Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Khủng hoảng thanh khoản Ngân hàng Vai trò của các tổ chức xếp hạng tín dụng trong đại khủng hoảng năm 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (920.61 KB, 80 trang )

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
ABS Chứng khoán được đảm bảo bằng tài sản
CDO Nghĩa vụ nợ có thế chấp
CDS Hợp đồng hoán đổi nợ
CIC Trung tâm tín dụng tại Ngân hàng nhà nước
FED Cục dự trữ liên bang Mỹ
MBS
Chứng khoán được đảm bảo bằng các khoản
vay thế chấp
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTƯ Ngân hàng Trung Ương
SIV Cỗ máy đầu tư cấu trúc
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài: Nếu như đối với nền tài chính thế giới, các tổ chức
xếp hạng tín dụng đã và đang có vai trò quan trọng như một người “ gợi ý” cho các
quyết định đầu tư, thì đối với Việt Nam, người dẫn đường này dường như vẫn chưa
được biết đến một cách toàn diện và sâu sắc.
Cuộc đại khủng hoảng năm 2008 vừa qua không chỉ chứng kiến sự sụp đổ của
nhiều Ngân hàng lớn nhỏ trên toàn thế giới, mà còn phải đối mặt với vấn đề “ niềm tin”
vào người dẫn đường trên thị trường tài chính. Vấn đề xung đột lợi ích, tính độc quyền
và vấn đề minh bạch của các tổ chức xếp hạng tín dụng đã trở thành đề tài lớn, được
cho là có liên hệ mật thiết với cuộc khủng hoảng thanh khoản Ngân hàng nói riêng, và
cuộc đại khủng hoảng 2008 nói chung. Cụ thể, những sai lầm của các tổ chức xếp hạng
tín dụng trong việc định giá các sản phẩm chứng khoán, và những động thái được cho
là “ chạy theo rủi ro thị trường” đã khiến thị trường nhà ở tại Mỹ và châu Âu nhanh
chóng sụp đổ, các Ngân hàng rơi vào tình trạng thu lỗ nặng nề và mất khả năng thanh
khoản, nợ công không ngừng gia tăng. Nền kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng, và
hiện tại các quốc gia vẫn đang nỗ lực không ngừng để kích thích lại nền kinh tế.
Đối với Việt Nam, khi thị trường xếp hạng tín dụng còn đang chập chững những
bước đi đầu tiên, vấn đề đặt ra của các nhà quản lí là làm thế nào để tìm được một
hướng đi đúng cho các tổ chức tín dụng; làm thế nào để các tổ chức xếp hạng tín dụng


tại Việt Nam không phạm phải những sai lầm như các bậc đàn anh trên đấu trường
quốc tế. Và điều quan trọng hơn là làm thế nào để các tổ chức xếp hạng tín dụng Việt
Nam trở thành công cụ đắc lực cho chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín
dụng, và các nhà đầu tư trên thị trường tài chính duy trì một nền kinh tế ổn định và phát
triển, tránh những sai sót dẫn đến căng thẳng thanh khoản, và sâu xa hơn là rủi ro vỡ
nợ.
Cũng chính bởi vậy, tôi đã chọn đề tài “Khủng hoảng thanh khoản Ngân
hàng: Vai trò của các tổ chức xếp hạng tín dụng trong đại khủng hoảng năm 2008”
làm luận văn tốt nghiệp.
Mục đích của luận văn: Bài luận văn đi vào nghiên cứu cơ sở lý thuyết nói
chung đến những vấn đề thực tế về hoạt động của các tổ chức xếp hạng tín dụng và vấn
đề rủi ro thanh khoản tại các Ngân hàng. Từ đó, đưa ra mối liên hệ giữa vai trò của các tổ
chức xếp hạng tín dụng và cuộc khủng hoảng thanh khoản Ngân hàng đã diễn ra trong
năm 2008, cũng như đề xuất những hướng đi với các Cơ quan quản lý Nhà nước, Ngân
hàng nhà nước, các ngân hàng thương mại trong việc xây dựng và hoàn chỉnh các tổ
chức xếp hạng tín dụng tại Việt Nam, giúp các ngân hàng Việt Nam có thể xem đây như
một công cụ đắc lực trong công việc quản lí rủi ro thanh khoản tại ngân hàng của mình.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là hoạt động của các
tổ chức xếp hạng tín dụng và cuộc khủng hoảng thanh khoản tại các Ngân hàng. Phạm
vi nghiên cứu là cuộc khủng hoảng năm 2008 và thời gian nghiên cứu tập trung vào
thời gian diễn ra đại khủng hoảng 2008
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp hệ thống, tổng hợp, phân tích số liệu,
so sánh, thống kê, dự báo, khái quát hóa nhằm làm rõ các vấn đề khóa luận nghiên cứu,
kết hợp với nền tảng kiến thức kinh tế học, tài chính- ngân hàng được trang bị ở trường
để hệ thống hóa lý luận, xây dựng tính thực tiễn cho đề tài.
Kết cấu của luận văn: Luận văn gồm ba phần chính :
Chương 1: Tổng quan về tổ chức xếp hạng tín dụng và khủng hoảng thanh
khoản ngân hàng
Chương 2: Khủng hoảng thanh khoản ngân hàng trong đại khủng hoảng 2008:
Vai trò của các tổ chức xếp hạng tín dụng

Chương 3: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã không ngừng cố gằng tìm tòi, nghiên
cứu để có được một đánh giá toàn diện về hoạt động xếp hạng tín dụng trên thế giới nói
chung, và ở Việt Nam nói riêng. Nhưng do đây là một đề tài phức tạp với phạm vi
nghiên cứu khá rộng nên khóa luận này khó tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất
mong nhận được những ý kiến đóng góp của thấy cô và các bạn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn !
I: Tổng quan về tổ chức xếp hạng tín dụng và khủng hoảng thanh
khoản Ngân hàng
1.1. Tổng quan về tổ chức xếp hạng tín dụng:
1.1.1. Khái niệm:
“ Xếp hạng tín dụng” và “ Tổ chức xếp hạng tín dụng” là các khái niệm mà
trên thực tế chưa tồn tại bất kì một định nghĩa mang tính lí thuyết nào về chúng. Chính
vì thế việc tìm hiểu các khái niệm này thông thường thường dựa trên những định nghĩa
của các cơ quan xếp hạng tín dụng lớn như Fitch, S&P hay Moody’s.
Trên trang web của mình, Fitch định nghĩa khái niệm “ xếp hạng tín dụng” là
các quan điểm về khả năng để đạt được các cam kết tài chính của một thể nhân. Các
nhà đầu tư sử dụng xếp hạng tín dụng để theo dõi các chỉ số cơ bản về xác suất vỡ nợ
cũng như kì vọng tương đối về thiệt hại có thể dẫn đến vỡ nợ, trên cơ sở đó tính toán
và đảm bảo khả năng có thể lấy lại tiền từ các khoản đầu tư. Định nghĩa này cho thấy
tính tương đối và mối liên hệ với rủi ro vỡ nợ của việc xếp hạng tín dụng.
S&P lại cho rằng “ xếp hạng tín dụng” là việc làm liên quan đến khả năng trả nợ
của nhà phát hành hoặc một chủ thể phát hành cụ thể. Họ định nghĩa xếp hạng tín dụng
là các quan điểm xoay quanh khả năng trả nợ nói chung của một trái vụ; hoặc khả năng
trả nợ của một trái vụ tương đương với một chứng khoán nợ cụ thể; hoặc các nghĩa vụ
tài chính khác dựa trên các nhân tố rủi ro thích hợp.
“ Xếp hạng tín dụng” còn được định nghĩa theo mức độ sẵn sàng trả nợ của con
nợ. Đó là cách định nghĩa của Moody’s. Theo đó, việc xếp hạng là việc phân tích, tính
toán và đánh giá khả năng và sự sẵn sàng của nhà phát hành chứng khoán về việc thanh
toán đầy đủ và đúng hạn số tiền mà chủ thể nắm giữ chứng khoán được hưởng trong

thời hạn của chứng khoán đó.
Nhìn chung cả ba cách định nghĩa này đều đề cập và thống nhất một quan điểm
về việc có hay không việc thanh toán đúng hạn và đầy đủ của các nhà phát hành chứng
khoán sau khi được xếp hạng tín dụng. Đây cũng chính là mục đích hoạt động cơ bản
của các tổ chức xếp hạng tín dụng vàlà mối quan tâm chính của các nhà đầu tư, nhà
phát hành khi tiến hành tham gia xếp hạng tín dụng.
Bên cạnh đó, mặc dù đã tồn tại lâu đời và có vị thế riêng trên thị trường tài
chính, cũng rất khó để tìm được một định nghĩa rõ rệt nào về “ các tổ chức xếp hạng tín
dụng”. Theo viện nghiên cứu Nomura Research Institue ( NRI) , các tổ chức xếp hạng
tín dụng là các công ty cung cấp các quan điểm của họ về độ tín nhiệm của một doanh
nghiệp trong nghĩa vụ thanh toán tài chính. Các nghĩa vụ tài chính có thể bao gồm trái
phiếu, thương phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi, nhưng không nhất thiết giới hạn. Ngoài ra
để hoạt động được trên thị trường một cách hiệu quả, các tổ chức xếp hạng tín dụng
cũng phải tuân thủ một số tiêu chuẩn nhất định, chẳng hạn:
• Các tổ chức xếp hạng tín dụng phải đảm bảo tính công bằng, khách quan và
minh bạch để tạo niềm tin vững chắc cho các thành phần tham gia thị trường,
đảm bảo uy tín cho các công ty xếp hạng tín dụng
• Các tổ chức xếp hạng tín dụng phải đảm bảo tính độc lập, không bị phụ thuộc
bởi các sức ép về chính trị hoặc kinh tế, và phải đảm bảo các kết quả đưa ra là
công minh, chính xác nhất
• Các tổ chức xếp hạng tín dụng cũng phải đảm bảo chất lượng phục vụ khách
hàng và đảm bảo việc hoạt động lâu dài bằng việc duy trì sự ổn định về mặt tài
chính, đảm bảo về mặt kĩ thuật và cơ sở hạ tầng thông tin.
1.1.2. Vai trò của các tổ chức xếp hạng tín dụng trong thị trường tài chính:
• Đối với thị trường tài chính:
Các tổ chức xếp hạng tín dụng có một vai trò không thể phủ nhận trong việc
thực hiện chức năng giải quyết vấn đề thông tin bất cân xứng – một yếu tố chính tạo ra
các rủi ro cho các chủ thể tham gia vào giao dịch thương mại. Từ việc công khai các
chỉ số, các tổ chức xếp hạng tín dụng cung cấp cho các thành viên của thị trường một
tiêu chuẩn chung để đánh giá mức độ rủi ro, đồng thời giảm thiểu rủi ro đạo đức, tránh

những tổn thất không đáng có.
Bên cạnh đó với các biện pháp hành chính, việc xếp hạng tín dụng sẽ giới hạn
các chủ thể tham gia thị trường bằng cách hạn chế sự tồn tại của các nhà phát hành yếu
kém dựa vào những xếp hạng tín dụng đã được xác định. Việc tính toán và quyết định
các chỉ số để sắp xếp các khoản nợ theo mức độ rủi ro tăng dần cũng sẽ bảo vệ các chủ
thể tránh những rủi ro của thị trường khi tham gia trên thị trường tài chính.
Như vậy các tổ chức xếp hạng tín dụng đã góp phần nâng cao tính công khai,
lành mạnh, vững chắc của thị trường khi tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia trên thị
trường hoàn toàn chủ động trong việc lựa chọn các phương án kinh doanh, thông qua
những thông số được minh bạch, công khai.
• Đối với nhà phát hành:
Hoạt động tín dụng có thể xem là một hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro bởi nó có
thể gây ra những tổn thất to lớn cho nền kinh tế. Vì thế các tổ chức xếp hạng tín dụng
đã và đang đáp ứng nhu cầu cấp thiết là cung cấp thước đo về rủi ro tín dụng, hay cụ
thể hơn là đưa ra các đánh giá, quan điểm về độ tin cậy tín dụng của nhà phát hành
chứng khoán, khả năng hoàn trả gốc và lãi đúng hạn của họ khi chứng khoán đáo hạn.
Nhà phát hành ở đây có thể là các doanh nghiệp, các ngân hàng phát hành, chính quyền
địa phương thậm chí là cả một quốc gia trong trường hợp phát hành nợ chính phủ. Dựa
vào các chỉ số xếp hạng tín nhiệm, nhà phát hành có thể tạo lòng tin với các nhà đầu tư,
thu hút số lượng lớn các nhà đầu tư tiềm năng khi được xếp hạng tín dụng cao và có
thể tham gia nhiều thị trường vốn.
Chỉ số xếp hạng, ngoài ra còn có thể giúp các nhà phát hành duy trì sự ổn định
trong kinh doanh bằng việc duy trì được thị trường vốn trong mọi hoàn cảnh.Ngay cả
khi thị trường có những biến động bất lợi thì những nhà phát hành được tín nhiệm vẫn
có thể yên tâm về sự tham gia của các nhà đầu tư vào đợt phát hành của mình.
Cuối cùng việc xếp hạng tín dụng còn giúp các nhà phát hành nâng cao năng lực
cạnh tranh trên thị trường tài chính.Thông thường với chỉ số xếp hạng cao, nhà phát
hành có thể dễ dàng đi vay mà chỉ phải trả các khoản lợi tức thấp và tiết kiệm chi phí
lãi vay.Điều này là một lợi thế lớn trên thị trường tài chính.Đồng thời với chỉ số xếp
hạng cao, nhà phát hành cũng sẽ có thêm nhiều cơ hội để tiếp cận với các nhà đầu tư

tiềm năng trên thị trường quốc tế.
• Đối với các nhà đầu tư:
Các chỉ số xếp hạng tín dụng cho phép các nhà đầu tư nắm được nhiều thông tin
để đo lường rủi ro mà họ phải đối mặt khi quyết định đầu tư. Nhờ vào hệ thống xếp
hạng tín dụng, nhà đầu tư có thể thực hiện các thước đo đánh giá mối quan hệ giữa rủi
ro và lợi nhuận thu được, đồng thời lựa chọn giữa các công cụ một công cụ có lợi nhất
nhằm đảm bảo hiệu quả đầu tư và sự an toàn của đồng vốn.
Các nhà đầu tư cũng có thể sử dụng các thông tin xếp hạng để quản lí danh mục
đầu tư của mình.Mỗi sự thay đổi trong xếp hạng tín dụng của một loại công cụ nhất
định đều có tác động trực tiếp đến giá thành của nó trên thị trường. Do đó, căn cứ vào
sự biến động này các nhà đầu tư có thể cân nhắc và điều chỉnh danh mục đầu tư để đảm
bảo mức lợi nhuận thu vào.
Ngoài ra trong sự phát triển không ngừng của thị trường tài chính, và sự xuất
hiện các chứng khoán có mức độ phức tạp cũng như sự đa dạng hóa toàn cầu hiện nay
đã khiến cho chi phí đánh giá rủi ro thông thường tăng cao.Để giảm thiểu được chi phí
đánh giá nguy cơ rủi ro, và xây dựng danh mục trái phiếu cùng với các chiến lược kinh
doanh thích hợp một cách tiết kiệm, các nhà đầu tư thường lựa chọn đánh giá và so
sánh các chỉ số xếp hạng chứng khoán trên thị trường tài chính.
1.1.3. Các mô hình xếp hạng tín dụng:
Có hai phương pháp xếp hạng tín dụng được áp dụng rộng rãi trên thế giới hiện
nay đó là mô hình toán học và phương pháp chuyên gia.
1.1.3.1. Mô hình toán học:
Đây được xem là mô hình truyền thống được sử dụng trong thời gian đầu phát
triển của các tổ chức xếp hạng tín dụng. Trên thực tế, trước khi những mô hình toán
học này được phát triển, việc đánh giá tín dụng hoàn toàn dựa trên phương pháp xét
đoán, tức là việc dùng các phán đoán chủ quan của các chuyên viên tín dụng dựa trên
các thông tin liên quan đến khách hàng để đánh giá rủi ro. Do chứa đựng nhiều yếu tố
chủ quan nên nó trở nên không đáng tin cậy; bên cạnh đó thường gặp phải khó khăn
khi áp dụng với số lượng lớn và phải duy trì một hệ thống chuyên viên phân tích chi
phí cao.

Chính vì thế phương pháp xét đoán đã nhanh chóng được thay thế bằng những
mô hình toán học và thống kê, lượng hóa các chỉ tiêu và dự báo rủi ro tín dụng.Sau đây
là những mô hình toán học xếp hạng tín dụng doanh nghiệp phổ biến nhất hiện nay.
• Chỉ số Z :
Chỉ số Z do Edward I. Altman ( 1968) nghiên cứu và xây dựng, được công nhận và xử
dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Chỉ số này dựa trên phương pháp thống kê với công cụ
phân tích biệt số đa yếu tố ( MDA)
Chỉ số Z bao gồm 5 tỷ số X1, X2, X3, X4, X5 trong đó:
i. X1 giảm khi xuất hiện những khoản lỗ trong hoạt động kinh doanh
ii. X2 đo lường lợi nhuận giữ lại tích lũy qua thời gian, đồng thời chỉ số này cũng
phản ánh sự trưởng thành của công ty
iii. X3 thể hiện khả năng tồn tại và khả năng trả nợ của công ty dựa trên việc phản
ánh khả năng tạo ra lợi nhuận từ các tài sản của công ty
iv. X4 cho biết giá trị tài sản của công ty sụt giảm bao nhiều lần trước khi rơi vào
tình trạng mất khả năng thanh toán. Nếu X4 thấp hơn 1/3 thì xác suất công ty phá sản
là rất cao.
v. X5 đo lường khả năng quản trị của công ty để tạo ra doanh thu trước sức ép
cạnh tranh của các đối thủ khác. X5 thay đổi trên một khoảng rộng đối với các ngành
khác nhau và các quốc gia khác nhau
Từ chỉ số Z cơ bản này, Altman đã phát triển thêm mô hình Z’ và Z’’ để
có thể áp dụng chính xác với từng loại hình doanh nghiệp. Cụ thể:
Đối với doanh nghiệp đã cổ phần hóa ngành sản xuất:
Z = 1.2X1 + 1.4X2 + 3.3X3 + 0.64X4 + 0.999X5
Nếu Z > 2.99: Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn
Nếu 1.8 < Z < 2.99: Doanh nghiệp nằm trong vùng cảnh báo, có nguy cơ phá sản
Nếu Z <1.8 : Nguy cơ phá sản cao
Đối với doanh nghiệp chưa cổ phần hóa ngành sản xuất:
Z’ = 0.717X1 + 0.847 X2 + 3.107X3 + 0.42X4 + 0.998X5
Nếu Z’ > 2.9: Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn
Nếu 1.23 < Z’ < 2.9: doanh nghiệp nằm trong vùng cảnh bảo, có nguy cơ phá sản

Nếu Z’ <1.23 : Nguy cơ phá sản cao
Đối với các doanh nghiệp khác:
Z” = 6.56 X1 + 3.26X2 + 6.72X3 + 1.05X4
Nếu Z’’ >2.6 : Doanh nghiệp trong vùng an toàn, chưa có nguy cơ phá sản
Nếu 1.2 < Z’’ < 2.6: Doanh nghiệp trong vùng cảnh báo, có thể có nguy cơ phá sản
Nếu Z’’< 1.1: nguy cơ phá sản cao
Ngoài ra Altman cũng đã nghiên cứu trên 700 công ty để cho ra chỉ số Z’’ điều chỉnh:
Z’’ điều chỉnh = 3.25 + 6.56 X1 + 3.26 X2 + 6.72X3 + 1.05 X4
Chỉ số này được cho là có tương đồng khá cao với các hạng mức xếp hạng tín nhiệm
trái phiếu của S&P, điều này được thể hiện rõ trong bảng sau:
Bảng 1.1: Sự tương quan giữa Z’’ điều chỉnh và hạng mức xếp hạng tín dụng S&P
Z’’ Điều chỉnh Hạng mức xếp
hạng tín dụng
S&P
Doanh nghiệp trong
vùng an toàn, chưa có
nguy cơ phá sản
>8.15 AAA Trái phiếu có thể
đầu tư
7.60 – 8.15 AA+
7.30 – 7.60 AA
7.00 – 7.30 AA-
6.85 – 7.00 A+
6.65 – 6.85 A
6.40 – 6.65 A-
6.35 – 6.40 BBB+
5.85 – 6.25 BBB
Doanh nghiệp trong
vùng cảnh bảo, có
nguy cơ phá sản

5.65 – 5.85 BBB-
5.25 – 5.65 BB+
4.95 – 5.25 BB
4.75 – 4.95 BB-
4.50 – 4.75 B+
4.15 – 4,50 B
Doanh nghiệp trong
vùng nguy hiểm, có
nguy cơ phá sản cao
3.75 – 4.15 B- Trái phiếu không
nên đầu tư
3.20 – 3.75 CCC+
2.50 – 3.20 CCC
1.75 – 2.50 CCC-
0 – 1.75 D
• Chỉ số Zeta
Zeta cũng là một chỉ số do Altman cải tiến từ chỉ số Z, có tính ứng dụng cao với
các công ty sản xuất hoặc bán lẻ. Mô hình này có 7 biến số cơ bản được sử dụng gồm:
i. X1
ii. X2 = Mức ổn định thu nhập
iii. X3
iv. X4
v. X5
vi. X6
vii. X7 = Quy mô tổng tài sản
1.1.3.2. Phương pháp chuyên gia:
Bên cạnh mô hình toán học, hầu hết hiện nay các tổ chức xếp hạng tín dụng đã
lựa chọn phương pháp chuyên gia là công cụ chính để đánh giá xếp hạng. Phương pháp
này kết hợp các thông tin định tính, các điều chỉnh chủ quan của chuyên gia phân tích
tín dụng với các tỷ số tài chính, dữ liệu tài khoản thanh toán của các công ty vay nợ.

Đặc biệt trong phương pháp này, các tổ chức xếp hạng tín dụng cũng chú trọng hơn
vào dòng tiền thực mà các công ty tạo ra được với các dòng tiền mà công ty phải chi
trả. Ngài Bina Lehman trong một nghiên cứu thực nghiệm năm 2003 với 20.000 quan
sát tại Đức đã cho thấy kết quả của phương pháp này thực sự có thể cải thiện khả năng
dự báo của các công ty một cách đáng kể
Để tìm hiểu kĩ hơn về phương pháp này, sau đây người viết xin đề cập cụ thể
các phương pháp chuyên gia được áp dụng tại ba tổ chức xếp hạng tín dụng lớn là
Fitch, S&P và Moody’s
• Phương pháp xếp hạng tín dụng của Fitch:
Phương pháp phân tích của Fitch là sự kết hợp của phân tích định tính và định
lượng, tức là phân tích dữ liệu tài chính và hoạt động của doanh nghiệp trong khoảng
thời gian ít nhất là năm năm.Mục đích chính của Fitch khi thực hiện xếp hạng doanh
nghiệp là việc so sánh để đánh giá sức mạnh của doanh nghiệp trên thị trường và rủi ro
kinh doanh trong mối quan hệ với các doanh nghiệp khác cùng ngành. Đồng thời Fitch
cũng tập trung đánh giá khả năng đối phó của doanh nghiệp đối với những thay đổi của
thị trường tài chính mà yếu tố then chốt là khả năng tạo ra dòng tiền tự do từ hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp.
Phân tích định tính bao gồm phân tích rủi ro ngành, môi trường kinh doanh, vị
thế của doanh nghiệp, năng lực quản trị và phân tích kế toán.
Phân tích định lượng bao gồm các thước đo tính toán dòng tiền, thu nhập, các
khoản đảm bảo và đòn bẩy trong đó dòng tiền từ hoạt động kinh doanh cung cấp cho
doanh nghiệp sự đảm bảo rủi ro tín dụng nhiều hơn là nguồn tài trợ bên ngoài. Phương
pháp của Fitch đã sử dụng một cách linh hoạt các tỷ số tài chính làm thước đo định
lượng để đánh giá rủi ro tín dụng, đồng thời nhấn mạng vai trò của Lợi nhuận trước
thuế, lãi vay và khấu hao(EBITDA) như một thước đo quan trọng trong việc đánh giá
khả năng tạo ra thu nhập chưa tính đến đòn bẩy tài chính. Các thước đó chính mà Fitch
dùng để phân tích bao gồm:
Các tỷ số đảm bảo (coverage ratio):
• FFO: dòng tiền trước thay đổi vốn lưu động
• FCF: dòng tiền tự do

• Nợ thuần = Nợ - tiền mặt và các khoản tương đương tiền
• Tỉ số bảo đảm lãi suất FFo (FFo interest coverage)
• Tỉ số đảm bảo chi phí cố định FFo (FFo fixed-charge coverage)
• Tỉ số đảm bảo trả nợ FCF (FCF debt-service coverage)
Các thước đo đòn bẩy:
• Tỉ số đòn bẩy điều chỉnh FFo (FFo adjusted leverage)


Các thước đo khả năng sinh lợi:


• Phương pháp xếp hạng tín nhiệm của S&P:
Tương tự như Fitch, S&P sử dụng phương pháp chuyên gia trong mô hình xếp
hạng tín dụng, trong đó tập trung nhiều vào phân tích dòng tiền và khả năng thanh toán
trong quá khứ. S&P tập trung chủ yếu và khả năng sinh lợi để đánh giá rủi ro kinh
doanh và năng lực cạnh tranh. Có một điểm khác biệt so với Fitch là tổ chức này không
phân loại dữ liệu theo tính chất mà phân loại theo rủi ro bao gồm rủi ro kinh doanh và
rủi ro tài chính.
Rủi ro kinh doanh gồm có rủi ro ngành, khả năng cạnh tranh, vị thế của doanh
nghiệp, lợi thế kinh tế và khả năng sinh lời so với các doanh nghiệp cùng ngành.
Rủi ro tài chính gồm phân tích chính sách tài chính, chính sách, thông tin kế
toán, khả năng đáp ứng dòng tiền, cấu trúc vốn và khả năng thanh toán ngắn hạn. Một
số tỷ số tài chính được S&P sử dụng chẳng hạn như:





• Dòng tiền trước thay đổi vốn lưu động (





• )
• Phương pháp xếp hạng của Moody’s
Moody’s thiết lập 11 tỷ số chung nhất để sử dụng phân tích định lượng. Các tỉ số này bao
gồm:
Trên đây là các tỷ số lí thuyết được sử dụng trong phương pháp chuyên gia của
ba ông lớn trong ngành xếp hạng tín dụng. Nhìn chung, mặc dù đã có sự phát triển và
cải thiện các mô hình xếp hạng tín dụng để có được kết quả đánh giá chính xác nhất,
thì các phương pháp này đều tồn tại những khiếm khuyết nhất định bởi lẽ cả hai đều
chứa đựng rủi ro do yếu tố chủ quan trong đánh giá xếp hạng. Bên cạnh đó, trên thực
tế, khung pháp lí điều chỉnh việc xếp hạng còn lỏng lẻo, và chưa có bất kì một cơ quan
pháp luật nào chịu trách nhiệm kiểm định đã làm cho kết quả tín dụng trong thời gian
qua bị đánh giá là không cung cấp đủ thông tin, không đồng đều với rủi ro và không
theo kịp các biến cố trên thị trường tài chính.
1.1.4. Khung pháp lí điều chỉnh:
Trước cuộc khủng hoảng toàn cầu năm 2008, hầu như không hề có bất kì một
quy định pháp lí cụ thể nào đối với các tổ chức xếp hạng tín dụng, mà chỉ tồn tại dưới
khung pháp lí mềm mỏng, cụ thể là các quy tắc ứng xử phát hành bởi IOSCO – tổ chức
quốc tế của các ủy ban Chứng khoán được thành lập từ năm 1983. Ở Mỹ việc xếp hạng
tín dụng là không bắt buộc cho việc phát hành chứng khoán, nhưng nó được sử dụng
rộng rãi để quản lí các tiêu chuẩn luật pháp, chẳng hạn như yêu cầu vốn của các công
ty chứng khoán.Trong khi đó ở Pháp, hầu như không có bất kì một quy định nào đối
với các tổ chức xếp hạng tín dụng. Ở châu Mỹ La tinh và châu Á, việc xếp hạng tín
dụng được xem là yếu tố bắt buộc với việc phát hành các công cụ nợ bán ra trên thị
trường. Nhìn chung khung pháp lí điều chỉnh phổ biến nhất chính là các quy định của
IOSCO và hiệp ước Basel II.
Được xuất bản năm 2004, bản tuyên bố các nguyên tắc hoạt động của các tổ
chức xếp hạng tín dụng do IOSCO phát hành được đánh giá là “ một tập hợp các

nguyên tắc giải quyết các vấn đề của tổ chức xếp hạng tín dụng đã được các nhà quản
lí chứng khoán đồng ý, và như vậy, nó đại diện cho một quan điểm chung về pháp lí
liên quan đến hoạt động của các tổ chức xếp hạng tín dụng trên toàn khu vực.”( A
review of implementation of the IOSCO code of a conduct fundamental for CRAs,
2009, p.3)Các nguyên tắc này nhằm mục đích “ nâng cao chất lượng, tính toàn vẹn,
tính kịp thời và minh bạch của quá trình xếp hạng tín dụng” cũng như để “ giải quyết
các xung đột tiềm tàng về lợi ích”( 2008 IOSCO Code of conduct, 2009, p.8). Bộ luật
này được thực hiện theo mô hình “ thực hiện hoặc giải thích” ( comply or explain
model), tức là các tổ chức xếp hạng tín dụng có thể sử dụng các quy tắc này thành bộ
luật của họ, hoặc nếu không sử dụng, họ cần có một sự giải thích về sự sai khác giữa
các quy tắc của riêng mình với các quy tắc của IOSCO và sự sai khác này có sai phạm
với các quy tắc của IOSCO hay không? Nhìn chung, để giữ vững danh tiếng, các tổ
chức xếp hạng tín dụng thường chọn cách thống nhất các quy tắc của mình với các quy
tắc trên. Tuy nhiên trong trường hợp lựa chọn “ giải thích” ( explain) các tổ chức này
cũng không phải chịu các xử phạt quy phạm pháp luật nào. Bản quy tắc này của
IOSCO cũng bị đánh giá là còn khá “ trìu tượng và chung chung” ( EU Regulation,
explanatory memorandum, p.3), tạo điều kiện cho các tổ chức xếp hạng tín dụng tự do
trong việc thi hành đầy đủ các quy tắc này. Chính vì thế cũng đã có khá nhiều bài viết
liên quan tới khả năng giải quyết tính minh bạch và xung đột lợi ích trong bộ quy tắc
này.
Bên cạnh đó, liên quan đến các vấn đề trong mối quan hệ với người phát hành,
IOSCO cũng khuyến khích các tổ chức xếp hạng tín dụng tách bạch các hoạt động
đánh giá và các hoạt động phụ trợ khác, từ đó để có thể dễ dàng loại bỏ, quản lí hoặc
xem xét các xung đột về lợi ích có thể ảnh hưởng đến kết quả xếp hạng. Các nhà phân
tích tín dụng hoặc những người tham gia vào quá trình đánh giá sẽ không được trả
công trên cơ sở số tiền mà các tổ chức này nhận được từ nhà phát hành với kết quả
đánh giá đó, và không được tham gia vào quá trình định mức phí.
Còn trong hiệp ước Basel II, các tiêu chuẩn pháp lí được chỉ ra đối với các tổ
chức xếp hạng tín dụng bao gồm ba điều kiện chính.Đó là điều kiện về tính khách
quan, tính độc lập và tính minh bạch.

Tính khách quan yêu cầu các tổ chức xếp hạng tín dụng phải có phương pháp
đánh giá chặt chẽ, có hệ thống và phải căn cứ vào các số liệu quá khứ theo một phương
pháp đánh giá nhất định. Ngoài ra các kết quả đánh giá cần phải liên tục được rà soát
và được điều chỉnh kịp thời với những thay đổi về tình hình tài chính.Để được các cơ
quan chủ quản Ngân hàng công nhận, phương pháp đánh giá đối với mỗi khu vực thị
trường trong đó có việc đối chiếu cần phải được sử dụng trước đó ít nhất một năm và
nên là ba năm.
Tính độc lập thể hiện ở việc các tổ chức xếp hạng tín dụng cần phải độc lập và
không phải chịu bất kì một sức ép nào về kinh tế, chính trị, để bị ảnh hưởng đến kết
quả đánh giá. Quá trình đánh giá càng ít bị ảnh hưởng bởi những mâu thuẫn về lợi ích
có thể phát sinh do thành phần của hội đồng ban quản trị hoặc cơ cấu cổ đông công ty
gây ra càng tốt.
Cuối cùng tính minh bạch là việc các kết quả đánh giá được cung cấp cho các tổ
chức trong và ngoài nước để sử dụng trong các mục đích hợp pháp, với các điều kiện
cung cấp là tương đương nhau.Bên cạnh đó phương pháp để đánh giá tín dụng cần
được công khai, để tránh những che đậy thông tin từ phía những khách hàng đặt mục
tiêu có nguồn tín dụng bằng mọi giá.
1.2. Tổng quan về khủng hoảng thanh khoản Ngân hàng:
1.2.1. Định nghĩa và đo lường rủi ro thanh khoản Ngân hàng
1.2.1.1. Định nghĩa:
Có thể nói vấn đề về thanh khoản trong ngân hàng đã được đề cập trong một
thời gian khá dài. Nhà kinh tế học Knies, thế kỉ XIX, đã nhấn mạnh đến sự cần thiết
của việc phải có một khoản dự phòng tiền mặt để xử lí những khoản chênh lệch âm
giữa dòng thanh toán nhận được và dòng thanh toán phải chi trả trong những trường
hợp thời gian không cho phép.
Peter Rose (2002) có đề cập đến vấn đề thanh khoản của Ngân hàng như là một
trong những vấn đề quan trọng hàng đầu của các nhà quản lí. Tác giả cũng định nghĩa
trong chương “ phân tích và đánh giá hoạt động Ngân hàng” rủi ro thanh khoản là tình
trạng thiếu tiền mặt và không có khả năng vay mượn để đáp ứng nhu cầu rút tiền gửi,
yêu cầu vay vốn và những yêu cầu về tiền mặt khác. Theo đó, đối mặt với rủi ro thanh

khoản, một Ngân hàng buộc phải vay “ nóng” với mức chi phí cao để chi trả cho những
yêu cầu về tiền mặt cấp bách và do vậy làm giảm lợi nhuận của Ngân hàng. Ngoài ra,
các Ngân hàng sẽ phải bán các chứng khoán trước khi đến hạn làm giảm thu nhập trung
bình của mình bởi lẽ các chứng khoán có tính thanh khoản cao là những chứng khoán
có “ khả năng được mua và bán nhanh trên thị trường, ổn định giá cả, và rủi ro về tổn
thất vốn đầu tư thấp” ( Peter Rose,2002, tr.107 ). Chính vì vậy các nhà quản lí ngân
hàng đang phải đối mặt với sự đánh đổi giữa khả năng sinh lợi và vấn đề thanh khoản
hợp lí của mỗi Ngân hàng.
Cũng đề cập tới vấn đề thanh khoản, Rudolf Duttweiler( 2008) định nghĩa
thanh khoản không phải một số tiền nào đó hay một tỷ lệ nào đó, mà nó thể hiện phạm
vi khả năng thực hiện các nghĩa vụ thanh toán của một Ngân hàng. Như vậy, thiếu khả
năng thanh khoán nghĩa là Ngân hàng bị hạn chế trong việc thực hiện các nghĩa vụ
thanh toán, và đối mặt với rủi ro thanh khoản là Ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ
không thể thực hiện các nghĩa vụ thanh toán, theo đó việc không thể thực hiện này sẽ
kéo theo những hậu quả không mong muốn. ( Durweiler,2008, tr 30). Tác giả cũng chia
rủi ro thanh khoản theo đặc tính của các nguồn thanh khoản bao gồm: tính sẵn có, cơ
cấu đáo hạn, cấu trúc chi phí và rủi ro thanh khoản.
1.2.1.2. Đo lường trạng thái thanh khoản của Ngân hàng:
Có nhiều phương pháp được sử dụng để đo lường trạng thái thanh khoản của
Ngân hàng. Sau đây là một số các phương pháp điển hình thường được sử dụng trong
các ngân hàng thương mại:
i. Nguồn và sử dụng thanh khoản: Trạng thái thanh khoản ròng được xác
định bằng chênh lệch giữa luồng tiền tạo ra nguồn thanh khoản và số tiền Ngân hàng
đã sử dụng để đáp ứng nhu cầu thanh khoản.
Nguồn thanh khoản cơ bản của một Ngân hàng thường gồm các tài sản có coi
như tiền có tính thanh khoản cao, rủi ro giá cả và chi phí giao dịch thấp như trái phiếu,
tín phiếu kho bạc , số tiền mà Ngân hàng có thể đi vay trên thị trường tiền tệ còn được
gọi là năng lực đi vay tối đa, các khoản tiền nằm tại quỹ Ngân hàng và nằm trên tài
khoản của NH TƯ vượt quá mức dự trữ bắt buộc theo quy định của NHTƯ được gọi là
dự trữ vượt mức.

ii. Phương pháp cung cầu thanh khoản: Trạng thái thanh khoản ròng của
Ngân hàng được xác định bằng:
NLP = tổng cung về thanh khoản – tổng cầu về thanh khoản
Nếu NLP< 0: cầu thanh khoản > cung thanh khoản . Lúc này xảy ra tình trạng
thâm hụt thanh khoản, các Ngân hàng phải có các quyết định kịp thời để tăng được
nguồn cung thanh khoản bổ sung
Nếu NLP > 0: cung thanh khoản vượt quá cầu thanh khoản. Lúc này xảy ra tình
trạng thặng dư thanh khoản, Ngân hàng sẽ xem xét đầu tư số vốn thặng dư để mang lại
hiệu quả sinh lời.
Nếu NLP = 0: cân bằng thanh khoản. Tuy nhiên trường hợp này rất ít khi xảy ra
trên thực tế, buộc các Ngân hàng luôn phải đối mặt với việc xử lí các trạng thái thặng
dư hay thâm hụt thanh khoản.
iii. Phương pháp khe hở tài trợ:Là phương pháp tập trung vào số dư tiền
gửi trung bình ( bao gồm cả tiền gửi không kì hạn ) như là nguồn thường xuyên để tài
trợ cho dư nợ tín dụng trung bình trong hầu hết các thời gian.
Khe hở tài trợ được tính bằng chênh lệch giữa dư nợ tín dụng trung bình với số
dư tiền gửi trung bình. Nếu kết quả là một số dương, có nghĩa là Ngân hàng phải tài trợ
phần tín dụng phụ trội bằng cách giảm số dư tiền mặt dự trữ và các tài sản thanh khoản
hay đi vay bổ sung trên thị trường tiền tệ. Một sự tăng lên của khe hở tài trợ là dấu hiệu
cảnh báo về rủi ro thanh khoản
iv. Phương pháp tiếp cận cấu trúc vốn: phương pháp này dựa trên sự
phân chia nguồn vốn theo khả năng có thể rút ra khỏi ngân hàng.
Tổng nguồn vốn của Ngân hàng được chia thành ba nguồn vốn chủ
yếu là nguồn vốn nóng, nguồn vốn kém ổn định và nguồn vốn ổn
định.Từ đó các Ngân hàng sẽ xác định nhu cầu dự trữ thanh khoản
cho từng nguồn vốn. Thông thường tỉ lệ dự trữ thanh khoản được xác
định là: 95% nhóm 1, 30% nhóm 2 và 15% nhóm 3
Sau khi xác định được tỉ lệ dự trữ bắt buộc và tỉ lệ dự trữ cho từng
nhóm, dự trữ thanh khoản của Ngân hàng được xác định bằng công
thức:

Dự trữ thanh khoản vốn = 0.95 ( Nguồn vốn nóng – dự trữ bắt buộc)
+ 0.3 ( nguồn vốn kém ổn định - dự trữ bắt buộc) + 0.15 ( Nguồn vốn
ổn định - dự trữ bắt buộc)
Sau khi xác định được tổng dự trữ thanh khoản của Ngân hàng, các
ngân hàng sẽ dự tính nhu cầu vay tối đa và dự trữ thanh khoản cho
các khoản vay chất lượng tốt, thông thường được tính bằng 100%
chênh lêch giữa tổng cho vay tối đa tiềm năng và dư nợ thực tế hiện
tại. Khi đó tổng nhu cầu thanh khoản của ngân hàng được xác định
bằng tổng nhu cầu dự trữ thanh khoản vốn và nhu cầu thanh khoản
cho vay.
Dự trữ thanh khoản cho vay = Quy mô cho vay tối đa – Tổng dư nợ
hiện tại
Tổng dự trữ thanh khoản = Dự trữ thanh khoản vốn + Dự trữ thanh
khoản cho vay
Tổng dự trữ thanh khoản= 0.95 ( Nguồn vốn nóng – Dự trữ bắt
buộc) + 0.3 ( nguồn vốn kém ổn định – dự trữ bắt buộc) + 0.15
( nguồn vốn ổn định – dự trữ bắt buộc) + 1.00 ( Quy mô cho vay tối
đa – tổng dư nợ hiện tại)
v. Phương pháp chỉ số tài chính:
• Chỉ số trạng thái tiền mặt ( cash position indicator ): chỉ số càng cao,
ngân hàng càng có khả năng đáp ứng nhu cầu tiền mặt tức thời
• Chỉ số chứng khoán thanh khoản ( liquidity securities indicator) : chỉ số
này càng cao, ngân hàng càng có tính thanh khoản cao
• Chỉ số năng lực cho vay ( capital ratio) : chỉ số này càng lớn thì càng bộc
lộ sự kém thanh khoản
• Chỉ số tiền nóng ( hot money ratio): được tính toán dựa trên các loại tài
sản nhạy cảm với lãi suất nên chỉ tiêu này càng cao thì Ngân hàng càng
được xem là thanh khoản
• Chỉ số tiền gửi thường xuyên ( core deposit ratio): chỉ số này càng cao
Ngân hàng càng được đánh giá là thanh khoản

• Chỉ số cấu trúc tiền gửi ( deposit composition ratio) : đo lường tính ổn
định của tiền gửi Ngân hàng, chỉ số này càng thấp biểu hiện sự yếu kém
về thanh khoản
• Chỉ số tín dụng/ tiền gửi: chỉ số này càng cao càng thể hiện nguy cơ rủi
ro thanh khoản của Ngân hàng
• Chỉ số tiền đi vay/ tổng tài sản: chỉ số này cao chứng tỏ Ngân hàng dựa
chủ yếu vào nguồn vốn ngắn hạn hơn là nguồn vốn dài hạn để tài trợ tín
dụng. Do đó, một khi Ngân hàng đã đi vay hết khả năng của mình trên thị
trường tiền tệ trong thời điểm hiện tại, rủi ro thanh khoản sẽ xảy ra
• Chỉ số cam kết tín dụng / tổng tài sản: chỉ số này thể hiện một Ngân hàng
có nhiều cam kết tín dụng sẽ phải đối mặt với rủi ro thanh khoản do tỉ lệ
này càng cao thì Ngân hàng càng phải dự trữ thanh khoản để đáp ứng nhu
cầu rút tiền bất cứ lúc nào của khách hàng
1.2.2. Các lí thuyết phân tích nguyên nhân khủng hoảng thanh khoản Ngân hàng:
1.2.2.1. Sự mất cân bằng giữa kì hạn của tài sản và nguồn vốn:
Thông thường các Ngân hàng đi huy động và đi vay vốn trong thời hạn ngắn,
sau đó sử dụng chúng để cho vay với thời hạn dài hơn. Điều này đã đến việc mất cân
đối về kì hạn giữa nguồn vốn và sử dụng vốn mà thường gặp là dòng tiền thu về từ tài
sản đầu tư nhỏ hơn dòng tiền chi ra để trả các khoản tiền gửi đến hạn.
Peter Rose ( 2002) đã chỉ ra rằng một vấn đề liên quan đến sự mất cân đối về kì
hạn là do các Ngân hàng có xu hướng nắm giữ một tỷ lệ cao các nguồn vốn thanh toán
tức thời như tiền gửi thanh toán, tài khoản NOW và các khoản vay trên thị trường tiền
tệ. Chính vì thế như đã đề cập ở trên, các Ngân hàng thường xuyên phải đối mặt với
trạng thái thâm hụt hoặc thặng dư thanh khoản trong khi trạng thái cân bằng thanh
khoản là rất hiếm xảy ra.
1.2.2.2. Sự nhạy cảm với lãi suất:
Một nguyên nhân thứ hai tạo ra áp lực thanh khoản cho Ngân hàng đó là sự
nhạy cảm của Ngân hàng trước những thay đổi của lãi suất.Khi lãi suất tăng, người gửi
tiền thường có xu hướng rút vốn để đầu tư vào những nơi sinh lời cao hơn.Nhiều người
đi vay sẽ không tiếp tục các yêu cầu xin vay mới, mà tăng cường rút vốn từ hạn mức

tín dụng lãi suất thấp.Điều này dẫn đến những thay đổi trong nhu cầu gửi tiền và vay
vốn và cả hai điều này đều gây ra những tác động lớn ảnh hưởng tới trạng thái thanh
khoản của Ngân hàng.
Bên cạnh đó, sự thay đổi của lãi suất có thể kéo theo sự thay đổi của thị giá của
các tài sản mà Ngân hàng có thể đem bán để tăng thanh khoản và trực tiếp làm tăng chi
phí đi vay trên thị trường tiền tệ.
1.2.2.3. Chính sách của Ngân hàng Trung ương:
Chức năng của NHTƯ là thực hiện các chính sách tiền tệ với ba công cụ bao
gồm nghiệp vụ thị trường mở, quy định về dự trữ bắt buộc và áp dụng lãi suất chiết
khấu và tái chiết khấu các giấy tờ có giá của NHTM.
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động mua bán giữa NHTƯ và các NHTM các
giấy tờ có giá như trái phiếu chính phủ, trái phiếu kho bạc Nhà nước, trái phiếu của
chính NHTƯ. Khi muốn tăng cung tiền trên thị trường, NHTƯ tiến hành mua các trái
phiếu từ NHTM, điều này đồng thời làm tăng cung thanh khoản của các Ngân hàng.
Ngược lại, cung thanh khoản của NHTM cũng bị giảm khi NHTƯ tiến hành bán trái
phiếu cho các Ngân hàng với mục đích giảm cung tiền của nền kinh tế.
Công cụ thứ hai là quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tức là việc các Ngân hàng
phải duy trì một tỷ lệ dự trữ tiền gửi tối thiểu tại NHTƯ.Tỷ lệ này cao đồng nghĩa với
việc cung thanh khoản của các Ngân hàng cao và ngược lại.
Cuối cùng, việc áp dụng lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu là việc NHTƯ quy
định mức lãi suất khi thực hiện chiết khấu hoặc tái chiết khấu các giấy tờ có giá từ các
Ngân hàng.Chi phí vay tiền từ NHTƯ được xem là thấp nếu lãi suất này ở mức thấp,
điều này sẽ giúp các Ngân hàng dễ dàng huy động để đáp ứng cầu về thanh khoản.
1.2.2.4. Khủng hoảng nợ và ảnh hưởng đến Ngân hàng
Đã có nhiều nghiên cứu lí thuyết tập trung vào mối liên hệ tiềm tàng giữa khủng
hoảng nợ và một cuộc khủng hoảng ngân hàng, từ đó dự báo khả năng xảy ra khủng
hoảng kép.Bởi lẽ bất kì một sự thay đổi tiêu cực nào trên thị trường tài chính cũng có
thể gây nên tổn thất cho các khoản đầu tư tài chính, và có thể dẫn đến vấn đề về thanh
khoản, thậm chí là phá sản. Trong một nghiên cứu của mình, Flood và Graber đã đưa ra
mô hình giải thích mang tính lí thuyết về sự xuất hiện của một cuộc khủng hoảng tiền

tệ bắt nguồn từ sự lỏng lẻo của các chính sách vĩ mô, cụ thể đó là sự mất kiểm soát của
chính sách tiền tệ đẫn dến thâm hụt công mở rộng hơn. Một cú sốc từ thị trường tác
động lên bảng cân đối kế toán cụ thể sẽ kéo theo những tác động đến các khu vực khác,
ví dụ như một sự sụt giảm giá nhà đất tại Mỹ đã tác động đến bảng cân đối kế toán của
khu vực phi tài chính sau đó sẽ chuyển sang tác động lên bảng cân đối kế toán của khu
vực tài chính ( sự phá sản của các hộ gia đình dẫn đến các khoản lỗ cho các ngân
hàng), và đến khu vực chính phủ. Như vậy khi một cuộc khủng hoảng nợ diễn ra, bảng
cân đối kế toán của các khu vực tài chính sẽ bị ảnh hưởng đầu tiên và yếu dần đi, nhà
đầu tư mất lòng tin vào thị trường tài chính làm cuộc khủng hoảng trở nên trầm trọng,
dẫn tới việc rút tiền hàng loạt tại các Ngân hàng.
1.3. Mối quan hệ giữa việc xếp hạng tín dụng và nguy cơ khủng hoảng thanh
khoản Ngân hàng:
Sự ra đời của các tổ chức xếp hạng tín dụng nhằm giải quyết vấn đề thông tin
bất cân xứng, giúp các tổ chức tài chính và các cơ quan quản lí tài chính quốc gia định
hướng đầu tư, hạn chế rủi ro; đồng thời giúp các tổ chức tín dụng và các nhà đầu tư
khắc phục tình trạng hạn chế thông tin liên quan đến tình hình hoàn trả nợ vay của
khách hàng vay vốn.
Tuy nhiên đã có nhiều nhận định cho rằng với số lượng ít ỏi, hiện đã phát sinh
vấn đề độc quyền trong hoạt động xếp hạng, và cũng có những quan ngại về chất lượng
xếp hạng tín dụng của các tổ chức này. Hiện nay, các tổ chức xếp hạng tín dụng tiến
hành tư vấn cho các tổ chức tín dụng xây dựng danh mục chứng khoán dự kiến phát
hành, và tiếp tục xếp hạng chứng khoán đó sau khi chúng được phát hành. Điều này có
nghĩa là các tổ chức xếp hạng tín dụng thu hai lần phí trong quy trình này nhưng lại
không phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về các xếp hạng của họ và kết quả là dẫn tới lo
ngại về mối quan hệ lợi ích giữa các tổ chức này với các tổ chức tín dụng. Liệu có hay
không sự thiên vị với các Ngân hàng phát hành để xếp hạng có lợi, che giấu rủi ro của
chứng khoán nợ, gây ra thiệt hại cho nhà đầu tư và bất ổn tài chính? Mặt khác khi sự
bất ổn này xảy ra, các tổ chức xếp hạng tín dụng dưới sức ép của thị trường sẵn sàng
đẩy các Ngân hàng tới các nguy cơ bị hạ bậc tín dụng, gây mất lòng tin trong dân
chúng. Các Ngân hàng, do đó, sẽ phải đối mặt với vấn đề sụt giá chứng khoán, chấp

nhận một khoản lỗ từ cơ hội đầu tư này, và tiềm ẩn nguy cơ bị cô lập trên thị trường
vốn do những bất ổn về kinh doanh.
Thực tiễn, các tổ chức xếp hạng tín dụng vẫn giữ mức A cho Ngân hàng
Lehmon Brother chỉ một tháng trước khi sụp đổ. Hay trong thời gian diễn ra khủng
hoảng nợ dưới chuẩn, khi các chứng khoán hóa đảm bảo bằng nghĩa vụ thế chấp dưới
chuẩn được xếp hạng AAA đã kéo theo việc các Ngân hàng ồ ạt đầu tư và phát hành
chứng khoán hóa, đẫn đến hậu quả phải đối mặt với việc mất khả năng thanh khoản
một khi giá trị chứng khoán bị sụt giảm, thua lỗ nặng nề trong kênh đầu tư chứng
khoán hóa, các kênh huy động vốn đóng băng, người gửi tiền ồ ạt đến rút tiền, ngân
hàng trở nên mất khả năng chi trả và cuối cùng là sự phá sản trên toàn hệ thống.
Mặc dù các tổ chức xếp hạng tín dụng không phải là nhân tố trực tiếp gây ra vấn
đề căng thẳng thanh khoản ở Ngân hàng, nhưng một cách gián tiếp các động thái của
họ lại có những ảnh hưởng nhất định đối với Ngân hàng nói chung và vấn đề quản lí
thanh khoản nói riêng.Người viết xin đưa ra một số quan điểm được xem như mối liên
hệ giữa khủng hoảng thanh khoản Ngân hàng và vai trò của tổ chức xếp hạng tín dụng.
Thứ nhất, đó là vai trò các tổ chức xếp hạng tín dụng trong mô hình kinh doanh
của Ngân hàng. Với sự ra đời của các sản phẩm chứng khoán hóa hay còn gọi là các
sản phẩm tài chính cấu trúc, và việc thị trường chứng khoán phát triển mạnh mẽ, mô
hình kinh doanh “ cho vay và phân phối” đã được áp dụng rộng rãi trên hệ thống Ngân
hàng. Không giống như các khoản vay điển hình truyền thống hoặc việc phát hành trái
phiếu, các sản phẩm này là sự kết hợp của một loạt các khoản vay có đặc tính tương tự
nhau được “ đóng gói” tạo thành một nhóm, được xếp hạng tín dụng dựa trên việc xác
định tỉ lệ lãi suất; hoặc giá trên chất lượng của các khoản vay; hoặc chất lượng của các
tài sản chứa trong nhóm đó. Vấn đề được đặt ra ở đây là các sản phẩm chứng khoán
hóa chỉ được phát hành và giao dịch thuận lợi nếu chúng được xếp hạng tín dụng.
Chính vì thế chỉ một sai sót trong việc xếp hạng cũng có thể dẫn đến những kết quả
khác nhau của hoạt động đầu tư chứng khoán hóa tại các Ngân hàng, nhất là các Ngân
hàng có yêu cầu vốn phụ thuộc vào đánh giá của tài sản cấu trúc mà họ nắm giữ. Mặt
khác, đối với các nhà đầu tư, các chi phí đắt đỏ để quản lí rủi ro cộng với hệ thống
nhân viên chuyên môn không đầy đủ, nhiều nhà đầu tư đã dựa vào kết quả xếp hạng

của các tổ chức xếp hạng tín dụng thay vì thực hiện những phân tích riêng để thực hiện
việc kinh doanh của mình. Chính vì thế, bất kì một đánh giá cao hoặc thấp hơn so với
thực tế của các tổ chức xếp hạng có thể ảnh hưởng không nhỏ tới thị trường giao dịch
của các sản phẩm này.
Biểu đồ sau miêu tả vai trò của các tổ chức xếp hạng tín dụng trong quá trình
chứng khoán hóa và giao dịch các chứng khoán tái cấu trúc, cụ thể là chứng khoán
được đảm bảo bởi các khoản vay thế chấp.
Hình 1.1 : Mô hình cho vay thế chấp
Mô hình cho vay thế chấp mới (Nguồn: BBC Business UK)
Trong mối quan hệ giữa Ngân hàng và thị trường chứng khoán thế chấp, các tổ
chức xếp hạng tín dụng đóng vai trò ở giữa, là nhân tố không thể thiếu trong hoạt động
phát hành các chứng khoán thế chấp để các chứng khoán này được giao dịch trên thị
trường tiền tệ.
Ngoài ra, các mô hình xếp hạng tín dụng của các tổ chức này cũng được cho là
không phù hợp với các tài sản tái cấu trúc phức tạp. Wadden IV( 2007) đã nhận định
các mô hình đánh giá không phù hợp đã tạo ra một sự thiên vị trong đánh giá chứng
khoán CDO, gây ra việc mất lòng tin của nhà đầu tư. Các chứng khoán thế chấp thực tế
được xếp hạng AAA ở mức chỉ có 80 cent trên 1 đô la, và các đánh giá được thực hiện
tương tự như các trái phiếu chính phủ thể hiện các tổ chức xếp hạng tín dụng đã sai sót
trong phân biệt sự khác nhau giữa các sản phẩm tái cấu trúc và các trái phiếu doanh
nghiệp hoặc trái phiếu chính phủ.

×