra ở các doanh nghiệp, do đó việc cấp
vốn tín dụng đã góp phần điều hoà vốn trong toàn bộ nền kinh tế, tạo điều kiện cho
quá trình sản xuất được liên tục.
Trong nền sản xuất hàng hoá, tín dụng là một trong những nguồn hình thành
vốn lưu động hay vốn cố định của doanh nghiệp. Vì vậy, tín dụng đã góp phần
động viên vật tư hàng hoá đi vào sản xuất, thúc đẩy ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật để đẩy nhanh quá trình tái sản xuất xã hội.
- Thứ hai: Tín dụng thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất.
Hoạt động của ngân hàng là huy động vốn tạm thời chưa sử dụng thường nằm
phân tán ở khắp nơi như trong các doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước, trong dân
cư để thực hiện cho các doanh nghiệp vay. Đầu tư tập trung là quá trình tất yếu của
nền sản xuất hàng hoá, nên để tài trợ cho các ngành kinh tế tất yếu phải sử dụng tín
dụng ngân hàng.
- Thứ ba: Tín dụng thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá và luân
chuyển tiền tệ.
Bất cứ một nền kinh tế nào cũng cần xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý và
chuyển dịch dần theo hướng đã hoạch định. Tín dụng đã trực tiếp tham gia vào
quá trình luân chuyển hàng hoá và luân chuyển tiền tệ tạo điều kiện phát triển nền
kinh tế, đặc biệt những ngành kinh tế mũi nhọn theo định hướng của Nhà nước.
SV : TRẦN VĂN PHONG 8 LỚP : TCDN46Q
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
- Thứ tư: Tín dụng góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế.
Khi có sự tài trợ của ngân hàng, mỗi doanh nghiệp phải thực hiện chế độ hạch
toán kinh tế và các định chế tài chính khác. Khi sử dụng vốn vay ngân hàng, các
doanh nghiệp phải tôn trọng hợp đồng tín dụng, tức là phải đảm bảo hoàn trả lãi và
nợ vay đúng hạn cũng như chấp hành các điều khoản khác đã ghi trong hợp đồng
tín dụng. Do vậy, khi vay vốn đòi hỏi doanh nghiệp phải quan tâm đến việc nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện nâng
cao lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Thứ năm: Tín dụng tạo điều kiện để phát triển các quan hệ kinh tế với
nước ngoài.
Ngay nay, phát triển kinh tế của một nước luôn gắn liền với thị trường thế
giới, tín dụng ngân hàng đã trở thành một trong những phương tiện nối liền kinh tế
các nước với nhau. Đối với các nước đang phát triển nói chung, nước ta nói riêng,
tín dụng đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng xuất khẩu hàng hoá, đồng thời
nhờ nguồn tín dụng bên ngoài để đáp ứng vốn cho công cuộc công nghiệp hoá và
hiện đại hoá nền kinh tế.
Tín dụng ngày nay còn là một công cụ để các nước giúp đỡ cho các doanh
nghiệp trong nước có đủ năng lực để xâm nhập thị trường thế giới như tài trợ cho
việc mua bán chịu hàng hoá, mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm cho
phù hợp với yêu cầu về quy mô và chất lượng của thị trường thế giới.
- Thứ sáu: Tín dụng là công cụ tài trợ vốn cho các ngành kinh tế kém phát
triển và ngành kinh tế mũi nhọn.
Thông qua hệ thống ngân hàng mà cụ thể là hoạt động tín dụng, Nhà nước sẽ
tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển bằng việc cho vay ưu đãi với lãi suất
thấp, thời hạn dài, mức vốn lớn. Bên cạnh đó, Nhà nước còn tập trung vốn tín dụng
để tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn, các ngành này phát triển sẽ tạo cơ sở và
lôi cuốn các ngành kinh tế khác phát triển theo.
- Thứ bảy: Tín dụng ngân hàng góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế, điều
chỉnh chiến lược kinh tế, góp phần chống lạm phát.
SV : TRẦN VĂN PHONG 9 LỚP : TCDN46Q
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Tín dụng ngân hàng sẽ tạo nên các nguồn vốn từ việc huy động các nguồn
tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế thông qua lãi suất linh hoạt và đầu tư vào các công
trình trọng điểm mà chiến lược kinh tế đã đề ra. Hình thức huy động vốn bằng tín
dụng không làm tăng khối lượng tiền tệ trong lưu thông nên không ảnh hưởng đến
lưu thông tiền tệ và giá cả. Ngược lại, nếu Nhà nước dùng biện pháp phát hành tiền
để tạo nguồn vốn đầu tư cho các công trình kinh tế thì sẽ làm tăng khối lượng tiền
trong lưu thông, gây nên sự mất cân đối trong quan hệ hàng hoá - tiền tệ, ảnh
hưởng trực tiếp đến giá cả và đời sống kinh tế xã hội.
1.2. RỦI RO VÀ NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng và các loại rủi ro tín dụng trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng thương mại
Rủi ro và đặc biệt là rủi ro tín dụng là nỗi lo thường trực của các ngân hàng và
các tổ chức tài chính .Trong thời đại toàn cầu hoá, các mối quan hệ kinh tế, đầu tư
thương mại thế giới ngày càng trở nên tinh vi, nhạy cảm, phức tạp và ngày càng
gắn kết phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động tài chính – ngân hàng cũng bị ràng buộc
chặt chẽ bởi xu thế của những quan hệ này. Mỗi sự thành công hay thất bại hoặc
chỉ một sự cố nghiêm trọng nào đó xảy ra đối với một hoặc một số ngân hàng- tổ
chức tài chính của một quốc gia thì lập tức sẽ có ảnh hưởng dây chuyền tới các tổ
chức ngân hàng- tài chính khác của quốc gia đó. Trong hoạt động tín dụng ngân
hàng thương mại xảy ra khi xuất hiện các biến cố làm cho bên đối tác (khách hàng)
không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình đối với ngân hàng vào thời điểm
đến hạn.
Nói cách khác, rủi ro tín dụng là loại rủi ro chủ yếu phát sinh trong hoạt động
tín dụng của ngân hàng thương mại. Rủi ro tín dụng là hiện tượng khách hàng vay
chậm trả hoặc không trả được đầy đủ nợ gốc và lãi theo cam kết. Các khoản nợ
đến hạn nhưng khách hàng không có khả năng trả nợ ngay cho ngân hàng sẽ gây
rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Trong thực tế, không hiếm trường hợp người đi vay
không thực hiện được nghĩa vụ của mình đối với chủ nợ do các nguyên nhân khách
quan hay chủ quan gây ra. Đó là các trường hợp khi đến hạn hoàn trả vốn vay,
SV : TRẦN VĂN PHONG 10 LỚP : TCDN46Q
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
người đi vay không thể thực hiện việc trả nợ đối với người cho vay, dẫn đến các
khoản nợ quá hạn.
Các loại rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương
mại gồm có :
- Rủi ro đọng vốn:
Khách hàng sẽ trả nợ cho ngân hàng nhưng sau một thời gian kể từ thời điểm
đáo hạn, như vậy ngân hàng sẽ gặp phải rủi ro đọng vốn.
Đối với bản thân ngân hàng thương mại, bất kỳ khoản nợ quá hạn nào cũng
dẫn đến rủi ro ứ đọng vốn. Thời hạn của các khoản tín dụng cấp cho khách hàng
luôn được xác định rõ trong hợp đồng tín dụng, đó chính là thời gian của một vòng
quay vốn tín dụng đối với ngân hàng thương mại. Các khoản nợ quá hạn, trước hết
làm cho ngân hàng thương mại không thu hồi được vốn và lãi đúng thời hạn đặt ra
trong hợp đồng. Nếu có thể thu lại được toàn bộ sau một thời gian quá hạn nhất
định thì điều đó cũng làm cho thời gian của một vòng quay vốn tín dụng thực tế
lớn hơn vòng quay vốn tín dụng đã thoả thuận. Như vậy, nợ quá hạn đã làm giảm
tốc độ chu chuyển vốn tín dụng của ngân hàng thương mại, dẫn đến làm giảm hiệu
quả sử dụng vốn, giảm lợi nhuận mang lại từ hoạt động tín dụng.
Nợ quá hạn trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại còn gây nên
hậu quả làm giảm khả năng thanh toán, thậm chí mất khả năng thanh toán của ngân
hàng thương mại. Mặt khác, ngân hàng thương mại hoạt động theo nguyên tắc "đi
vay để cho vay", nghĩa là nguồn vốn cấp tín dụng cho khách hàng được thực hiện
trên cơ sở vốn huy động được trong xã hội, nên ngân hàng thương mại phải có
trách nhiệm cân đối hoạt động cho vay sao cho có thể đảm bảo thực hiện được
nghĩa vụ hoàn trả gốc và lãi với các chủ nợ của mình.
Các khoản nợ quá hạn, một mặt làm kéo dài thời hạn của các khoản tín dụng,
mặt khác có khả năng dẫn đến việc mất vốn của ngân hàng thương mại và do đó có
thể làm cho ngân hàng thương mại rơi vào tình trạng đến hạn phải trả cho người
gửi tiền nhưng vẫn chưa nhận được nợ từ người vay, làm giảm khả năng thanh
toán và thậm chí có thể làm mất khả năng thanh toán của ngân hàng thương mại.
SV : TRẦN VĂN PHONG 11 LỚP : TCDN46Q
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Việc bị mất khả năng thanh toán tạm thời của ngân hàng thương mại sẽ làm giảm
uy tín kinh doanh của ngân hàng một cách nghiệm trọng, có thể dẫn đến hiện
tượng những người gửi tiền đồng loạt đòi rút tiền, đẩy ngân hàng đến bờ vực sụp
đổ phá sản.
- Rủi ro mất vốn:
Rủi ro không thu được nợ tức là ngân hàng mất vốn, lợi tức và cả chi phí
trong kinh doanh. Điều này có thể dẫn đến kinh doanh thua lỗ, ngân hàng mất khả
năng thanh toán và thậm chí phá sản. Mặt khác, khi các doanh nghiệp không trả
được nợ thì các ngân hàng buộc phải sử dụng các biện pháp đảm bảo để thu hồi nợ
vay. Tuy nhiên, rủi ro cũng tiềm ẩn ngay cả trong các đảm bảo nợ vay như:
+ Rủi ro do đánh giá tài sản thế chấp và cầm cố không đúng giá trị thực,
nghĩa là đánh giá giá trị của tài sản lớn hơn giá trị thực của tài sản đó.
+ Tài sản đảm bảo không đáp ứng nhu cầu của thị trường và khó chuyển
nhượng nên muốn thanh lý tài sản thế chấp hoặc cầm cố cũng rất khó. Mặt khác,
một số tài sản càng để càng bị mất giá và có thể bị hao mòn vô hình hay hữu hình,
hơn nữa trong khi không bán được ngân hàng còn mất thêm chi phí bảo quản, làm
tăng thêm chi phí của ngân hàng.
Do vậy, rủi ro tín dụng gây ra tình trạng đọng vốn hay mất vốn, mất khả năng
thanh toán của ngân hàng thương mại, thậm chí có thể dẫn đến sự sụp đổ của ngân
hàng thương mại. Sự sụp đổ của một ngân hàng thương mại trong hệ thống các
ngân hàng thương mại có tác động rất mạnh, đe doạ sự tồn tại của các ngân hàng
thương mại khác, nhiều khi có thể kéo theo sự sụp đổ dây chuyền của nhiều ngân
hàng thương mại trong cùng hệ thống. Sự sụp đổ này sẽ làm rối loạn lưu thông tiền
tệ trong nước, làm giảm giá đồng bản tệ, dẫn đến đình trệ sản xuất kinh doanh,
gây khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Sự tác động này không chỉ có ảnh hưởng
mạnh mẽ trong phạm vi một quốc gia mà nó có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế của
các nước có liên quan, ảnh hưởng đến nền tài chính thế giới.
1.2. 2. Thiệt hại do rủi ro gây ra
1.2.2.1. Thiệt hại đối với ngân hàng
SV : TRẦN VĂN PHONG 12 LỚP : TCDN46Q
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Khi xảy ra rủi ro tín dụng, nó sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh
của ngân hàng, cụ thể sẽ thiếu tiền chi trả cho khách hàng, dẫn đến rủi ro về thanh
khoản, lợi nhuận ngân hàng giảm thấp và tuỳ theo mức độ rủi ro nặng hay nhẹ mà
ảnh hưởng nhiều hay ít, tình hình xấu nhất là mất khả năng chi trả và dẫn đến phá
sản.
1.2.2.2. Thiệt hại đối với khách hàng
Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên cơ sở
hạch toán lỗ lãi, tức là "lời ăn, lỗ chịu". Ngân hàng cấp tín dụng cho doanh
nghiệp vì mục đích cung cấp thêm vốn cần thiết cho sản xuất kinh doanh, mở rộng
quy mô sản xuất và lưu thông hàng hoá, tạo thêm nhiều sản phẩm mới cho xã hội,
tạo công ăn việc làm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, đồng thời tăng tích luỹ cho
nền kinh tế. Do vậy, nếu rủi ro tín dụng xảy ra, doanh nghiệp không có khả năng
trả nợ ngân hàng tức là hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không có hiệu quả.
Trong một số trường hợp, doanh nghiệp bị ứ đọng vốn, nếu nghiêm trọng có thể đi
đến kinh doanh thua lỗ, dẫn đến giải thể, phá sản doanh nghiệp.
1.2.2.3. Thiệt hại đối với nền kinh tế
Hoạt động của ngân hàng có liên quan đến toàn bộ các hoạt động của nền
kinh tế. Vì vậy, khi rủi ro tín dụng xảy ra làm phá sản một vài ngân hàng, khi đó có
khả năng phát sinh lây lan sang các ngân hàng khác,có thể dẫn đến phá sản toàn bộ
hệ thống ngân hàng, do đó ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế.
1.2.3. Các chỉ tiêu đo lường rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng
thương mại
Có thể đo lường rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại thông qua một
số chỉ tiêu sau:
- Chỉ tiêu 1: Dư nợ tín dụng trên tổng tài sản có.
Dư nợ tín dụng
Tổng tài sản có
Các ngân hàng xem xét, phân tích chỉ số này nhằm mục đích tính toán hiệu
quả tín dụng của một đồng tài sản có và quy mô hoạt động kinh doanh của ngân
hàng. Trường hợp chỉ số Dư nợ tín dụng/ Tổng tài sản có của ngân hàng so với chỉ
SV : TRẦN VĂN PHONG 13 LỚP : TCDN46Q
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
số 1 Tổng dư nợ/Nguồn vốn huy động có độ chênh lệch tương đối lớn (chỉ số 1 lớn
gấp đôi chỉ số 2) thì điều đó có nghĩa là ngân hàng đang có nguồn vốn huy động
khá cao so với vốn tự có. Trong trường hợp ngân hàng có chỉ số này so với chỉ số 1
Tổng dư nợ / Nguồn vốn huy động không chênh lệch lắm (chỉ số 2 không nhỏ hơn
nhiều chỉ số 1) thì có thể khẳng định nguồn vốn huy động của ngân hàng tương đối
thấp, ngân hàng đã sử dụng nhiều nguồn vốn hỗ trợ khác như vốn chiếm dụng và
vốn tự có... để kinh doanh.
- Chỉ tiêu 2: Tỷ lệ nợ quá hạn/ Tổng dư nợ cho vay.
Nợ quá hạn
Tổng dư nợ
Các ngân hàng xem chỉ tiêu này như là một chỉ tiêu cơ bản trong việc đánh
giá chất lượng của hoạt động tín dụng. Chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt, song không
phải chỉ tiêu này cao là khả năng không thu hồi được nợ lớn. Theo quy định của
Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng thương mại có tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
lớn hơn 7% được xem là ngân hàng yếu kém; nếu chỉ số này dưới 3% thì ngân
hàng đó được đánh giá là ngân hàng có nghiệp vụ tín dụng tốt, có mức độ rủi ro tín
dụng thấp và được nhận nhiều điểm trong thang điểm xếp loại các ngân hàng
thương mại của Ngân hàng Nhà nước.
- Chỉ tiêu 3: Nợ quá hạn khó đòi trên tổng số nợ quá hạn.
Nợ quá hạn khó đòi
Tổng số nợ quá hạn
Khi phân chia nợ quá hạn theo tiêu chí khả năng thu hồi, có thể tách riêng
phần nợ quá hạn khó đòi (nợ quá hạn trên 360 ngày và các khoản xác định là
không có khả năng thu hồi). Tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi trên tổng số nợ quá hạn càng
cao chứng tỏ khả năng thu hồi thấp, khả năng mất vốn cao, ảnh hưởng đến tài
chính của ngân hàng, chất lượng tín dụng của ngân hàng thấp. Khi đánh giá chỉ
tiêu nợ quá hạn khó đòi, phải xem xét trên hai khía cạnh: Số tương đối và số tuyệt
đối. Vì khi tỷ lệ nợ quá hạn mới tăng lên (chất lượng tín dụng giảm) thì tỷ lệ nợ
SV : TRẦN VĂN PHONG 14 LỚP : TCDN46Q
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
quá hạn khó đòi giảm về mặt số tương đối. Khi đó về thực chất, chất lượng tín
dụng không những không tăng lên mà giảm đi.
- Chỉ tiêu 4: Mức sinh lời trên một đồng vốn tín dụng:
Lãi hoạt động tín dụng
Tổng số lãi kinh doanh
Chỉ tiêu này thể hiện vai trò của hoạt động tín dụng trong tổng số các hoạt
động sinh lời của ngân hàng. Tỷ lệ này càng cao thì lợi nhuận do hoạt động tín
dụng mang lại lớn trong tổng số lợi nhuận ngân hàng, có nghĩa là vai trò của hoạt
động tín dụng càng lớn. Tuy nhiên, nếu tỷ lệ này quá cao, chứng tỏ ngân hàng phụ
thuộc quá nhiều vào hoạt động tín dụng và những cơ hội thực hiện đa dạng hoá các
hoạt động ngân hàng để tránh rủi ro đảm bảo lợi nhuận ngân hàng bị mất đi.
1.2.4. Các nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng
1.2.4.1. Các dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng
Tín dụng là một nghiệp vụ truyền thống và cơ bản nhất trong kinh doanh của
ngân hàng, nhưng tín dụng cũng lại là nghiệp vụ chứa nhiều rủi ro và gây ra thiệt
hại lớn nhất đối với các ngân hàng thương mại.
Để hạn chế tới mức tối đa khả năng xảy ra rủi ro, biện pháp được coi là quan
trọng nhất và mang tính thiết yếu là thực hiện việc theo dõi giám sát và quản lý
chặt chẽ việc sử dụng vốn vay.Trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng thương
mại có thể căn cứ vào một số dấu hiệu sau để nắm bắt được những khó khăn về tài
chính của người đi vay:
- Thu nhập của người vay không ổn định, công việc thay đổi thường xuyên.
- Khách hàng chậm trễ trong việc nộp các báo cáo tài chính cho ngân hàng
như báo cáo luân chuyển vốn, báo cáo kết quả kinh doanh...
- Khi cán bộ tín dụng ngân hàng có yêu cầu khảo sát thực tế, người đi vay cố
tình chậm trễ trong việc dàn xếp các cuộc viếng thăm trụ sở, cơ sở sản xuất của
mình đối với cán bộ tín dụng, có biểu hiện thiếu thiện chí trong mối quan hệ tin
cậy, hợp tác đối với ngân hàng.
SV : TRẦN VĂN PHONG 15 LỚP : TCDN46Q
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
- Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích như dùng tiền vay cho vay lại, sử
dụng sản xuất kinh doanh sai với phương án kinh doanh trình với ngân hàng.
- Khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích nhưng nhận vốn trong tình
trạng chậm trễ so với kế hoạch, có thể do khách hàng tìm kiếm được nguồn vốn
khác rẻ hơn; hoặc cũng có thể do hoạt động sản xuất kinh doanh có chiều hướng
phát triển không lành mạnh xuất phát từ hai nguyên nhân: Do ngành nghề kinh
doanh của doanh nghiệp đang gặp rủi ro, do khách hàng bị cơ quan báo chí thông
tin đưa tin không lành mạnh về tình hình tài chính khiến uy tín trên thị trường giảm
sút, quan hệ giao dịch với các đối tác không thuận lợi...
- Có sự gia tăng bất thường của lượng hàng tồn kho. Nếu dự trù nguyên vật
liệu tăng, có thể do máy móc doanh nghiệp bị hỏng, không sản xuất được. Nếu
thành phẩm tăng, có thể do sản phẩm doanh nghiệp sản xuất không phù hợp thị
hiếu người tiêu dùng, chất lượng kém, mẫu mã xấu...
- Số dư trên tài khoản tiền gửi của người vay tại ngân hàng giảm sút, hiện
tượng rút séc quá số dư hoặc séc thanh toán bị trả lại.
- Khách hàng có ý xin hoãn nợ hoặc khất nợ.
- Hoàn trả nợ vay ngân hàng chậm hoặc quá kỳ hạn hoặc không đầy đủ như
cam kết trong hợp đồng tín dụng.
- Có sự biến động lớn về tổ chức của doanh nghiệp như làm thay đổi ban lãnh
đạo doanh nghiệp, tạo không khí không yên tâm, tin tưởng đối với các đối tác kinh
doanh và những người tài trợ.
- Hoạt động sản xuất kinh doanh bị ảnh hưởng do những yếu tố khách quan
như bão lụt, hoả hoạn hay mất trộm, tham ô.
- Gia tăng các tài sản cố định qua việc sát nhập hoặc mua lại của doanh
nghiệp khác.
Các dấu hiệu trên đây là biểu hiện của những khó khăn về tài chính từ phía
khách hàng. Sự xuất hiện của chúng báo hiệu khả năng họ khó hoàn trả vốn vay
cho ngân hàng. Vì vậy, dấu hiệu này chính là cơ sở để ngân hàng tìm biện pháp
SV : TRẦN VĂN PHONG 16 LỚP : TCDN46Q
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
điều chỉnh và ngăn ngừa kịp thời trước khả năng phát sinh rủi ro tín dụng cho ngân
hàng.
1.2.4.2. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
a) Nguyên nhân từ phía khách hàng
- Do kinh doanh thua lỗ, phá sản dẫn đến không trả nợ đúng hạn hoặc không
có khả năng trả nợ cho ngân hàng. Nguyên nhân là do một số doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh không lường trước được những thay đổi về chủ trương, chính sách
của Nhà nước như thuế VAT, chính sách tỷ giá...
- Sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo chủ yếu xảy ra ở khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh. Trên thực tế, quản lý vốn vay của các khách hàng ngoài quốc
doanh khó hơn nhiều so với các doanh nghiệp quốc doanh. Việc mua bán, kinh
doanh của khu vực này, đặc biệt là các cá nhân kinh doanh thường không có sổ
sách ghi chép, theo dõi một cách khoa học như ở các doanh nghiệp nhà nước, vì
vậy việc kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay là rất khó khăn. Khách hàng sử
dụng vốn vay không đúng với cam kết nhận nợ và giấy phép kinh doanh lúc đầu
cũng chỉ do nhận định sai nên không thu hồi được vốn kịp thời dẫn đến quá hạn,
không trả được nợ. Nhiều khách hàng dùng một tài sản thế chấp vay vốn nhiều nơi
hoặc làm tăng giá trị tài sản thế chấp để vay được tiền của ngân hàng, sau đó bán
tài sản thế chấp rồi bỏ trốn.
- Do khách hàng chiếm dụng vốn. Đây là một hiện tượng phổ biến trong nền
kinh tế nước ta, công nợ dây dưa, không quyết toán dứt điểm, lý do người bán thì
muốn bán hàng, người mua thì muốn chiếm dụng vốn, không trả, chấp nhận trả lãi
vay ngân hàng... hoặc do trượt tỷ giá ngoại tệ, không bù đắp được nên phải treo
công nợ. Nguyên nhân này làm cho nhiều khách hàng có vốn làm ăn tốt, có uy tín
với ngân hàng mà vẫn không thu hồi được nợ từ đối tác, dẫn đến tình trạng chậm
trả nợ cho ngân hàng.
b) Nguyên nhân khách quan
* Môi trường kinh tế không ổn định:
Nền kinh tế nước ta hiện nay đang ở trong giai đoạn của quá trình đổi mới,
các chính sách và cơ chế quản lý vĩ mô của Nhà nước đang trong quá trình điều
chỉnh, đổi mới do đó có nhiều vấn đề còn dang dở, chưa hoàn thiện. Sản xuất kinh
SV : TRẦN VĂN PHONG 17 LỚP : TCDN46Q
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
doanh trong nước phải cạnh tranh gay gắt với hàng nhập lậu và hàng ngoại. Các
doanh nghiệp chuyển hướng và điều chỉnh phương án kinh doanh không theo kịp
với sự thay đổi của cơ chế và chính sách kinh tế vĩ mô.
* Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng chưa đầy đủ, đồng bộ:
Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng của ngân hàng chưa đầy đủ, đồng
bộ. Một số văn bản pháp lý có liên quan tới vấn đề thế chấp vốn vay ngân hàng, ở
khía cạnh này hay khía cạnh khác quy định chưa đồng bộ, đầy đủ, nhất là thiếu các
văn bản hướng dẫn, hoặc có hướng dẫn chung nhưng chưa phù hợp, không kịp
thời, nên quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn, cụ thể là:
- Về cơ sở pháp lý của tài sản thế chấp:
Theo quy định của pháp luật thì cơ sở đảm bảo cho việc thế chấp tài sản là
bản hợp đồng được ký kết giữa hai bên thế chấp và nhận thế chấp, cùng bản gốc
giấy tờ chứng minh cùng sở hữu tài sản do bên thế chấp giao cho bên nhận thế
chấp. Thực tế các cơ quan quản lý nhà nước chịu trách nhiệm cấp chứng thư nhận
quyền sở hữu tài sản cho các chủ sở hữu chưa được rộng khắp. Do đó, thế chấp và
xử lý thế chấp tài sản thế chấp vay vốn ngân hàng nhiều khó khăn phức tạp, do
thiếu cơ sở pháp lý và quyền sở hữu tài sản.
1.3. QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG
1.3.1. Xây dựng chính sách tín dụng hợp lý
Chính sách tín dụng là toàn bộ những sách lược mang tính định hướng cho
hoạt động tín dụng của ngân hàng. Nó là kim chỉ nam, bảo đảm cho hoạt động tín
dụng của ngân hàng đi đúng hướng. Như vậy, một chính sách tín dụng được xây
dựng dài hạn phải mang tính định hướng trong một khoảng thời gian nhất định,
nhưng phải vừa thay đổi,vừa không ngừng hoàn thiện liên tục để đáp ứng với
những thay đổi của tình hình kinh tế - xã hội. Chính sách tín dụng của một ngân
hàng thương mại nhằm ba mục tiêu chủ yếu là: Lợi nhuận cao, an toàn và lành
mạnh. Đây là cơ sở để quản lý cho vay, bảo đảm hiệu quả của vốn tín dụng. Chính
sách cho vay cần quy định cụ thể trong việc xem xét các loại khách hàng, các tiêu
chuẩn cần đạt được để ngân hàng có thể cho vay.
SV : TRẦN VĂN PHONG 18 LỚP : TCDN46Q
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Một chính sách tín dụng hợp lý cần được xây dựng trên những căn cứ khoa
học :
- Vốn của ngân hàng: Xem xét đến quy mô và kết cấu của nguồn vốn để
xem ngân hàng có lợi thế về vốn ngắn hạn hay vốn trung hạn và mức độ khả dụng
là bao nhiêu. Đây là một cơ sở để ngân hàng lựa chọn kỳ hạn đầu tư, loại hình cho
vay phù hợp.
- Các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước : Chính sách tín dụng cũng là
một bộ phận của chính sách kinh tế vĩ mô. Nếu Nhà nước có xu hướng mở rộng
ngành kinh tế mũi nhọn thì ngân hàng nên có kế hoạch mở rộng cho vay với ngành
đó và nếu Nhà nước định thu hẹp hoạt động của ngành nào thì ngân hàng không
nên cho vay quá nhiều các dự án đầu tư vào ngành này. Việc xác định thị trường
đầu tư và ngành đầu tư cũng phải linh hoạt theo từng thời kỳ để phù hợp với nhu
cầu của thị trường.
- Năng lực trình độ của đội ngũ quản lý và tác nghiệp : Nếu ngân hàng
có đội ngũ am hiểu trong lĩnh vực kinh doanh nào thì nên tập trung vào mở rộng
cho vay lĩnh vực đó. Nếu trình độ cán bộ tín dụng của ngân hàng không chuyên
sâu thì nên mở rộng các hoạt động bán lẻ, có thể dễ dàng kinh doanh hơn.
- Lĩnh vực lựa chọn để đầu tư : xuất phát từ kinh nghiệm của ngân hàng,
khả năng tiếp cận thị trường của ngân hàng. Chẳng hạn, các ngân hàng có thế
mạnh về thị trường thanh toán quốc tế có thể đẩy mạnh hoạt động cho vay phục vụ
xuất nhập khẩu, cho vay bằng ngoại tệ. Vì khi kết hợp hai hoạt động này có thể tạo
thuận lợi cho khách hàng và giảm chi phí cho bản thân ngân hàng.
- Căn cứ vào những phân tích dự báo về rủi ro có thể xảy ra với hoạt động sản
xuất kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Đây là các phân tích về
tình hình kỹ thuật, chính trị, xã hội trong và ngoài nước, các chính sách vĩ mô ảnh
hưởng đến hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là tình hình tài chính tiền tệ và các biến
động về lãi suất, giá ngoại tệ và chỉ số lạm phát.
SV : TRẦN VĂN PHONG 19 LỚP : TCDN46Q
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
- Chính sách lãi suất của ngân hàng cần thể hiện sự linh hoạt, năng động để
bảo đảm khả năng cạnh tranh, vừa bù đắp được chi phí, bảo đảm tạo lợi nhuận cao
cho ngân hàng.
Như vậy, chất lượng tín dụng chịu sự ảnh hưởng trực tiếp của chính sách tín
dụng. Vì vậy, các ngân hàng thương mại muốn nâng cao chất lượng tín dụng, giảm
thiểu rủi ro tín dụng thì phải có một chính sách tín dụng phù hợp định hướng.
1.3.2. Thực hiện tốt việc phân tích tín dụng
Thực hiện phân tích đánh giá khách hàng một cách đầy đủ và toàn diện nhằm
đánh giá chính xác khách hàng trước khi cho vay. Dựa vào các phân tích này trả
lời câu hỏi: Khách hàng có khả năng hoàn trả các khoản vay hay không và họ có
sẵn lòng hoàn trả hay không nhằm mục đích loại bỏ các yếu tố rủi ro từ phía khách
hàng mang lại.
Việc phân tích và thẩm định khách hàng được thực hiện trước, trong và sau
khi cho vay:
- Thẩm định trước khi cho vay: Đây là công việc đầu tiên của cán bộ tín dụng
ngân hàng và là khâu quan trọng đầu tiên để quyết định cho vay hay không. Vì
vậy, cán bộ tín dụng cần thẩm định theo đúng quy định như thẩm định cơ hội đầu
tư, thẩm định tiền khả thi và khả thi. Nếu xảy ra sai sót trong bước này thì vốn vay
khó có khả năng hoàn trả. Công tác thẩm định cần phải trả lời câu hỏi: Họ là ai?
Vay để làm gì? Sản phẩm bán cho ai? Thị trường tiêu thụ như thế nào?... Ngân
hàng cũng cần phải xem xét quan hệ của khách hàng với các bạn hàng và quan hệ
vay vốn của khách hàng với các ngân hàng khác nếu có. Ngân hàng cũng cần đánh
giá chất lượng các bảo đảm tín dụng mà khách hàng có thể cung cấp cho ngân
hàng như một nguồn trả nợ thứ hai.
Trình tự thẩm tra:
+ Cán bộ tín dụng: Là người trực tiếp quản lý, theo dõi khách hàng, trực
tiếp nhận hồ sơ vay vốn, chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc tiếp nhận hồ sơ
vay vốn.
SV : TRẦN VĂN PHONG 20 LỚP : TCDN46Q
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
+ Trưởng phòng tín dụng: Thực hiện kiểm tra việc thẩm định của cán bộ
tín dụng và có ý kiến cho vay hay không cho vay.
+ Hội đồng tín dụng: Gồm những chuyên gia về kinh tế, tài chính, ngân
hàng, kỹ thuật xây dựng làm nhiệm vụ tư vấn tham gia thẩm định dự án theo quy
định và có ý kiến cho vay hay không cho vay.
+ Người quyết định cho vay: Trên cơ sở kiểm tra thẩm định, người có
thẩm quyền (giám đốc) ra quyết định cho vay hay không cho vay.
Việc quyết định cho vay thực hiện theo nguyên tắc phân định trách nhiệm
giữa các khâu thẩm định và quyết định cho vay, gắn trách nhiệm để nâng cao chất
lượng tín dụng.
- Thẩm tra quá trình cho vay: Quá trình này giúp cho ngân hàng nắm được
diễn biến của khoản tín dụng, phát hiện kịp thời khi có biểu hiện rủi ro xảy ra để có
biện pháp bảo đảm hạn chế rủi ro tín dụng. Đây là khâu kiểm tra sử dụng vốn vay
có đúng mục đích, đúng đối tượng không, là cơ sở để vốn vay phát huy hiệu quả.
Yêu cầu của quá trình này là xác định được tiền vay của ngân hàng đang ở đâu và
khả năng thu hồi vốn vay theo kế hoạch đã định.
- Kiểm tra sau khi cho vay và thu hồi nợ: Đây là khâu quan trọng để bảo
đảm vốn vay có hoàn trả cho ngân hàng, phải kiểm tra hiệu quả của việc sử dụng
vốn vay. Nếu phát hiện việc sử dụng vốn vay sai mục đích phải kịp thời thu hồi nợ
vay.
Định kỳ sáu tháng đến một năm phải phân tích tài chính của bên vay. Đến hạn
trả nợ, khách hàng không trả được nợ do nguyên nhân khách quan thì ngân hàng có
thể xem xét để gia hạn nợ theo quy định.
1.3.3. Thực hiện các hình thức bảo đảm tín dụng một cách chắc chắn, phù hợp
với yêu cầu đòi hỏi về mức độ an toàn
Việc đưa ra các yêu cầu bảo đảm tín dụng và thực hiện đầy đủ các yêu cầu đó
cũng giúp cho ngân hàng đạt được mục tiêu giảm thiểu rủi ro vì các bảo đảm có thể
được sử dụng như một nguồn thu nợ thứ cấp trong trường hợp người vay không có
khả năng trả nợ theo quy định. Tuy nhiên, việc sử dụng hình thức nào là bảo đảm
SV : TRẦN VĂN PHONG 21 LỚP : TCDN46Q
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
cũng đòi hỏi ngân hàng phải tùy thuộc vào thực trạng của đơn vị vay vốn để quyết
định chấp nhận hình thức bảo đảm nào.
Vấn đề bảo đảm tín dụng ngân hàng cần lưu ý các vấn đề sau để giảm rủi ro
do các khoản bảo đảm gây ra cho mình:
- Đối với cho vay có bảo đảm tiền vay bằng tài sản:
+ Cần đánh giá tính sở hữu của tài sản xem tài sản đó thuộc sở hữu của
người đi vay hay không, có thuộc dạng bị tranh chấp hay không.
+ Đánh giá tính thị trường của tài sản, cụ thể ngân hàng phải biết được tài
sản có được pháp luật thừa nhận trong lưu thông và có được thị trường chấp nhận
khi đem phát mại trong tương lai hay không.
+ Đánh giá xác định chính xác giá trị tài sản bởi vì hạn mức vay sẽ phụ
thuộc vào giá trị của tài sản bảo đảm, trong đó phải tính đến hao mòn vô hình. Đây
là một vấn đề khó đối với cán bộ tín dụng trong quá trình đánh giá tài sản.
+ Xác định được sự tồn tại bền vững của tài sản trong thời hạn bảo đảm.
+ Trình tự thủ tục tiến hành phải phù hợp với quy định của luật pháp.
- Đối với cho vay có bảo lãnh:
+ Đánh giá năng lực pháp lý của người bảo lãnh để bảo đảm sự ràng buộc
trách nhiệm của người bảo lãnh theo luật định.
+ Đánh giá năng lực tài chính của người bảo lãnh để xem xét khả năng
thanh toán của người bảo lãnh.
+ Đánh giá ý thức sẵn sàng thanh toán của người bảo lãnh.
+ Trình tự bảo lãnh phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
1.3.4. Thực hiện tốt các quy trình tín dụng và giám sát tín dụng
Về phía nội bộ ngân hàng, công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ cần phải phát
huy tác dụng để bảo đảm các khoản tín dụng phải chấp hành đúng quy trình tín
dụng.
Cán bộ tín dụng phải theo dõi sát khoản vay để kiểm tra việc bảo quản vật tư
hình thành từ vốn vay, các tài sản dùng làm bảo đảm cho khoản vay cũng như tiến
độ thực hiện dự án sản xuất kinh doanh và quá trình tiêu thụ sản phẩm. Mục đích
SV : TRẦN VĂN PHONG 22 LỚP : TCDN46Q
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
của việc giám sát là để sớm phát hiện ra những rủi ro tiềm ẩn. Trên cơ sở phân
tích dư nợ, ngân hàng sẽ phát hiện và xử lý kịp thời những khoản nợ có vấn đề,
những khoản nợ có nhiều khả năng không thu hồi được là biện pháp hữu hiệu góp
phần hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng.
1.3.5. Phân tán rủi ro
Trong nền kinh tế thị trường, rủi ro trong hoạt động tín dụng không thể tránh
khỏi. Tuy nhiên, mức độ rủi ro làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng như thế
nào còn phụ thuộc vào khả năng ngăn ngừa và khắc phục rủi ro của mỗi ngân
hàng. Phân tán rủi ro trong đầu tư cũng là một biện pháp để ngân hàng hạn chế rủi
ro. Việc phân tán rủi ro trong đầu tư được thực hiện trên một số nguyên tắc như:
- Không nên tập trung cho vay quá nhiều vào một vài lĩnh vực hoặc khu vực
kinh tế, vì khi đó ngân hàng phụ thuộc quá nhiều vào các yếu tố, khuynh hướng
vận động của các khu vực đó như điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế, chính trị, xã
hội.
- Ngân hàng không nên dồn vốn đầu tư vào một vài khách hàng, cho dù khách
hàng đó kinh doanh có hiệu quả, bởi vì nếu khách hàng đó gặp khó khăn trong
kinh doanh thì ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của ngân hàng. Do vậy ngân hàng
phải thực hiện tốt các quy định về bảo đảm an toàn vốn như: Dư nợ của một khách
hàng tối đa không được phép vượt 15% vốn tự có và không vượt quá tối đa 70%
giá trị tài sản bảo đảm (đối với khách hàng vay vốn có tài sản bảo đảm).
- Đa dạng hoá danh mục đầu tư: Điểm mấu chốt của lý thuyết đầu tư hiện
đại là lợi dụng lợi thế về quy mô hoạt động, các tổ chức tài chính có thể đa dạng
hoá danh mục đầu tư và giảm đáng kể mức rủi ro khi sự biến động thu nhập từ
mỗi khoản mục đầu tư có mối liên quan với nhau. Nếu nhiều khoản vay có mối
tương quan ngược chiều về thu nhập, nghĩa là khi khoản đầu tư này có rủi ro thì
khoản đầu tư kia lại thành công. Thực tế, các ngân hàng thường tìm kiếm những
khoản cho vay hợp vốn, hợp tác liên kết và quản lý một số dự án đầu tư lớn để
nâng cao chất lượng tín dụng và san sẻ rủi ro.
SV : TRẦN VĂN PHONG 23 LỚP : TCDN46Q
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
- Một biện pháp nữa có thể phân tán rủi ro là ngân hàng yêu cầu khách hàng
mua bảo hiểm cho các tài sản hình thành từ vốn vay và các tài sản dùng làm thế
chấp cho khoản vay nếu các tài sản đó pháp luật quy định.
1.3.6. Nâng cao trình độ của cán bộ tác nghiệp và cán bộ quản lý
Con người luôn đóng vai trò quyết định. Với việc nâng cao trình độ của cán
bộ tác nghiệp và cán bộ quản lý, các món vay sẽ thẩm định, xem xét một cách
chính xác trước khi đưa ra quyết định cho vay.
1.3.7. Sử dụng các nghiệp vụ phát sinh để phòng ngừa và hạn chế rủi ro
Ngân hàng có thể thực hiện các hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn
(các nghiệp vụ ngoại bảng) để phòng ngừa rủi ro mang tính hệ thống do những
biến động của chu kỳ kinh tế gây ra.
Trường hợp có dự đoán rằng nền kinh tế sẽ suy giảm trong thời gian tới và có
những ảnh hưởng tiêu cực tới mức sinh lời của các khoản cho vay và danh mục
đầu tư, ngân hàng có thể ký các hợp đồng về chỉ số cổ phiếu (thực chất là ký hợp
đồng bán cổ phiếu trong tương lai cho các nhà đầu tư với số cổ phiếu hiện tại). Tất
nhiên, đó là trong trường hợp dự đoán của ngân hàng là chính xác; ngược lại, ngân
hàng phải gánh chịu hậu quả là vừa chịu rủi ro tín dụng, vừa phải thanh toán số
tiền chênh lệch do dự đoán sai cho nhà đầu tư.
Việc sử dụng các hợp đồng quyền chọn cho phép ngân hàng đạt được mong
muốn tạo nên lợi nhuận trong điều kiện nền kinh tế suy giảm, mặt khác hạn chế lỗ
trong kinh doanh nếu nền kinh tế biến động ngược chiều với dự đoán.
Giả sử, ngân hàng dự đoán kinh tế sẽ suy giảm trong tương lai, ảnh hưởng
đến chất lượng của khoản mục cho vay, ngân hàng sẽ mua của nhà đầu tư một hợp
đồng quyền chọn bán và ngân hàng phải trả một mức phí nhất định. Việc tham gia
vào một hợp đồng quyền chọn bán cho phép làm giảm nhẹ rủi ro mất vốn và có
thể tạo nên lợi nhuận trong điều kiện nền kinh tế đang suy giảm
Tóm lại, chúng ta đã xem xét đến bản chất và vai trò của hoạt động tín dụng.
Tín dụng là một hoạt động quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng
nhưng cũng là một hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất, rủi ro trong hoạt động
tín dụng không chỉ gây thiệt hại đến bản thân doanh nghiệp, ngân hàng mà còn ảnh
SV : TRẦN VĂN PHONG 24 LỚP : TCDN46Q
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
hưởng đến hoạt động kinh tế - xã hội. Xuất phát từ việc phân tích các dấu hiệu
nhận biết rủi ro, các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng, ngân hàng sẽ lựa chọn
các giải pháp thích hợp để ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục các rủi ro tín dụng.
Trên đây là những nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong hoạt động kinh doanh
của các ngân hàng thương mại. Để có thể đưa ra những giải pháp và kiến nghị cụ
thể nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại NHCT tỉnh Nam Định, chúng ta cần nghiên
cứu thêm về thực trạng rủi ro tín dụng tại NHCT tỉnh Nam Định.
SV : TRẦN VĂN PHONG 25 LỚP : TCDN46Q