Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Hoàn thiện việc áp dụng hệ thống xếp hạng tín dụng doanh nghiệp của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam tại chi nhánh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.17 KB, 67 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
- NHTM: Ngân hàng thương mại
- BIDV : Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam
- TMCP: Thương mại cổ phần
- CBTD : Cán bộ tín dụng
- CIC : Trung tâm thông tin tín dụng thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
- DN : Doanh nghiệp
- BCTC: Báo cáo tài chính
- KH : Khách hàng
- NHNN : Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam
- SXKD : Sản xuất kinh doanh
- TCTD : Tổ chức tín dụng
- TSĐB: Tài sản đảm bảo
- XHTD: Xếp hạng tín dụng
- HTXHTD: Hệ thống xếp hạng tín dụng
- XDCB: Xây dựng cơ bản
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 Quy mô và cơ cấu huy động vốn của Ngân hàng TMCP
ĐT&PT VN chi nhánh Phú Thọ giai đoạn 2009 - 2011
Bảng 2.2 Quy mô và cơ cấu tín dụng tại Ngân hàng TMCP
ĐT&PTVN chi nhánh Phú Thọ giai đoạn 2009 - 2011
Đồ thị 1 Tỷ trọng các mức xếp hạng năm 2009
Đồ thị 2 Tỷ trọng các mức xếp hạng năm 2010
Đồ thị 3 Tỷ trọng các mức xếp hạng năm 2011
Đồ thị 4 Tỷ trọng các doanh nghiệp được xếp hạng và không được
xếp hạng của chi nhánh giai đoạn 2009 - 2011
Đồ thị 5 Tỷ lệ nợ xấu toàn chi nhánh và tỷ lệ nợ xấu đến từ nhóm
khách hàng là doanh nghiệp giai đoạn 2009 - 2011
Phụ lục 1 Các chỉ tiêu tài chính và tỷ trọng trong khối khách hàng
doanh nghiệp


Phụ lục 2 Các chỉ tiêu phi tài chính và tỷ trọng trong khối khách hàng
doanh nghiệp
Phụ lục 3 Tỷ trọng điểm theo loại hình sở hữu DN đối với nhóm chỉ
tiêu phi tài
Phụ lục 4 Trọng số các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính trong các báo
cáo kiểm toán và chưa được kiểm toán
Phụ lục 5 Xếp hạng doanh nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại là hoạt động cơ bản, quan
trọng nhất, chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng tài sản và mang lại thu nhập chủ
yếu cho các ngân hàng, trong đó có các ngân hàng thương mại Việt Nam nói
chúng và ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói riêng. Tuy vậy, song song
với việc đem lại thu nhập đáng kể cho ngân hàng thì hoạt động này chứa đựng rất
nhiều rủi ro. Khi có tổn thất xảy ra thường gây những hậu quả xấu đối với ngân
hàng như tăng thêm chi phí ngân hàng, giảm thu nhập, làm xấu đi tình hình tài
chính và uy tín của ngân hàng từ đó có thể ảnh hưởng đến toàn hệ thống…Tuy
nhiên, rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại là không thể
tránh khỏi. Nó tồn tại khách quan cùng với sự tồn tại của hoạt động tín dụng. Vì
vậy, mỗi ngân hàng cần phải xây dựng cho mình chính sách hợp lý nhằm hạn chế
đến mức thấp nhất những tổn thất có thể xảy ra. Một trong những biện pháp được
các ngân hàng sử dụng phổ biến hiện nay để quản trị rủi ro là việc xây dựng và
áp dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Việc chấm điểm tín dụng và xếp
hạng khách hàng có vai trò hết sức quan trọng, hỗ trợ ngân hàng và cán bộ tín
dụng trong việc ra quyết định cấp tín dụng, xác định hạn mức tín dụng của một
khách hàng, số tiền cho vay/bảo lãnh, thời hạn, mức lãi suất/phí, các biện pháp
đảm bảo tiền vay… Khi xây dựng và vận hành được một hệ thống xếp hạng tín
dụng nội bộ có hiệu quả ngân hàng sẽ giảm thiểu được nhiều chi phí phát sinh,
phòng ngừa được rủi ro xảy ra gây tổn thất, qua đó, nâng cao được lợi nhuận và
vị thế của mình – điều mà ngân hàng thương mại nào cũng hướng tới.
Gắn với tình hình của nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống ngân

hàng nói riêng đang gặp rất nhiều khó khăn như giai đoạn hiện nay, sau một thời
khá dài hoạt động ngân hàng không được kiểm soát một cách chặt chẽ gây nên
tình trạng cho vay tràn lan khiến cho tỷ lệ nợ xấu trong toàn hệ thống tăng cao
nên vấn đề đặt ra là phải có những biện pháp hạn chế, khắc phục tình hình này.
Trong quá trình thực tập tại ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển
Việt Nam chi nhánh Phú Thọ, vấn đề tôi đã nhận thức được tầm quan trọng của
vấn đề và tiến hành tìm hiểu và nghiên cứu đề tài: “Hoàn thiện việc áp dụng hệ
thống xếp hạng tín dụng doanh nghiệp của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát
triển Việt Nam tại chi nhánh Phú Thọ”.
Đề tài được chia thành 3 chương như sau:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về xếp hạng tín dụng
- Chương 2: Phân tích thực trạng áp dụng hệ thống xếp hạng tín dụng
doanh nghiệp của ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam tại
chi nhánh Phú Thọ.
- Chương 3: Hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tại của BIDV
áp dụng tại chi nhánh Phú Thọ
CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XẾP HẠNG TÍN DỤNG
1.1. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm
Tín dụng nói chung là một thuật ngữ kinh tế được nghiên cứu rất nhiều, do
đó cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về tín dụng. Thuật ngữ tín dụng được bắt
nguồn từ tiếng Latinh là “Credo” (tin tưởng, tín nhiệm) nhưng trong quan hệ tài
chính hay cuộc sống thì thuật ngữ này lại được hiểu tùy theo góc nhìn nhận. Xét
trên góc độ chuyển dịch quỹ thì tín dụng sự chuyển dịch quỹ cho vay từ người
cho vay sang người đi vay. Xét trong một quan hệ tài chính cụ thể thì tín dụng là
một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả. Còn tín dụng ở nghĩa hẹp được
hiểu là một số tiền mà các tổ chức tín dụng cho khách hàng vay.
Tuy nhiên, dựa trên góc độ từ phía ngân hàng thì tín dụng được hiểu là:
“một giao dịch về tiền giữa bên cho vay (ngân hàng thương mại và các định chế
tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể kinh tế

khác), trong đó bên cho vay chuyển giao một lượng tiền cho bên đi vay sử dụng
trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận và bên đi vay có trách nhiệm hoàn
trả cả gốc và lãi khi đến hạn thanh toán. Như vậy, về bản chất, quan hệ tín dụng
được cấu thành bởi các hành vi: bên cho vay chuyển giao cho bên cho vay một
lượng tiền nhất định, bên đi vay được sử dụng tạm thời lượng tiền đó trong
khoảng thời gian nhất định và bên đi vay phải hoàn trả vô điều kiện cho bên cho
vay sau khi hết hạn sử dụng theo thỏa thuận, thông thường phần hoàn trả này lớn
hơn so với phần giá trị ban đầu và đó chính là lợi nhuận thu được từ hoạt động
tín dụng.
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng thương mại cung cấp các dịch vụ,
sản phẩm ngân hàng cho nền kinh tế như các nghiệp vụ huy động vốn, cấp tín
dụng, và cung ứng các dịch vụ tài chính, từ đó tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng.
Và trong tất cả các hoạt động có sinh lời của ngân hàng thì hoạt động tín dụng là
1
mang lại lợi nhuận chủ yếu. Nhưng bên cạnh đó, song hành với lợi nhuận cao thì
rủi ro cũng cao. Đây là nghiệp vụ rất rủi ro nên các ngân hàng rất thận trọng
trong việc cho ai vay và cho vay với điều kiện gì.
1.1.2. Phân loại tín dụng ngân hàng
Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau, trong hoạt động của ngân hàng thương
mại, tín dụng có thể được chia thành những loại chính như sau:
1.1.2.1. Căn cứ vào hình thức cấp tín dụn
- Chiết khấu các giấy tờ có giá: là việc ngân hàng ứng trước tiền cho
khách hàng tương ứng với giá trị thương phiếu, lãi suất chiết khấu, thời hạn chiết
khấu và lệ phí chiết khấu (trong trường hợp cụ thể liên quan đến rủi ro và chi phí
đòi tiền). Đây là nghiệp vụ được coi là đơn giản, phụ thuộc vào sự tín nhiệm giữa
ngân hàng và người ký tên trên thương phiếu
- Cho vay: là việc ngân hàng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử
dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận theo nguyên tắc hoàn
trả gốc và lãi. Nghiệp vụ này rất đa dạng: thấu chi, cho vay hạn mức, cho vay
trực tiếp từng lần, cho vay trả góp, cho vay luân chuyển…

- Bảo lãnh của ngân hàng: là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư
bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng,
khi khách hàng không thực hiện được đúng nghĩa vụ như cam kết với bên thứ ba.
Đối với đa số các ngân hàng thương mại, hoạt động cho vay là hoạt động mang
lại thu nhập chính cho ngân hàng hơn là bảo lãnh hay chiết khấu giấy tờ có giá.
“Rủi ro đo lợi tức”, do vậy đây là hoạt động tiềm ẩn nguy cơ mang đến tổn thất
cho ngân hàng.
1.1.2.2. Căn cứ vào thời hạn
- Tín dụng ngắn hạn: có thời hạn dưới 12 tháng nhằm tài trợ cho vốn lưu động
hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất…
2
- Tín dụng trung hạn: có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Tín dụng trung hạn
chủ yếu để đầu tư vào tài sản cố định, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng
các dự án có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: có thời hạn trên 5 năm và thường tài trợ cho các dự án
dài hạn, xây dựng xí nghiệp, nhà xưởng, mua sắm tài sản cố định,…có quy mô,
mua trái phiếu…
Vì những khoản vay càng dài, khả năng khó thu hồi gốc và lãi của ngân hàng sẽ
cao hơn so với những khoản vay có kỳ hạn ngắn hơn. Cho nên đây cũng chính là
một trong những tiêu chí để ngân hàng thương mại đánh giá mức độ rủi ro cho
từng khoản vay. Tùy vào thời hạn khoản vay là ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn,
ngân hàng thương mại sẽ có chính sách khách hàng, chính sách lãi suất phù hợp
với thời hạn đó.
1.1.2.3. Căn cứ vào mức độ đảm bảo
- Tín dụng có đảm bảo: là hình thức cấp tín dụng của ngân hàng khi có tài
sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của bên thứ ba. Nghiệp vụ này áp dụng
với những khách hàng có sự yếu kém về tài chính (lý do thông thường nhất) hoặc
do kỳ hạn khoản vay dài hoặc ngân hàng chưa đủ tin tưởng về sự nhất định hoàn
trả vốn vay từ phía khách hàng. TSĐB chính là cơ sở để ngân hàng trích lập dự
phòng, nhằm hạn chế tổn thất xảy ra đối với các khoản vay này.

- Tín dụng không có đảm bảo: đây là loại hình tín dụng mà khi khách
hàng vay vốn sẽ không cần phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của
bên thứ ba mà dựa vào uy tín, tài chính của người vay, lợi tức có thể có được
trong tương lai, cấp tín dụng theo chỉ thị của Chính phủ. Và không chỉ có doanh
nghiệp có thể vay không cần đảm bảo mà các cá nhân cũng có thể sử dụng
nghiệp vụ này.
Về nguyên tắc mọi khoản tín dụng của ngân hàng phải có đảm bảo. TSĐB có thể
bán đi để thu nợ nếu khách hàng không trả được nợ. Đây là nguồn thu nợ thứ hai,
3
là điều kiện ràng buộc người vay thực hiện đúng cam kết. Từ đó sẽ giúp ngân
hàng giảm thiểu được tổn thất xảy ra.
1.1.2.4. Căn cứ vào mục đích
Theo tiêu chí này, tín dụng được chia thành các hình thức:
- Cho vay kinh doanh bất động sản: gồm các khoản vay xây dựng, mua đất
canh tác, nhà cửa và các bất động sản khác.
- Cho vay nông nghiệp: nhằm hỗ trợ nông dân trong sản xuất nông nghiệp.
- Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp: giúp doanh
nghiệp trang trải các chi phí trong sản xuất.
- Cho vay các nhân: đáp ứng như cầu tiêu dùng cá nhân
- Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu…
Tùy vào từng lĩnh vực, ngành nghề, ngân hàng sẽ cung cấp những khoản
vay với quy mô khác nhau, lãi suất cho vay khác nhau và yêu cầu đối với tài sản
đảm bảo khác nhau. Chẳng hạn, đối với cho vay kinh doanh bất động sản. Đây là
khoản cho vay mà ngân hàng luôn luôn phải xem xét kỹ càng hơn và điều kiện
cho vay cũng siết chặt hơn so với các hình thức khác. Vì quy mô cho vay thường
lớn, tài sản đảm bảo lại chủ yếu được hình thành từ vốn vay. Cho nên đây là hình
thức cho vay đem lại rủi ro cao cho ngân hàng. Việc phân chia tín dụng theo mục
đích như vậy cũng nhằm giúp ngân hàng có thể đánh giá mức độ rủi ro đối với
từng lĩnh vực mà ngân hàng đã cho vay.
1.1.3. Đặc điểm hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại

Thứ nhất , tín dụng ngân hàng là sự cung cấp một lượng giá trị dựa trên cơ
sở lòng tin. Ngân hàng chỉ cấp tín dụng khi có lòng tin vào việc khách hàng sử
dụng vốn vay đúng mục đích, hiệu quả và có khả năng hoàn trả nợ vay (gốc và
lãi) đúng hạn.
Thứ hai, tín dụng là sự chuyển nhượng một lượng giá trị có thời hạn. Việc
xác định thời hạn đó dựa vào:
4
- Quá trình luân chuyển vốn của đối tượng vay: thời hạn cho vay phải phù hợp
với chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay thì lúc đó người vay mới có điều
kiện để trả nợ. Nếu thời hạn vay nhỏ hơn chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng
vay thì khi đến hạn khách hàng chưa có nguồn để trả nợ. Ngược lại, nếu thời hạn
cho vay dài hơn chu kỳ luân chuyển vốn sẽ tạo điều kiện cho khách hàng có
nguồn vốn dư dừa và sử dụng vốn không đúng mục đích.
- Tính chất vốn của người cho vay: ngân hàng là trung gian tài chính “đi vay để
cho vay’’, nên mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều phải có thời hạn sao cho
phù hợp với thời hạn huy động của ngân hàng, bảo đảm cho ngân hàng hoàn trả
vốn huy động
Thứ ba, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị trên
nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Đây là thuộc tính riêng có của tín dụng. Giá trị
hoàn trả phải lớn hơn giá trị lúc cho vay (giá trị gốc), nghĩa là ngoài việc hoàn trả
giá trị gốc, khách hàng phải trả cho ngân hàng mộtkhoản lãi phải luôn luôn là
một số dương, có như vậy mới bù đắp được chi phí hoạt động và tạo ra lợi nhuận
cho ngân hàng, phản ánh bản chất hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương
mại, vì mục tiêu lợi nhuận.
Thứ tư, tín dụng là hoạt động rất rủi ro. Các rủi ro ngân hàng thương mại
thường gặp phải trong hoạt động ngân hàng là rủi ro tín dụng, rủi ro hối đoái, rủi
ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro tồn đọng vốn trong đó rủi ro tín dụng
chiếm tỷ trọng cao nhất. Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà
ngân hàng phải chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc trả
không đầy đủ vốn và lãi.

Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng không chỉ đến từ người vay trong dự
đoán các vấn đề kinh doanh, quản lý yếu kém, chủ định lừa đảo cán bộ ngân
hàng…đến từ ngân hàng khi chất lượng cán bộ kém, tha hóa đạo đức mà còn đến
từ các nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, chiến tranh, những thay đổi tầm
vĩ mô (thay đổi của Chính phủ, chính sách kinh tế…) vượt quá tầm kiểm soát của
5
người vay lẫn người cho vay. NHTM gặp rủi ro tín dụng sẽ khó thu được vốn tín
dụng đã cấp và lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền
huy động khi đến hạn, điều này làm cho ngân hàng mất cân đối thu chi, mất khả
năng thanh khoản, làm mất lòng tin người gửi tiền, ảnh hưởng đến uy tín của
ngân hàng.
Để hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng thương mại có
thể đưa ra nhiều giải pháp, giải pháp truyền thống thường được sử dụng phổ biến
là tách biệt giữa công tác phân tích thẩm định và bộ phận thực hiện cho vay để
đảm bảo tính khách quan trong hoạt động tín dụng, nâng cao năng lực của đội
ngũ cán bộ ngân hàng, tăng cường kiểm tra giám sát sau khi cho vay…. Hiện nay
các ngân hàng thương mại thường sử dụng kết quả xếp hạng tín nhiệm khách
hàng vay vốn làm cơ sở để quyết định cho vay, đánh giá rủi ro khoản vay, thực
hiện chính sách khách hàng.… đây là giải pháp nâng cao chất lượng, hạn chế rủi
ro tín dụng vừa khách quan vừa khoa học.
1.2. Sự cần thiết của hệ thống xếp hạng tín dụng doanh nghiệp tại ngân hàng
thương mại
1.2.1. Khái niệm về hệ thống xếp hạng tín dụng doanh nghiệp
Xếp hạng tín dụng (credit ratings) là thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng Anh do
John Moody lần đầu tiên đưa ra vào năm 1909 tại Mỹ trong cuốn “cẩm nang
chứng khoán đường sắt” sau khi tiến hành nghiên cứu, phân tích và công bố bảng
xếp hạng tín nhiệm lần đầu tiên cho 1.500 loại trái phiếu của 250 công ty theo
một hệ thống ký hiệu gổm 3 chữ cái A, B, C được xếp lần lượt là Aaa đến C
(hiện nay những ký hiệu này đã trở thành chuẩn mực quốc tế).
Tuy nhiên xếp hạng tín dụng chỉ phát triển nhanh ở Mỹ sau cuộc khủng

hoảng kinh tế năm 1929 – 1933 khi hàng loạt các công ty bị phá sản, vỡ nợ. Thời
kỳ này chính phủ Hoa Kỳ đã có nhiều quy định về việc cấm các định chế đầu tư
(các quỹ hưu trí, các quỹ bảo hiểm, ngân hàng dự trữ) bỏ vốn đầu tư mua trái
phiếu có độ tin cậy thấp dưới mức an toàn trong bảng xếp hạng tín dụng. Và
6
chính những quy định này đã làm cho uy tín của các công ty xếp hạng tín dụng
ngày một lên cao. Tuy nhiên, trong suốt hơn 50 năm, việc xếp hạng tín dụng chỉ
được phổ biến ở Mỹ và chỉ từ những năm 1970 đến nay, dịch vụ xếp hạng tín
dụng mới được mở rộng và phát triển khá mạnh ở nhiều nước.
Hiện nay, thuật ngữ “Credit Rating” được dịch theo nhiều nghĩa khác nhau
như “xếp hạng tín nhiệm”, “xếp hạng tín dụng”, “xếp loại tín dụng” và “phân
loại tín dụng”. Trong đó, sát nghĩa nhất và được dùng phổ biến là “xếp hạng tín
dụng” (phân loại có thứ bậc). Đã có rất nhiều định nghĩa về thuật ngữ này từ
các tổ chức tài chính và tổ chức xếp hạng trên thế giới. Theo định nghĩa của công
ty chứng khoán Merrill Lynch thì “xếp hạng tín dụng” là cách đánh giá hiện thời
về chất lượng tín dụng đang được xem xét trong hoàn cảnh hướng về tương lai,
phản ánh sự sẵn sàng và khả năng nhà phát hành có thể thanh toán gốc và lãi đúng
hạn. Trong kết quả xếp hạng tín dụng chứa đựng cả ý kiến chủ quan của chuyên
gia xếp hạng tín dụng”. Theo Standards & Poor, xếp hạng tín dụng là những ý
kiến đánh giá hiện tại về rủi ro tín dụng, chất lượng tín dụng, khả năng và thiện ý
của chủ thể đi vay trong việc đáp ứng các nghĩa vụ tài chính một cách đầy đủ và
đúng hạn. Theo Moody's, xếp hạng tín dụng là những ý kiến đánh giá về chất
lượng tín dụng và khả năng thanh toán nợ của chủ thể đi vay dựa trên những phân
tích tín dụng cơ bản và biểu hiện thông qua hệ thống ký hiệu Aaa-C. Theo định
nghĩa của Viện nghiên cứu Nomura: “Xếp hạng tín dụng là đánh giá hiện tại về
mức độ sẵn sàng và khả năng trả gốc hoặc lãi đối với chứng khoán nợ của một nhà
phát hành trong suốt thời gian tồn tại của chứng khoán đó”.
Như vậy, về định nghĩa, mỗi tổ chức tài chính định nghĩa “xếp hạng tín
dụng” khác nhau, nhưng nội dung cốt lõi là : Xếp hạng tín dụng là các ý kiến
đánh giá về chất lượng tín dụng và sự sẵn lòng thanh toán các nghĩa vụ tài chính

(gốc và lãi) của một đối tượng xếp hạng một cách đầy đủ và đúng hạn thông qua
hệ thống phân loại theo ký hiệu đã được xác định trước trong suốt thời gian tồn
tại của đối tượng xếp hạng đó. Đối tượng xếp hạng có thể là một chủ thể phát
7
hành (doanh nghiệp, Chính phủ) hoặc một khoản vay riêng lẻ (kỳ phiếu, trái
phiếu, giấy nhận nợ của doanh nghiệp; hay tín phiếu, trái phiếu của Chính phủ,
chính quyền địa phương. Ta thấy rằng xếp hạng tín dụng mới chỉ đánh giá khả
năng trả nợ của chủ thể trong quá khứ và hiện tại nên các tổ chức xếp hạng cũng
có thể dự báo hạng mức tín nhiệm bằng cách dự báo về tình hình báo cáo tài
chính tương lai rồi xếp hạng lại.
Trong khuôn khổ bài viết này sẽ đi tìm hiểu về một phạm vi rất hẹp và
mang tính nội bộ của xếp hạng tín dụng là sự xếp hạng tín dụng của một ngân
hàng thương mại đối với đối tượng khách hàng là doanh nghiệp. Ngày nay các
ngân hàng thương mại với sự trợ giúp của các chuyên gia có uy tín để tự mình
xây dựng một hệ thống xếp hạng tín nhiệm riêng . Theo định nghĩa trên, hệ thống
xếp hạng tín dụng của ngân hàng thương mại là quy trình nhằm đánh giá khả
năng của doanh nghiệp trong việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với ngân
hàng. Đây là một công cụ giám sát và kiểm tra tín dụng quan trọng nhằm hỗ trợ
cho ngân hàng trong việc ra các quyết định tín dụng, cơ sở đưa ra chính sách
khách hàng phù hợp với mục tiêu phát triển kinh doanh.
1.2.2. Vai trò
1.2.2.1.Vai trò của xếp hạng tín dụng đối với ngân hàng thương mại
Thứ nhất, qua chấm điểm và xếp hạng doanh nghiệp, ngân hàng có thể
nhận biết và đánh giá được mức độ rủi ro khi cấp tín dụng cho khách hàng. Hệ
thống XHTD chuẩn mực sẽ giúp ngân hàng đánh giá khả năng một khách hàng
“tốt” hoặc “xấu”, cũng như xác định xác suất vỡ nợ của khách hàng. Nhờ tích
hợp trong nó các nguyên tắc, chính sách và tiêu chuẩn tín dụng căn bản của ngân
hàng, hệ thống XHTD tạo ra một căn cứ độc lập để ngân hàng đánh giá hiệu quả
quá trình quản trị rủi ro của các bộ phận có trách nhiệm liên quan, bảo đảm rằng
chức năng cấp tín dụng được quản lý phù hợp, các tài sản có rủi ro tín dụng nằm

trong các giới hạn, thống nhất với các tiêu chuẩn thận trọng, và khả năng phát
hiện sớm các khoản tín dụng xấu.
8
Thứ hai, hỗ trợ Ban Giám đốc trong việc ra quyết định cấp tín dụng như
thế nào?
Hệ thống xếp hạng tín dụng sẽ lượng hóa các chỉ tiêu về doanh nghiệp một
cách khách quan thay vì hoàn toàn dựa vào đánh giá của cán bộ tín dụng. Nếu
như trước kia, kết quả thẩm định một khách hàng phụ thuộc rất nhiều vào trình
độ, kinh nghiệm của bản thân nhân viên tín dụng và đã có những trường hợp giữa
Ban giám đốc và nhân viên tín dụng không có sự thống nhất về kết quả đánh giá
khách hàng, từ đó có thể bỏ qua cơ hội thiết lập quan hệ với một khách hàng có
tiềm năng. Do đó, sử dụng hệ thống với sự hiện đại của các thiết bị công nghệ, số
liệu sẽ được nhập vào máy tính và máy tính dựa trên phần mềm sẵn có sẽ đưa ra
kết quả một cách khách quan.
Hệ thống này có thể giải quyết công việc với số lượng lớn. Chính vì vậy
mà chi phí hoạt động có thể được giảm đi và hạn chế được rủi ro tác nghiệp do sự
thiếu kinh nghiệm của nhân viên ngân hàng, giảm bớt sự can thiệp từ con người.
Trong giai đoạn thẩm định, kết quả XHTD được sử dụng để quyết định việc đồng
ý hay từ chối cấp tín dụng cho khách hàng
Thứ ba, hệ thống XHTD là cơ sở để xây dựng chính sách khách hàng.
Quan hệ khách hàng của các ngân hàng phụ thuộc vào mức độ XHTD của
khách hàng đó. Những khách hàng vay có mức XHTD thấp cần phải được chú
trọng theo dõi, “thăm hỏi”. Ngược lại, những khách hàng tốt với mức XHTD cao
sẽ được ưu ái hơn trong các quan hệ giao dịch. Khi cho vay, điều kiện vay vốn
đối với từng nhóm khách hàng cũng có sự khác nhau. Nếu doanh nghiệp đó được
xếp vào mức an toàn sẽ được vay vốn với chính sách ưu đãi . Còn các doanh
nghiệp trong nhóm rủi ro cao sẽ phải vay vốn với các điều kiện khắt khe hoặc
không cho vay. Không chỉ có vậy, trong vấn đề xác định giá khoản vay - mức
giá cho khoản vay phải phù hợp và đủ để bồi hoàn tổn thất tín dụng, và tương
ứng với mức độ rủi ro. Như vậy không phải doanh nghiệp nào cũng được vay với

một mức lãi suất như nhau mà sẽ tùy thuộc vào thứ hạng của doanh nghiệp ở đâu
9
trong hệ thống XHTD của ngân hàng, theo nguyên tắc mức XHTD thấp (rủi ro
cao) sẽ tương ứng với mức lãi suất cao và ngược lại.
Thứ tư, sự hoạt động của hệ thống XHTD làm tăng tính chủ động trong
quản lý khách hàng của ngân hàng. Ngân hàng sẽ tiến hành việc chấm điểm và xếp
hạng tín dụng doanh nghiệp một cách thường xuyên. Từ đó, phù hợp với những
thay đổi trong hoạt động của doanh nghiệp thì sẽ có mức điểm mới và thứ hạng
mới. Qua đó, ngân hàng cso thể đánh giá, nhận biết được rủi ro tín dụng của khách
hàng thay đổi như thế nào sau khi đã được ngân hàng tài trợ vốn thực hiện phương
án kinh doanh hoặc dự án đầu tư. Trong trường hợp sau khi có kết quả đánh giá lại
mà doanh nghiệp có mức độ rủi ro cao hơn thì nhân viên tín dụng có thể đề xuất
những biện pháp ứng xử thích hợp (giảm dần số tiền vay đã cấp cho khách hàng,
tăng cường đảm bảo nợ vay bằng tài sản hoặc có những biện pháp theo dõi chặt
chẽ hơn để cải thiện tình hình) nhằm hạn chế rủi ro có thể sẽ mắc phải.
1.2.2.2. Vai trò của xếp hạng tín dụng đối với doanh nghiệp
Thứ nhất, xếp hạng tín dụng doanh nghiệp giúp cho doanh nghiệp khẳng
định được vị thế và uy tín của mình. Khi một doanh nghiệp được xếp vào hạng
tốt mà lại dựa trên cơ sở đánh giá khách quan, minh bạch từ bên thứ ba thì đó là
một danh hiệu mà khó có thể phủ nhận. Mục tiêu của các nhà quản trị doanh
nghiệp là đảm bảo cho sự tăng trưởng ổn định cổ phiếu của mình trên thị trường
chứng khoán. Để làm được điều đó trong bối cảnh thị trường chứng khoán chưa
có sự phát triển một cách hoàn chỉnh như ở các nước đang phát triển là một điều
khó khăn. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp được xếp hạng, có được một thứ hạng
cao và duy trì thứ hạng đó thì mục tiêu trên hoàn toàn có thể thực hiện được vì
thương hiệu, uy tín và vị thế doanh nghiệp sẽ được khẳng định thông qua bảng
xếp hạng tín dụng doanh nghiệp của các ngân hàng.
Hai là, khi các doanh nghiệp tham gia đánh giá tín dụng doanh nghiệp sẽ
nhận được những thông tin đánh giá hết sức độc lập, khách quan về tình hình sản
xuất kinh doanh của mình, tự mình hiểu được mình về năng lực tài chính, khả năng

10
thanh toán, Kết quả xếp hạng doanh nghiệp hàng năm sẽ tôn vinh các doanh
nghiệp có vị trí xếp hạng cao, đồng thời doanh nghiệp cũng phải có giải pháp khi
bị tụt hạng. Điều này sẽ góp phần rất lớn trong việc quảng bá và phát triển thực lực
của doanh nghiệp trên thị trường trong nước cũng như ở nước ngoài.
Thứ ba, xếp hạng tín dụng là cơ sở để đánh giá năng lực của doanh nghiệp.
Qua đó tạo sự bình đẳng, cạnh tranh hơn trong hoạt động huy động vốn của doanh
nghiệp. Việc được xếp hạng tín dụng cao cũng là yếu tố giúp các doanh nghiệp
duy trì sự ổn định của nguồn vốn tài trợ cho doanh nghiệp, có nhiều cơ hội tiếp cận
nguồn vốn với lãi suất hoặc các điều kiện ưu đãi từ ngân hàng…, nguồn vốn cũng
được chuyển giao đến doanh nghiệp tốt để thúc đẩy các doanh nghiệp này tiếp tục
duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
1.2.3. Quy trình xếp hạng tín dụng đối với doanh nghiệp
Căn cứ vào chính sách tín dụng và các quy định có liên quan của từng ngân hàng
nhằm xác lập quy trình XHTD. Một quy trình XHTD bao gồm các bước cơ bản
như sau:
Bước 1: Thu thập, tổng hợp thông tin về tư cách và năng lực pháp lý, năng
lực điều hành, năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, mô hình tổ chức, bố trí lao
động trong doanh nghiệp, thu thập, tổng hợp thông tin về tình hình sản xuất kinh
doanh, bán hàng và khả năng tài chính (thông qua các báo cáo tài chính, báo cáo
kiểm toán, thuế…); thẩm định tính chính xác của thông tin… Trong quá trình thu
thập thông tin, ngoài nhưng thông tin do chính khách hàng cung cấp, cán bộ thẩm
định phải sử dụng nhiều nguồn thông tin khác để đảm bảo tính khách quan và
chính xác. Chẳng hạn như thông tin từ các cơ quan quản lý, trung tâm thông tin
hoặc từ các phương tiện thông tin đại chúng. Bên cạnh đó, đối với các thông tin
để đánh giá chỉ tiêu phi tài chính, các ngân hàng thương mại phải có nguồn dữ
liệu trong quá khứ được lưu trữ về khách hàng của mình. Trên đây là những
nguồn dữ liệu vô cùng quan trong để qua đó là cơ sở để xác định mức xếp hạng
cho các doanh nghiệp.
11

Bước 2: Sử dụng đồng thời chỉ tiêu tài chính và chỉ tiêu phi tài chính. Tùy
theo từng ngân hàng sẽ có hệ thống các chỉ tiêu khác nhau với số lượng chỉ tiêu
khác nhau và coi trọng nhóm chỉ tiêu tài chính hay phi tài chính hơn tùy theo tỷ
trọng của hai nhóm chỉ tiêu này. Đối với các chỉ tiêu tài chính cơ bản sẽ được
chia thành 4 nhóm: nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán, nhóm chỉ tiêu phản
ánh khả năng hoạt động, nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng cân đối vốn và nhóm
chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời. Đối với những chỉ tiêu phi tài chính phải
được sử dụng hết sức linh hoạt, khách quan, phù hợp với từng loại hình doanh
nghiệp, từng mặt hàng kinh doanh. Từ đó, dựa vào tỷ trọng đối và điểm số đối
với từng chỉ tiêu sẽ tập hợp được điểm số cuối cùng của doanh nghiệp. Thang đo
xếp hạng sẽ căn cứ vào điểm số đó để đưa ra thứ hạng của doanh nghiệp. Kết quả
này sẽ được thông qua Hội đồng xếp hạng trước khi đưa ra kế quả cuối cùng.
Bước 3: Theo dõi tình trạng tín dụng của doanh nghiệp được xếp hạng để
điều chỉnh mức xếp hạng. Hoạt động của doanh nghiệp là thay đổi trong từng
thời kỳ, tùy thuộc nhiều vào các nhân tố khách quan như khách hàng, thị trường,
chính sách của Nhà nước…Do vậy các thông tin thu thập được cũng sẽ thay đổi.
Do vậy, các thông tin về doanh nghiệp sẽ điều chỉnh được lưu giữ. Tổng hợp kết
quả xếp hạng so sánh với thực tế rủi ro xảy ra, và dựa trên tần suất phải điều
chỉnh mức xếp hạng đã thực hiện đối với doanh nghiệp để xem xét điều chỉnh
chính sách tín dụng đối với doanh nghiệp đó (cho vay bao nhiêu? Điều kiện cho
vay như thế nào? )
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc xếp hạng tín dụng doanh nghiệp tại
ngân hàng thương mại
1.3.1. Các nhân tố chủ quan
1.3.1.1. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật của ngân hàng thương mại
Chi phí đầu tư cho hệ thống xếp hạng tín dụng là rất lớn, lên đến hàng chục
triệu USD. Đây là rào cản lớn mà không phải NHTM nào ở Việt Nam cũng có
thể vượt qua được. Bên cạnh đó, công nghệ là yếu tố thường xuyên thay đổi đòi
12
hỏi các ngân hàng phải thích ứng kịp thời nhằm đảm bảo được việc tuân thủ theo

tiêu chuẩn quốc tế.
Việc xếp hạng tín dụng là một chu trình xuyên suốt với số lượng doanh
nghiệp được xếp hạng là rất lớn. Mỗi doanh nghiệp lại có một tập hợp các thông
tin để mô tả về tình hình của doanh nghiệp đó. Nếu ngân hàng có được hệ thống
kỹ thuật hiện đại thì sẽ giải quyết được khối lượng công việc đồ sộ đó một cách
nhanh chóng hơn, là nền tảng để ngân hàng giảm thiểu sự phụ thuộc vào ý kiến
chủ quan của con người, từ đó tạo nên sự khách quan, độc lập hơn trong việc
đánh giá chất lượng tín dụng khách hàng, xây dựng chính sách khách hàng được
chính xác hơn.
1.3.1.2. Trình độ, năng lực, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng
Tuy có sự trợ giúp của hệ thống kỹ thuật hiện đại nhưng không thể phủ
nhận tầm quan trọng của con người trong việc vận hành hệ thống xếp hạng tín
dụng vì cho dù có hiện đại, tự động hóa đến đâu cũng không thể bao quát hết
được tất cả các tình huống xảy ra trên thực tế. Hệ thống kỹ thuật chỉ phản ánh
được những gì cơ bản nhất cho phần lớn các doanh nghiệp được xếp hạng sau khi
trải qua quá trình tác nghiệp của cán bộ tín dụng. Việc này đòi hỏi cán bộ tín
dụng phải có năng lực chuyên môn, linh hoạt trong các tình huống chứ không chỉ
áp dụng máy móc các tiêu chuẩn đặt ra.
Bên cạnh đó, các chỉ tiêu phi tài chính trong xếp hạng tín dụng doanh
nghiệp là những chỉ tiêu phụ thuộc rất lớn vào khả năng thu thập thông tin, thẩm
định thông tin của người xếp hạng. Do đó, khi nhân viên tín dụng tìm kiếm được
thông tin một cách có chọn lọc, kiểm tra thông tin cẩn thận kỹ lưỡng sẽ góp phần
đánh giá đúng năng lực của khách hàng. Điều này gợi mở vấn đề về đạo đức
nghề nghiệp của nhân viên tín dụng. Chỉ cần một sự gian lận trong quá trình đánh
giá sẽ dẫn đến kết quả xếp hạng sai và sẽ đem lại rủi ro cho ngân hàng.
13
1.3.1.3. Chính sách của từng ngân hàng
Mỗi ngân hàng có thể tự xây dựng một hệ thống xếp hạng tín dụng cho
riêng mình thông qua sự cố vấn, trợ giúp của các chuyên gia do vậy quy trình
XHTD của các ngân hàng khác nhau là khác nhau. Có ngân hàng coi trọng các

chỉ tiêu tài chính hơn, ngược lại có ngân hàng lại coi trọng chỉ tiêu phi tài chính
nhiều hơn (thông qua số lượng các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính như thế nào
và tỷ trọng của chúng). Do vậy, với cùng một doanh nghiệp, có thể được xếp vào
các hạng mức khác nhau.
1.3.2. Các nhân tố khách quan
1.3.2.1. Thông tin đầu vào của quá trình xếp hạng tín dụng
Chất lượng thông tin đầu vào là một trong những yếu tố quan trọng nhất
quyết định đến chất lượng của việc xếp hạng tín dụng doanh nghiệp. Khi xếp
hạng tín dụng doanh nghiệp thì các nguồn thông tin duy nhất mà ngân hàng có
được là dựa trên các báo cáo tài chính của doanh nghiệp gửi đến ngân hàng (báo
cáo kết quả kinh doanh, bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu chuyển tiền tệ), từ hệ
thống lưu trữ thông tin về khách hàng của ngân hàng, từ các cơ quan, tổ chức lưu
trữ thông tin và từ các phương tiện thông tin đại chúng.
Đối với thông tin đến từ doanh nghiệp: thực tế cho thấy, việc cung cấp thông
tin thiếu minh bạch, thiếu tin cậy diễn ra rất phổ biến ở mọi lĩnh vực. Các báo cáo tài
chính của nhiều doanh nghiệp không được kiểm toán, không chính xác vì mục đích
che đậy thông tin, trốn thuế Vì thế số liệu trên sổ sách kế toán thuộc dạng
“cockbook”, không phản ánh chính xác kết quả kinh doanh thực của những doanh
nghiệp này. Vì thế để đánh giá đúng thực chất hiệu quả kinh doanh của những
doanh nghiệp, để doanh nghiệp tiếp cận được vốn tín dụng của ngân hàng, đòi hỏi
doanh nghiệp được xếp hạng phải thỏa mãn một số điều kiện nhất định (về qui mô,
về thông tin ), mà những yêu cầu này, vượt khả năng của các NHTM.
Đối với thông tin từ các cơ quan, tổ chức lưu trữ thông tin: các nước phát
triển có hệ thống thông tin mạnh, được thống kê một cách rõ ràng, chi tiết, độ
14
chính xác cao và trong một thời gian dài. Tuy nhiên, đối với các nước đang phát
triển, việc thống kê số liệu về các doanh nghiệp lại là vấn đề thiếu được sự quan
tâm đúng mức, không được tổng hợp trong thời gian dài và mức độ chính xác thấp.
Đối với thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng: đây là nguồn thông
tin đa dạng và phong phú. Nhưng chất lượng thông tin thì không đáng tin cậy.

Như vậy để đánh giá doanh nghiệp được đầy đủ, chính xác thì nguồn thông
tin từ báo cáo tài chính chưa đủ, đòi hỏi phải có nhiều nguồn thông tin khác nhau
như từ các tổ chức thống kê, từ các cơ quan thuế, hải quan, thông tin quan hệ với
các tổ chức tín dụng, các thông tin về tranh chấp kinh tế, từ hệ thống lưu trữ của
chính ngân hàng đó… Và chất lượng các thông tin này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến
việc xếp hạng doanh nghiệp từ đó ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định tín dụng
của ngân hàng.
1.3.2.2. Quy định của Nhà nước
Tín dụng là hoạt động mang lại lợi nhuận nhiều nhất nhưng cũng đem lại
rủi ro cao nhất cho ngân hàng. Và hoạt động của một ngân hàng sẽ có ảnh hưởng
dây chuyền đến toàn hệ thống ngân hàng. Do vậy, Nhà nước rất quan tâm và có
các biện pháp kiểm soát chặt chẽ bằng việc ban hành các quy định về quản trị rủi
ro trong đó có các quy định về xếp hạng tín dụng khách hàng. Các ngân hàng có
thể tự có 1 hệ thống XHTD của riêng mình nhưng tất cả đều phải tuân theo một
chuẩn mực chung do Nhà nước cung cấp. Đó chính là những định hướng của Nhà
nước đối với các ngân hàng nhằm qua đó xây dựng được hệ thống XHTD phù
hợp với hoạt động của chính ngân hàng mình.
15
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG ÁP DỤNG HỆ
THỐNG XẾP HẠNG TÍN NHIỆM DOANH NGHIỆP CỦA
NGÂN HÀNG TMCP ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM TẠI
CHI NHÁNH PHÚ THỌ
2.1. Tổng quan về Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi
nhánh Phú Thọ
2.1.1. Quá trình hình thành
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam, có tên giao dịch quốc tế
là Bank for Investment and Development of Vietnam viết tắt BIDV, tiền thân là
Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam, được thành lập theo Quyết định 177/TTg ngày
26/04/1957 của Thủ tướng Chính phủ, với chức năng ban đầu là cấp phát và quản
lý vốn kiến thiết cơ bản từ nguồn vốn ngân sách phục vụ tất cả các lĩnh vực kinh

tế - xã hội. Sau Quyết định số 654/QĐ-TTg ngày 08/11/1994 của Thủ tướng
Chính phủ về việc chuyển giao nhiệm vụ cấp phát vốn ngân sách và tín dụng từ
BIDV về Tổng cục Đầu tư (trực thuộc Bộ Tài chính) và Quyết định 293/QĐ-NH9
ngày 18/11/1994 của Thống đốc NHNN Việt Nam cho phép BIDV được kinh
doanh đa năng như một NHTM, BIDV đã thực hiện những bước chuyển đổi cấu
trúc cơ bản, định hướng kinh doanh mạnh mẽ theo hướng một ngân hàng thương
mại đa năng, hoạt động đa ngành, kinh doanh đa lĩnh vực vì mục tiêu lợi nhuận.
Từ khi thành lập đến nay, Ngân hàng đã trải qua những mốc chính sau đây:
- Năm 1957: được thành lập với tên gọi là Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam,
trực thuộc Bộ Tài chính, 100% sở hữu Nhà nước.
- Năm 1981: được đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt
Nam, trực thuộc Ngân hàng Nhà nước.
- Năm 1990: được đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
- Năm 1992: bắt đầu hoạt động với các đối tác nước ngoài.
- Năm 1995: chuyển sang hoạt động như một ngân hàng thương mại.
16
- Năm 1996: là ngân hàng thương mại đầu tiên tại Việt Nam thực hiện
kiểm toán báo cáo tài chính theo 2 chuẩn mực Việt Nam và quốc tế, áp dụng liên
tục cho tới nay.
- Năm 2001: là ngân hàng thương mại đầu tiên tại Việt Nam nhận chứng
chỉ ISO 9001:2000
- Năm 2001 đến năm 2006: Thực hiện đề án tái cơ cấu ngân hàng
- Năm 2006: là ngân hàng đầu tư của Việt Nam thuê tổ chức định hạng
quốc tế Moody’s để thực hiện xếp hạng tín nhiệm và các chỉ số xếp hạng đều đạt
mức trần quốc gia.
- Năm 2011: Chuyển đổi Ngân hàng từ doanh nghiệp Nhà nước thành Công
ty TNHH một thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu và tiến hành cổ phần hóa.
- 27/4/2012: Ngân hàng có tên gọi chính thức là Ngân hàng TMCP Đầu tư
và Phát triển Việt Nam.
Hiện nay, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam là một trong bốn

ngân hàng thương mại lớn nhất ở Việt Nam Bên cạnh việc hoạt động đầy đủ các
chức năng của một ngân hàng thương mại được phép kinh doanh đa năng tổng
hợp về tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng và phi ngân hàng, đầu tư tài chính,
làm ngân hàng đại lý…, NHĐT&PTVN luôn khẳng định là ngân hàng chủ lực
phục vụ đầu tư phát triển, huy động vốn cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn
cho các thành phần kinh tế.
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Phú Thọ
được thành lập ngày 27/5/1957, là chi nhánh cấp I trực thuộc Ngân hàng TMCP
ĐT&PT Việt Nam; có địa chỉ tại số 1167, Đại lộ Hùng Vương, Phường Tiên Cát,
Thành phố Việt Trì, Tỉnh Phú Thọ. Đây là một trong bảy chi nhánh được thành
lập sớm nhất trên toàn miền Bắc giải phóng. Cùng với sự phát triển của BIDV,
BIDV chi nhánh Phú Thọ đã trải qua 55 năm phát triển cùng với sự phát triển
kinh tế trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Ban đầu khi mới được thành lập trong bối nền
kinh tế kiệt quệ vì chiến tranh, mọi thứ đều thiếu thốn khó khăn, Ngân hàng với
số vốn cấp ít, số lượng và chất lượng nhân viên của chi nhánh còn hạn chế, công
nghệ còn lạc hậu, chủ yếu giao dịch mang tính thủ công là chính, hoạt đông của
17
chi nhánh chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng thì cho tới nay với những
nỗ lực không ngừng của tập thể lãnh đạo, nhân viên chi nhánh trong suốt quá
trình phát triển mà những dịch vụ chi nhánh đem lại cho khách hàng đã được
nâng cao dần lên, đa dạng hóa các sản phẩm nhằm phù hợp với các yêu cầu của
khách hàng. Bên cạnh đó, chi nhánh đã trang bị hệ thống máy tính kết nối trong
toàn bộ các phòng, ban nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho nhân viên tác nghiệp và
nâng cao hiệu quả hoạt động chung. Hơn nữa, xác định nguồn lực con người luôn
là nguồn lực quan trọng nhất nên chi nhánh tập trung quan tâm đến việc đào tạo
đội ngũ nhân viên, coi đây là nhiệm vụ chiến lược, thường xuyên và lâu dài.
Không chỉ có nhân viên mới vào được học tập rèn luyện và thử thách với môi
trường làm việc mà các nhân viên lâu năm có kinh nghiệm vẫn luôn phải được
đào tạo bổ xung cho thích ứng với sự thay đổi của chính sách mà Nhà nước đưa
ra, qua đó tạo ra được đội ngũ nhân viên thực sự chất lượng với môi trường làm

việc đòi hỏi phải có sự chuyên nghiệp, linh hoạt và đạo đức nghề nghiệp.Hiện
nay, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Phú Thọ
gồm: Ban giám đốc, 09 Phòng, 01 Tổ nghiệp vụ tại trụ sở Chi nhánh, 04 Phòng
giao dịch và 02 Quỹ Tiết kiệm với tổng số 145 cán bộ. Trình độ chuyên môn:
Thạc sỹ 02 người, chiếm 1,4%; Đại học 112 người, chiếm 77,2%; Cao đẳng 03
người, chiếm 2,1%; Trung cấp, sơ cấp và chưa qua đào tạo 28 người, chiếm
19,3%/tổng số cán bộ. Theo thống kê ngày 31/12/2011, số dư nợ tín dụng là
1.686 tỷ đồng, huy động vốn đạt 1.829 tỷ đồng.
2.1.2. Hoạt động của BIDV chi nhánh Phú Thọ với sự phát triển trên địa bàn
Tỉnh từ khi thành lập đến nay
Trải qua quá trình hình thành và phát triển hơn 55 năm qua, ngân hàng
TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh Phú Thọ đã vượt qua rất nhiều
khó khăn, thử thách, lập nhiều thành tích góp phần xứng đáng vào công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước nói chung và địa bàn Tỉnh Phú Thọ nói riêng.
18
Sau ngày giải phóng miền Nam, điều kiện khó khăn thiếu thốn nhưng thông
qua BIDV Phú Thọ, nguồn vốn ngân sách Nhà nước vẫn luôn được cấp chuyển
nhanh chóng, đầy đủ để tiếp tục thực hiện những kế hoạch đầu tư phát triển những
trung tâm công nghiệp mới. Sau sự thành công của Khu công nghiệp Việt Trì thì
những trung tâm công nghiệp Thanh Ba với các đơn vị như: Nhà máy Phân Lân,
nhà máy Chè, Nhà máy Xi măng, Xí nghiệp Cơ khí chè và trung tâm công nghiệp
Phong Châu với hai nhà máy chủ chốt là Nhà máy Giấy Bãi Bằng và Nhà máy Supe
hóa chất - phốt phát Lâm Thao được xây dựng và nhanh chóng đi vào hoạt động.
Bên cạnh đó, nhiều công trình thủy nông có quy mô lớn được BIDV Phú Thọ cấp
phát vốn xây dựng từ đầu những năm 80 thế kỷ trước đến nay vẫn còn khả năng
phục vụ tưới, tiêu cho hàng ngàn ha cây lương thực các loại như: Hồ chứa nước
Phượng Mao (Thanh Thuỷ), Trạm bơm Láng Chương (Cẩm Khê)
Bước vào thời kỳ đổi mới, BIDV Phú Thọ đã thực hiện đổi mới toàn
diện, đồng bộ, từng bước xóa bỏ bao cấp trong hoạt động tín dụng, đổi mới
công nghệ, phục vụ cho sự phát triển của kinh tế - xã hội địa phương. Cùng

với việc tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động tín dụng đầu tư BIDV Phú
Thọ đã từng bước chuyển hướng từ cho vay theo kế hoạch Nhà nước sang tự
cho vay tự chịu trách nhiệm. BIDV Phú Thọ không chỉ đáp ứng để cho vay
đơn thuần mà còn phục vụ đầu tư các chương trình phát triển kinh tế, các dự
án trọng điểm trên địa bàn, đầu tư hàng nghìn tỷ đồng cho gần 500 dự án để
các doanh nghiệp có điều kiện đổi mới trang thiết bị công nghệ, mở rộng sản
xuất tạo thêm nhiều sản phẩm mới cho thị trường và xuất khẩu.
Cùng với đó nhiều chương trình, dự án kinh tế trọng điểm của tỉnh cũng
được triển khai thuận lợi hơn với sự tham gia của BIDV Phú Thọ, đặc biệt là chủ
trương sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp của tỉnh. Hơn nữa, BIDV Phú Thọ còn
tham gia thực hiện các chương trình phát triển kinh tế lớn của đất nước khá thành
công với số vốn hàng trăm tỷ đồng như chương trình phát triển 5 triệu ha rừng,
chương trình 1 triệu tấn đường, 5 triệu tấn xi măng, chương trình kiên cố hóa
19
kênh mương. Cùng với hệ thống BIDV, BIDV Phú Thọ cũng đã trưởng thành
hơn rõ rệt với điều kiện hoạt động dần được quy chuẩn bằng công nghệ hiện.
Điều đặc biệt, năm 2012 là năm ghi dấu chặng đường 55 năm xây dựng và
trưởng thành của BIDV nói chung và BIDV Phú Thọ nói riêng, và kể từ ngày
27/4/2012 BIDV chính thức hoạt động theo mô hình Ngân hàng TMCP. Đây là
một cuộc “cách mạng” toàn diện, sâu rộng, đột phá, triệt để trong hoạt động của
BIDV, thực sự gắn với thị trường, hướng tới khách hàng.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức
Chi nhánh BIDV Phú Thọ hoạt động theo mô hình chi nhánh hỗn hợp với
nhiệm vụ trọng tâm là cung cấp sản phẩm dịch vụ ngân hàng đa năng và tiện ích
cao cho khách hàng trên nền tảng công nghệ hiện đại nhằm góp phần nâng cao
năng lực tài chính quản lý, công nghệ và trình độ cán bộ trong hệ thống. Sơ đồ về
cơ cấu tổ chức của chi nhánh được mô tả như hình sau:
Mô hình tổ chức của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam
– Chi nhánh Phú Thọ


20
Phòng Tổ chức
Hành chính
Khối Quản
lý rủi ro
Khối
tác nghiệp
Khối trực
thuộc
Khối Quan
hệ khách
hàng
Ban Giám đốc
Phòng Quan hệ
khách hàng DN
Phòng Quản
lý rủi ro
Phòng Giao
dịchkhách hàng
Phòng QL
và DV kho
quỹ
Phòng Quản
trị tín dụng
Phòng Tài chính
Kế toán
Các Quỹ
Tiết kiệm
Các Phòng
Giao dịch

Phòng Quan hệ
khách hàng CN
Khối Quản
lý nội bộ
Tổ Điện toán
Phòng Kế
hoạch Tổng hợp
Phòng Tổ chức
Hành chính

×