Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (476.79 KB, 60 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Sau 4 năm Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), số lượng ngân hàng ở Việt Nam ngày càng nhiều, sự cạnh tranh giữa
các ngân hàng càng trở nên gay gắt. Trước những thách thức cũng như cơ hội
về sự phát triển của nền kinh tế, mỗi ngân hàng đều định hướng cho mình một
chiến lược phát triển nhằm không ngừng củng cố và chiếm lĩnh thị trường.
Một trong những chiến lược trọng tâm của các NHTM Việt Nam hiện nay là
phát triển hoạt động ngân hàng bán lẻ trong đó có chú trọng đến lĩnh vực cho
vay tiêu dùng. Các chuyên gia tài chính ngân hàng cho rằng tín dụng tiêu
dùng từ lâu được coi là một phần quan trọng của ngân hàng bán lẻ (phần quan
trọng nhất). Thậm chí có ý kiến cho rằng tín dụng tiêu dùng là cứu cánh của
ngân hàng thương mại (NHTM) từ thập niên 70, khi mà tín dụng doanh
nghiệp bị cạnh tranh khốc liệt bởi các công ty tài chính, các quỹ đầu tư và thị
trường chứng khoán.
Dân số Việt Nam theo ước tính sẽ tăng lên 88 triệu người vào năm
2011, với mức thu nhập của người dân ngày càng cao, nhu cầu về các tiện
nghi cho cuộc sống hiện đại ngày càng lớn. Cuộc sống giờ đây không chỉ bó
hẹp trong “ăn no, mặc ấm “mà đã dần chuyển sang “ăn ngon, mặc đẹp” và
còn biết bao nhu cầu khác cần được đáp ứng, thì cho vay tiêu dùng chính là
một là thị trường tiềm năng mà các NHTM đang hướng tới, khi mục tiêu
thanh toán không dùng tiền mặt được chú trọng.
Năm 2011 được đánh giá là năm bùng nổ về dịch vụ ngân hàng
bán lẻ, tăng cường tiếp cận với nhóm khách hàng cá nhân, các doanh nghiệp
vừa và nhỏ.
Nhận thức được điều này, các NHTM Việt Nam đã bắt đầu quan
tâm đẩy mạnh hiện đại hóa, ứng dụng những tiến bộ của khoa học công nghệ
vào khai thác thị trường bán lẻ, tăng cường tiếp cận với khách hàng là cá
1
nhân, doanh nghiệp nhỏ và vừa. Khi chuyển sang bán lẻ, các ngân hàng sẽ có
thị trường lớn hơn, tiềm năng phát triển tăng lên và có khả năng phân tán rủi


ro trong kinh doanh.
Hoạt động cho vay tiêu dùng đã được triển khai tại chi nhánh
NHNo&PTNT Hà Nội trong một thời gian khá dài. Tuy nhiên hoạt động này
tại chi nhánh NHNo&PTNT LÁNG HẠ còn khá nhiều bất cập: chất lượng
cho vay còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, chiếm lĩnh thị trường về khách hàng còn hạn
chế, hiệu quả cho vay chưa cao chưa bền vững so với khả năng nên chưa tạo
động lực mạnh mẽ để mở rộng và nâng cao khả năg cạnh tranh. Chính vì vậy
em đã chọn đề tài “Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh
NHNo&PTNT LÁNG HẠ” làm chuyên đề tốt nghiệp.
2 Mục đích nghiên cứu
Chuyên đề nghiên cứu những vấn đề cơ bản về hoạt động cho vay
tiêu dùng của Ngân hàng thương mại. Trên cơ sở đó phân tích, đánh giá thực
trạng hoạt động cho vay tiêu dùng của chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ, từ
đó đưa ra các giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại chi
nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ.
3 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động cho vay tiêu dùng của NHTM,
trên cơ sở đó vận dụng vào chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ.
4 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của chuyên đề là hoạt động cho vay tiêu dùng
tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ từ năm 2008 đến 2010.
5 Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề sử dụng phương pháp khoa học duy vật biện chứng và
duy vât lịch sử, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để chứng minh sự hợp lý của
vấn đề.
Ngoài ra chuyên đề còn sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp: thống
kê, đối chiếu, so sánh và đánh giá ….
2
5 Kết cấu của chuyên đề
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của chuyên đề

gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề cơ bản về cho vay tiêu dùng của các Ngân
hàng thương mại
Chương 2. Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại chi nhánh
NHNo&PTNT Láng Hạ
Chương 3. Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh
NHNo&PTNT Láng Hạ
3
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG
CỦA CÁC NHTM
1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm về ngân hàng thương mại
Sự ra đời của các ngân hàng thương mại gắn liền với sự phát triển của
quá trình sản xuất lưu thông hàng hóa và tiền tệ. Hoạt động ban đầu của ngân
hàng là hoạt động lưu giữ hộ, thanh toán chi trả hộ, sau đó là hoạt động cho vay
và các hoạt động khác.
Ngân hàng là tổ chức trung gian tài chính quan trọng, thu hút tiết kiệm lớn
nhất trong nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ
chức kinh tế xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò là người thủ
quỹ cho toàn xã hội. Đối với các doanh nghiệp, ngân hàng thường là tổ chức cung
cấp tín dụng để phục vụ cho việc mua hàng hóa dự trữ hoặc xây nhà máy, mua sắm
trang thiết bị. Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản
mua hàng hóa và dịch vụ, họ thường sử dụng séc, ủy nhiệm chi, thẻ tín dụng hay tài
khoản điện tử… Và khi họ cần thông tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính, họ
thường đến ngân hàng để nhận được lời tư vấn. Các khoản tín dụng của ngân hàng
cho chính phủ là nguồn tài chính quan trọng để đầu tư phát triển. Tóm lại, ngân
hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế.
Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai
trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề nảy sinh là các yếu tố trên không

ngừng thay đổi. Một cách tiếp cận thận trọng là xem xét trên phương diện những
loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung
cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết
kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất
kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Một số định nghĩa dựa trên các
hoạt động chủ yếu. Ví dụ Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng Hòa Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam ghi : “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ
và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền
4
này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
1.1.2 Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng có thể huy động vốn từ các nguồn sau :
● Nguồn tiền gửi
Đây là nguồn tài chính chủ yếu dùng để tài trợ cho các khoản vay, đầu tư
của ngân hàng đảm bảo cho sự phát triển vững mạnh của ngân hàng.
Muốn huy động được các nguồn này các ngân hàng phải bỏ ra chi phí, đó
chính là lãi suất tiền gửi. Các ngân hàng cần phải có chiến lược cụ thể, cùng các
chính sách về lãi suất hợp lý nhằm phù hợp với yêu cầu, mục đích của khách hàng.
● Nguồn tiền vay
Các nguồn tiền vay bao gồm : vay Ngân hàng nhà nước, vay các tổ chức
tín dụng khác, vay trên thị trường vốn…
Nguồn tiền vay thường chiếm tỷ trọng thấp hơn nguồn tiền gửi. Các khoản đi
vay có thời hạn và quy mô xác định nên tạo thành nguồn tiền ổn định cho ngân hàng.
● Vốn chủ sở hữu
Các ngân hàng có thể huy động vốn bằng cách phát hành giấy tờ có giá
như: cổ phiếu, trái phiếu, các chứng chỉ tiền gửi, chứng chỉ nợ. Hiện nay, việc huy
động này trở thành phổ biến tại các ngân hàng nói riêng và cả các doanh nghiệp
khác, giúp việc huy động vốn được nhanh chóng và thuận tiện hơn.
● Nguồn vốn khác

Ngân hàng thực hiện các dịch vụ như: ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư, ủy
thác giải ngân và các dịch vụ khác. Ngoài ra còn có các hoạt động thanh toán không
dùng tiền mặt, các khoản nợ khác.
Nguồn vốn này không thường xuyên và chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn
vốn của ngân hàng.
1.1.2.2 Hoạt động sử dụng vốn
Quá trình huy động vốn là để sử dụng nhằm mục đích lợi nhuận của các
ngân hàng. Việc sử dụng vốn là quá trình tạo nên các tài sản khác nhau của ngân
5
hàng. Cho vay và đầu tư là hai loại tài sản lớn, trong đó cho vay chiếm tỷ trọng cao
nhất trong tổng tài sản của một ngân hàng. Các loại tài sản của ngân hàng bao gồm:
● Ngân quỹ
Ngân quỹ của một ngân hàng gồm có: tiền mặt tại két, tiền gửi tại ngân
hàng nhà nước, tiền gửi tại các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Những
khoản mục tài sản này không có khả năng sinh lời, và được dùng để đáp ứng yêu
cầu chi trả cho khách hàng gửi tiền, yêu cầu thanh toán bù trừ, mua dịch vụ, yêu cầu
dự trữ.
● Cho vay
Khoản mục chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản của một ngân hàng, thường
chiếm 70% tổng tài sản của ngân hàng, mang lại cho ngân hàng nguồn thu đáng kể.
Khoản mục cho vay hình thành từ việc ngân hàng cho các khách hàng vay
một khoản vốn và đổi lại khách hàng trao cho ngân hàng giấy nhận nợ và cam kết
sẽ hoàn trả cả gốc và lãi trong một thời gian nhất định.
Các khoản cho vay có thể được phân loại theo các tiêu thức khác nhau:
Theo thời gian vay: có thể chia thành cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn,
cho vay dài hạn.
Theo tính chất đảm bảo của khoản vay: có thể chia thành cho vay có đảm bảo
và cho vay không có đảm bảo.
Theo hạn mức cho vay: có thể chia thành cho vay trong hạn mức và cho vay
ngoài hạn mức.

Ngoài ra, còn có nhiều cách phân chia khác. Nhưng nói chung, dù phân
chia như thế nào thì hoạt động cho vay của ngân hàng cũng là hoạt động chứa đựng
rất nhiều rủi ro. Việc tìm kiếm và lựa chọn khách hàng đóng vai trò quyết định và
đòi hỏi tốn kém nhiều chi phí cho ngân hàng.
● Đầu tư
Ngoài việc cho vay, thì hoạt động đầu tư của ngân hàng cũng đóng vai trò quan
trọng, một mặt để phân tán rủi ro, mặt khác cũng mang lại cho ngân hàng nguồn thu
nhập lớn.
Hoạt động đầu tư có thể là: đầu tư tài chính, góp vốn vào các doanh nghiệp
6
và trở thành thành viên, đầu tư vào các dự án…
● Các hoạt động sử dụng vốn khác
Các hoạt động đó có thể là: hoạt động quảng cáo, khuếch trương sản phẩm,
tài trợ không vì mục tiêu lợi nhuận…
1.1.2.3 Hoạt động trung gian
Đó là các dịch vụ tài chính mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng bao
gồm: thanh toán không dùng tiền mặt (séc, L/C, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu),
chuyển tiền, bảo lãnh, quản lý ngân quỹ, cung cấp các dịch vụ ủy thác và tư vấn,
dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, dịch vụ bảo hiểm, cung cấp các dịch vụ đại
lý…
Nhờ việc cung cấp các dịch vụ này mà ngân hàng sẽ có nguồn thu nhập từ
phí dịch vụ. Xu thế, trong tương lai các ngân hàng sẽ chú trọng phát triển hơn nữa
các dịch vụ này nhằm tăng khả năng cạnh tranh, góp phần đem lại lợi nhuận cao
cho ngân hàng.
1.2 Hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm cho vay tiêu dùng
CVTD là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của
người tiêu dùng bao gồm cá nhân và hộ gia đình.
Các khoản cho vay tiêu dùng giúp người tiêu dùng có thể sử dụng
hàng hóa và dịch vụ trước khi họ có khả năng chi trả, tạo cho họ có cơ hội

hưởng một mức sống cao hơn. Những khoản cho vay như thế được dành
nhiều vào các mục đích như: Mua nhà, cải tạo sửa chữa nhà cửa, mua xe hơi,
các dụng cụ trong gia đình, các dịch vụ y tế…
Giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay tiêu
dùng bởi họ nghĩ rằng các khoản cho vay tiêu dùng có quy mô nhỏ với rủi ro
vỡ nợ tương đối cao và do đó làm cho chúng trở nên có mức sinh lời thấp.Tuy
nhiên sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay
đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như một khách hàng
tiềm năng. Đặc biệt, sau chiến tranh thế giới thứ hai cho vay tiêu dùng đã trở
7
thành một trong các loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước
phát triển.
Hiện nay thị trường cho vay tiêu dùng ở các quốc gia phát triển đã
phần nào đạt đến đỉnh điểm của sự phát triển trong khi tai các quốc gia đang
phát triển thì mảng thị trường này vẫn còn tiềm năng.
1.2.2 Đặc điểm của hoạt động cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng nằm trong danh mục cho vay của ngân hàng nên nhìn
chung nó mang đầy đủ các đặc điểm của hoạt động cho vay nói chung. Bên cạnh
đó, cho vay tiêu dùng còn có những đặc điểm riêng như sau:
- Quy mô các khoản vay nhỏ nhưng số lượng các khoản vay lớn
Quy mô của các hợp đồng cho vay tiêu dùng thường nhỏ là do khi khách
hàng có nhu cầu mua sắm hàng hóa để tiêu dùng, họ thường có xu hướng tiết kiệm
từ trước. Họ tìm đến ngân hàng để bù đắp phần thiếu hụt tạm thời mà thôi. Đồng
thời cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, thu nhập của người dân cũng tăng lên,
do đó, nhu cầu hưởng thụ của họ cũng tăng theo. Tuy nhiên, tại một thời điểm nhất
định thì khoản thu nhập tích lũy của họ chưa thể đáp ứng khoản chi tiêu mà họ đang
cần. Lúc này họ tìm đến ngân hàng để xin vay.
Khách hàng đến ngân hàng xin vay tiêu dùng nhằm thỏa mãn các nhu cầu
hiện tại của họ, các khoản vay này có thể là vay để mua ô tô, mua nhà hoặc sửa
chữa nhà…So với các khoản vay kinh doanh thì các khoản vay tiêu dùng có quy mô

nhỏ hơn rất nhiều. Mặc dù vậy, số khách hàng đến vay tiêu dùng lại rất nhiều vì đây
là nhu cầu phổ biến, thường xuyên của mọi tầng lớp dân cư.
- Các khoản cho vay tiêu dùng thường có chi phí lớn
Cho vay tiêu dùng là một trong những khoản mục cho vay có chi phí cao
nhất trong danh mục cho vay của ngân hàng. Do các khoản cho vay tiêu dùng có
quy mô nhỏ song số lượng các khoản vay nhiều nên chi phí cho khoản vay như lập
hồ sơ, thẩm định… Mặt khác, khách hàng đến vay tiêu dùng tại ngân hàng thường
là các cá nhân, thời gian vay không dài nên việc thu thập thông tin gặp nhiều khó
khăn, khó đảm bảo tính chính xác. Vì vậy, việc ra quyết định cấp tín dụng cũng như
thanh tra, kiểm tra, giám sát và thu nợ gây tốn kém nhiều chi phí của ngân hàng.
Một nguyên nhân khác khiến chi phí của các khoản vay tiêu dùng cao là vì hoạt
8
động cho vay tiêu dùng ở nước ta mới phát triển gần đây, nhiều người còn chưa biết
đến. Do đó, ngân hàng phải tiến hành các chương trình quảng cáo giới thiệu sản
phẩm, hoạt động này góp phần làm cho chi phí các khoản cho vay tiêu dùng tăng
thêm.
- Các khoản cho vay tiêu dùng thường có độ rủi ro cao
Hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng chịu nhiều ảnh hưởng từ các yếu tố
khách quan cũng như chủ quan nên cho vay tiêu dùng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro.
Các yếu tố khách quan như thiên tai, dịch bệnh, mất mùa, thất nghiệp, chu
kỳ kinh tế. Khi thiên tai, dịch bệnh, mất mùa xảy ra thì nguồn thu nhập của các cá
nhân và hộ gia đình bị ảnh hưởng, dẫn đến việc trả nợ gặp nhiều khó khăn. Khi nền
kinh tế hưng thịnh nhu cầu tiêu dùng tăng lên nhưng khi nền kinh tế suy thoái thì
người dân lại hạn chế chi tiêu, tăng cường tích lũy.
Ngoài các yếu tố khách quan, cho vay tiêu dùng còn chịu ảnh hưởng của
các nhân tố chủ quan từ chính khách hàng. Chất lượng các thông tin tín dụng mà
khách hàng cung cấp rất khó xác định. Nguồn trả nợ có khả năng thay đổi nhanh
chóng khi người vay thay đổi nơi làm việc, thay đổi vị trí công việc, hoặc có sự thay
đổi về sức khỏe. Một số khách hàng còn cố tình chây ì trong việc trả nợ khi đến
hạn, dẫn tới tỷ lệ nợ quá hạn tăng lên.

- Khách hàng vay tiêu dùng kém nhạy cảm với lãi suất
Về cơ bản, đối tượng của cho vay tiêu dùng là các cá nhân, hộ gia đình. Họ
vay tiền nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu, mua sắm hiện tại nên họ thường chỉ quan
tâm đến số tiền hàng tháng hoặc hàng quý họ phải trả cho ngân hàng hơn là lãi suất
mà ngân hàng áp dụng.
- Lãi suất cho vay tiêu dùng thường cao hơn lãi suất cho vay thương mại
Lãi suất là giá cả của quyền được sử dụng vốn vay của ngân hàng trong
một thời gian nhất định, là chi phí của dịch vụ tài chính. Lãi suất phụ thuộc vào độ
rủi ro của khoản vay, rủi ro càng lớn thì lãi suất càng cao.
- Lợi nhuận từ hoạt động cho vay tiêu dùng lớn
Các khoản cho vay tiêu dùng nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu mang tính cấp
bách của khách hàng, họ muốn sở hữu hay sử dụng dịch vụ ngay trong hiện tại. Hơn
nữa thời hạn của khoản vay này không dài nên khách hàng chấp nhận mức lãi suất
9
cao. Đồng thời số lượng các món vay tiêu dùng lớn nên lợi nhuận từ hoạt động cho
vay tiêu dùng là rất lớn.
1.2.3 Phân loại cho vay tiêu dùng
● Căn cứ theo thời hạn cho vay
Cho vay tiêu dùng gồm có :
-Cho vay ngắn hạn : là những khoản vay có thời hạn dưới 1 năm.
-Cho vay trung hạn : là những khoản vay có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm.
-Cho vay dài hạn : là những khoản vay có thời hạn trên 5 năm.
● Căn cứ theo mục đích vay
Có thể phân chia thành 2 loại:
- Cho vay tiêu dùng cư trú: là các khoản cho vay nhằm phục vụ nhu cầu xây
dựng, mua sắm hoặc cải tạo nhà ở của cá nhân, hộ gia đình.
- Cho vay tiêu dùng phi cư trú: là các khoản cho vay phục vụ nhu cầu cải
thiện đời sống như mua sắm phương tiện, đồ dùng gia đình, chi phí học tập, giải trí,
du lịch.
● Căn cứ theo phương thức hoàn trả

Phân loại theo phương thức hoàn trả cho vay tiêu dùng có thể chia thành:
- Cho vay tiêu dùng phi trả góp: theo phương thức này tiền vay được khách
hàng thanh toán cho ngân hàng chỉ một lần khi đến hạn. Các khoản cho vay tiêu
dùng phi trả góp thường chỉ được cấp cho các khoản vay có giá trị nhỏ và thời gian
không dài.
- Cho vay tiêu dùng tuần hoàn: đây là các khoản vay tiêu dùng trong đó
ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc được
phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Theo phương thức này, trong thời gian
cho vay, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng kỳ mà khách hàng
được ngân hàng cho phép thực hiện việc vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn,
theo một hạn mức tín dụng. Nếu chi vượt quá hạn mức đó, ngân hàng ngừng cung
cấp dịch vụ cho khách hàng.
- Cho vay tiêu dùng trả góp: phương thức này chiếm tỷ lệ lớn trong tổng cho
10
vay tiêu dùng của ngân hàng. Theo phương thức này, người đi vay trả nợ cho ngân
hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời hạn vay. Phương thức này
được áp dụng cho những khoản vay có giá trị lớn hoặc thu nhập định kỳ của người
đi vay không đủ khả năng thanh toán hết một lần số nợ vay.
1.2.4 Vai trò của cho vay tiêu dùng
● Vai trò của cho vay tiêu dùng đối với người tiêu dùng
Nền kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu tiêu dùng của con người ngày
càng phong phú, đa dạng. Họ mong muốn được hưởng thụ các tiện ích, các sản
phẩm nhằm nâng cao đời sống vật chất tinh thần của mình. Tuy nhiên, không phải
lúc nào khả năng tài chính nói chung và thu nhập nói riêng của họ cũng cho phép họ
đáp ứng các nhu cầu đó tại thời điểm hiện tại. Vì vậy, con người thường chỉ được
hưởng thụ khi về già. Tuy nhiên lúc này thì cảm nhận về sự hưởng thụ có xu hướng
giảm. Ngân hàng với hoạt động cho vay tiêu dùng đã giúp họ được hưởng các dịch
vụ, tiện ích đó một cách nhanh chóng trước khi họ đủ tiền bởi thay vì trả một khoản
tiền lớn tại thời điểm mua sản phẩm, dịch vụ, họ chỉ phải trả dần trong một khoảng
thời gian xác định tùy thuộc vào đặc điểm nguồn thu nhập của họ. Mặt khác, không

phải cá nhân, hộ gia đình nào cũng có đủ tích lũy dự phòng cho các khoản chi tiêu
mang tính đột xuất, cấp bách như y tế, giáo dục… Như vậy, ngân hàng đã giúp
người tiêu dùng kết hợp nhu cầu chi tiêu hiện tại và khả năng thanh toán trong
tương lai. Điều này rất phù hợp với những cá nhân, hộ gia đình có thu nhập trung
bình, chiếm tỷ trọng lớn trong xã hội.
Mặt khác nếu người tiêu dùng quá lạm dụng vay tiêu dùng thì cũng
có thể mang lại những kết quả tiêu cực. Họ có thể chi vượt quá số tiền cho phép,
khả năng tích lũy và tiết kiệm trong tương lai giảm, có thể mất khả năng chi trả
và gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, và điều này cũng có thể làm thu nhập
của ngân hàng giảm sút.
● Vai trò của cho vay tiêu dùng đối với nhà sản xuất
Hoạt động cho vay tiêu dùng không chỉ mang lại lợi ích cho người tiêu
dùng mà còn mang lại lợi ích cho cả nhà sản xuất. Các nhà sản xuất đều mong
muốn tiêu thụ được nhiều sản phẩm, thu hồi vốn nhanh chóng và tối đa hóa lợi
nhuận. Tuy nhiên không phải lúc nào khách hàng của họ cũng có đủ khả năng thanh
toán được ngay, nhất là các sản phẩm có giá trị lớn như: nhà cửa, ô tô… Với sự xuất
11
hiện của cho vay tiêu dùng, khách hàng có thể dễ dàng, nhanh chóng, thanh toán
cho nhà sản xuất. Nhờ đó nhà sản xuất có thể tiêu thụ sản phẩm nhanh chóng, tăng
vòng quay vốn, mở rộng sản xuất kinh doanh cũng như mở rộng thị phần, từ đó tăng
lợi nhuận. Như vậy cho vay tiêu dùng đã gián tiếp thúc đẩy sản xuất, quá trình luân
chuyển hàng hóa, đồng thời đặt ra yêu cầu cho nhà sản xuất phải đổi mới, cải tiến
công nghệ, mẫu mã, chủng loại sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
● Vai trò của cho vay tiêu dùng đối với ngân hàng thương mại
Trong bảng tổng kết tài sản của ngân hàng thương mại, khoản mục cho
vay chiếm tỷ trọng lớn nhất, đem lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng nhờ sự chênh
lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Đối với hoạt động cho vay tiêu
dùng, do số lượng các món vay nhiều, lãi suất cho vay lớn nên lợi nhuận mà ngân
hàng thu được từ hoạt động này rất đáng kể. Mặt khác, đối tượng cho vay tiêu dùng
là các cá nhân, hộ gia đình, so với số lượng doanh nghiệp thì gấp nhiều lần. Vì thế

các ngân hàng không có lý do gì để bỏ qua thị trường đầy tiềm năng này.
Hoạt động cho vay tiêu dùng là hoạt động có chí phí lớn, rủi ro cao,
tuy nhiên khi phát triển mở rộng hoạt động này thì các ngân hàng có thể mở rộng
mối quan hệ với khách hàng, tạo thói quen tiếp cận với các dịch vụ tiện ích của
ngân hàng, cho khách hàng. Từ đó làm tăng khả năng huy động vốn, đa dạng hóa
các sản phẩm dịch vụ, phân tán rủi ro, góp phần tăng thu nhập cũng như khả
năng cạnh tranh cho ngân hàng.
● Vai trò của cho vay tiêu dùng đối với nền kinh tế
Vai trò của cho vay tiêu dùng đối với nền kinh tế là không thể phủ nhận.
Ngân hàng thực hiện cho vay tiêu dùng có thể giúp người tiêu dùng thỏa mãn những
nhu cầu chi tiêu hiện tại với khả năng thanh toán trong tương lai. Khi cho vay tiêu
dùng được mở rộng và phát triển, người dân sẽ có thêm nhiều cơ hội tiếp cận, sử
dụng các sản phẩm, dịch vụ mà với khả năng thanh toán hiện tại họ không thể có.
Nhờ vậy kích thích người dân tiêu dùng, nâng cao chất lượng cuộc sống, tạo điều
kiện cho con người phát triển toàn diện.
Khi cuộc sống của con người được nâng cao sẽ thúc đẩy họ hăng say lao
động, tạo ra nhiều của cải cho xã hội, góp phần làm cho xã hội ngày càng phát triển.
Đây chính là đòn bẩy kích thích nền sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, tăng khả năng đầu tư xây dựng, phát triển xã hội, xóa đói giảm nghèo…
12
Hơn nữa cho vay tiêu dùng còn là nhân tố quan trọng góp phần loại bỏ tình
trạng “tín dụng đen” cho vay nặng lãi, giải quyết tốt các mối quan hệ khác trong xã
hội.
1.3 Mở rộng cho vay tiêu dùng của NHTM
1.3.1 Khái niệm mở rộng cho vay tiêu dùng
Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt, bất cứ doanh nghiệp
nào cũng muốn đứng vững và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh thì doanh
nghiệp đó phải không ngừng mở rộng và cải thiện chất lượng các sản phẩm dịch vụ
của mình nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu đặt ra của nền kinh tế. Các doanh nghiệp
luôn tự đổi mới về mọi mặt như thay đổi mẫu mã sản phẩm, công nghệ, đảm bảo

chất lượng để tạo lòng tin cho khách hàng.
Đối với ngân hàng cũng vậy, muốn giành được thị phần lớn, giữ vững và
không ngừng nâng cao vị thế thì phải không ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng
sản phẩm. Mở rộng cho vay tiêu dùng là sự đáp ứng các yêu cầu ngày càng tăng của
khách hàng về quy mô cho vay tiêu dùng hay nói cách khác đố là việc tăng tỷ trọng
cho vay tiêu dùng trong tổng tài sản có của NHTM
1.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến cho vay tiêu dùng
1.3.2.1 Nhân tố chủ quan
 Chính sách cho vay của ngân hàng
Chính sách cho vay của ngân hàng được hiểu một cách đơn giản là tuyên
bố về tiêu chuẩn đối với danh mục cho vay của ngân hàng. Nó góp phần không nhỏ
tới thành công của hoạt động CVTD. Đó là chính sách chăm sóc khách hàng trước
và sau khi vay có chu đáo hay không, đó là các quy định về lãi suất và phí tín dụng
cao hay thấp có linh hoạt và phù hợp với thu nhập hiện có của người dân hay
không, các quy định về kỳ hạn nợ, thời hạn vay, tài sản đảm bảo, phương thức giải
ngân thanh toán. Thủ tục xin vay vốn có phức tạp hay đơn giản, thời gian thẩm định
hồ sơ vay vốn kéo dài bao lâu, nếu thời gian thẩm định qua dài khách hàng sẽ
không muốn chờ đợi và tìm đến ngân hàng khác. Vì vậy một chính sách cho vay rõ
ràng, hợp lý sẽ đem lại nhiều lợi nhuận và lợi thế cho ngân hàng. Nó hướng dẫn cho
13
đội ngũ cán bộ tín dụng các thủ tục, các bước phải tuân thủ và chỉ rõ phạm vi trách
nhiệm của họ. Nó giúp cho ngân hàng hướng tới một danh mục cho vay có hiệu
quả, có thể đạt được nhiều mục tiêu như tăng cường khả năng sinh lời, hạn chế rủi
ro và đáp ứng được những đòi hỏi của cơ quan quản lý. Những trường hợp ngoại lệ
đối với những chính sách cho vay của ngân hàng phải được dẫn giải đầy đủ và lí do
phải được giải thích rõ ràng.
Chính sách cho vay sẽ cung cấp cho các cán bộ tín dụng và các nhà quản
lý ngân hàng đường lối chỉ đạo cụ thể trong việc ra quyết dịnh cho vay và xây dựng
danh mục cho vay. Nó giúp xác định các khoản vay nên từ chối và những khoản
vay mà ngân hàng nên thực hiện. Cấu trúc thực tế của danh mục cho vay sẽ phản

ánh những gì mà chính sách cho vay của ngân hàng đặt ra.
Vì vậy, nếu CVTD không nằm trong chính sách cho vay của ngân hàng
thì chắc chắn cá nhân và hộ gia đình chẳng thể mong đợi vay được những khoản
tiền từ ngân hàng để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của mình. Và chỉ khi một
NHTM xác định CVTD là một hướng kinh doanh thì ngân hàng mới dồn nỗ lực
và khả năng để tập trung phát triển lĩnh vực này. Như vậy có thể nói chính sách
cho vay của ngân hàng có ảnh hưởng quyết định tới sự tồn tại và phát triển hoạt
động CVTD tại ngân hàng đó.
 Nguồn lực về tài chính
Vốn tự có: là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được và thuộc sở
hữu của ngân hàng. Vốn tự có chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân
hàng nhưng có vai trò hết sức quan trọng, nó được xem như tấm đệm chống đỡ sự
giảm giá trị của những tài sản có của ngân hàng mà có thể đẩy ngân hàng đến tình
trạng thiếu khả năng chi trả và phá sản.
Vốn tự có cũng là một nhân tố quan trọng quyết định cấu trúc, danh mục
cho vay của ngân hàng đặc biệt là quy mô vốn chủ sở hữu được sử dụng để xác định
mức cho vay tối đa đối với một khách hàng. Nếu như các ngân hàng lớn là các ngân
hàng bán buôn, chủ yếu cung cấp các khoản tín dụng giá trị lớn cho các công ty và
các hãng kinh doanh thì các ngân hàng nhỏ lại tập trung vào nghiệp vụ tín dụng bán
lẻ dưới dạng các khoản cho vay cá nhân với giá trị nhỏ, cho vay hộ gia đình và cho
14
vay đối với các doanh nghiệp nhỏ.
Khả năng huy động vốn: khi quy mô huy động vốn lớn, ngân hàng sẽ có
khả năng đáp ứng tốt hơn nhu cầu kinh doanh của mình, chi phí huy động thấp sẽ
giúp ngân hàng có thể cho vay với mức lãi suát cạnh tranh. Điều này thuận lợi cho
việc mở rộng và phát triển cho vay tiêu dùng cả về mặt lượng lẫn chất.
 Chất lượng và tính đa dạng của các hình thức cho vay tiêu dùng
Chất lượng và tính đa dạng của các hình thức cho vay tiêu dùng có ảnh
hưởng trực tiếp đến hoạt động CVTD của các NHTM. Rõ ràng rằng một ngân hàng
sẽ ít có khả năng phát triển lớn mạnh trong hoạt động CVTD nếu như các sản phẩm

mà nó cung cấp cho khách hàng quá đơn điệu, thêm vào đó là chất lượng không
cao, đáp ứng chưa tôt nhu cầu của khách hàng. Đây thực sự là một điều nguy hiểm
vì trong điều kiện ngày nay cạnh tranh diễn ra ngày càng khốc liệt, đặc biệt là về
chất lượng và sự đa dạng của sản phẩm. Các ngân hàng luôn phải không ngừng
nâng cao chất lượng sản phẩm và thực hiện sự đa dạng hóa sản phẩm nhằm củng cố
và mở rộng thị phần, duy trì khả năng cạnh tranh. Nếu không thưch hiện hoặc thực
hiện không tốt thì vô hình chung ngân hàng đã tự gạch tên mình ra khỏi danh sách
những nhà cung cấp sản phẩm CVTD trên thị trường.
 Năng lực cán bộ tín dụng
Trình độ, đạo đức cán bộ tín dụng của ngân hàng cũng mang tính
quyết định thành công của CVTD. Cán bộ tín dụng cần có trình độ chuyên môn tốt,
hiểu biết sâu rộng thì mới thẩm định chính xác khách hàng, dự án vốn từ đó đưa ra
các quyết đinh cho vay đúng đắn. Cán bộ tín dụng cũng cần có đạo đức nghề
nghiệp, tận tâm với với công việc, có tinh thần trách nhiệm cao, có thái độ phục vụ
khách hàng tốt, tạo được niềm tin của khách hàng vào ngân hàng.
 Công nghệ thông tin
Trong xu thế hiện nay, công nghệ thông tin ngày càng có vị trí quan
trọng trong các hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng.
Công nghệ thông tin có thể đem lại những lợi ích to lớn và sức cạnh tranh cho các
NHTM như cập nhật, thu thập, xử lý, phân tích thông tin nhanh hơn, giúp đơn giản
hóa các quá trình làm việc, giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhờ có
15
công nghệ thông tin, ngân hàng có thể lưu trữ một số lượng lớn các hồ sơ tín dụng
thuận tiện cho việc truy cập quản lý, khai thác các thông tin sau này. Đồng thời
khách hàng có thể ngồi tại nhà hay bất cứ đâu để nộp đơn xin vay tiêu dùng vào một
ngân hàng cung như tiếp cận các dịch vụ khác mà không phải trực tiếp đến ngân
hàng.
1.3.2.2. Nhân tố khách quan
 Môi trường pháp luật
Tất cả mọi hoạt động của các cá nhân và tổ chức đều bi chi phốn bởi luật

pháp của quốc gia nơi diễn ra hoạt động đó. Tại hầu hết các quốc gia, hoạt động
ngân hàng nói chung và CVTD nói riêng luôn được đặt dưới một hệ thống các quy
định chặt chẽ do nhà nước ban hành nhằm khiểm soát hoạt động ngân hàng, chất
lượng tín dụng, tình trạng vốn chủ sở hữu, và cả cách thức ngân hàng phát triển mở
rộng, hoạt động với mục đích cuối cùng là nâng cao chất lượng phục vụ cộng đồng
và đảm bảo cho nền kinh tế phát triển lành mạnh.
Như vậy, một môi trường pháp luật thông thoáng, rõ ràng, có sự phối
hợp đồng bộ giữa các bộ ngành sẽ giúp ngân hàng hoạt động an toàn và hiệu quả
hơn, là nền tảng cho qua trình nâng cao hiệu quả CVTD của các NHTM.
 Môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
Kinh tế: Môi trường kinh tế thể hiện thông qua những biến số kinh tế như
thu nhập quốc dân, tốc độ tăng trưởng thu nhập quốc dân, mức thu nhập bình quân
đầu người, tỷ lệ thất nghiệp…
Những cuộc suy thoái kinh tế sẽ gây mất lòng tin nghiêm trọng của
người dân về triển vọng thu nhập của mình. Một cách trực tiếp và cụ thể hơn, nó
làm giảm thu nhập bình quân của người dân và do đó nhu cầu về tín dụng tiêu dùng
sẽ giảm sút. Ngược lại, khi nền kinh tế phát triển tốt, thu nhập bình quân đầu người
cao, tình hình chính trị ổn định thì hoạt động tiêu dùng cũng sẽ diễn ra thông suốt,
phát triển vững chắc và hạn chế những rủi do có thể xảy ra.
Mặt khác, những chính sách kinh tế của nhà nước cũng ảnh hưởng rất
lớn tới hoạt đông CVTD của các NHTM. Một hệ thông chính sách kinh tế hợp lý thì
không những thúc đẩy nền kinh tế phát triển mà còn có những tác động tốt tới hoạt
16
động CVTD.
Chính trị: Môi trường chính trị ổn định, không xảy ra xung đột sắc tộc, đào
chính, nội chiến…sẽ tạo một môi trường kinh doanh lành mạnh, an toàn, tạo lòng
tin cho người dân, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng mở rộng kinh doanh
trong đó có hoạt động CVTD.
Văn hóa-xã hội: Môi trường văn hóa xã hội thể hiện ở các tập quán xã hội,
bản sắc dân tộc, tâm lý tiêu dùng giữa các vùng và văn hóa cộng đồng. Các yếu tố

này ảnh hưởng đến CVTD trong quá trình cá nhân, và các hộ gia đình có nhu cầu
tiêu dùng, phương thức, thói quen tài trợ cho nhu cầu đó.
 Đối thủ cạnh tranh
Đối thủ cạnh tranh trực tiếp: là những tổ chức tài chính hoạt động trong cùng
lĩnh vực và cùng chia sẻ lợi nhuận với các ngân hàng như: các ngân hàng khác, các
công ty tài chính, quỹ tín dụng…Các tổ chức tài chính này ngày càng đa dạng hóa
hoạt động kinh doanh, liên tục tung ra các sản phẩm dịch vụ mới, các hình thức cho
vay tiêu dùng mới để đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú đa dạng của thị trường
và tạo ra môi trường cạnh tranh khốc liệt ảnh hưởng rất lớn đến việc mở rộng cho
vay tiêu dùng của ngân hàng.
Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn: là các tổ chức tài chính sắp sửa hình thành hoạt
động trong cùng lĩnh vực và cùng cung ứng sản phẩm dịch vụ, cùng chia lợi nhuận
với ngân hàng như: các ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng
thương mại cổ phần…Khi các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn xuất hiện thì sẽ có nhiều
tổ chức tài chính tham gia cung ứng sản phẩm dịch vụ nói chung và cho vay tiêu
dùng nói riêng. Mặt khác, các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn có lợi thế của người đi sau
nên môi trường cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, hoạt động CVTD của ngân hàng cũng
gặp khó khăn hơn.
 Khách hàng vay tiêu dùng
Nhu cầu của người đi vay
Khách hàng vay tiêu dùng của ngân hàng là các cá nhân hộ gia đình có
nhu cầu rất đa dạng, từ các nhu cầu tất yếu đến các nhu cầu cao cấp. Đời sống con
người ngày càng được nâng cao thì các nhu cầu về hàng hóa cao cấp ngày càng lớn.
17
Tuy nhiên, từng giai đoạn phát triển sẽ xuất hiện những nhu cầu nổi bật cần được tài
trợ. Vấn đề là phải phát hiện được nhu cầu nhanh nhất để đáp ứng kịp thời vì những
người đi đầu sẽ có ưu thế trong việc thu hút khách hàng. Sản phẩm CVTD của
NHTM là sản phẩm mang tính dịch vụ nên nhu cầu của khách hàng là yếu tố quyết
định các hình thức CVTD của ngân hàng. Nhu cầu của khách hàng là nền tảng căn
cứ để xây dựng chiến lược phát triển sản phẩm CVTD của ngân hàng.

Việc nghiên cứu chuẩn xác các nhu cầu của người tiêu dùng để từ đó
đưa ra các sản phẩm cho vay phù hợp trong từng giai đoạn sẽ giúp các ngân hàng
hoạt động hiệu quả hơn. Nếu sự phát hiện các nhu cầu chậm sẽ khiến các ngân hàng
bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh và có thể đưa ra các sản phẩm lỗi thời không phù hợp
với nhu cầu hiện tại. Trong khi đó nếu đưa ra các sản phẩm mới nhưng người tiêu
dùng lại chưa có nhu cầu sử dụng thì sản phẩm đó sẽ phải bỏ trống một thời gian.
Thu nhập người đi vay
Mức thu nhập của người tiêu dùng có vị trí rất quan trọng đối với
nhu cầu vay tiêu dùng của họ. Người ta chỉ có nhu cầu vay tiền ngân hàng để
phục vụ cho chi tiêu khi mà thu nhâp dự kiến trong tương lai của họ có khả
năng thanh toán khoản nợ đó. Nói cách khác, triển vọng về thu nhập sẽ là một
trong những cơ sở phát sinh nhu cầu vay tiêu dùng. Đối với nhừng người cho
vay, vấn đề thu nhập của khách hàng xin vay sẽ có ảnh hưởng quyết định tới
khả năng trả nợ của khách hàng. Do vây, triển vọng về thu nhập là cơ sở giúp
người đi vay nhận được khoản tiền mà mình mong đợi.
Trình độ học vấn, văn hóa
Bên cạnh nhân tố thu nhập thì trình độ học vấn văn hóa cũng có
ảnh hưởng quan trọng tới hoạt động cho vay tiêu dùng. Những ảnh hưởng đó
thể hiện như sau: Những người có trình độ và thu nhập ổn định thì có xu
hướng xem việc vay mượn là công cụ để đạt được mức sống như mong muốn
hơn là một lựa chọn chỉ được dùng trong tình trạng khẩn cấp. Ngoài ra, những
người có trình độ văn hóa cao thì có nhiều cơ hội hơn trong việc tìm kiếm
việc làm có thu nhập cao.
18
Trình độ văn hóa cũng có ảnh hưởng nhất định tới đặc điểm đạo
đức của người vay. Người có trình độ sẽ hiểu rõ và ý thức được quyền lợi và
nghĩa vụ của mình khi đi vay một khoản tiền từ các tổ chức tài chính, từ đó ý
thức trả nợ được nâng lên những rủi ro trong hoạt động cho vay sẽ được hạn
chế kích thích các ngân hàng mở rộng hoạt động CVTD, các quy định cho vay
cũng không quá khắt khe.

Kết luận

: Trong chương 1, chuyên đề đã nghiên cứu những vấn đề
cơ bản về cho vay tiêu dùng và mở rộng cho vay tiêu dùng. Chương 1 đã giúp
chúng ta có một cái nhìn tổng quát về khái niệm, bản chất, đặc điểm cũng như
những lợi ích mà cho vay tiêu dùng mang lại. Từ đó cho thấy mở rộng cho
vay tiêu dùng là một xu hướng tất yếu khách quan, mặc dù có rủi ro và chi phí
cao nhưng cho vay tiêu dùng mang lại những lợi ích to lớn cho ngân hàng,
người tiêu dùng cũng như góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Chính vì vậy,
việc mở rộng cho vay tiêu dùng tại các NHTM Việt Nam hiện nay là một
hướng phát triển đúng đắn. Nhìn thấy được những lợi ích đó từ việc cho vay
tiêu dùng, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đã và đang đẩy
mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng . Chúng ta hãy cùng tìm hiểu về thực trạng
mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân Hàng Nông Nghiệp và phát
triển nông thôn chi nhánh LÁNG HẠ trong chương 2 của chuyên đề.
19
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHO VAY TIÊU DÙNG
TẠI CHI NHÁNH NHN
O
&PPTNT LÁNG HẠ
2.1 Khái quát về chi nhánh NHN
O
&PTNT Láng Hạ.
2.1.1 Quá trình phát triển và tổ chức bộ máy của chi nhánh Láng
Hạ.
2.1.1.1 Quá trình phát triển.
Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VI (12/1986) đề ra đường lối
đổi mới, chuyển nền kinh tế từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đổi mới hệ thống

ngân hàng được coi là khâu then chốt của công cuộc đổi mới vì ngân hàng là
huyết mạch, là tấm gương phản ánh nền kinh tế. Ngày 26/3/1988, Hội đồng bộ
trưởng (nay là Chính Phủ) ban hành nghị định số 53/HĐBT thành lập các
ngân hàng chuyên doanh, trong đó có Ngân Hàng Phát Triển Nông Nghiệp
Việt Nam (nay là ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam)
hoạt động chuyên doanh trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn.
Sau nhiều năm xây dựng, trưởng thành và không ngừng lớn mạnh, từ yêu
cầu của thực tiễn, cùng với sự ra đời của một số chi nhánh NHN
O
&PTNT tại
các thành phố lớn, khu đô thị và trung tâm kinh tế trên mọi miền đất nước
trong giai đoạn 1996-1997. Ngày 1/8/1996 theo quyết định số 334/QĐ-NHN
O
-
02 của tổng giám đốc NHN
O
&PTNTVN, chi nhánh NHN
O
&PTNT Láng Hạ
được thành lập và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 17/3/1997.
Sự ra đời của Chi nhánh NHN
O
&PTNT Láng Hạ là bước mở đầu cho sự
phát triển của NHN
O
&PTNTVN tại các địa bàn đô thị, khu công nghiệp và
trung tâm kinh tế trên mọi miền đất nước, thể hiện hướng đi đúng trong bước
phát triển tất yếu phù hợp với quy luật phát triển của hệ thống
NHN
O

&PTNTVN. Sự ra đời của Chi nhánh NHN
O
&PTNT Láng Hạ (gọi tắt là
chi nhánh Láng Hạ) trong giai đoạn này đã góp phần không nhỏ làm cho quy
20
mô và phạm vi hoạt động cũng như năng lực vị thế của hệ thống
NHN
O
&PTNTVN trên địa bàn Thủ đô được mở rộng và nâng cao thêm.
Khi mới thành lập, chi nhánh đã gặp phải rất nhiều khó khăn mà
nguyên nhân đến cả từ phía khách quan và chủ quan. Tháng 5/1997, cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ bắt đầu từ Thái Lan đã lan rộng ra hàng loạt
các nước trong khu vực, ảnh hưởng không nhỏ tới thị trường tài chính nước
ta. Xuất khẩu gặp khó khăn, đồng VNĐ mất giá khoảng 20% so với đồng
USD. Hàng loạt các NHTMCP do buông lỏng trong quản lý và yếu kém
trong kinh doanh đã lâm vào tình trạng thua lỗ, nợ quá hạn tăng cao, nhiều
khoản nợ xấu khó thu, tài chính không lành mạnh. Nền kinh tế nước ta tuy
ít bị ảnh hưởng, nhưng những khó khăn ách tắc cũng xuất hiện trong sản
xuất lưu thông, xuất nhập khẩu mà đặc biệt là hệ thống tài chính tiền tệ.
Trong khi đó ở trong nước, sự phát triển nóng lên của cả hai khu vực kinh
tế quốc doanh và ngoài quốc doanh, những yếu kém về quản lý và môi
trường pháp lý chưa thực sự thông thoáng đã làm cho hoạt động ngân hàng
co cụm. Đối với chi nhánh Láng Hạ, do mới thành lập nên lực lượng cán bộ
còn thiếu, còn yếu về kinh nghiệm, các phòng ban chưa thực sự chuyên
trách về chuyên môn nghiệp vụ.
Nhận thức sâu sắc những khó khăn trên, chi nhánh Láng Hạ đã quyết
định: Ngoài công tác nghiên cứu thị trường thì việc quảng bá hình ảnh chi
nhánh Láng Hạ trên các phương tiện thông tin đại chúng là cần thiết. Một
trong những phương thức tự giới thiệu với khách hàng hiệu quả nhất là tinh
thần và thái độ phục vụ khách hàng. Cùng với việc triển khai nhiều hình thức

huy động vốn đa dạng. phong phú trên cơ sở kế thừa các hình thức huy động
vốn truyền thống, thêm vào đó chi nhánh còn áp dụng thể thức huy động tiết
kiệm có quà tặng với các kỳ hạn, trên cơ sở hành đầu tư, tham gia vào các
công trình đầu tư trọng điểm của Nhà nước.
21
2.1.1.2 Cơ cấu tổ chức




- NHNo & PTNT Hà Nội trực thuộc NHNo & PTNT Việt nam nên
22
GIÁM ĐỐC
PHÓ
GIÁM
ĐỐC
PHÓ
GIÁM
ĐỐC
PHÓ
GIÁM
ĐỐC
-Phòng
Kiểm tra
kiểm soát
nội bộ
-Phòng Hành
chính Nhân sự
-Phòng Kế toán
Ngân quỹ

-Phòng Điện
toán
-PGD 02 Phùng Hưng
-PGD 03 Doãn Kế Thiện
-PGD 05 Trung Kính
-PGD 07 Đào Tấn
-PGD 08 Khuất Duy Tiến
-PGD 11 Nguyễn Phong Sắc
-Phòng kết
hoạch tổng hợp
-Phòng dịch vụ
và Marketing
-Phòng tín dụng
-Phòng kinh
doanh ngoại hối
cũng hoạt động theo mô hình công ty 90,hoạt động theo Luật các tổ chức tín
dụng,có tư cách pháp nhân,thời hạn hoạt động 99 năm,tự chủ về tài chính,tự
chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh.
2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh.
2.1.2.1. Tình hình huy động vốn
Đối với các NHTM với tư cách là một doanh nghiệp, một chế tài
trung gian hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ thì vốn có một vai trò hết sức quan
trọng. NHTM là đơn vị chủ yếu cung vấp vốn thu lãi. Nhưng để cung cấp đủ
vốn đáp ứng nhu cầu thị trường ngân hàng sẽ phải huy động vốn từ bên ngoài.
Vì vậy, các NHTM rất chú trọng vấn đề huy động vốn đáp ứng đầy đủ nhu
cầu kinh doanh của mình. Có thể nói hoạt động huy động các nguồn khác
nhau trong xã hội là lẽ sống quan trọng nhất của các NHTM.
Chính vì nhận thức được vai trò của nguồn vốn này, Ban lãnh đạo
chi nhánh luôn chú trọng, năng động trong công tác điều hành lãi suất, thực
hiện tốt chính sách khách hàng nhằm nâng cao hiệu quả công tác huy động

vốn.
Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn 2008-2010
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu Năm
2008
Năm
2009
Năm
2010
+/- % +/- %
Tổng VHĐ 13821 15321 14486 1500 10.85 -835 -5.45
Nội tệ 12947 14232 12913 1285 9.93 -1319 -9.27
Tỷ trọng (%) 93.68 92.89 89.14
Ngoại tệ 874 1089 1573 215 24.60 484 44.44
Tỷ trọng (%) 6.32 7.11 10.86
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh
NHNo&PTNT Láng Hạ qua các năm 2008, 2009 ,2010)
Từ bảng trên cho thấy năm 2008 tổng nguồn vốn huy động đạt
13.821 tỷ đồng trong đó nội tệ chiếm 93,68%, ngoại tệ chiếm 6,32%.
23
Năm 2009 do tác động của lạm phát, thực thi chính sách tiền
thắt chặt của NHNN cuộc chạy đua lãi suất giữa các NHTM đã ảnh
hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung,
kết quả huy động vốn nói riêng. Nhưng nhờ có những chính sách, chủ
chương đúng đắn kịp thời của NHNo&PTNT VN và của chi nhánh
NHNo&PTNT Láng Hạ tổng nguồn vốn của chi nhánh đã tăng lên khá
đáng kể. Tổng nguồn vốn đạt 15.321 tỷ đồng tăng 1.500 tỷ tương ứng
với 10,85% so với năm 2008.
Năm 2010 tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng là 14.486 tỷ
đồng giảm 835 tỷ so với năm 2009 tương ứng với 5,45%. Trong đó, vốn

huy động bằng nội tệ giảm 1319 tỷ đồng tương đương với 9,27%, vốn
huy động bằng ngoại tệ tăng 484 tỷ tương đương 44,44%.
Cơ cấu vốn huy động của Ngân hàng cũng có sự dịch chuyển
theo hướng tỷ trọng vốn huy động bằng nội tệ giảm, vốn huy động bằng
ngoại tệ tăng. Năm 2008 vốn huy động bằng nội tệ chiếm 93,68% đến
năm 2010 chỉ còn 89,14%. Năm 2008 vốn huy động bằng ngoại tệ là
6,32%, năm 2010 là 10,86%.
2.1.2.2 Tình hình sử dụng vốn
Từ cuối năm 2009, chính sách tiền tệ bắt đầu có sự chuyển
hướng, từ thắt chặt sang dần nới lỏng. Cùng với chủ trương kích cầu và
ngăn chặn suy giảm kinh tế sự chuyển hướng trên là một yếu tố tạo điều
kiện để tín dụng tăng trưởng mạnh trở lại trong năm 2010.
24
Bảng 2.2: Tình hình sử dụng vốn 2008-2010
Đơn vị: tỷ đồng
Tổng dư nợ 3462 3438 4646 -24 -0.69 1208 35.14
Theo kỳ hạn
Ngắn hạn 2025 1323 1788 -702 -34.67 465 35.15
Tỷ trọng (% ) 58.49 38.48 38.48
Trung hạn 492 343 655 -149 -30.28 312 90.96
Tỷ trọng( % ) 14.21 9.98 14.1
Dài hạn 945 1772 2203 827 87.51 431 24.32
Tỷ trọng (% ) 27.3 51.54 47.42
Theo loại tiền
Nội tệ 2659 2600 3379 -59 -2.22 779 29.96
Tỷ trọng (% ) 76.81 75.63 72.73
Ngoại tệ 803 838 1267 35 4.36 429 51.19
Tỷ trọng (% ) 23.19 24.37 27.27
( Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh
NHNo&PTNT Hà Nội qua các năm 2008, 2009 ,2010)

Qua bảng trên ta thấy:
Tổng dư nợ qua các năm xu hướng tăng, năm 2008 là 3462 tỷ
đồng, năm 2009 có giảm nhẹ còn 3448 tỷ nhưng đến năm 2010 đã tăng lên
4646 tỷ đồng (tăng 1028 tỷ đồng tương ứng với 35,15% so với năm 2009,
vượt kế hoạt được giao). Vốn tín dụng đã tập trung đầu tư cho các thành phần
kinh tế sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Dư nợ ngắn hạn năm 2008 chiếm tỷ trọng cao nhất là 58,49%. Đến
năm 2010 dư nợ ngắn hạn giảm còn 38,48% trong tổng dư nợ. Đây là loại
hình cho vay có thời hạn dưới 12 tháng được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt
25

×