ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM
NGUYỄN THỊ XUYẾN
BIỆN PHÁP QUẢN LÍ CỦA HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG TIỂU
HỌC NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
CỦA ĐỘI THIẾU NIÊN TIỀN PHONG HỒ CHÍ MINH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Ở HUYỆN
AN DƯƠNG THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG .
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÍ GIÁO DỤC
HÀ NỘI - 2008
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM
NGUYỄN THỊ XUYẾN
BIỆN PHÁP QUẢN LÍ CỦA HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG
TIỂU HỌC NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
CỦA ĐỘI THIẾU NIÊN TIỀN PHONG HỒ CHÍ MINH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Ở HUYỆN
AN DƯƠNG THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG .
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÍ GIÁO DỤC
Chuyên ngành : QUẢN LÍ GIÁO DỤC
Mã số : 60 1405
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hà Nhật Thăng.
HÀ NỘI - 2008
DANH MỤC VIẾT TẮT
TNTP : Thiếu niên Tiền phong.
QLGD: Quản lí giáo dục
TNCS: Thanh niên cộng sản.
CBPT: Cán bộ phụ trách.
TW : Trung ương.
GVCN: Giáo viên chủ nhiệm.
GV- TPT: Giáo viên tổng phụ trách.
PTNĐ: Phụ trách nhi đồng.
HĐCĐ: Huy động cộng đồng.
THCS : Trung học cơ sở.
CSVC : Cơ sở vật chất .
GD & ĐT: Giáo dục và đào tạo.
BCH : Ban chấp hành.
HĐĐ : Hội đồng đội
NGLL: Ngoài giờ lên lớp.
CNXH: Chủ nghĩa xã hội.
XHCN: Xã hội chủ nghĩa.
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Xuất phát từ vai trò của đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh trong
việc giáo dục thế hệ trẻ trong trường hoc
Cả nhân loại đang đứng ở thế kỉ 21, một kỷ nguyên mới với bao điều trăn
trở vui mừng phấn khởi nhưng cũng đầy lo toan, một thế kỷ của nền kinh tế tri
thức, của sự bùng nổ thông tin về khoa học kỹ thuật, công nghệ mới, đặc biệt
là sự cạnh tranh về kinh tế. Mối quan hệ giữa người với người trong từng quốc
gia và toàn cầu ngày càng sống động, đa dạng.
“Con người là vốn quý nhất, phát triển con người với tư cách vừa là động lực,
vừa là mục tiêu của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới đất nước. Con người và sự
phát triển con người được đặt vào vị trí trung tâm của chiến lược kinh tế - xã hội,
mở rộng cơ hội, nâng cao điều kiện cho con người phát triển” [3, tr.27].
Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 4 khoá VII
đã khẳng định: Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển và
thanh thiếu nhi là nhân vật trung tâm của chiến lược bồi dưỡng, phát triển con
người. Xã hội hóa công tác chăm sóc giáo dục trẻ em nói chung, vấn đề tập
hợp giáo dục trẻ em thông qua hoạt động của tổ chức Đội nói riêng càng trở
nên quan trọng nhằm góp phần tạo ra một lớp người phát triển toàn diện, xứng
đáng là chủ nhân thế kỷ 21. Đây chính là một nhân tố quan trọng quyết định sự
thành bại của sự nghiệp cách mạng [25].
Từ khi thành lập đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự dìu dắt của
Đoàn với sự thăng trầm của lịch sử, Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh đã
có những bước trưởng thành vượt bậc, có đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng Tổ quốc. Để thực hiện nhiệm vụ chính
trị, xã hội của mình, tổ chức Đội trong từng thời điểm cụ thể đã linh hoạt tự đổi
mới, xây dựng các nội dung, hình thức sinh hoạt phù hợp, tạo các sân chơi lý
2
thú và bổ ích nhằm tập hợp đông đảo thiếu nhi vào hoạt động, xứng đáng là lực
lượng giáo dục quan trọng trong và ngoài nhà trường, góp phần hình thành
cho các em những giá trị tâm hồn, tình cảm phong phú, tốt đẹp.
Công tác Đội TNTP Hồ Chí Minh đóng vai trò, vị trí quan trọng trong
trường tiểu học, là cầu nối giữa ba môi trường: Giáo dục gia đình - Nhà trường
- Xã hội trong công tác bảo vệ chăm sóc và giáo dục thiếu nhi, đảm bảo quá trình
giáo dục được toàn diện: Học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với xã hội.
Đội TNTP Hồ Chí Minh là tổ chức của thiếu nhi Việt Nam từ 9 đến 14 tuổi
do các em làm chủ, tự quản trong mọi công việc, mọi hoạt động dưới sự lãnh
đạo của đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
Đội thu hút tất cả thiếu nhi trong độ tuổi tham gia, không phân biệt nam nữ,
tôn giáo, thành phần xuất thân, dân tộc, vùng đất, lãnh thổ Miễn là các em
có nguyện vọng tự nguyện viết đơn xin gia nhập Đội và được chi Đội biểu
quyết kết nạp.
tổ chức Đội là tổ chức giáo dục. Mọi hoạt động của Đội đều nhằm mục tiêu
giáo dục của Đảng. Đội lấy 5 điều Bác Hồ dạy làm nội dung giáo dục thiếu
nhi cùng với nhà trường, gia đình và lực lượng xã hội.
Đội TNTP Hồ Chí Minh do Bác Hồ và Đảng cộng sản Việt Nam sáng lập và
đoàn TNCS Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh đạo. Đội cùng với nhà trường xhcn giáo
dục thế hệ trẻ theo đường lối quan điểm của Đảng và theo tư tưởng Hồ Chí
Minh nhằm hình thành cho đội viên những tư tưởng đúng, tình cảm đẹp, những
hành vi, thói quen phù hợp với đạo lý của dân tộc và của thời đại.
trong trường tiểu học, Đội TNTP có nhiệm vụ tập hợp đoàn kết thu hút tất
cả thiếu niên nhi đồng tham gia mọi hoạt động do nhà trường tổ chức. Xây
dựng tổ chức Đội vững mạnh, làm tốt công tác Đội và phong trào thiếu nhi
trong trường học và trên địa bàn dân cư, không ngừng củng cố và mở rộng tình
đoàn kết hữu nghị với thiếu nhi quốc tế.
3
tổ chức các hoạt động cho thiếu nhi và đấu tranh cho quyền lợi chính đáng
của thiếu nhi theo luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, luật phổ cập giáo
dục tiểu học.
Đội TNTP Hồ Chí Minh có vai trò rất lớn trong công tác rèn luyện bồi dưỡng
đội viên, tạo nguồn nhân lực cho đoàn TNTP Hồ Chí Minh. [18, tr. 21- 27]
1.2. Xuất phát từ trách nhiệm của hiệu trưởng trong việc tạo điều kiện và
phối hợp với đội Thiếu niên Tiền phong thực hiện mục tiêu giáo dục trong
giai đoạn mới
Trẻ em hôm nay - Thế giới ngày mai, trẻ em hôm nay là chủ nhân của đất
nước, dân tộc Việt Nam ngày mai. Không có việc gì quan trọng hơn là xã hội
phải lo cho tương lai của mình bằng việc chăm lo cho thế hệ trẻ. Khẩu hiệu:
“Hãy dành những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em” [5, tr.2] đã có 197 quốc gia phê
chuẩn, thể hiện rõ tầm quan trọng của công tác chiến lược này.
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nói chung, chăm sóc giáo dục thiếu
niên nhi đồng nói riêng là công tác quan trọng không thể thiếu trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hóa và hiện đại hoá đất nước. Đảng và
Nhà nước ta luôn xem đây là một chiến lược phát triển lâu dài và toàn diện,
nhằm đào tạo cho được các thế hệ thanh thiếu niên kế cận, có đức, có tài, giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hồ Chủ Tịch đã dạy: “Giáo dục không thể tách rời mà phải liên hệ chặt
chẽ với những cuộc đấu tranh xã hội” [24, tr.103]. Những vấn đề mới nảy sinh
như nhu cầu xây dựng mẫu hình con người mới, mặt trái cơ chế thị trường đòi
hỏi phải mở rộng những nội dung, hình thức sinh hoạt mới, xây dựng tổ chức
Đội vững mạnh trong trường học.
Trong lịch sử giáo dục dân tộc, chưa bao giờ yêu cầu phát triển kinh tế xã
hội lại đặt ra cần phát triển con người toàn diện như giai đoạn hiện nay và
những năm sắp tới .
Điều 27 Luật giáo dục đã xác định rõ:
4
“1/ Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện
về đạo đức, trí tuệ , thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng
lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt
Nam XHCN, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh
tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng vào bảo vệ
Tổ quốc”.
“2/ Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban
đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ
và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học THCS”
Trách nhiệm thực hiện môi trường giáo dục tiểu học nói riêng và giáo dục
phổ thông nói chung là trách nhiệm của toàn bộ xã hội, của các thế hệ lớn tuổi.
Song, trước hết và trách nhiệm nặng nề nhất phải thuộc về các nhà quản lý
giáo dục từ cơ sở (trường học) đến ngành giáo dục đào tạo và Đội ngũ thầy cô
giáo các cấp học phổ thông.
Hiệu trưởng một trường học phải là người có trách nhiệm quản lý cao
nhất trong việc tổ chức thống nhất hành động của các lực lượng trong trường
(trong đó có Đội TNTP và đoàn TNCS Hồ Chí Minh) và phát huy tối đa tiềm
năng của xã hội…
1.3. Xuất phát từ thực tế các hiệu trưởng chưa quan tâm đúng mức và chưa
có những biện pháp quản lý tối ưu phát huy được vai trò của Đội và Đoàn
trong công tác giáo dục học sinh
Trong lịch sử giáo dục dân tộc, chưa bao giờ yêu cầu phát triển kinh tế xã
hội lại đặt ra cần phát triển con người toàn diện như giai đoạn hiện nay và
những năm sắp tới.
“ Quyền tự chủ và gắn liền vào đó là sự chịu trách nhiệm trước xã hội của
nhà trường phổ thổng rất hạn chế. Hầu như hiệu trưởng các trường phổ thông
rất ít có quyền tự chủ với thực hiện quá trình đào tạo”[2].
Không ít cán bộ quản lý nhà trường chỉ quan tâm và thực hiện các biện
pháp quản lí hành chính hoạt động dạy học và giáo dục với tư cách quản lý
5
Nhà nước. Chưa có những biện pháp quản lý, phối hợp với các tổ chức trong
và ngoài nhà trường trong có Đội TNTP.
Xuất phát từ những lý do trên, vận dụng “Phương pháp luận nghiên cứu
khoa học” [13] , tôi chọn vấn đề “ Một số biện pháp quản lý của hiệu trưởng
trường tiểu học nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Đội Thiếu niên Tiền
phong Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay ở Huyện An DươngThành phố
Hải Phòng ” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn đề xuất một số biện pháp quản lí
của hiệu trưởng trường tiểu học nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Đội
thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
3 . Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động của Đội TNTP Hồ Chí Minh ở các
trường tiểu học
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lí của hiệu trưởng nhằm phát huy vai
trò của Đội TNTP Hồ Chí Minh ở các trường tiểu học trong giai đoạn hiện nay
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lí luận về quản lí của hiệu trưởng với hoạt động của Đội
TNTP Hồ Chí Minh trong trường tiểu học
- Đánh giá thực trạng những biện pháp quản lý của hiệu trưởng nhằm phát
huy hiệu quả hoạt động của Đội ở các trường tiểu học huyện An Dương - Hải
Phòng 5 năm trở lại đây
- Đề xuất các biện pháp quản lý của hiệu trưởng trường tiểu học nhằm
phát huy hiệu quả hoạt động của Đội trong công tác giáo dục ở trường tiểu học.
5. Giả thuyết khoa học
Vì sao Đội TNTP chưa thực sự là một lực lượng tự quản trong nhà trường
tiểu học? Chưa phát huy được vai trò trong việc tập hợp thiếu nhi thực hiện
mục tiêu giáo dục tiểu học trong sự nghiệp đổi mới giáo dục hiện nay? Phải
chăng trong công tác quản lý của mình, hiệu trưởng chưa nhận thức đầy đủ vai
trò của Đội? Chưa có những biện pháp quản lý hợp lý tạo điều kiện cho Đội
hoạt động thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu học? Nếu xác định được cơ sở công
tác quản lý của hiệu trưởng, tạo điều kiện cho Đội TNTP hoạt động thực hiện
6
tốt mục tiêu của Đội nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu học thì chất lượng,
hiệu quả giáo dục học sinh sẽ tốt hơn.
6. Phạm vi đề tài nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng quản lí của hiệu trưởng nhằm tạo cơ hội, điều kiện
cho Đội TNTP ở trường tiểu học huyện An Dương phát huy hiệu quả hoạt
động, thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu học.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7. 1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
- Thu thập, đọc, phân tích, xử lí tài liệu
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
- Phương pháp chuyên gia
7.3. Nhóm các phương pháp xử lí số liệu
- Sử dụng toán học thống kê, phần mềm tin học.
- Sử dụng phương pháp phân tích, so sánh để xử lí số liệu
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
luận văn gồm 3 chương chính:
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận về công tác quản lí của hiệu trưởng trường tiểu học
với hoạt động của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh
Chƣơng 2: Thực trạng quản lí của hiệu trưởng nhằm phát huy vai trò của Đội
Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh ở các trường tiểu học huyện An Dương -
thành phố Hải Phòng
Chƣơng 3: Biện pháp quản lí của hiệu trưởng nhằm phát huy hiệu quả hoạt
động của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh ở trường tiểu học trong giai
đoạn hiện nay
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÍ CỦA HIỆU TRƢỞNG TRƢỜNG
7
TIỂU HỌC VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA ĐỘI THIẾU NIÊN TIỀN
PHONG HỒ CHÍ MINH
1.1. Phƣơng pháp luận nghiên cứu đề tài
1.1.1. Sơ lược luận điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giáo dục thế hệ trẻ
Trẻ em là bộ phận quan trọng của mỗi quốc gia và cộng đồng nhân loại,
quan trọng không phải chỉ vì trẻ em chiếm phần đông dân cư (khoảng 1/3 dân
số thế giới nhiều nước trẻ em chiếm một nửa), mà cũng bởi trẻ em sẽ là người
quyết định vận mệnh cuả mỗi quốc gia và cả thế giới trong tương lai. Do đó
tương lai nhân loại phụ thuộc rất nhiều vào cách thức chúng ta chăm sóc giáo
dục và bảo vệ trẻ em như thế nào. Các cơ quan, tổ chức, đoàn thể xã hội phải
đặt các vấn đề trẻ em lên hàng đầu của các chương trình nghị sự chính trị - xã
hội, và xây dựng các chính sách, chương trình về đầu tư nguồn nhân lực, tài
chính dành cho các em. Việc thiết lập một màng lưới, hệ thống giáo dục hoàn
chỉnh khép kín tạo ra môi trường lành mạnh trong bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục thiếu nhi bao gồm nhà trường – gia đình – xã hội; các nhà chuyên môn,
các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương, các tổ chức xã hội.
Bảo vệ quyền con người trong đó có quyền trẻ em là một trong những mục
tiêu mà Liên hợp quốc hằng theo đuổi, đặc biệt là việc thông qua tuyên bố thế
giới về quyền con người năm 1948, Công ước quốc tế quyền trẻ em năm 1989.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ bản chất sự phát triển xã hội là quan hệ con
người trong xã hội, trong sản xuất, biến ý thức xã hội thành lực lượng xã hội, tập
hợp giáo dục cho những đại diện của giai cấp công nhân mới có tri thức cũng như
giác ngộ vô sản cao. Điều này có ý nghĩa quyết định đối với tương lai, Mác cho
rằng : “Bộ phận giác ngộ nhất trong giai cấp công nhân nhận thức rất rõ rằng
tương lai của giai cấp họ và do đó, tương lai của xã hội loài người hoàn toàn phụ
thuộc vào việc giáo dục các thế hệ công nhân đang lớn lên” [22, tr-3]. Cuộc đấu
tranh cải tạo xã hội, xây dựng ý thức xã hội mới, giáo dục trẻ em đòi hỏi bám sát
điều kiện kinh tế xã hội, thời điểm lịch sử cụ thể. Các nhà kinh điển đã chỉ ra rằng
8
giáo dục phải được tiến hành như một quá trình thường xuyên liên tục: giáo dục
trong nhà trường, giáo dục thông qua lao động; tham gia vào đời sống xã hội, giáo
dục trí dục, thể dục, kĩ thuật bách khoa.
Những tư tưởng vĩ đại của Mác về con người, giáo dục con người phần
nào trở thành hiện thực trong xu thế đấu tranh vì sự phát triển con người mà
đặc biệt là trẻ em trên toàn thế giới ngày nay. Tuyên ngôn thế giới về con
người và các công ước quốc tế về quyền con người của liên hợp quốc nhằm
công bố và thoả thuận mọi người đều có quyền được hưởng tất cả các quyền và
tự do nêu ra mà không bị bất cứ sự phân biệt đối xử nào như về chủng tộc màu
da, giới tính, tôn giáo, ngôn ngữ hoặc nguồn gốc dân tộc hay xã hội…
Với tư cách là một khoa học, công tác thiếu nhi đòi hỏi gắn kết chặt chẽ
giữa lý luận và thực tiễn, nghiên cứu tìm ra những nội dung phương thức hoạt
động mới có hiệu quả hơn. Hoạt động thiếu nhi nói riêng, giáo dục nói chung
sẽ là khô khan giáo điều nếu nó chỉ bó khuôn ở các bài giảng của giáo viên
trong bốn bức tường lớp học xa rời cuộc sống thực tế. Hoạt động của thiếu nhi
chỉ thật sự trở nên có ý nghĩa khi nó theo kịp nhu cầu tâm lý của trẻ em để đưa
ra những định hướng đúng, giúp các em bước đầu hội nhập làm chủ cuộc sống.
Hoạt động của thiếu nhi chỉ thật sự trở nên có ý nghĩa khi nó theo kịp nhu cầu
tâm sinh lý của trẻ em để đưa ra những định hướng đúng, giúp các em bước
đầu hội nhập làm chủ cuộc sống. Lênin viết: “Chúng ta không tin vào việc
huấn luyện giáo dục và học tập nếu những việc đó chỉ đóng khung trong nhà
trường và tách rời cuộc sống” [22, tr.7]. Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí
Minh là cầu nối giữa nhà trường - gia đình - xã hội.
1.1.2. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục thiếu niên nhi đồng
Chăm lo, bồi dưỡng thế hệ trẻ là truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Đảng và nhà nước Việt Nam đã thực sự coi trọng công tác bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em đối với sự phát triển bền vững của đất nước nên đã có nhiều
chủ trương, chính sách và văn bản pháp luật liên quan đến trẻ em. Việt Nam là
9
nước đầu tiên của châu Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn công ước
quốc tế về quyền trẻ em (năm 1990). Các nội dung cơ bản của công ước liên
hợp quốc về quyền trẻ em đã được chính phủ đưa vào chiến lược ổn định và
phát triển kinh tế xã hội. Các quyền trẻ em được ghi nhận trong hiến pháp
1992 và các đạo luật khác; luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (1991),
luật phổ cập giáo dục tiểu học (1991), luật bảo vệ sức khoẻ nhân dân (1989)…
Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách nhằm thực hiện đầy đủ và có hiệu quả
công tác chăm sóc giáo dục trẻ em, chương trình hành dộng quốc gia vì trẻ em
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng phấn khởi.
Đảng, Nhà nước ta luôn quán triệt sâu sắc quan điểm bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục thiếu niên nhi đồng là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, là nhiệm vụ
của mọi cấp, mọi ngành, mọi người. Bài học thực tiễn trong lĩnh vực này
những năm qua chính là xã hội hoá các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ em,
gắn kết chặt chẽ các môi trường giáo dục, giữa học với hành của các em.
Chúng ta thừa nhận rằng việc giáo dục thiếu nhi qua tổ chức Đội (với vai
trò nòng cốt) là khởi đầu của giáo dục cộng sản. Xuất phát từ nguyên tắc này,
công tác Đội và phong trào thiếu nhi được xem xét dưới hai góc độ: là một
nhiệm vụ cách mạng, là một khoa học.[9, tr.34]
Thực chất những quan điểm lý luận trên thể hiện một tầm nhìn bao quát
của chiến lược xây dựng con người.
Sinh thời, Hồ Chủ Tịch là người dành hết tâm huyết của mình cho công
tác chăm sóc, giáo dục thiếu niên nhi đồng. Ngay sau khi cách mạng Tháng
Tám thành công, Bác Hồ đã đặc biệt chăm lo cho con trẻ. Người đã gửi thư
cho các em nhân ngày khai trường đầu tiên của nền giáo dục Việt Nam. Người
đã lập ra Đội thiếu niên cứu quốc (gọi tắt là Đội cứu vong) để tập hợp trẻ em
tham gia hoạt động xã hội. Người đặt hết hoài vọng của mình vào các thế hệ
thiếu niên nhi đồng. Bác cho rằng hoạt động thiếu nhi phải gắn liền với sự
nghiệp xây dựng xã hội mới, muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa thì phải xây
10
dựng con người xã hội chủ nghĩa. Giáo dục nhà trường phải trước tiên góp
phần thực hiện mục tiêu đó. Phải chăng những điều Bác Hồ dạy thiếu niên nhi
đồng chính là phương châm và nội dung để mỗi thiếu nhi vừa học vừa tham
gia hoạt động xã hội. Thực tiễn cho thấy 5 điều Bác Hồ dạy đã được nhiều lớp
lớp thế hệ trẻ thuộc lòng và làm theo.[31]
Bác dạy rằng muốn giáo dục thiếu niên nhi đồng có hiệu quả thì phải kết
hợp tổ chức tốt đồng thời các môi trường giáo dục gia đình, nhà trường và xã
hội. “Giáo dục thiếu niên nhi đồng là trách nhiệm của các cô các chú, của gia
đình, của nhà trường, của đoàn thể, của xã hội. Nếu nhà trường dạy tốt mà gia
đình dạy ngược lại sẽ có ảnh hưởng không tốt đối với trẻ em, và kết quả là
không tốt. Cho nên muốn giáo dục các cháu thành người tốt, nhà trường, đoàn
thể, gia đình và xã hội phải kết hợp chặt chẽ với nhau” [23]
Bác chỉ ra quan điểm giáo dục rất khoa học là học tập gắn liền với vui
chơi, học tập, vui chơi gắn liền với lao động giúp đỡ cha mẹ, gia đình và cộng
đồng “Học gắn liền với vui chơi lành mạnh là một bộ phận trong sự sinh hoạt
của thiếu nhi… trong vui chơi cũng có giáo dục”, trong lúc học cũng cần làm
cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần làm cho chúng học. Ở nhà, trong
trường, trong xã hội chúng đều vui, đều học. Vì vậy bên cạnh việc dạy chữ cần
tổ chức cho các em vui chơi, vui chơi cũng là một hình thức giáo dục. Giáo
dục thiếu nhi cần phải kết hợp cả ba yếu tố: đức dục, giáo dục, thể dục mà
mục tiêu cao nhất là: cách dạy trẻ cần làm cho chúng biết yêu tổ quốc, thương
đồng bào, yêu lao động, biết giữ vệ sinh , giữ kỷ luật, học văn hoá”[23] .
Bác cũng đặc biệt chú trọng đến vấn đề xây dựng nhân cách cho thiếu nhi,
giúp các em có cả đức, cả tài:“ Đức là đạo đức cách mạng, đức là cái gốc
quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì cũng vô dụng”. [24,tr.9]
Có nhiều hướng tiếp cận xây dựng nhân cách và tâm hồn cho trẻ thơ. Tư
tưởng của Hồ Chủ Tịch đã chỉ cho chúng ta bài học toàn diện và khoa học về
công tác giáo dục học sinh tiểu học. Triển khai các hoạt động giáo dục học
sinh ở tiểu học thực chất là một bước đưa những tư tưởng của người vào thực
11
hiện nhiệm vụ đẩy mạnh công tác xây dựng Đội TNTP trong thời kỳ mới.
Thực chất đây là bước thực hiện nguyên tắc giáo dục theo tư tưởng của bác là
học kết hợp với hành, học chữ kết hợp với học làm người, học tập thông qua
vui chơi, tập lao động, tập cho các em bước đầu tham gia vào các hoạt động
chính trị xã hội. Theo chỉ bảo của bác, hoạt động thiếu nhi phải hướng các em
đến tự chủ, xây dựng cho các em những phẩm chất để có thể làm chủ xã hội
trong tương lai. Việc học tập văn hoá tạo cho các em tập lao động, tham gia
vào các hoạt động xã hội không gì hiệu quả bằng gắn các hoạt động này vào
những điều kiện cụ thể của địa phương thông qua hoạt động của tổ chức Đội
TNTP Hồ Chí Minh.
Làn sóng phát triển mới, với hạt nhân cơ bản là nền kinh tế tri thức, quá
trình tất yếu của toàn cầu hoá đã và đang đặt đất nước ta trước những thách
thức to lớn của sự đánh mất bản sắc văn hoá, tụt hậu về kinh tế. Để giữ vững
định hướng xã hội, xây dựng kinh tế trên hai cơ sở giữ gìn, phát huy các giá trị
văn hoá truyền thống, nhân tố con người được xem là nguồn nội lực cơ bản;
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 (khoá VII) Ban chấp hành Trung ương
Đảng đã chỉ rõ mục tiêu phải đạt tới là xây dựng được những con người và thế
hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập và chủ nghĩa xã hội; có đạo đức trong
sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc; công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước; giữ gìn và phát huy những giá trị văn hoá của dân tộc, có
năng lực tiếp thu các giá trị văn hoá nhân loại; phát huy tiềm năng của dân tộc
và con người Việt Nam. Để thực hiện tốt mục tiêu đó, công tác giáo dục đóng
vai trò quan trọng, có ý nghĩa quyết định tinh thần cơ bản của Nghị quyết
Trung ương 2 khóa VIII là nâng cao chất lượng giáo dục, giáo dục cả tri thức
và phẩm chất đạo đức, giáo dục thông qua nhà trường và các lực lượng xã hội
khác; kết hợp giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Ý nghĩa bao quát của Nghị
quyết là giáo dục và tạo ra những con người phát triển toàn diện. Trên tinh
thần đó, hoạt động thiếu nhi ở trường tiểu học với các mô hình do các em tự
12
quản và do các thầy cô giáo là cán bộ phụ trách và do các lực lượng xã hội
khác quản lý, hướng dẫn là một thành phần không thể thiếu trong toàn thể lực
lượng giáo dục xã hội góp phần bồi đắp cho học sinh tiểu học những phẩm
chất đạo đức cần thiết bên cạnh hệ thống tri thức được trang bị trong nhà
trường qua những bài giảng trên lớp.[19]
Xu thế xã hội hoá chăm sóc giáo dục trẻ em ngày càng mở rộng đòi hỏi
Đội phải có sự kiện toàn, khẳng định vai trò của mình với tư cách là lực lượng
giáo dục, là tổ chức nòng cốt của thiếu nhi Việt Nam. Quá trình thực hiện
Công ước quốc tế về quyền trẻ em, luật bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ em đã
được lồng ghép trong nội dung các môn học, học sinh được học như chương
trình chính khoá ở tiểu học nhưng chỉ là lý thuyết khô khan.
Chúng ta đều thừa nhận rằng: “ Về bản chất, giáo dục là quá trình tổ chức
cuộc sống , hoạt động và giao lưu ch học sinh, nhằm giúp họ nhận thức đúng,
tạo lập tình cảm và thói quen đúng, hình thành những thói quen hành vi văn
minh trong cuộc sống phù hợp với chuẩn mực đạo đức.” [37, tr.123-151]
1.2. Các khái niệm công cụ
1.2.1. Khái niệm chung về quản lí
Quản lí là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lí
(người quản lí) đến khách thể quản lí (người bị quản lí) trong một tổ chức
nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức.[20]
1.2.2. Quản lí giáo dục, các quan điểm về quản lí giáo dục, quản lí nhà trường
1.2.2.1. Quản lí giáo dục
Quản lí giáo dục là quá trình tác động có chủ đích, hợp quy luật của
chủ thể quản lí giáo dục/nhà trường lên khách thể/đối tượng (giáo dục nhà
trường) nhằm đạt được mục tiêu dự kiến. [8,tr.7]
1.2.2.2. Các quan điểm về quản lí giáo dục, quản lí nhà trường
Quản lí giáo dục với tư cách là một chuyên ngành khoa học đang phát
triển đã trải qua nhiều biến đổi, bổ sung và ngày một phong phú .
13
- Quan điểm hiệu quả: là quan điểm quản lí giáo dục ra đời vào thập niên
đầu tiên của thế kỉ, khi xuất phát từ việc áp dụng tư tưởng kinh tế vào quản lý
giáo dục. Theo quan niệm hiệu quả, quản lý giáo dục phải được thực hiện sao
cho hiệu số giữa đầu ra và đầu vào của hệ thống giáo dục phải đạt cực đại.
- Quan điểm kết quả: ra đời vào đầu những năm 20. Cơ sở tư tưởng của
quan điểm này là khoa học tâm lý sư phạm. Quan điểm kết quả chú ý đến việc
đạt mục tiêu giáo dục nhiều hơn chú ý đến hiệu quả kinh tế của nó.
- Quan điểm đáp ứng: ra đời vào những năm 60. Cơ sở tư tưởng của quan
điểm này là khía cạnh chính trị của giáo dục. Quản lý giáo dục phải hướng tới
việc làm cho hệ thống giáo dục phục vụ, đáp ứng các đòi hỏi của sự phát triển
đất nước, phát triển xã hội.
- Quan điểm phù hợp: ra đời vào những năm 70. Cơ sở tư tưởng của quan
điểm này là vấn đề văn hóa. Quản lý giáo dục phải đạt được mục tiêu phát triển
giáo dục trong điều kiện bảo tồn phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc.
- Quản lý giáo dục trên cơ sở quản lý nhà trường: là một phương hướng
cải tiến quản lý giáo dục nhằm mục đích tăng cường phân cấp quản lý nhà
trường cho các chủ thể quản lý bên trong nhà trường với những quyền hạn và
trách nhiệm rộng rãi hơn để thực hiện nguyên tắc giải quyết vấn đề tại chỗ.
Các nội dung chủ yếu của quản lý giáo dục trên cơ sở quản lý nhà trường bao
gồm: nhà trường là thực thể trung tâm của bất kì sự biến đổi nào trong hệ
thống giáo dục. Nhà trường tự chủ giải quyết những vấn đề sư phạm - kinh tế -
xã hội của mình với sự tham gia tích cực và có trách nhiệm của những thực thể
hữu quan ngoài nhà trường. Nâng cao trách nhiệm và tính tự quản của mỗi
giáo viên. Hình thành các cơ cấu cần thiết và thiết thực để các thực thể hữu
quan ngoài nhà trường có thể thực sự tham gia vào việc điều phối công việc
nhà trường. Đồng thời tăng cường trách nhiệm và quyền hạn của giáo viên
tham gia quá trình ra quyết định quản lý trong nhà trường. Hình thành các thiết
chế hỗ trợ về tài chính và các nguồn lực cần thiết khác để giáo viên thực sự
14
tham gia công việc quản lý nhà trường. Hình thành cơ chế phân cấp quản lý tài
chính, nhân sự, thực hiện, thậm chí cải tiến thích hợp nội dung và phương pháp
giảng dạy phù hợp với đặc điểm cụ thể của nhà trường. Hình thành và hoàn
thiện hệ thống thông tin giữa các thực thể trong và ngoài nhà trường tham gia
trực tiếp vào các hoạt động quản lý nhà trường. Xây dựng môi trường sư phạm
trong nhà trường và xây dựng nhà trường thành một hệ thống mở nhằm công
khai hóa các hoạt động của nhà trường. Hình thành thiết chế đánh giá kết quả
hoạt động sư phạm của nhà trường dựa trên những thực thể trực tiếp tham gia
quá trình sư phạm và quá trình quản lý nhà trường .
- Quản lí giáo dục trong những điều kiện biến đổi: Biến đổi là một quy
luật của muôn đời. Một tổ chức hay một con người có thể tự thích nghi và
thường là như thế - dựa vào cơ chế nội cân bằng trước những biến đổi của môi
cảnh. Nhưng khả năng nội cân bằng là có giới hạn. Vượt quá một ngưỡng biến
thiên nhất định, tổ chức hoặc cơ thể con người sẽ mất khả năng thích ứng, mất
khả năng tự biến đổi mình. Nội cân bằng không phải là cơ chế duy nhất điều
khiển sự thích nghi. Hơn thế sự biến đổi diễn ra ít nhất theo ba phương diện: sự
biến đổi của môi cảnh; sự biến đổi của tổ chức (hay con người) theo nghĩa
thích nghi và đáp ứng với môi cảnh; sự biến đổi có tính tự giác của tổ chức
(hoặc con người) hoặc là tự giác tự thân hay tự giác có điều khiển. Trong giáo
dục, lấy nhà trường làm thí dụ (có tính điển hình) chịu nhiều sự tác động của
ngoại cảnh, khiến hoạt động vốn rất đúng giờ đúng giấc của nó nhiều khi chao
đảo. Hơn thế, nhà trường luôn phải đương đầu với biết bao nhiêu cải cách, cải
tổ thay đổi, hoặc dội từ trên xuống, hoặc từ trong lòng nó ra.[7]
Để quản lý giáo dục nói chung và nhà trường nói riêng, trong điều kiện những
biến đổi, cần nhận rõ các thành tố có quan hệ và tác động qua lại với nhau của
sự biến đổi cả bên trong và bên ngoài hệ thống giáo dục, bên ngoài và bên
trong nhà trường. Thứ nhất các cá thể: thầy, trò, phụ huynh, các thành viên
khác trong xã hội… là thành tố đầu tiên của sự biến đổi. Bởi con người xét như
15
một cá nhân là một thực thể không bao giờ bất biến, chí ít về phương diện học
sinh của sự phát triển. Hơn nữa con người luôn có khả năng thích ứng trước
những biến đổi ngoại cảnh, cả tự nhiên và xã hội, thậm chí con người, do sự
phát triển có tính xã hội và loài giống của mình, còn luôn tạo ra những biến
đổi. Thứ hai, hệ thống giáo dục nói chung, hay nhà trường nói riêng, là thành
tố tiếp theo của sự biến đổi. Mặc dù có đặc điểm về một quán tính đủ lớn dễ
rạo thành sự trì trệ, hệ thống giáo dục, nhà trường vẫn không ngừng vận động,
biến đổi và phát triển dù tự giác hay tự phát. Hiển nhiên khi xem xét hệ thống
giáo dục hay nhà trường như một thành tố biến đổi, cần lưu tâm đến những
khía cạnh có tính tổ chức người của nhà trường hay nền giáo dục, bên cạnh cái
vỏ vật chất của chúng. Thứ ba, quá trình sư phạm là một thành tố của sự biến
đổi. Có lẽ yếu tố này thường được xem xét nhiều nhất khi thực hiện các thay
đổi, cải cách, đổi mới nhà trường hoặc hệ thống giáo dục. Thứ tư, toàn bộ các
thiết chế xã hội như một thành tố của sự biến đổi. Thành tố này xem như môi
cảnh xã hội của sự biến đổi đối với hệ thống giáo dục hay đối với nhà trường.
Trước những biến đổi của các thành tố bên trong và bên ngoài nhà trường hay
hệ thống giáo dục, người quản lý nhà trường, quản lý giáo dục sẽ phải trả lời:
vì sao chúng ta phải biến đổi? những biến đổi ấy là đúng hay sai? Nhà trường
(hay hệ thống) có điều khiển được sự biến đổi ấy hay không ? Nhà trường
(hay hệ thống) sẽ giúp các thành viên của mình trải qua cuộc biến đổi ấy như
thế nào để có những tác động quản lý thích hợp. [8, tr.1- 9]
1.2.3. Khái niệm hoạt động quản lí, chức năng quản lí
1.2.3.1. Hoạt động quản lí
- Hoạt động quản lý là hoạt động có định hướng, có chủ đích của chủ thể
quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ
chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức .
16
- Hiện nay, hoạt động quản lý thường được định nghĩa rõ hơn: quản lý là
quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động
(chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra.
1.2.3.2. Các chức năng quản lý
Bốn chức năng quản lý chủ yếu cơ bản là
- Kế hoạch hóa: là một chức năng quản lý. Kế hoạch hóa có nghĩa là xác
định mục tiêu, mục đích đối với thành tựu tương lai của tổ chức và các con
đường, biện pháp, cách thức để đạt mục tiêu, mục đích đó. Có ba nội dung chủ
yếu của chức năng kế hoạch hóa:
+ Xác định, hình thành mục tiêu (phương hướng) đối với tổ chức;
+ Xác định và đảm bảo có tính chắc chắn, có tính cam kết) về các nguồn
lực của tổ chức để đạt được các mục tiêu này;
+ Quyết định xem những hoạt động nào là cần thiết để đạt được các mục
tiêu đó.
- Tổ chức: khi người quản lý đã lập xong kế hoạch, họ cần phải chuyển hóa
những ý tưởng khá trừu tượng ấy thành hiện thực. Một tổ chức lành mạnh sẽ có ý
nghĩa quyết định đối với sự chuyển hóa như thế. Xét về mặt chức năng quản lý, tổ
chức là quá trình hình thành nên cấu trúc các quan hệ giữa các thành viên, giữa
các bộ phận trong một tổ chức nhằm làm cho họ thực hiện thành công các kế
hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức. Nhờ việc tổ chức có hiệu quả,
người quản lý có thể phối hợp, điều phối tốt hơn các nguồn vật lực và nhân lực.
Thành tựu của một tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của người quản lý sử
dụng các nguồn lực này sao cho có hiệu quả và có kết quả.
Quá trình tổ chức sẽ lôi cuốn việc hình thành, xây dựng các bộ phận, các
phòng ban cùng các công việc của chúng. Và sau đó là vấn đề nhân sự, cán bộ
sẽ tiếp nối ngay sau các chức năng kế hoạch hóa và tổ chức.
- Lãnh đạo (chỉ đạo): sau khi kế hoạch đã được lập, cơ cấu bộ máy đã
hình thành, nhân sự đã được tuyển dụng thì phải có ai đó đứng ra lãnh đạo, dẫn
17
dắt tổ chức. Một số học giả gọi đó là quá trình chỉ đạo hay tác động. Lãnh đạo
bao hàm việc liên kết, liên hệ với người khác và động viên họ hoàn thành
những nhiệm vụ nhất định để đạt được mục tiêu của tổ chức. Hiển nhiên việc
lãnh đạo không chỉ bắt đầu sau khi việc lập kế hoạch và thiết kế bộ máy đã
hoàn tất, mà nó thấm vào, ảnh hưởng quyết định tới hai chức năng kia.
- Kiểm tra: kiểm tra là một chức năng quản lý, thông qua đó một cá nhân, một
nhóm hoặc một tổ chức theo dõi giám sát các thành quả hoạt động và tiến hành
những hoạt động sửa chữa, uốn nắn nếu cần thiết. Một kết quả hoạt động phải phù
hợp với những chi phí bỏ ra, nếu không tương ứng thì phải tiến hành những hành
động điều chỉnh, uốn nắn. Đó cũng là quá trình tự điều chỉnh, diễn ra có tính chu kì
như sau: người quản lý đặt ra những chuẩn mực thành đạt của hành động; người
quản lý đối chiếu, đo lường kết quả, sự thành đạt so với chuẩn mực đã đặt ra ;
người quản lý tiến hành những điều chỉnh những sai lệch .[8, tr. 68-70]
1.2.4. Cấp tiểu học, trường tiểu học
1.2.4.1. Cấp tiểu học
Cấp tiểu học là cấp học đầu tiên và được xác định là cấp học nền tảng
của hệ thống giáo dục quốc dân. Là cấp học dành cho 100% dân cư. Là cấp
học dành cho trẻ em từ 6 tuổi đến 14 tuổi.
1.2.4.2. Trường tiểu học
- Trường tiểu học là một đơn vị cơ sở của hệ thống giáo dục quốc dân trực
tiếp đảm nhiệm việc giáo dục trẻ từ lớp 1 đến lớp 5. Nhằm hình thành ở học
sinh cơ sở ban đầu cho sự phát triển con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa theo
mục tiêu dục tiểu học
- Trường tiểu học là một tổ chức sự nghiệp, là một công sở có tư cách pháp
nhân. Trường tiểu học được thành lập để tiến hành nhiệm vụ thực hiện mục
tiêu giáo dục theo chương trình giáo dục tiểu học của Bộ giáo dục và đào tạo.
- Trường tiểu học lần đầu tiên tác động tới trẻ bằng phương pháp nhà trường,
hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo.
18
- Trường tiểu học có vai trò tổ chức hoạt động giáo dục, tổ chức thực hiện các
các văn bản pháp quy của nhà nước và chấp hành việc thanh tra, kiểm tra, giám
sát của các cơ quan nhà nước về giáo dục tiểu học.
1.2.5. Người quản lý, Hiệu trưởng trường tiểu học
1.2.5.1. Người quản lý
- Người quản lý là nhân vật có trách nhiệm phân bố nhân lực và các
nguồn lực khác, chỉ dẫn sự vận hành của một bộ phận hay toàn bộ tổ chức để
tổ chức hoạt động có hiệu quả và đạt đến mục đích. Người quản lý là nhân vật
có trách nhiệm phân bố nhân lực và các nguồn lực khác, chỉ dẫn sự vận hành
của một bộ phận hay toàn bộ tổ chức để tổ chức hoạt động có hiệu quả và đạt
đến mục đích.
- Người quản lý được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau. Trước hết
là sự phân loại theo cấp quản lý
+ Người quản lý cấp thấp nhất hay còn gọi là người quản lý tuyến đầu, là
người chịu trách nhiệm trực tiếp về kết quả sản xuất hay dịch vụ do những
thành viên của bộ phận mà người đó phụ trách thực hiện. Người quản lý cấp
thấp nhất có nhiệm vụ giám sát và uốn nắn tại chỗ hoạt động cũng như kết quả
của hoạt động đó của những người lao động - thành viên của tổ chức khi họ
tiến hành các hoạt động sản xuất hay thực hiện dịch vụ. Người quản lý cấp
thấp nhất có vai trò như một mối dây liên hệ giữa kết quả hoạt động của bộ
phận do anh (chị) ta phụ trách với các bộ phận khác trong tổ chức. Người quản
lý cấp thấp nhất không dành nhiều thời gian để làm việc với cấp quản lý cao
hơn hay các thành viên thuộc bộ phận khác. Phần lớn thời gian của người quản
lý cấp này là để sát cánh với những người mà họ trực tiếp phải theo dõi, giám
sát và đôn đốc. Họ phải vật lộn với bộn bề công việc sự vụ và phải thông tin
liên lạc, phải giải quyết vấn đề ngay tại chỗ và tức thì. Nói cách khác họ là
người chỉ huy nơi “đầu sóng ngọn gió”, trên “tuyến lửa”, nơi các hoạt động sản
xuất và dịch vụ diễn ra .
19
+ Người quản lý cấp trung gian: hiển nhiên một tổ chức có quy mô nhỏ có
thể chỉ cần đến một cấp quản lý. Nhưng khi tổ chức phát triển lên, mở rộng
hơn, người quản lý phải chăm lo đến việc điều phối hoạt động của nhiều thành
viên, phải xác định loại hình dịch vụ hay sản phẩm cần cung ứng cho thị
trường, cho xã hội. Khi đó nảy sinh vấn đề về việc phải có những người quản
lý cấp trung gian. Đó là những người tiếp thu những chủ trương, chiến lược,
chính sách có tầm rộng lớn và toàn diện từ người quản lý cấp cao và rồi thì
chuyển tải chúng thành những mục tiêu và kế hoạch chuyên biệt hơn, riêng
biệt hơn, cụ thể hơn cho người quản lý cấp thấp để họ thực hiện. Những người
quản lý cấp trung gian điển hình thường giữ những chức vụ như trưởng phòng
ban, quản đốc phân xưởng Họ có trách nhiệm chỉ đạo, định hướng và điều
phối hoạt động của những người quản lý cấp thấp hoặc những người không giữ
nhiệm vụ quản lý như các nhân viên văn thư, cán bộ trợ lý
+ Người quản lý cấp cao: là những người chịu trách nhiệm định hướng, chỉ
đạo và vận hành toàn diện của cả một tổ chức. Họ phải xây dựng, xác định mục
tiêu, chính sách, chiến lược cho toàn bộ tổ chức. Mục tiêu do họ đặt ra, theo thứ
bậc, trật tự trong tổ chức sẽ phải đi tới từng thành viên. Người quản lý cấp cao
thường xuyên phải đại diện cho tổ chức trong các hoạt động có tính cộng đồng,
giao dịch, đàm phán, thương thuyết. Họ dành nhiều thời gian để trao đổi, tranh
luận với người quản lý cao cấp khác trong tổ chức, đơn vị khác. Chức vụ điển
hình họ thường phải đảm nhận là chủ tịch hội đồng quản trị, chủ tịch, phó chủ tịch
điều hành, phó chủ tịch thứ nhất, vụ trưởng, giám đốc điều hành.
- Có một cách phân loại người quản lý theo “phạm vi” quản lý, phạm vi
tác động và ảnh hưởng của họ. Có thể chia ra hai loại quản lý sau đây
+ Người quản lý theo chức năng là những người có trách nhiệm giám sát,
theo dõi, đôn đốc hoạt động của những người dưới quyền theo một chuyên
môn hoặc kĩ năng hẹp, hoạt động trong một phạm vi hẹp, rất chuyên biệt. Thí
dụ như hoạt động kế toán, tiền lương, nhân sự, tài chính, tiếp thị hay sản xuất.
20
Có thể nêu một điển hình về hoạt động trả lương: người phụ trách (quản lý)
cũng như nhân viên của họ không cần biết những thông tin nào khác, ngoài
việc tính đúng tiền lương và trả đúng kì hạn cho những thành viên ăn lương
trong tổ chức.
+ Người quản lý là người chịu trách nhiệm về toàn bộ tổ chức hay những
bộ phận quan yếu nhất của tổ chức đó, những bộ phận bao trùm hay có ảnh
hưởng đến hầu hết các lĩnh vực hoạt động có tính sống còn đối với tổ chức.
Nói cách khác, người quản lý tổng hợp phải chủ trì hay chịu trách nhiệm về
một loạt các lĩnh vực chức năng. Người quản lý tổng hợp thường có những
chức vụ như “chủ tịch”, “vụ trưởng”
1.2.5.2. Hiệu trưởng trường tiểu học
- Hiệu trưởng trường tiểu học là người đứng đầu các trường tiểu học, chịu
trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã (dưới đây gọi chung là
của huyện) và cơ quan cấp trên về tổ chức, quản lý về hoạt động giáo dục của
các trường tiểu học đối với địa phương (phường, xã…) và cộng đồng.
- Hiệu trưởng trường tiểu học là người đại diện cho trường về mặt pháp
lý, có trách nhiệm và thẩm quyền cao nhất về hành chính, chuyên môn trong
trường, là người trực tiếp tổ chức, quản lý, chỉ đạo các công tác của trường
theo đường lối, quan diểm giáo dục của Đảng, pháp luật, thể lệ quy định của
nhà nước và mục tiêu, chương trình, nội dung kế hoạch giáo dục của Bộ giáo
dục và đào tạo.
- Hiệu trưởng trường tiểu học là người tham mưu cho cấp ủy, chính quyền
địa phương (xã, phường) các vấn đề thuộc lĩnh vực giáo dục, là người tuyên
truyền vận động các đoàn thể, tổ chức xã hội và cha mẹ học sinh tham gia vào
việc xây dựng và phát triển nhà trường.
- Hiệu trưởng trường tiểu học là nhà giáo dục có tâm hồn, phẩm chất cao
đẹp; trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ vững, đồng thời là người hướng dẫn
chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên, cán bộ, trong trường.[21]
21
1.2.6. Nhiệm vụ, tiêu chuẩn, biện pháp quản lý của hiệu trưởng trường tiểu học
1.2.6.1. Nhiệm vụ quản lý của hiệu trưởng
- Xây dựng kế hoạch công tác hàng năm của trường để trình phòng giáo
dục - Đào tạo cấp trên và chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện duyệt. Quyết định
về tổ chức, quản lý và quy định của trường theo quy định của nhà nước, điều lệ
trường tiểu học và hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ của ngành.
- Trực tiếp phân công quản lý giáo viên, cán bộ, nhân viên: phân công
công tác, kế hoạch công tác của giáo viên, cán bộ, nhân viên. Duyệt kế hoạch
công tác của giáo viên, cán bộ, nhân viên. Chỉ định tổ trưởng chuyên môn,
giáo viên phụ trách lớp và duyệt kế họach công tác của các tổ chuyên môn,
giáo viên phụ trách lớp. Kiểm tra định kỳ, nhận xét, đánh giá giáo viên, cán bộ,
nhân viên trong hoạt động dạy học. Quyết định khen thưởng, kỷ luật và thực
hiện chế độ chính sách với giáo viên, cán bộ, nhân viên; tiếp nhận, thuyên
chuyển giáo viên, cán bộ, nhân viên… theo quy định phân cấp quản lý công
chức, viên chức của cấp trên.
- Quản lý công tác hành chính quản trị của trường theo nguyên tắc và chế
độ của nhà nước, cụ thể: quản lý chính sách, chế độ sinh hoạt, giảng dạy, học
tập của giáo viên, cán bộ, nhân viên và học sinh. Quản lý tài chính của nhà
trường. Quản lý thiết bị, tài sản của trường; có kế hoạch bổ sung tu sửa hàng
năm để đảm bảo nhiệm vụ giáo dục của trường. Tổ chức công tác văn thư, lưu
trữ, công tác hồ sơ, thống kê, báo cáo theo quy định của nhà nước và yêu cầu
của cấp trên. Căn cứ vào thể lệ quy định của nhà nước, quy chế của ngành,
quyết định thu nhận học sinh vào học, giới thiệu học sinh chuyển trường, cho
phép học sinh nghỉ học, quyết định thưởng, phạt học sinh, xét duyệt kết quả
đánh giá xếp loại học sinh, quyết định danh sách học sinh được lên lớp, phải ở
lại lớp. Tổ chức học tập, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn,
22
nghiệp vụ cho giáo viên, cán bộ, nhân viên; quan tâm đến đời sống vật chất
tinh thần cho giáo viên, cán bộ, nhân viên.
- Thường xuyên cải tiến công tác quản lý trường học, đảm bảo các hoạt
động giáo dục của trường đồng bộ, có hiệu quả.
- Tổ chức việc phối hợp giữa nhà trường với các cấp ủy, chính quyền,
đoàn thể ở địa phương và cộng đồng trong việc xã hội hóa giáo dục nhằm thực
hiện chất lượng giáo dục tiểu học và luật phổ cập giáo dục tiểu học.[ 21]
1.2.6.2. Tiêu chuẩn người hiệu trưởng trường tiểu học
Về hiểu biết: nắm được chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về
công tác giáo dục - Đào tạo. Nắm được các luật lệ, chính sách, quy định nhà
nước đối với giáo dục - Đào tạo và các vấn đề liên quan. Nắm được nội dung
cơ bản của công tác quản lý nhà nước về giáo dục - Đào tạo và mục tiêu kế
hoạch đào tạo của trường tiểu học để vận dụng vào thực tế của trường. Am
hiểu tình hình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Có năng lực tổ chức,
quản lý trường học; nắm chắc chương trình, nội dung, yêu cầu của môn học ở
tiểu học; biết vận dụng sáng tạo các công tác chuyên môn nghiệp vụ của các
ngành ở địa phương và trường học.
Về trình độ: có trình độ chuyên môn - Nghiệp vụ trung học sư phạm trở
lên .[21]
1.2.6.3. Biện pháp quản lý của hiệu trưởng trường tiểu học
Biện pháp quản lí của hiệu trưởng trường tiểu học là cách thức tiến hành, là
những việc cụ thể cần làm mà người hiệu trưởng chỉ đạo đơn vị thực hiện
nhằm đạt chỉ tiêu cao nhất đã đề ra.