Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Giải pháp tổ chức khai thác hợp lý nguồn lợi nghêu giống tự nhiên tại xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.05 MB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG



VŨ ĐỨC HÙNG



GIẢI PHÁP TỔ CHỨC KHAI THÁC HỢP LÝ
NGUỒN LỢI NGHÊU GIỐNG TỰ NHIÊN TẠI XÃ
ĐẤT MŨI, HUYỆN NGỌC HIỂN, TỈNH CÀ MAU





LUẬN VĂN THẠC SĨ




Khánh Hòa-2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG


VŨ ĐỨC HÙNG
GIẢI PHÁP TỔ CHỨC KHAI THÁC HỢP LÝ NGUỒN LỢI
NGHÊU GIỐNG TỰ NHIÊN TẠI XÃ ĐẤT MŨI, HUYỆN


NGỌC HIỂN, TỈNH CÀ MAU

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Ngành: Kỹ thuật khai thác thủy sản
Mã số: 60.62.03.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

……………………………………
1. TS. NGUYỄN ĐỨC SĨ

……………………………………
2. ThS. NGUYỄN QUỐC KHÁNH
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG


TS. TRẦN ĐỨC PHÚ
KHOA SAU ĐẠI HỌC


……………………
Khánh Hòa-2014
i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan toàn bộ nội dung trong Luận văn này là kết quả nghiên cứu
của tôi, số liệu sử dụng trong Luận văn là trung thực. Các số liệu phỏng vấn thu mẫu
thống kê về năng suất, sản lượng, điều tra thực địa trên ngư trường là kết quả tham

gia của tôi thực hiện trong các chuyến điều tra và kết hợp trong các chuyến kiểm tra
trên biển. Các số liệu về tàu thuyền, nghề nghiệp khai thác, các văn bản quy phạm
pháp luật về lĩnh vực hải sản, công tác quản lý Nhà nước về thuỷ sản sản tại địa
phương được thu thập tại Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cà Mau, Chi cục
Biển và Hải đảo tỉnh Cà Mau và các đơn vị có liên quan khác trong, ngoài tỉnh.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về các nội dung nghiên cứu trong Luận
văn này.


Người cam đoan


Vũ Đức Hùng















ii



LỜI CẢM ƠN

Trước hết tôi xin trân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Viện Khoa
học và Công nghệ khai thác thủy sản- Trường Đại học Nha Trang đã tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ và thực hiện đề tài trong thời gian qua.
Tôi xin trân thành cảm ơn quý Thầy/Cô giảng dạy Chương trình cao học ngành kỹ
thuật khai thác thủy sản đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập và tận tâm truyền đạt
những kiến thức chuyên môn cho tôi trong thời gian học tập.
Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy TS. Nguyễn Đức Sĩ và Ths. Nguyễn
Quốc Khánh đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn và đóng góp nhiều ý kiến quý báu giúp tôi
hoàn thành thuận lợi luận văn “Giải pháp tổ chức khai thác hợp lý nguồn lợi nghêu
giống tự nhiên, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau”.
Xin gửi lời cảm ơn đến các lãnh đạo, đồng nghiệp và công tác viên tại các đơn vị:
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Cà Mau, Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau, Chi
cục Biển và Hải đảo tỉnh Cà Mau, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II, Viện KH&CN
khai thác thủy sản- Đại học Nha Trang, UBND huyện Ngọc Hiển, UBND xã Đất Mũi,
UBND xã Viên An Đông và UBND xã Viên An, Công ty cổ phần FAT đã nhiệt tình hỗ
trợ tôi trong quá trình cung cấp số liệu, tài liệu và hỗ trợ điều tra, thu thập thông tin cần
thiết để thực hiện đề tài này.
Xin trân trọng!
Nha Trang, tháng 4 năm 2014
Học viên




Vũ Đức Hùng







iii


MỤC LỤC
Contents
LỜI CAM ĐOAN i
DANH MỤC CÁC BẢNG vi
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ vii
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN 4
1.1. Một số đặc điểm về nguồn lợi nghêu Meretrix lyrata (Sowerby, 1851). 4
1.2. Ảnh hướng của các yếu tố môi trường đến sinh sản và phát triển của nghêu. 8
1.3. Tình hình chung về quản lý nguồn lợi nghêu 11
1.4. Tổng quan về điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội xã Đất Mũi, Ngọc Hiển 16
CHƯƠNG 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 22
2.1. Phạm vi nghiên cứu 22
2.2. Thời gian và đối tượng nghiên cứu 22
2.3. Phương pháp thu thập thông tin 23
2.4. Xử lý, phân tích các số liệu, thông tin thu thập. 31
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 32
3.1. Thực trạng nguồn lợi và phân bố nghêu tại xã Đất Mũi 32
3.2. Sự biến động của nghêu giống 34
3.3. Hiện trạng khai thác nghêu của xã Đất Mũi 43
a. Phương tiện khai thác nghêu 43
b. Ngư cụ khai thác nghêu 44
3.4. Thực trạng khai thác nghêu giống tại Đất Mũi, Ngọc Hiển, Cà Mau 47

3.5. Những tác động của hoạt động khai thác nghêu giống 53
3.6. Thực trạng công tác quản lý nguồn lợi nghêu giống tự nhiên tại xã Đất Mũi 55
3.7. Giải pháp tổ chức khai thác hợp lý nguồn lợi nghêu giống tự nhiên 57
iv

3.7.1. Giải pháp hoàn chỉnh cơ chế pháp lý 57
3.7.2. Giải pháp chính sách và quy hoạch 58
3.7.3. Giải pháp xã hội 62
3.7.4. Giáo dục và đào tạo 63
3.7.5. Tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng 63
3.7.6. Giải pháp tài chính 64
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT 64
4.1. KẾT LUẬN 64
4.2. KHUYẾN NGHỊ 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO 67
5.1. TÀI LIỆU TRONG NƯỚC 67
5.2. TÀI LIỆU NƯỚC NGOÀI 68


















v

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

BVNLTS Bảo vệ nguồn lợi thủy sản
BV&PTNLTS Bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản
ĐNB Đông Nam Bộ
ĐVTM Động vật thân mềm
KT&BVNLTS Khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản
KT-XH Kinh tế - xã hội
NTTS Nuôi trồng thủy sản
NLTS Nguồn lợi thủy sản
NN&PTNT Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
UBND Ủy ban nhân dân
VQG Vườn Quốc Gia



















vi

DANH MỤC CÁC BẢNG


Bảng 1. Tính toán cơ số mẫu theo Yamane 25
Bảng 2. Mật độ (con/1.000m
2
) và sinh lượng (gram/1.000m
2
) Nghêu bố mẹ qua các đợt
khảo sát 38
Bảng 3. Phần trăm (%) các giai đoạn phát triển tuyến sinh dục của Nghêu bố mẹ. 41
Bảng 4. Mật độ, sinh lượng và trữ lượng nghêu giống và nghêu bố mẹ 43
Bảng 5. Số người tham gia khai thác nghêu giống phân theo địa bàn 49
Bảng 6. Thống kê số lượng người, ngư cụ và phương tiện khai thác 50
Bảng 7. Sản lượng nghêu giống theo năm 51
Bảng 8. Sản lượng nghêu giống được biểu diễn bằng mô hình Schaefer và Fox 53





















vii



DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Hình 1: Hình thái mặt trong và ngoài của vỏ nghêu (Meretrix lyrata) 4
Hình 2. Vị trí phân bố của nghêu Meretrix lyrata ở ĐBSCL 8
Hình 3. Khai thác nghêu giống (nghêu con) tại xã Đất Mũi năm 2012 10
Hình 4. Bản đồ tỉnh Cà Mau 17
Hình 5. Ranh giới nghiên cứu của Đề tài 23
Hình 6. Tóm tắt sơ đồ điều tra phi thực nghiệm của đề tài 25
Hình 7. Kiểm tra nghêu giống xuất hiện 26
Hình 8. Sàng lựa nghêu giống 26
Hình 9. Vợt sàng nghêu giống 27
Hình 10. Dụng cụ thu nghêu giống 27

Hình 11. Diện tích thu nghêu giống 27
Hình 12. Nghêu giống thu được 27
Hình 13. Dụng cụ xác định chiều dài và trọng lượng nghêu 29
Hình 14. Vị trí các điểm thu mẫu nghêu 30
Hình 15. Bản đồ phân bố nghêu giống 33
Hình 16. Bản đồ phân bố của nghêu bố mẹ 34
Hình 17. Nghêu giống 34
Hình 18. Nghêu bố mẹ 34
Hình 19. Biến động mật độ (con/100m
2
) nghêu giống qua các đợt khảo sát 35
Hình 20. Biến động mật độ (con/100m
2
) nghêu giống qua các thời điểm 36
Hình 21. Biến động sinh lượng (gram/100m
2
) qua các đợt khảo sát 36
Hình 22. Biến động chiều dài nghêu giống (mm) qua các đợt khảo sát 37
Hình 23. Biến động chiều dài (mm) nghêu giống qua các điểm khảo sát 37
Hình 24. Biến động trọng lượng trung bình nghêu bố mẹ qua các đợt khảo sát 38
viii

Hình 25. Biến động chiều dài (mm) của nghêu bố mẹ 39
Hình 26. Biến động chiều cao (mm) của nghêu bố mẹ 40
Hình 27. Các giai đoạn phát triển tuyến sinh dục nghêu (độ phóng đại 80X). 40
Hình 28. Tương quan giữa chiều dài (mm) và trọng lượng nghêu giống (gram) 42
Hình 29. Tương quan chiều dài (mm) và trọng lượng nghêu bố mẹ (gram) 42
Hình 30. KT bằng máy hút Nghêu giống 44
Hình 31. KT bằng bè hút Nghêu giống 44
Hình 32. Vợt khai thác nghêu giống bằng tay 44

Hình 33. Cấu tạo vợt khai thác nghêu giống 45
Hình 34. Kết cấu bộ phận hút nghêu 46
Hình 35. Khai thác nghêu giống 47
Hình 36. Sàng lọc loại bỏ tạp chất, trước khi thả ươm. 47
Hình 37. Sự biến động về số người tham gia khai thác nghêu 49
Hình 38. Biến động ngư cụ cào tay 50
Hình 39. Biến động phương tiện cào máy 51
Hình 40. Biến động sản lượng nghêu giống theo năm 52
Hình 41. Mô hình Schaefer và Fox 53
Hình 42. Khu vực bãi nghêu giống không xuất hiện từ năm 2011-2012 54
Hình 43. Khai thác nghêu giống trái phép trong khu vực HTX Khai Long 55
Hình 44. Hiện trạng khai thác nghêu giống tại xã Đất Mũi 58
Hình 45. Đề xuất phân vùng quy hoạch khai thác, ương và nuôi nghêu thương phẩm 61
Hình 46. Bản đồ phân vùng chi tiết quy hoạch khai thác, ương và nuôi nghêu thương phẩm
62





ix


1


MỞ ĐẦU

Động vật thân mềm (Mollusca) giữ vai trò khá quan trọng trong sản lượng khai
thác thủy sản hàng năm trên thế giới. Theo thống kê của FAO năm 2012, động vật thâm

mềm chiếm khoảng 27% về sản lượng và 19% về giá trị tổng sản lượng thủy sản thế giới.
Việt Nam là một quốc gia nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới có các loài thủy sản
nói chung và động vật thân mềm nói riêng khá phong phú và đa dạng. Theo Jorgen
Hyllenberg (2003) vùng biển Việt Nam có khoảng 2200 loài động vật thân mềm (ĐVTM)
thuộc 700 giống của 200 họ với trên 80 loài có giá trị kinh tế cao, chủ yếu tập trung ở các
họ sò (Acridae), nghêu (Meritrix), Bào ngư (Halitidae), Hầu (Ostreidae,… phân bố ở hầu
hết các tỉnh ven biển mỗi vùng có những loài đặc thù khác nhau.
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã có nguồn lợi động vật thân mềm rất phong
phú, nguồn lợi này góp phần đáng kể trong việc cung cấp thực phẩm cho người dân và là
một phần nguồn thu cho cộng đồng ngư dân ven biển, trong đó có thể nói nghêu (Meretrix
lyrata) là đối tượng chiếm vị trí quan trọng nhất (chiếm 60% sản lượng khai thác).
Nghêu (Meretrix lyrata) là một trong những đối tượng thuỷ sản có giá trị cao ở
Việt Nam. Ở phía Nam, vùng thực tế khai thác và phân bố tự nhiên của nghêu khoảng
22.000 ha kéo dài dọc theo vùng ven biển từ huyện Cần Giờ (Thành phố Hồ Chí Minh)
tới Mũi Cà Mau, tập trung nhất là vùng ven biển thuộc tỉnh Tiền Giang (Gò Công Đông),
Bến Tre (Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú), Trà Vinh (Cầu Ngang, Duyên Hải) và Cà Mau
(Đất Mũi).
Nghêu là thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao. Vỏ nghêu được sử dụng trong
ngành mỹ nghệ và công nghiệp chế biến vôi cung cấp cho nuôi trồng thủy sản. Nghêu
sinh trưởng nhanh, sức sinh sản lớn, sản lượng khai thác hàng năm rất cao, phục vụ cho
thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Trong những năm gần đây, nghêu trở thành
đối tượng khai thác và kinh doanh của ngư dân ven biển đồng bằng sông Cửu Long, làm
cho nghề khai thác và nuôi nghêu phát triển mạnh trong những năm gần đây. Năm 2009,
tổng sản lượng nghêu của các tỉnh phía Nam đạt khoảng 115.550 tấn và nghêu trở thành
đối tượng xuất khẩu quan trọng. Thị trường tiêu thụ nghêu nhiều nhất Châu Âu, Mỹ, Nhật
Bản và Hàn Quốc, hàng năm nhập khẩu nghêu khoảng 120.000 tấn với giá trị 300-400
2

triệu USD từ các nước Đông Nam Á. Nghề khai thác và nuôi nghêu đang được các tỉnh
ven biển phía Nam rất quan tâm.

Trong những năm qua nghề khai thác và nuôi nghêu thương phẩm ở các tỉnh như
Tiền Giang, Bến Tre và Cà Mau đã khẳng định được vị trí và tâm quan trọng trong phát
triển kinh tế, góp phần xóa đói giảm nghèo và cải thiện đáng kể đời sống cho người dân
vùng ven biển. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây tình hình quản lý, khai thác và sử dụng
nguồn lợi nghêu giống ở hầu hết các địa phương này trong đó có tỉnh Cà Mau đang tồn
tại rất nhiều bất cập tình trạng khai thác nghêu giống tràn lan, tập trung đông người, khai
thác tận thu đang hủy diệt bãi nghêu các vùng ven biển.
Ở Cà Mau từ năm 2010 trở lại đây, nghêu giống tự nhiên (Meretrix lyrata) xuất
hiện khá nhiều và trở thành đối tượng khai thác mới ở vùng nước biển ven bờ Đông tỉnh
Cà Mau. Sản lượng khai thác nghêu giống tự nhiên lên đến hàng trăm tấn/năm. Tuy vậy,
trong những năm gần đây việc khai thác nguồn lợi nghêu giống tự nhiên diễn ra hết sức
phức tạp, tập trung đông người có lúc lên đến 10.000 người, có trên 800 máy hút cát để
lọc nghêu giống, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới nguồn lợi nghêu giống và môi trường
sinh thái. Các tranh chấp mâu thuẫn, xung đột giữa những người khai thác nghêu với
nhau và với chính quyền thường xuyên xảy ra, gây mất an ninh trật tự khu vực ven biển
tỉnh Cà Mau. Trong khi các nỗ lực của chính quyền các cấp trong việc tìm ra các giải
pháp để quản lý nguồn lợi nghêu giống tự nhiên tại đây chưa mang lại hiệu quả.
Xuất phát từ những thực trạng trên, tôi đề xuất đề xuất đề tài “Giải pháp tổ chức
khai thác hợp lý nguồn lợi nghêu giống tự nhiên, xã Đất Mũi, Ngọc Hiển, Cà Mau”
*/. Ý nghĩa lý luận:
Là căn cứ khoa học nhằm đề xuất các giải pháp về tổ chức quy hoạch, quản lý, bảo
vệ và khai thác hợp lý nguồn lợi nghêu giống tự nhiên ven biển mũi Cà Mau, đồng thời
là cơ sở cho việc ứng dụng thí điểm các mô hình quản lý nghề cá nghề tiên tiến trên thế
giới vào địa phương (đồng quản lý nghề cá, quản lý nghề cá dựa vào cộng đồng, ).
*/. Ý nghĩa thực tiễn:
Cung cấp các số liệu về trữ lượng nguồn lợi nghêu giống tự nhiên, bản đồ phân
bố, phương thức khai thác nghêu giống, là cơ sở cho việc quy hoạch bảo tồn và phát
triển nguồn lợi nghêu giống tại địa phương. Từ đó, mang lại hiệu quả kinh tế, giải quyết
công ăn việc làm, cải thiện sinh kế cho một bộ phận người dân địa phương sống chủ yếu
3


dựa vào nguồn lợi thủy sản tự nhiên. Đồng thời góp phần bảo vệ nguồn lợi, môi trường
sinh thái, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội khu vực ven biển mũi Cà Mau.
*/. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Phương tiện, ngư cụ, đối tượng tham gia các hoạt động
khai thác nghêu giống tại bãi Khai Long, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau (có
diện tích khoảng 3.730 ha) và các cơ quan quản lý thủy sản tại địa phương.
Kết cấu của Luận văn gồm các phần sau:
Mở đầu
Chương 1: Tổng quan
Chương 2: Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Kết luận và khuyến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục.
Kết quả nghiên cứu của đề tài nhằm diễn biến nguồn lợi nghêu giống: trữ lượng
nghêu giống, khu vực xuất hiện; thực trạng khai thác nghêu giống tự nhiên: ngư cụ khai
thác, tác động của ngư cụ khai thác đến nguồn lợi nghêu giống; đề xuất các giải pháp
quản lý, tổ chức khai thác hợp lý nguồn lợi nghêu giống tự nhiên vùng ven biển Mũi Cà
Mau. Đề tài cũng góp phần cho cơ quan quản lý địa phương làm cơ sở xây dựng các
chính sách, quy hoạch, bảo tồn và phát triển nguồn lợi bền vững nguồn lợi này trong thời
gian tới.












4


CHƯƠNG I. TỔNG QUAN
1.1. Một số đặc điểm về nguồn lợi nghêu Meretrix lyrata (Sowerby, 1851).
1.1.1. Đặc điểm hình thái và phân loại.
a. Đặc điểm hình thái.
Các công trình nghiên cứu của Tadashige Habe và Sadao Kossuge (1966), và của
Nguyễn Chính (1996) loài Nghêu ở ĐBSCL được mô tả như sau: Nghêu có hai vỏ dầy,
chắc, có dạng gần tròn, dính chặt nhau bằng một bản lề và gốc vỏ có các răng khớp rất
khít. Mặt trong của vỏ nhẵn trơn, màu trắng ngà. Mặt ngoài vỏ có những đường vân gờ
lồi gần như song song với nhau uốn cong theo miệng vỏ và cùng có tâm là đỉnh vỏ, vỏ
có thể có từ 25 - 60 vân, vỏ càng lớn số vân càng nhiều. Các vân ở gần đỉnh vỏ nhỏ và
khó đếm. Phía sau vỏ có một vệt đen xám lớn từ bản lề khớp vỏ đến gốc sau miệng vỏ.
Vỏ có màu trắng xám hoặc nâu, không có hoa, cá thể có vỏ màu trắng xám chiếm số
lượng nhiều (90%), vỏ màu nâu ít hơn (10%).


Hình
1
:
Hình thái mặt trong và ngoài của vỏ nghêu (Meretrix lyrata)

Trương Quốc Phú (1999) đã mô tả chi tiết hình thái cấu tạo ngoài của Nghêu
Meretrix lyrata (Sowerby, 1851) với các đặc điểm chính sau đây: cơ thể Nghêu được bao
bọc bởi 2 mảnh vỏ bằng nhau có dạng hình tam giác (gần tròn), cạnh trước ngắn hơn (chỉ
bằng 2/3 chiều dài cạnh sau). Hai vỏ gắn vào nhau bằng 1 bản lề, ở mặt lưng có dây chằng

cấu tạo bằng chất sừng đàn hồi để khép mở vỏ. Bên ngoài vỏ có màu trắng ngà, trên mặt
vỏ có nhiều vòng sinh trưởng đồng tâm, các đường sinh trưởng này chạy song song và
thưa dần về phía mặt bụng, ở gần cạnh trước gồ lên rất rõ, cạnh sau tương đối nhẵn bóng.
Phía trước đỉnh vỏ là một mặt nguyệt nhỏ có hình viên đạn, màu trắng, xung quanh mép
mặt nguyệt có một viền màu nâu nhạt. Mặt thuẫn có màu nâu đen, to hơn mặt nguyệt,
nằm ở sau đỉnh vỏ kéo dài hết cạnh sau của vỏ. Mặt bụng mép vỏ cong tròn. Bên trong
5

vỏ, dưới đỉnh vỏ và bản lề có mặt khớp và răng khớp. Mặt trong vỏ có màu trắng, có các
vết in của cơ khớp vỏ trước và sau, vết in của cơ màng áo và vết in của cơ điều khiển ống
hút thoát nước. Vết cơ khớp vỏ trước hơi nhỏ hơn vết cơ khớp vỏ sau và có hình bán
nguyệt, vết cơ khớp vỏ sau hình tròn.
b. Hệ thống phân loại
Theo Habe, Sadao (1966) và Nguyễn Chính (1996), hệ thống phân loại của
nghêu như sau:
Ngành thân mềm: Mollusca
Lớp hai mảnh vỏ: Bivalvia
Bộ mang thật: Eulamellibranchia
Phân bộ: Heterodonta
Liên họ ngao: Veneracea
Họ ngao: Veneridae
Giống ngao: Meretrix
Loài Nghêu: Meretrix lyrata (Sowerby, 1851)
Tên tiếng Anh: Lyrate Asiatic Hard Clam.
Tên địa phương: Nghêu Bến Tre, nghêu.
1.1.2. Đặc điểm sinh trưởng, sinh sản và phân bố
a. Đặc điểm sinh trưởng
Theo Nguyễn Ngọc Lâm & ctv (1994) cho rằng khả năng lọc thức ăn tốt nhất thuộc
về nhóm nghêu có kích thước nhỏ, nghêu càng lớn thì khả năng lọc càng kém hơn. Qua
kết quả nghiên cứu của Trương Quốc Phú (1999) kết luận rằng nghêu là loài có tốc độ

sinh trưởng khối lượng nhanh hơn sinh trưởng chiều dài, sinh trưởng phần vỏ và phầm
thân mềm đồng thời trong suốt đời sống. Tốc độ sinh trưởng chiều dài trung bình là
1,72mm/tháng và khối lượng trung bình là 789,47mg/tháng. Các yếu tố độ mặn, sóng gió,
độ trong và hàm lượng vật chất lơ lửng là những yếu tố chính ảnh hưởng đến sinh trưởng
của nghêu.
Nghêu có các giai đoạn phát triển cụ thể như sau:
Giai đoạn ấu trùng phù du (Trochophore): sống trôi nổi trong nước, theo Quayle
(1988), ban đêm chúng di chuyển lên mặt nước và ban ngày di chuyển xuống đáy. Khi
triều lên, ấu trùng di chuyển lên tầng mặt và ngược lại, sự di chuyển này không quá 4 -
5m. Đây là lý do tại sao ở giai đoạn sống trôi nổi ấu trùng có thể tồn tại ở khu vực gần
6

cửa sông mà ít bị cuốn trôi ra biển, do ấu trùng sống trôi nổi trong nước nên yếu tố về
dòng chảy ảnh hưởng rất lớn đến đời sống cũng như sự phân bố của chúng. Sau khi hết
giai đoạn ấu trùng phù du (Trochophore) chúng biến thái thành ấu trùng bám (Veliger).
Giai đoạn ấu trùng bám (Veliger): chuyển sang giai đoạn sống đáy. Ấu trùng phát
triển tuyến tơ và chân để bám, giai đoạn này ấu trùng cần nền đáy bằng phẳng và cần vật
bám như cát, sỏi. Tuyến tơ sẽ mất khi ấu trùng đã bám.
Giai đoạn trưởng thành: Nghêu sống vùi mình trong đáy cát bùn nhờ hoạt động của
chân. Lúc này chân Nghêu phát triển đầy đủ có dạng hình lưỡi rìu, chân có thể co duỗi
nhờ các cỡ, khi chân duỗi tiết diện ngang của chân có dạng hình mũi tên, nhờ vậy mà
Nghêu có thể chui rút xuống nền đáy.
b. Đặc điểm sinh sản
Sinh sản là phương thức bổ sung các cá thể mới cho quần thể sinh vật, đảm bảo sự
tồn tại và phát triển giống nòi. Vì vậy cũng như các sinh vật khác, đặc tính sinh sản của
thủy sinh vật mang tính chất thích ứng của loài rõ rệt. Mỗi loài đều có những thích ứng
nhằm nâng cao hiệu suất sinh sản, đảm bảo mức độ cao nhất tỉ lệ sống của cá thể mới
sinh. Đặc tính thích ứng đó thể hiện qua các mặt của quá trình sinh sản như: phương thức
sinh sản, mức độ sinh sản, nhịp độ sinh sản cũng như khả năng bảo vệ trứng và con non.
Đối với động vật thân mềm hai mãnh vỏ (Bivalvia) thường sinh sản và thụ tinh ngoài môi

trường nước. Do xác suất gặp nhau giữa tinh trùng và trứng rất thấp, hơn nữa chúng
không có khả năng chăm sóc trứng, phôi và con non nên sức sinh sản của Hai Mảnh Vỏ
thường rất cao. Nhịp độ sinh sản phụ thuộc rất lớn vào khí hậu, điều kiện môi trường
nước…chúng thường sinh sản vào những mùa nhất định trong năm mà có điểu kiện thuận
lợi nhất để đảm bảo cho sự phát triển phôi, sinh trưởng và phát triển của con non.
Nghiên cứu của Trương Quốc Phú (1999) cho rằng sau một năm tuổi Nghêu thành
thục sinh dục và tham gia sinh sản, kích cỡ thành thục lần đầu khoảng 3,5 cm. Nghêu
phân tính đực, cái riêng biệt, một số cá thể Nghêu lưỡng tính, tỷ lệ cá thể lưỡng tính thấp,
chiếm 6,82% trong quần thể. Các yếu tố môi trường như nồng độ muối, sóng gió và hàm
lượng vật chất lơ lửng là những yếu tố chính ảnh hưởng đến sinh trưởng của Nghêu.
Theo Nguyễn Tác An và Nguyễn Văn Lục (1994) thì Nghêu sinh sản hai kỳ trong
năm, thời kỳ đầu vào tháng 3 - 5, thời kỳ thứ 2 vào lúc kết thúc mùa mưa khoảng tháng
10 - 11 hàng năm. Còn kết quả nghiên cứu của Nguyễn Đinh Hùng (2000), mùa sinh sản
chính của Nghêu từ tháng 5 đến tháng 7 và mùa phụ từ tháng 11 đến tháng 1 năm sau (có
7

năm không thấy xuất hiện mùa phụ) với mật độ Nghêu giống xuất hiện thấp hơn, tỷ lệ
đực/cái trong tự nhiên là 1/1.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Hảo và CTV (1999) cho thấy, mùa vụ sinh sản
nghêu thường bắt đầu vào thời điểm giao mùa từ mùa khô chuyển sang mà mùa mưa vào
khoảng từ tháng 6 hoặc tháng 7 hàng năm. Đây là thời điểm mà các yếu tố môi trường
nước cũng như khí hậu thay đổi rất lớn, chính sự biến động này đã kích thích nghêu bố
mẹ sinh sản, nguồn nghêu giống xuất hiện.
c. Đặc điểm phân bố
Theo Nguyễn Chính (1996) thì vùng phân bố của nghêu là ở vùng biển ấm Tây
Thái Bình Dương từ biển Đài Loan đến Việt Nam, trong đó vùng có sản lượng cao nhất
là ven biển thuộc tỉnh Tiền Giang và tỉnh Bến Tre. Nguyễn Chính (2001) cho biết ở Việt
Nam hiện nay có khoảng 6 loài thuộc họ Veneridae trong đó có hai loài thuộc giống
Meretrix, 1 loài thuộc giống Cyclina, 2 loài thuộc giống Anomalocardia và 1 loài thuộc
giống Ktelisia.

Tại đồng bằng sông Cửu Long, chỉ có loài Meretrix lyrata (Sowerby, 1851) là
phân bố với mật độ cao, các loài khác như Meretrix meretrix phân bố với mật độ rất thấp.
Cụ thể hơn, theo Nguyễn Hữu Phụng (1996), ở ĐBSCL, loài Nghêu Meretrix lyrata phân
bố ở bãi triều ven biển huyện Cần Giờ (TP.Hồ Chí Minh), huyện Gò Công Đông (Tiền
Giang), huyện Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú (Bến Tre), huyện Cầu Ngang, Duyên Hải
(Trà Vinh), huyện Vĩnh Châu (Sóc Trăng), huyện Vĩnh Lợi (Bạc Liêu), huyện Ngọc Hiển
(Cà Mau).
8


Hình 2. Vị trí phân bố của nghêu Meretrix lyrata ở ĐBSCL
(Nguồn: Nghiên cứu các giải pháp bảo vệ và phát triển nguồn lợi nghêu Bến Tre
Meretrix lyrata, Sowerby 1858- TS. Nguyễn Thanh Tùng 7/2007)

1.2. Ảnh hướng của các yếu tố môi trường đến sinh sản và phát triển của nghêu.
1.2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh sản của nghêu bố mẹ
Theo D.B. Quayle và G.F. Newkirk (1989), mùa vụ sinh sản của các loài 2 mảnh vỏ
có liên quan đến yếu tố môi trường, thời tiết như nồng độ muối, thủy triều, dòng chảy…
đặc biệt là nhiệt độ và độ mặn. Ở vùng ôn đới, Bilvavia thường sinh sản vào mùa xuân
(quá trình thành thục sinh dục liên quan đến sự tăng dần nhiệt độ vào mùa xuân) và sự
sinh sản phụ thuộc chủ yếu vào nhiệt độ vì nồng độ muối vùng ôn đới thường tương đối
ổn định và không có ảnh hưởng nhiều đến sinh sản. Ngược lại, vùng nhiệt đới nhiệt độ
cao và tương đối ổn định còn độ mặn có sự biến động, chính sự biến động này là một
nhân tố kích thích quá trình sinh sản của Bivalvia, dẫn đến hiện tượng là Bivalvia vùng
nhiệt đới sinh sản kéo dài và kém tập trung hơn Bivalvia vùng ôn đới.
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Hảo và CTV (1999) cho thấy, sự biến động
nồng độ muối tại các vùng khảo sát có liên quan chặt chẽ với nhiệt độ và chế độ mưa lũ
hàng năm. Biến động độ mặn vào mùa mưa năm 1997 và mùa khô năm 1998 cao hơn
nhiều so với mùa mưa năm 1998 và mùa khô năm 1999. Cùng với kết quả điều tra sự
xuất hiện của Nghêu giống, tác giả nhận định rằng sự biến động lớn nồng độ muối (giảm

9

mạnh độ muối) và nhiệt độ (giảm nhiệt độ) vào thời điểm đầu mùa mưa là nguyên nhân
chính kích thích Nghêu sinh sản. Qua nhiều nghiên cứu về mùa vụ sinh sản của nghêu,
chúng ta có thể thấy rằng quá trình sinh sản của nghêu có liên quan chặt chẽ với chế độ
thời tiết khí hậu, ở đây đặc biệt là vào các giai đoạn chuyển mùa. Tính chất mùa vụ có
liên quan chặt chẽ với các yếu tố như nhiệt độ, độ mặn. Chính việc thay đổi nhiệt độ và
độ mặn ở các giai đoạn chuyển mùa đã kích thích tuyến sinh dục Nghêu thành thục và
hình thành mùa vụ sinh sản của Nghêu.
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự xuất hiện nghêu giống
Theo Nguyễn Tác An và Nguyễn Văn Lục (2001), các bãi triều ven biển Bến Tre là
hệ bãi triều châu thổ, biên độ triều tương đối lớn, bị chia cắt mạnh bởi các nhánh sông
lớn và hệ lạch triều. Trong đó các bãi nghêu thuộc loại bãi triều cát mịn - trung, nền đáy
bở xốp và không chắc, nước mặn lợ. Đặc trưng chung của các bãi triều này là xu thế mở
rộng và bồi tụ nhanh về phía biển, thường tạo thành các doi cát, cồn cát ở phía cửa sông,
môi trường trầm tích mang tính khử ở mức độ khác nhau, thường giàu C và P, nghèo N.
Khu vực trung triều (có thời gian ngập bãi 16 - 20 giờ/ngày-đêm, cao trình từ 1 - 2,5
m) nghêu phân bố rất phong phú; khu vực hạ triều (có thời gian ngập bãi 20 - 24 giờ/ngày-
đêm, cao triều từ 3- 4 m) nghêu phân bố chủ yếu là nhóm có kích thước lớn. Báo cáo của
Nguyễn Đinh Hùng (2000) đề cập: theo ngư dân cho biết, ở những khu vực nước sâu
khoảng 8- 10m tại bãi Thới Thuận, nguồn nghêu bố mẹ phân bố khá dày đặc và nguồn
lợi này ít bị tác động bởi sự khai thác của ngư dân do chúng phân bố ở khu vực nước khá
sâu, mặt khác nguồn nghêu nuôi thương phẩm cũng góp phần bổ sung khá đáng kể. Điều
này chứng tỏ rằng nguồn nghêu bố mẹ trong tự nhiên không thiếu, vậy nhân tố còn lại
ảnh hưởng đến sự hình thành nghêu giống là các tác nhân môi trường (chế độ mưa lũ, độ
mặn, dòng chảy…) và còn ảnh hưởng đến sự phát triển của ấu trùng nghêu. Như các loài
động vật thân mềm hai mảnh vỏ khác, quá trình phát triển của nghêu phải trải qua các
giai đoạn ấu trùng.
Giai đoạn đầu là ấu trùng phù du (Trochophore) sống trôi nổi trong nước, sau đó là
giai đoạn sống bám trên nền đáy và cuối cùng là giai đoạn trưởng thành - lúc này nghêu

đã phát triển chân đầy đủ nên có thể chui rút xuống nền đáy dễ dàng. Do đó, tác động của
các yếu tố môi trường đến sự xuất hiện nghêu giống thể hiện rõ rệt nhất trong giai đoạn
ấu trùng sống trôi nổi và giai đoạn chuyển sang sống đáy.
a. Các yếu tố môi trường
10

Theo D.B. Quayle và G.F. Newkirk (1989), trong giai đoạn ấu trùng sống trôi nổi
thì dòng nước ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của chúng, dù có khả năng bơi lội thì ấu
trùng cũng không đủ sức cưỡng lại dòng nước, điều này có ảnh hưởng đến sự phân bố
của ấu trùng. Một nghiên cứu trên ấu trùng của loài Hầu Ống Crassostrea gigas cho thấy
rằng ấu trùng có thể bị dòng nước đưa đi xa ít nhất 80km tính từ nơi nó sinh ra trong suốt
giai đoạn ấu trùng (25 ngày). Tuy nhiên, D.B. Quayle (1989) quan sát thấy rằng ấu trùng
Bivalvia có hiện tượng di chuyển lên xuống trong tầng nước theo chiều thẳng đứng và
phụ thuộc vào chu kỳ thủy triều (khi triều lên ấu trùng di chuyển lên tầng mặt và khi triều
xuống ấu trùng lại di chuyển xuống đáy), đây là căn cứ giải thích cho việc ấu trùng có
thể tồn tại ở khu vực gần cửa sông mà không bị cuốn trôi ra biển.
b. Chất đáy
Chất đáy là yếu tố sinh thái quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của
sinh vật thông qua sự phụ thuộc của sinh vật đó với đặc trưng của nền đáy mà nó thích
ứng. Theo Odum (1963), động vật thân mềm thường chọn nền đáy cát bùn làm nơi sinh
sống, nhóm sống trong cát và trên bề mặt cát là nhóm ăn lọc các chất lơ lửng trong nước,
trong khi các loài sống trong bùn thường ăn các mùn bã hữu cơ trong bùn. Từ đó đưa ra
nhận định rằng mỗi loài sinh vật sống đáy phân bố theo một loại chất đáy riêng. Chất đáy
có ảnh hưởng quan trọng đến tỷ lệ sống của nghêu, nhất là trong giai đoạn ấu trùng. Sau
giai đoạn sống phù du, ấu trùng nghêu chuyển sang sống đáy và bám lên các vật bám trên
nền đáy, lúc này ấu trùng rất cần điều kiện nền đáy bằng phẳng và những vật bám như
cát to, sỏi…

Hình
3

.
Khai thác nghêu giống (nghêu con) tại xã Đất Mũi năm 2012

11

1.3. Tình hình chung về quản lý nguồn lợi nghêu
1.3.1. Tình hình nghiên cứu và quản lý nguồn lợi trên thế giới
Nghêu (Meretrix lyrata) thuộc ngành nhuyễn thể hai mảnh vỏ, sinh sản và phát
triển ở vùng cửa sông và ven biển. Từ lâu, các loài nhuyễn thể có vỏ (Shellfish) được
xem là một nguồn lợi thủy sản tự nhiên ven biển quan trọng. Tuy nhiên, ở Việt Nam cũng
như nhiều nước khác trên thế giới, đang tồn tại nhiều vấn đề phức tạp trong việc quản lý,
khai thác, phục hồi, phát triển, cũng như vấn đề về quyền lợi của cộng đồng dân cư ven
biển liên quan đến nguồn lợi tự nhiên này (Ts. Nguyễn Thanh Tùng và CTV, 2006).
Nghêu (Meretrix lyrata, Sowerby, 1851) là động vật thân mềm có 2 mảnh vỏ (sống
ở vùng nước ven biển, phân bố chủ yếu ở vùng biển ấm Tây Thái Bình Dương từ biển
Đài Loan đến Việt Nam. Nghêu thường sống ở những vùng có nền đáy cát hay cát bùn
trong đó cát phải chiếm từ 60-90% với kích cỡ hạt từ 0,006-0,25 mm, độ mặn cao. Chúng
là đối tượng có giá trị thực phẩm khá cao, có giá trị xuất khẩu và đang được nuôi, khai
thác tự nhiên ở nhiều nước (như Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Philippine, ). Sản
lượng nuôi và khai thác tự nhiên của Nghêu đạt trên 120.000 tấn ở các nước Đông Nam
Á mang lại kim ngạch xuất khẩu hàng năm từ 300-400 triệu USD, đóng góp đáng kể vào
kim ngạch xuất khẩu của các nước Đông Nam Á. Nghêu (Meretrix lytara) được chú ý
phát triển mạnh tại nhiều địa phương của Việt Nam trong thời gian gần đây, tổng sản
lượng nghêu ở toàn bộ khu vực phía Đông của Nam Bộ (bao gồm ĐBSCL và Tp.HCM)
đã đạt khoảng 70-80 ngàn tấn/năm và đã trở thành một mặt hàng xuất khẩu lớn (Trần
Trọng Thương, 2007).
Về mặt khoa học nghêu đã được quan tâm điều tra, nghiên cứu tương đối nhiều về
các đặc điểm sinh học cơ bản phục vụ cho khai thác tự nhiên và sinh sản nhân tạo ở vài
nước khác nhau. Tuy nhiên việc nghiên cứu đặc điểm sinh sản, phát triển của Nghêu cũng
rất khác nhau, chẳng hạn:

Nghiên cứu của Aayabal & Kalyani (1986), theo dõi chu kỳ sinh sản của 3 loài
kinh tế: Meretrix meretrix (L.), M. casta ( Chemnitz ) và Katelysia opima (Gmelin) ở
cửa sông Vellar (Ấn Độ). Kết quả cho thấy mùa sinh sản của 3 loài kể trên kéo dài từ
tháng 2-9. Tỉ lệ con đực nhiều hơn con cái nhưng cả hai thành cùng thời gian và Ấu trùng
Veliger xuất hiện từ tháng 3-5.
Ngoài các nghiên cứu về sinh học, các nghiên cứu liên quan đến việc quản lý và
khai thác cũng được quan tâm. Công tác bảo vệ và phát triển nguồn lợi nhuyễn thể ven
12

biển nói riêng không chỉ đơn giản là các công tác kỹ thuật và quản lý thông thường, mà
thực chất là một chương trình được thiết kế bao gồm một loạt hoạt động khảo sát và
nghiên cứu được tiến hành liên tục và lâu dài, được phối hợp bởi các cấp chính quyền,
các nhà khoa học và cộng đồng dân cư ven biển. Vì tính chất phức tạp đó, Tổ chức Nông
lương Thế giới (FAO) đã phát hành tài liệu “Enhancing or restoring the productivity of
natural populations of shellfish and other marine invertebrate resources” (Tăng cường
và phục hồi năng suất các quần thể tự nhiên của nhóm sinh vật có vỏ và sinh vật không
xương sống khác. Tài liệu này được xem là cẩm nang cho các nước có quyền lợi liên
quan đến nguồn lợi nhuyễn thể tự nhiên, với nội dung phân tích một số kỹ thuật khác
nhau hỗ trợ việc nâng cao sản lượng nhuyễn thể. Các kỹ thuật được đề cập bao gồm: (1)
các phương pháp đánh giá, theo dõi tình trạng và phục hồi nguồn giống, (2) so sánh các
công cụ quản lý không gian khác nhau, (3) các chiến lược trong việc nâng cao chất lượng
nguồn giống, (4) phân tích các vấn đề về môi trường sinh thái liên quan đến nguồn lợi
(môi trường sống, địch hại ), (5) các hướng dẫn trong việc quản lý và đánh giá chương
trình bảo vệ và nâng cao nguồn giống, (6) các vấn đề về chính sách quản lý của địa
phương, sự hợp tác của cộng đồng dân cư ven biển. Ngoài ra, tài liệu còn bàn về các mô
hình nuôi, thử nghiệm sản xuất giống, những khó khăn trong công tác quản lý liên quan
đến đặc tính sinh học của mỗi loài nhuyễn thể.
Với mục đích hỗ trợ công tác quản lý các nguồn lợi ven biển nói chung, Hội nghị
Quốc tế về đới bờ Châu Á -Thái Bình dương Coastal Zone Asia-Pacific (CZAP) được tổ
chức nhằm trao đổi các kinh nghiệm, mô hình quản lý giữa các nước. Báo cáo tổng hợp

được 122 sáng kiến khác nhau, từ việc thiết lập một đơn vị phản hồi việc quản lý lưu vực
sông và ven biển, chịu trách nhiệm bởi tỉnh Thừa Thiên-Huế; đến dự án “Các phương
thức sinh kế của người dân” hợp tác giữa các tổ chức phi chính phủ, chính quyền, các cơ
quan tài chính trong việc quản lý vùng ven biển, tài trợ bởi Ngân hàng Phát triển Châu
Á. Tuy nhiên, các tác giả cho rằng, vẫn còn 2 thách thức chủ chốt cho việc quản lý tổng
hợp vùng bờ (ICM – Intergeted Coastal Management). Các thách thức này liên quan đến
việc tích cực theo dõi và đánh giá các sáng kiến ICM, cũng như áp dụng các sáng kiến
ICM này đến những khu vực đang nguy cấp. Theo đó, báo cáo cũng đề ra các vấn đề
khẩn cấp trong quản lý vùng bờ, có thể kể ra như: cộng đồng ven biển, phương thức sinh
kế, chính sách và kế hoạch tổng hợp, kèm theo đó là các ưu tiên trong hành động nhằm
giải quyết các vấn đề trên.
Như vậy, công tác quản lý nguồn lợi ven biển nói chung, và công tác bảo vệ, phát
triển nguồn lợi nhuyễn thể có vỏ nói riêng bao gồm nhiều nội dung khác nhau: kỹ thuật
13

(mô hình), quản lý (chính quyền, cộng đồng ), chính sách Mỗi nội dung được thực hiện
theo nhiều phương thức khác nhau, phụ thuộc vào từng quốc gia, từng địa phương, từng
đối tượng cụ thể. Tuy nhiên, có thể học được nhiều bài học quý giá, rút được nhiều kinh
nghiệm từ các mô hình thành công, cũng như chưa thành công của các nước trên thế giới,
nhằm xây dựng nên một quy trình tốt hơn cho công tác bảo vệ nguồn lợi tại địa phương
nghiên cứu.
Về mô hình kỹ thuật, có thể xem xét một mô hình mẫu của việc quản lý nguồn lợi
theo mô hình trang trại thủy sản. Việc quản lý sản lượng, các tác động môi trường cũng
như lợi ích của việc nuôi nhuyễn thể có vỏ được đánh giá trên mô hình quản lý nguồn lợi
thông qua trang trại thủy sản (thường gọi là FARM). Việc quản lý này chủ yếu được giao
cho các nông-ngư dân và được kiểm soát bởi những người điều chỉnh. Báo cáo nêu ra 3
nội dung chính của mô hình: (1) các phân tích về vị trí nuôi và lựa chọn loài nuôi, (2) các
phương pháp nuôi tối ưu về sinh lý và kinh tế (thời gian, kích cỡ thả giống và thu hoạch,
mật độ…), (3) đánh giá về môi trường (liên quan đến các tác động về dinh dưỡng…).
Báo cáo này khẳng định, mô hình FARM cũng là một phương án tốt cho việc quản lý

dinh dưỡng tổng hợp vùng bờ.
Ngoài vấn đề kỹ thuật, chính sách quản lý nguồn lợi của địa phương cũng tác động
không nhỏ đến công tác bảo vệ và phát triển nguồn lợi ven biển. Các chính sách kiểm
soát “đầu vào” trước đó (như nỗ lực điều hòa, thiết lập mùa vụ và đăng ký khai thác) hoạt
động không hiệu quả hơn 10 năm, kết quả là tình trạng đánh bắt vượt quá giới hạn, khai
thác quá mức, suy giảm giá trị kinh tế và các hoạt động đánh bắt không an toàn. Về sau,
chính sách kiểm soát “đầu ra”, tiêu biểu là hệ thống hạn ngạch nhuyễn thể, về mặt quy
mô, chứng minh được sự thành công trong việc cải thiện thu nhập, kiểm soát được việc
vượt quá giới hạn đánh bắt, thành công trong việc điều hòa, và can thiệp vào các quyết
định mấu chốt. Tuy nhiên, sự quan tâm của cộng đồng người dân hiện nay là nguồn tài
sản chung này đang có nguy cơ bị nắm giữ chỉ bởi một vài người có đăng ký. Ngoài ra,
kết quả của việc phân hạn ngạch chính là vấn đề mất việc làm, cũng như là vấn đề về
phân phối và sự công bằng.
Cuối cùng, một mô hình quản lý nguồn lợi cần được quan tâm, đó chính là bài học
kinh nghiệm từ Quản lý tổng hợp vùng bờ (ICM- Intergrated Coastal Management) tại
Philippine. Năm 1991, chính phủ Philippine chuyển giao nhiều trách nhiệm về quản lý

×