Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Hoạt động huy động tiền gửi bằng VNĐ tại ngân hàng TMCP kiên long PGD gò vấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (559.21 KB, 51 trang )

BỘ TÀI CHÍNH
TRƯỜNG CAO ĐẲNG TÀI CHÍNH- HẢI QUAN
Đề tài:
HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG TIỀN GỬI BẰNG VNĐ TẠI
NGÂN HÀNG TMCP KIÊN LONG- PGD GÒ VẤP
( TỪ NĂM 2008- 2010)
Họ tên sinh viên: Trần Thị Ánh Hồng
Chuyên ngành: Ngân Hàng
Lớp: C8A4C
MSSV: 0810133081
BÁO CÁO THỰC TẬP
GVHD: Nguyễn Vũ Thân
TP. HỒ CHÍ MINH, Năm 2011
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như ta đã biết ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền
tệ, lợi nhuận thu được chủ yếu là do sự chênh lệch dòng tiền giữa đầu vào và đầu ra sau
khi đã trừ đi các khoản chi phí. Chính vì vậy làm thế nào để huy động vốn tối đa trong
nền kinh tế luôn là một câu hỏi lớn đặt ra cho các nhà quản trị ngân hàng. Vì chỉ khi huy
động vốn tốt ngân hàng mới có thể thực hiện tốt hoạt động kinh doanh, thúc đẩy việc cho
vay nhằm thu lợi nhuận. Trong đó chiếm tỷ trọng lớn và thường xuyên nhất là nguồn vốn
huy động được từ các loại tiền gửi. Thế nhưng, hiện nay thói quen của người dân Việt
Nam nói chung và người dân ở các tỉnh nông thôn nói riêng vẫn chưa quen với việc đem
tiền gửi vào ngân hàng. Một phần vì sợ rủi ro sẽ bị mất, phần khác lại sợ khi chưa đến hạn
tất toán sổ tiết kiệm thì mình lại cần đến số tiền đó. Thế nên thường họ sẽ để tiền ở nhà
cho an toàn và tiện lợi. Nếu chỉ tính riêng từng khách hàng thì nguốn vốn huy động được
có thể không cao, nhưng nếu xét trên toàn bộ đất nước thì số tiền không huy động được sẽ
là rất lớn. Chính vì thế, ngân hàng nào càng tạo được uy tín với khách hàng, huy động
được nhiều vốn và sử dụng nó có hiệu quả thì sẽ nâng cao được khả năng cạnh tranh của
mình, uy tín ngân hàng cũng được tăng lên, lợi nhuận từ đó cũng tăng theo.
Thực tế cho thấy thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố phát triển với tốc độ rất


nhanh, lượng tiền lưu thông ở đây là rất cao. Với việc ngày càng mọc thêm nhiều công ty
trong và ngoài nước cũng như các khu công nghệp thì sẽ kéo theo nhu cầu chi trả lương
qua ngân hàng cũng như nhu cầu thanh toán tiền bằng thẻ. Chính vì thế nếu biết huy động
tốt các nguồn tiền nhàn rỗi của người dân sẽ là một cơ hội rất tốt cho ngân hàng TMCP
Kiên Long có thể tăng nguồn vốn huy động để phục vụ cho quá trình kinh doanh được
thuận lợi hơn. Thế nhưng để cạnh tranh được với những ngân hàng TMCP đã có uy tín
lâu năm và có quy mô lớn thì đòi hỏi ngân hàng Kiên Long phải luôn không ngừng đa
dạng hóa các sản phẩm tiền gửi của mình, tạo được lòng tin đối với khách hàng nhằm thu
hút thêm khách hàng gửi tiền. Đây cũng là một trong những động cơ thúc đẩy em nghiên
2
cứu về đề tài: “Hoạt động huy động tiền gửi bằng VNĐ tại Ngân hàng TMCP Kiên
Long- PGD Gò Vấp” làm đề tài cho bài báo cáo của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích hoạt động huy động tiền gửi của ngân hàng TMCP Kiên Long- PGD Gò Vấp,
từ đó có những đề xuất nâng cao khả năng huy động tiền gửi ở phòng giao dịch Gò Vấp,
tăng khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:Ngân hàng TMCP Kiên Long- PGD Gò Vấp.
Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động huy động tiền gửi bằng VNĐ từ năm 2008- 2010.
4. Phương pháp luận nghiên cứu
Phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp phỏng vấn, phương pháp
phân tích số liệu, phương pháp thu thập thông tin…
5. Kết cấu bài viết
Bài báo cáo gồm các phần:
CHƯƠNG 1: Ngân hàng thương mại( NHTM) và cơ sở lý luận về hoạt động huy
động tiền gửi.
CHƯƠNG 2: Đánh giá thực trạng huy động tiền gửi tại Ngân hàng TMCP Kiên
Long- PGD Gò Vấp.
CHƯƠNG 3: Đề xuất nhằm đẩy mạnh hoạt động huy động tiền gửi tại Ngân hàng
TMCP Kiên Long- PGD Gò Vấp.

Do kiến thức còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận
được ý kiến đóng góp của thầy và ngân hàng để bài viết hoàn chỉnh hơn. Em xin chân
thành cảm ơn.
3
CHƯƠNG 1: NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI( NHTM) VÀ TỔNG QUAN VỀ
HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG TIỀN GỬI
1.1 Tổng quan về ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm về NHTM
NHTM còn là loại ngân hàng có số lượng lớn và rất phổ biến trong nền kinh tế. Sự có
mặt của NHTM trong hầu hết các mặt của hoạt động xã hội đã chứng minh rằng: ở đâu có
hệ thống NHTM phát triển thì ở đó sẽ có sự phát triển với tốc độ cao của nền kinh tế. Vậy
NHTM là gì? Tại sao nó lại có vai trò quan trọng như vậy đối với sự phát triển của nền
kinh tế- xã hội?
Cho đến thời điểm hiện nay có rất nhiều khái niệm về NHTM:
- Ở Việt Nam theo Nghị định số 59/2009/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt
động của NHTM thì NHTM là Ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng
và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận theo quy định của
Luật các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật.
- Còn ở Mỹ NHTM là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và
hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
- Đạo luật Ngân hàng của Cộng hòa Pháp cũng đã chỉ rõ: Ngân hàng thương mại là
những cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của dân chúng dưới hình thức
ký thác và sử dụng nguồn lực đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng
và tài chính.
Như vậy, có thể nói rằng NHTM là Định chế tài chính trung gian quan trọng vào loại
bậc nhất trong nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ thống định chế tài chính trung gian này mà
các nguồn tiền nhàn rỗi nằm rải rác trong xã hội sẽ được huy động, tập trung lại. Đồng
4
thời số vốn đó sẽ được sử dụng để cấp tín dụng cho các tổ chức kinh tế, cá nhân, góp phần
tạo lập và cung ứng vốn cho nền kinh tế tạo điều kiện và thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát

triển.
NHTM tồn tại dưới nhiều dạng sở hữu khác nhau NHTM quốc doanh, NHTM tư nhân,
NHTM liên doanh, NHTM cổ phần hoặc chi nhánh NHTM nước ngoài. Trong đó phổ
biến nhất là NHTM cổ phần. Nhưng dù ở bất kỳ hình thức hoạt động nào NHTM cũng
bao gồm ba nghiệp vụ: nghiệp vụ tài sản nợ( huy động vốn), nghiệp vụ tài sản có( sử
dụng vốn), nghiệp vụ trung gian hoa hồng. Ba loại nghiệp vụ trên có mối quan hệ mất
thiết, hỗ trợ, thúc đẩy cùng phát triển để tạo nên uy tín ngân hàng.
1.1.2 Chức năng- nhiệm vụ của NHTM
1.1.2.1 Chức năng trung gian tín dụng
Nói đến chức năng của NHTM trước hết phải kể đến là chức năng trung gian tín dụng.
Đây được xem là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, nó không những
cho thấy bản chất của NHTM mà còn cho thấy nhiệm vụ chính yếu của NHTM. Khi thực
hiện chức năng trung gian tín dụng, NHTM đóng vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn
và người có nhu cầu về vốn bằng cách đứng ra tập trung, huy động các nguồn tiền tệ tam
thời nhàn rỗi trong nền kinh tế( bao gồm tiền tiết kiệm của các tầng lốp dân cư, vốn bằng
tiền của các đơn vị, tổ chức kinh tế…) và biến nó thành nguồn vốn tín dụng để cho
vay( cấp tín dụng) đáp ứng các nhu cầu vốn kinh doanh, vốn đầu tư cho các ngành kinh tế
và nhu cầu vốn tiêu dùng của xã hội theo nguyên tắc có hoàn trả. Với chức năng này,
ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho
vay. Không những hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất
cho vay sau khi đã trừ đi các khoản chi phí mà còn góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên
tham gia: người gửi tiền và người đi vay.
5
1.1.2.2 Chức năng trung gian thanh toán
Thông qua thực chức năng trung gian tín dụng, NHTM cũng sẽ thực hiện được chức
năng trung gian thanh toán của mình. Đây là chức năng quan trọng, không những thể hiện
khá rõ bản chất của của NHTM mà còn cho thấy tính chất “đặc biệt” trong hoạt động của
NHTM. Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện
các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để
thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền

thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ
Trong chức năng này, các NHTM sẽ cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh
toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín
dụng… Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù
hợp. Chức năng này vô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ
thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.
Nhiệm vụ cụ thể của chức năng này gồm:
- Mở tài khoản tiền gửi giao dịch cho các tổ chức và cá nhân
- Quản lý và cung cấp các phương tiện thanh toán cho khách hàng
- Tổ chức kiểm soát quy trình thanh toán giữa các khách hàng
1.1.2.3 Chức năng cung ứng dịch vụ ngân hàng
Thực hiện chức năng trung gian tín dụng và chức năng trung gian thanh toán vốn đã
mang lại hiệu quả to lớn cho xã hội. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thì chưa đủ, mà để thúc
đẩy các chức năng trên thực hiện tốt hơn, các NHTM cần phải đáp ứng tất cả những yêu
cầu của khách hàng có liên quan đến hoạt động ngân hàng. Đó chính là việc cung ứng
dịch vụ ngân hàng. Vậy dịch vụ ngân hàng là gì mà có thể thúc đẩy hai chức năng trên
được thực hiện hiệu quả hơn?
Dịch vụ ngân hàng được biết đến với hai đặc điểm chính:
6
- Trước tiên, nó là các dịch vụ mà chỉ các ngân hàng với những ưu thế của nó như: có
hệ thống mạng lưới chi nhánh rộng khắp trong và ngoài nước, có quan hệ với nhiều công
ty, xí nghiệp, có trang bị hệ thống thông tin hiện đại để cập nhật những thông tin mới
nhất… mới có thể thực hiện được một cách trọn vẹn và đầy đủ.
- Thứ hai, nó là các dịch vụ gắn liền với các hoạt động ngân hàng, không những cho
phép NHTM thực hiện tốt yêu cầu của khách hàng, mà còn hỗ trợ tích cực để ngân hàng
thực hiện tốt hơn chức năng trung gian tín dụng và chức năng trung gian thanh toán.
* Khả năng tạo tiền
Khả năng tạo tiền cũng được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM là chức
năng trung gian tín dụng và chức năng trung gian thanh toán. Khả năng tạo tiền phản ánh
rõ bản chất của ngân NHTM. Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu

chính cho sự tồn tại và phát triển của mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang
tính đặc thù của mình đã vô hình chung thực hiện việc tạo tiền cho nền kinh tế. Thông qua
chức năng trung gian tín dụng, NHTM sẽ sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số
tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ thông
qua hệ thống NHTM. Như vậy với khoản tiền gửi nhận được ban đầu, hệ thống NHTM
thông qua quá trình cho vay bằng chuyển khoản kết hợp với thanh toán không dùng tiền
mặt qua ngân hàng, có khả năng mở rộng tiển gửi không kỳ hạn gấp nhiều lần, do đó tạo
thêm bút tệ cho lưu thông. Với khả năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương
tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Cần chú
ý là khả năng tạo tiền chỉ là hệ quả của chức năng trung gian tín dụng và chức năng trung
gian thanh toán chứ bản thân nó không phải là chức năng vốn có của NHTM.
Tóm lại, các chức năng và nhiệm vụ của NHTM đều có mối quan hệ hữu cơ, tác
động qua lại lẫn nhau. Vì vậy khi bố trí cơ cấu tổ chức bộ máy để thực hiện chức
năng nhiệm vụ của mình, các NHTM phải sắp xếp tổ chức hợp lý để thực hiện đồng
bộ các chức năng và nhiệm vụ ấy, không nên quá chú trọng chức năng này mà xem
7
nhẹ chức năng nhiệm vụ khác. Như vậy sẽ tạo ra sự đơn điệu và hiệu quả hoạt động
sẽ không cao.
1.1.3 Các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại
1.1.3.1 Nghiệp vụ tài sản Nợ của NHTM
Nghiệp vụ tài sản nợ( nghiệp vụ nguồn vốn) là nghiệp vụ dùng để hình thành nguồn
vốn của NHTM. huy động nguồn vốn là hoạt động tiền đề có ý nghĩa đối với bản thân
ngân hàng cũng như đối với xã hội. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng thương mại được
phép sử dụng những công cụ và biện pháp cần thiết mà luật pháp cho phép để huy động
các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội làm nguồn vốn tín dụng để cho vay đối với nền kinh
tế. Thành phần nguồn vốn của ngân hàng thương mại gồm:

* Vốn tự có: vốn điều lệ, các quỹ, lợi nhuận chưa chia của ngân hàng được gọi là vốn tự
có của ngân hàng (Bank’s Capital) là nguồn vốn khởi đầu và được bổ sung trong quá trình
hoạt động.

- Vốn điều lệ là vốn riêng của ngân hàng do các chủ sở hữu đóng góp,nó được dùng để
xây dựng nhà cửa, văn phòng làm việc, mua sắm tài sản, trang thiết bị nhằm tạo cơ sở vật
chất đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng, số còn lại để đầu tư, liên doanh, cho vay
ttrung và dài hạn.
- Các quỹ dự trữ của ngân hàng: đây là các quỹ bắt buộc phải trích lập trong quá trình
tồn tại và hoạt động của ngân hàng, các quỹ này được trích lập theo tỷ lệ qui định trên số
lợi nhận ròng của ngân hàng, bao gồm:
+ Quỹ dự trữ : được trích từ lợi nhuận ròng hằng năm để bổ sung vốn điều lệ
+ Quỹ dự phòng tài chính: Quỹ này để dự phòng bù đắp rủi ro, thu lỗ trong hoạt động
của ngân hàng
+ Quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ
8
+ Quỹ khen thưởng phúc lợi.
- Lợi nhuận chưa chia: là lợi nhuận ròng hằng năm chưa phân chia và chưa sử dụng
tới.
Vốn tự có của ngân hàng tuy chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn nhưng lại là yếu
tố tài chính quan trọng bậc nhất, nó vừa cho thấy qui mô của ngân hàng vừa phản ánh khả
năng đảm bảo thanh toán các khoản nợ của ngân hàng đối với khách hàng, làm cơ sở cho
NHTM thực hiện các họat động khác.
* Vốn huy động: đây là nguồn vốn chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn nhất của NHTM, thực
chất là tài sản bằng tiền của các sở hữu chủ mà ngân hàng tạm thời quản lý và sử dụng
nhưng phải có nghĩa vụ hoàn trả kịp thời, đầy đủ khi khách hàng yêu cầu. Nguồn vốn huy
động là nguồn tài nguyên to lớn nhất, bao gồm:
- Tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức, cá nhân: là loại tiền gửi mà người sở hữu nó
có thể rút ra sử dụng bất kỳ lúc nào mà không cần phải báo trước về thời hạn và khối
lượng tiền cần rút. Loại này bao gồm các khoản tiền gửi tạm thời của các cá nhân, doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế…Khách hàng gửi loại tiền này không vì mục tiêu lợi nhuận
mà chủ yếu là để thực hiện các khoản chi mua hàng hóa, dịch vụ, thực hiện các khoản
giao dịch về thanh toán, chi trả và thực hiện các khoản chi trả khác. Vì vậy đối với loại
tiền gửi này, ngân hàng trả lãi rất thấp.

- Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền gửi có quy định cụ thể về thời gian rút tiền của khách
hàng. Tiền gửi có kỳ hạn thường bao gồm các khoản tiền gửi của các doanh nghiệp, tiền
gửi tiết kiệm có kỳ hạn tại mọi tầng lớp dân cư trong xã hội…Mục đích của người gửi
tiền nhắm đến khả năng sinh lời của tiền tệ. Đối với loại tiền gửi này, do tính chất ổn định
của nó nên ngân hàng thường trả lãi rất cao.
9
- Vốn huy động khác: NHTM còn có thể huy động vốn bằng cách phát hành các loại
giấy nợ như: Chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu ngân hàng…Các loại phiếu nợ này phát hành
theo từng đợt và xác định trước về thời hạn, lãi suất và cách trả lãi. Đối với hình thức huy
động này ngân hàng cũng trả lãi khá cao.
Trong bài báo cáo này chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu kĩ về hoạt động huy động vốn nói
chung và huy động tiền gửi nói riêng, mà đặc biệt là “Hoạt động huy động tiền gửi bằng
VNĐ tại ngân hàng TMCP Kiên Long- PGD Gò Vấp”.
* Vốn đi vay: nguồn vốn đi vay có vị trí quan trọng trong tổng nguồn vốn của ngân
hàng thương mại, bao gồm:
- Vốn vay ngân hàng trong nước:
+ Vay ngân hàng trung ương: NHTW sẽ tiếp vốn cho ngân hàng thương mại thông qua
biện pháp chiết khấu, tái chiết khấu nếu các hồ sơ tín dụng cùng các chứng từ xin tái chiết
khấu có chất lượng. Làm như vậy, NHTW sẽ trở thành chỗ dựa và là người cho vay cuối
cùng đối với ngân hàng thương mại.
+ Vay các ngân hàng thương mại khác thông qua thị trường liên ngân hàng (Interbank
Market).
- Vốn vay ngân hàng thương mại nước ngoài.
* Vốn tiếp nhận: đây là nguồn tiếp nhận từ các tổ chức tài chính ngân hàng, từ ngân
sách nhà nước… để tài trợ theo các chương trình, dự án về phát triển kinh tế xã hội, cải
tạo môi sinh… nguồn vốn này chỉ được sử dụng theo đúng đối tượng và mục tiêu đã được
xác định
10
* Vốn khác: đó là các nguồn vốn phát sinh trong quá trình hoạt động của ngân hàng
(đại lý, chuyển tiền, các dịch vụ ngân hàng…)

1.1.3.2 Nghiệp vụ tài sản Có( sử dụng vốn)
Là nghiệp vụ sử dụng các nguồn vốn của NHTM vào các hoạt động cho vay, đầu tư,
kinh doanh ngoại tệ… Nghiệp vụ TS Có của ngân hàng bao gồm: nghiệp vụ ngân quỹ,
nghiệp vụ tín dụng, nghiệp vụ đầu tư.
* Nghiệp vụ ngân quỹ: hoạt động tín dụng của ngân hàng nhằm mục đích kiếm lời,
song cần phải bảo đảm an toàn để giữ vững được lòng tin của khách hàng. Muốn có được
sự tin cậy về phía khách hàng, trước hết ngân hàng phải luôn bảo đảm khả năng thanh
toán, đáp ứng được nhu cầu rút tiền bất cứ lúc nào của khách hàng. Muốn vậy các ngân
hàng phải để dành một phần nguồn vốn không sử dụng nó để sẵng sàng đáp ứng nhu cầu
thanh toán bao gồm:
- Tiền mặt tại quỹ: tùy thuộc vào quy mô hoạt động của từng ngân hàng, vào nhu cầu
thường xuyên cũng như nhu cầu thời vụ của các khoản chi tiêu tiền mặt mà NHTM để tồn
quỹ tiền mặt cho hợp lý.
- Tiền gửi ở các ngân hàng khác: để nhờ các NHTM khác thực hiện một số dịch vụ
như: thanh toán, chuyển khoản, bảo lãnh tín dụng…Số tiền này được thanh toán theo mức
độ của quan hệ đại lý giữa các NHTM.
- Tiền gửi ở Ngân hàng Trung ương:
+ Tiền gửi dự trữ bắt buộc.
+ Tiền gửi thanh toán.
* Nghiệp vụ tín dụng: Số nguồn vốn còn lại sau khi để dành một phần dự trữ, các
NHTM có thể dùng để cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân dưới các hình thức:
11
- Cho vay: NHTM sử dụng phần lớn nguồn vốn của mình để cho vay đối với các chủ
thể kinh tế khác nhau gồm: cho vay ngắn, trung, dài hạn phục vụ nhu cầu sản xuất kinh
doanh và tiêu dùng.
- Chiết khấu: đây là nghiệp vụ cho vay (gián tiếp), NHTM sẽ chiết khấu những giấy tờ
có giá chưa đến hạn thanh toán nhằm đáp ứng nguồn vốn cấp thiết cho các chủ thể trong
nền kinh tế.
- Cho thuê tài chính: là loại hình tín dụng trung, dài hạn. Trong đó các công ty cho thuê
tài chính dùng vốn của mình hay vốn do phát hành trái phiếu để mua tài sản, thiết bị theo

yêu cầu của người đi thuê và tiến hành cho thuê trong một thời gian nhất định. Người đi
thuê phải trả tiền thuê cho công ty cho thuê tài chính theo định kỳ. Khi kết thúc hợp đồng
thuê người đi thuê được quyền mua hoặc kéo dài thêm thời hạn thuê hoặc trả lại thiết bị
tho bên cho thuê.
* Nghiệp vụ đầu tư: là nghiệp vụ có vị trí quan trọng thứ hai sau nghiệp vụ cho vay,
nó mang lại khoản thu nhập lớn và đáng kể của ngân hàng thương mại. Trong nghiệp vụ
này, ngân hàng sẽ dùng nguồn vốn của mình và nguồn vốn ổn định khác để đầu tư dưới
các hình thức như:
- Đầu tư trực tiếp: NHTM đầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp, công thương nghiệp
thông qua việc hùn vốn mua cổ phần, cổ phiếu của các công ty, hùn hạp liên doanh, liên
kết thành các công ty con. Việc hùn vốn mua cổ phần chỉ được phép thực hiện bằng vốn
của ngân hàng.
- Đầu tư gián tiếp: bằng cách mua trái phiếu chính phủ, chính quyền địa phương, trái
phiếu công ty…tất cả hoạt động đầu tư chứng khoán đều nhằm mục đích mang lại thu
nhập, mặt khác nhờ hoạt động đầu tư mà các rủi ro trong hoạt động ngân hàng sẽ được
phân tán, đồng thời đầu tư vào trái phiếu chính phủ thì đảm bảo được khả năng sinh lợi
12
với mức độ rủi ro rất thấp. Khi cần vốn, các NHTM cũng có thể bán trên thị trường chứng
khoán hoặc làm chứng từ xin chiết khấu ở Ngân hàng Trung ương.
1.1.3.3 Nghiệp vụ trung gian hoa hồng
- Nghiệp vụ chuyển tiền.
- Nghiệp vụ phát hành thư tín dụng, bảo lãnh.
- Nghiệp vụ ủy thác.
- Phát hành chứng khoán cho các công ty.
- Cho thuê két sắt.
- Cung cấp thông tin và tư vấn về kinh doanh.
- Tư vấn quản trị doanh nghiệp.
- Thanh lý tài sản của các doanh nghiệp bị phá sản.
1.2 Tổng quan về hoạt động huy động tiền gửi
1.2.1 Khái niệm về hoạt động huy động tiền gửi

Huy động tiền gửi là hoạt động mà trong đó các NHTM với những chính sách của
mình sẽ thực hiện việc tìm kiếm và thu hút các nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế dưới
hình thức tiền gửi nhằm đảm bảo hoạt động kinh doanh ngân hàng được diễn ra bình
thường.
1.2.2 Đặc điểm của hoạt động huy động tiền gửi
- Đầu tiên hoạt động huy động tiền gửi được coi là hoạt động cơ bản, có tính chất sống
còn đối với bất kỳ một NHTM nào. Vì nó tạo ra nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
tổng nguồn vốn huy động. Các NHTM tồn tại được là nhờ vào nguồn vốn này.
- Huy động tiền gửi còn là một hình thức huy động vốn mang tính chất thường xuyên
nhất.
13
- Bên cạnh đó, về mặt lý thuyết thì nguồn vốn tạo ra từ hoạt động này là một nguồn
vốn không ổn định vì khách hàng có thể rút tiền của họ ra bất kỳ lúc nào mà không chịu
bất cứ ràng buộc nào( kể cả đối với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn thì khách hàng vẫn có thể
rút ra và chịu lãi suất không kỳ hạn).
- Đồng thời, chi phí phải trả trong hoạt động này tương đối cao và chiếm tỷ trọng chi
phí đầu vào rất lớn trong hoạt động kinh doanh của các NHTM.
- Không những thế huy động tiền gửi còn là hoạt động có chi phí cạnh tranh gay gắt
giữa các ngân hàng.
1.2.3 Các hình thức huy động tiền gửi
Nhìn chung có hai hình thức huy động tiền gửi: tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết
kiệm. Sau đây chúng ta sẽ đi vào chi tiết từng hình thức.
1.2.3.1 Huy động tiền gửi thanh toán
Bao gồm hai loại là tiền gửi thanh toán không kỳ hạn và tiền gửi thanh toán có kỳ
hạn, nhưng tiền gửi thanh toán có kỳ hạn ít được sử dụng nên trong phạm vi bài báo cáo
này chỉ đề cập đến tiền gửi thanh toán không kỳ hạn( sau đây gọi tắt là tiền gửi thanh
toán). Đây là loại tiền gửi mà người gửi tiền( chủ tài khoản) không bị ràng buộc về mặt
thời gian, dùng để phục vụ nhu cầu giao dịch, thanh toán cho chủ tài khoản như trả tiền
hàng hóa, dịch vụ, rút tiền mặt từ ATM, chuyển tiền…Đối với loại tiền gửi này, chủ tài
khoản gửi tiền vào ngân hàng không nhằm mục đích hưởng lãi mà vì nhu cầu giao dịch

thanh toán. Chính vì vậy lãi suất không phải là công cụ để thu hút nguồn vốn này. Điểm
thu hút chính là những dịch vụ ngân hàng kèm theo phải là dịch vụ có nhiều tiện ích, an
toàn, nhanh chóng và chính xác.
14
Thông thường các giao dịch tiền gửi thanh toán thường có giá trị lớn và chi phí sử
dụng vốn( chi phí trả lãi) thấp nên các ngân hàng luôn muốn huy động nguồn vốn này
một cách tối đa. Có như thế hoạt động ngân hàng mới có hiệu quả cao.
1.2.3.2 Huy động tiền gửi tiết kiệm
* Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
Cũng giống như tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn có chi phí sử dụng
vốn thấp( gần như bằng chi phí sử dụng vốn của tiền gửi thanh toán). Chỉ khác ở chỗ tiền
gửi tiết kiệm không kỳ hạn phần lớn là do cá nhân mở tài khoản với mục đích gửi tiết
kiệm để nhận lãi chứ không phải để thanh toán, và họ chỉ muốn gửi trong thời gian ngắn
và có thể rút bất kỳ lúc nào khi cần chứ không muốn bị ràng buộc về thời gian. Đặc biệt
tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn không thể dùng trong các giao dịch thanh toán.
* Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là loại tiền gửi mà trên nguyên tắc người gửi tiền chi có
thể rút ra khi đáo hạn. Tuy nhiên do tính chất cạnh tranh gay gắt giữa các NHTM nên
trong trường hợp bình thường ngân hàng vẫn cho khách hàng rút trước hạn với việc chỉ
được hưởng lãi suất không kỳ hạn.
Nếu như tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn chỉ sử dụng chủ yếu để
cho vay ngắn hạn thì nhờ tính có ổn định hơn, mà đối với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn các
NHTM thường sử dụng để cho vay trung, dài hạn.
Tuy nhiên, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn lại có chi phí sử dụng vốn khá cao. Phần lớn
chủ tài khoản thường gửi tiền nhằm mục đích hưởng lãi chứ không phải để thanh toán.
Những người gửi tiết kiệm thường là những đối tượng giảm chi tiêu trong hiện tại với
mục đích tăng chi tiêu trong tương lai như xây dựng nhà cửa, mua ôtô…, do đó lãi suất
cao, hấp dẫn chính là đòn bẩy để thu hút nguồn vốn này.
15
1.2.4 Lợi ích của huy động tiền gửi mang lại

1.2.4.1 Đối với khách hàng
- Trước hết thanh toán qua ngân hàng giúp khách hàng bảo đảm tính an toàn và giảm
thiểu được thời gian trong thanh toán. Tính an toàn đó được thề hiện ở chỗ nếu thực hiện
theo hình thức thanh toán trực tiếp sẽ dễ gặp phải những rủi ro như: trộm cắp, hao hụt,
mất mát… và còn tốn rất nhiều thời gian mới thực hiện hoàn tất việc thanh toán, mà trong
thời đại hiện nay thì việc biết tận dụng thời gian một cách tối đa, hiệu quả là điều rất quan
trọng trong kinh doanh.
- Tiếp theo, thực hiện thanh toán qua ngân hàng còn giúp các chủ thể tham gia giao
dịch giảm thiểu được những chi phí phát sinh như chi phí vận chuyển, bảo quản tiền tệ,
tiết kiệm nhiều chi phí về giao dịch thanh toán….Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế tham gia
trong giao dịch không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người
phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực
hiện các khoản thanh toán.
- Đối với các khách hàng vay tiền, nhờ có hoạt động huy động tiền gửi mà họ có thể
tiếp cận được với nguồn vốn một cách nhanh chóng và ít tốn kém chi phí hơn.
- Bên cạnh đó khi gửi tiền vào ngân hàng, chủ tài khoản vừa có thể làm cho khoản tiền
nhàn rỗi của mình sinh lời dưới hình thức nhận lãi tiền gửi vừa đảm bảo tính an toàn của
khoản tiền đó. Tránh không để số vốn đó trở thành “tiền chết”.
1.2.4.2 Đối với ngân hàng
Cung cấp nguồn vốn lớn để ngân hàng thực hiện hoạt động kinh doanh của mình.
Không chỉ có lợi cho khách hàng mà hoạt động huy động tiền gửi còn có vai trò rất quan
trọng đối với các ngân hàng. Chính nhờ hoạt động này mà các ngân hàng có vốn để thực
hiện hoạt động kinh doanh của mình.
16
1.2.4.3 Đối với nền kinh tế
- Huy động tiền gửi thanh toán làm giảm bớt khối lượng tiền mặt trong lưu thông, tăng
khối lượng thanh toán bằng chuyển khoản, giảm bớt chi phí phát sinh cho xã hội. Ngày
nay khi nền kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu buôn bán được mở rộng ra phạm vi toàn
thế thế giới, thì việc thanh toán thông qua các ngân hàng ngày càng thể hiện rõ vai trò
quan trọng của nó. Một giao dịch buôn bán trị giá hàng triệu đôla nếu thực hiện thanh

toán trực tiếp giữa người mua và người bán thì sẽ có rất nhiều chi phí phát sinh như: chi
phí kiểm đếm, kiểm tra tiền giả, chi phí thuê người vận chuyển và bảo quản tiền, chi phí
đi lại… Nhưng nhờ có hoạt động thanh toán qua ngân hàng mà rút ngắn được thời gian
cũng như các chi phí phát sinh trên.
- Cũng chính nhờ thực hiện chức năng trung gian thanh toán mà hệ thống NHTM góp
phần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển Tiền- Hàng. Phần lớn các giao dịch thanh toán qua
ngân hàng là những khoản giao dịch có giá trị lớn, phạm vi thanh toán không chỉ bó hẹp
trong từng khu vực, địa phương, mà còn lan rộng trong phạm vi cả nước và phát triển ra
trên phạm vi thế giới. Nhờ vậy các mối quan hệ kinh tế- xã hội trong nước phát triển mà
cón thúc đẩy các quan hệ kinh tế thương mại và tài chính tín dụng quốc tế phát triển.
- Mặt khác huy động tiền gửi tiết kiệm thông qua việc giúp cung cấp vốn kịp thời cho
các doanh nghiệp có thể mở rộng hoạt động kinh doanh, nhờ đó mà nền kinh tế xã hội
cũng được phát triển theo.
1.2.5 Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động tiền gửi
1.2.5.1 Nhân tố khách quan
* Chu kỳ phát triển kinh tế: Tình trạng phát triển của nền kinh tế nhanh hay chậm là
một trong những nhân tố vĩ mô tác động trực tiếp đến hoạt động huy động vốn của
NHTM nói chung và huy động tiền gửi nói riêng. Một điều dễ nhận thấy là người dân chỉ
đem tiền gửi vào ngân hàng khi thu nhập của họ đủ bù đắp nhu cầu trong cuộc sống, và
17
họ có một khoản tiền dư ra để dành. Như vậy khi nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định,
mức sống của người dân cao thì các NHTM có thể khuyến khích người dân gửi tiền bằng
cách đưa ra mức lãi suất hấp dẫn, các dịch vụ có chất lượng tốt…khả năng huy động tiền
gửi từ đó sẽ tăng lên. Ngược lại khi nền kinh tế không phát triển và bất ổn, thu nhập của
người lao động sẽ bị giảm xuống, đồng thời do mất lòng tin vào giá trị của đồng tiền mà
người dân cũng có thể chuyển qua các phương tiện cất giữ khác như mua ngoại hối dự
trữ, mua bất động sản… khả năng huy động tiền gửi từ đó cũng sẽ bị giảm một cách đáng
kể.
* Môi trường pháp lý: tất cả các hoạt động kinh doanh đều phải tuân theo, dựa vào và
chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Mọi hoạt động của NHTM cũng không nằm ngoài quy

luật đó. Vì vậy những quy định, quy chế về lãi suất, mức dự trữ, hạn mức cho vay…cũng
sẽ ảnh hưởng đến hoạt động huy động tiền gửi.
* Môi trường cạnh tranh: Một lĩnh vực càng có nhiều đối thủ cạnh tranh cũng như
các sản phẩm có thể thay thế được thì đòi hỏi việc kinh doanh ngày càng phải nỗ lực hơn.
Đặc biệt ngành ngân hàng là một trong những ngành có mức độ cạnh tranh cao và ngày
càng phức tạp. Ngày nay số lượng các NHTM được cấp phép hoạt động ngày càng tăng
cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các tổ chức tài chính phi ngân hàng, trong khi đó
nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư là có hạn. Chính vì thế sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt
động huy động tiền gửi.
* Yếu tố tiết kiệm của dân cư: cũng là một trong những nhân tố có ảnh hưởng rất lớn
đến hiệu quả huy động tiền gửi. Chỉ khi người dân hiểu hết được lợi ích của huy động tiền
gửi mang lại và có ý muốn tiết kiệm tiêu dùng ở hiện tại với kỳ vọng chi tiêu nhiều hơn
trong tương lai thì họ mới tích cực đem tiền đi gửi ngân hàng dưới hình thức tiền gửi tiết
kiệm hoặc tiền gửi thanh toán, hoạt động huy động tiền gửi mới ngày càng phát triển.
18
1.2.5.2 Nhân tố chủ quan
* Chiến lược kinh doanh của ngân hàng: muốn hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả,
bên cạnh sự tác động của những nhân tố bên ngoài thì những nhân tố xuất phát từ bên
trong cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến bản thân các NHTM. Và chiến lược kinh doanh
chính là một trong những nhân tố chủ quan quan trọng đó.
Mỗi ngân hàng luôn cần phải hoạch định cho mình những chiến lược phù hợp với các
điều kiện bên trong và bên ngoài ngân hàng. Những chiến lược kinh doanh này sẽ có tính
quyết định tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Chiến lược kinh doanh nào hiệu quả
nghĩa là phù hợp với vị trí hiện tại của ngân hàng, phát huy được tối đa những điểm
mạnh, giảm được tối thiểu những điểm yếu và nắm bắt đúng cơ hội thì sẽ giúp ngân hàng
phát triển đi lên. Ngược lại nếu không biết dự đoán chính xác được sự thay đổi của môi
trường cùng với điều kiện, khả năng hiện tại thì sẽ làm cho ngân hàng không thể phát
triển được, thậm chí cũng có thể khiến một ngân hàng đang hoạt động tốt cũng sẽ đi
xuống.
* Chất lượng các sản phẩm huy động vốn, dịch vụ do ngân hàng cung ứng và hệ

thống mạng lưới: một chiến lược kinh doanh hiệu quả không thể thiếu sự có mặt của các
sản phẩm huy động vốn tốt và các dịch vụ ngân hàng thỏa mãn những yêu cầu của khách
hàng. Do nhu cầu của khách hàng là khác nhau nên việc làm hài lòng, đáp ứng được
những nhu cầu đó sẽ góp phần làm gia tăng lượng khách hàng, từ đó hiệu quả huy động
vốn cũng sẽ được nâng cao. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì hiện tựơng cạnh
tranh là tất yếu, ngân hàng nào càng đáp ứng được tối đa nhu cầu của khách hàng thì sẽ
càng có ưu thế hơn.
Bên cạnh đó thì việc không ngừng mở rộng quy mô, mà cụ thể hơn là mở rộng mạng
lưới hoạt động cũng là một yêu cầu cấp bách đối với các NHTM. Một khách hàng dù rất
hài lòng với tiện ích mà các sản phẩm huy động vốn và dịch vụ ngân hàng đó cung cấp
19
nhưng nếu mạng lưới hoạt động quá ít thì họ sẽ đến giao dịch tại các ngân hàng khác gần
nhà hơn để đổi lấy sự thuận tiện trong đi lại.
* Chính sách lãi suất: điều đầu tiên mà bất kỳ tổ chức cá nhân nào khi đến giao dịch
với ngân hàng quan tâm đó là lãi suất. Vì vậy chính sách lãi suất là một trong những
chính sách quan trọng nhất trong số các chính sách bổ trợ cho công tác huy động tiền gửi
của NHTM. Ngân hàng sẽ sử dụng hệ thống lãi suất như là một công cụ để thu hút các
nguồn vốn vào, đặc biệt là các khoản tiền gửi. Tuy nhiên không phải cứ ngân hàng nào
đưa ra mức lãi suất cao cũng đều thu hút được nhiều nguồn tiền nhàn rỗi của dân cư mà
vấn đề là mức lãi suất đó phải phù hợp với tình hình thực tế. Nghĩa là bên cạnh việc tuân
theo các yêu cầu về lãi suất mà Ngân hàng Nhà nước quy định thì lãi suất đó phải cao hơn
tỷ lệ lạm phát ở thời điểm hiện tại và phải phù hợp với uy tín hiện có của ngân hàng.
Đồng thời đối với bản thân ngân hàng thì việc đưa ra mức lãi suất huy động vốn quá
cao cũng đồng nghĩa với việc lãi suất cho vay ra bên ngoài phải cao thì ngân hàng kinh
doanh mới có lãi được. Thế nhưng nếu cho vay với lãi suất quá cao thì ngân hàng sẽ đứng
trước nguy cơ mất dần khách hàng, nếu chỉ huy động vốn vào mà không cho vay ra được
thì ngân hàng khó có thể thực hiện các hoạt động kinh doanh được vì không có thu nhập
để bù đắp chi phí. Do vậy cần phải luôn có chính sách lãi suất hợp lý để đưa ra mức lãi
suất đủ cao nhằm thu hút khách hàng nhưng vẫn phải đảm bảo không quá cao để vẫn có
thể thu hút được khách hàng đi vay mà không làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.

* Đổi mới công nghệ( nhất là khâu thanh toán): cùng với việc đổi mới các hoạt
động ngân hàng, NHTM cũng luôn chú trọng đến việc đổi mới khoa học công nghệ hiện
đại, áp dụng vào công tác điều hành của mình, đặc biệt là khâu thanh toán. Nếu biết áp
dụng tốt khâu này thì sẽ khách hàng thuận tiện, vừa tiết kiệm thời gian vừa đảm bảo an
toàn hơn trong giao dịch, đồng thời hạn chế tối đa việc lưu thông tiền mặt.
20
* Hoạt động Marketing ngân hàng: đây là hoạt động rất quan trọng nhằm giúp cho
ngân hàng nắm bắt được yêu cầu, nguyện vọng của khách hàng. Từ đó ngân hàng có thể
đưa ra các chính sách huy động tiền gửi cho phù hợp, có như thế mới có thể làm cho số
lượng khách hàng ngày càng gia tăng hơn.
* Thâm niên và uy tín ngân hàng: bên cạnh lãi suất thì uy tín của ngân hàng cũng là
điều mà khách hàng quan tâm nhất khi đến giao dịch vì khách hàng chỉ đến gửi tiền và
thực hiện các giao dịch khi thực sự tin tưởng vào ngân hàng đó. Do đó một ngân hàng
lớn, có uy tín sẽ có lợi thế hơn trong các hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động huy
động tiền gửi nói riêng. Trên cơ sở đó mỗi ngân hàng đã và đang cố gắng tạo được hình
ảnh riêng của mình trong lòng khách hàng.
CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG TIỀN GỬI BẰNG VNĐ
TẠI NGÂN HÀNG TMCP KIÊN LONG- PGD GÒ VẤP
2.1 Khái quát về ngân hàng TMCP Kiên Long- PGD Gò Vấp
2.1.1 Sơ lược về lịch sử hình thành và quá trình hoạt động của ngân hàng TMCP
Kiên Long( gọi tắt là Kienlong Bank)
Tên đầy đủ: Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Kiên Long
Tên giao dịch quốc tế: Kien Long Commercial Joint -Stock Bank
Tên gọi tắt: Kienlong Bank
Mã giao dịch Swift: KIENLONG BANKKVNVX
Chủ tịch Hội đồng Quản Trị: Ông Trần Hưng Thịnh
Tổng Giám đốc: Ông Trương Hoàng Lương
Mạng lưới hoạt động: 82 Chi nhánh và Phòng Giao dịch trên toàn quốc
Mã số thuế: 170019778
Website: www.kienlongbank.vn

21
Email:
Chi Nhánh Rạch Giá:
Địa chỉ: 44 Phạm Hồng Thái, TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.
Điện Thoại: 0773.869950 – 3877541
Fax: 0773.3871171
Chi Nhánh Sài Gòn:
Địa chỉ: 78- 80 Cách mạng tháng Tám, phường 6, Quận 3, TP.HCM.
Điện Thoại: 08. 3933 3933 - Fax: 08.3930 9112
Ngân hàng TMCP Kiên Long chính thức đi vào hoạt động từ tháng 10/1995 tại Kiên
Giang theo thủ tục pháp lý như sau:
• Quyết định cấp phép hoạt động số 256/QĐ NH5 do thống đốc NHNN cấp ngày
18/09/1995.
• Quyết định chuẩn y hội đồng quản trị, ban kiểm soát và ban điều hành số 266/QĐ-
NH5 ngày 18/09/1995 do thống đốc NHNN ký
Qua 15 năm hoạt động, Kienlong Bank trở thành một ngân hàng thương mại cổ phần
phát triển mạnh, bền vững và tạo được niềm tin của khách hàng. Từ một ngân hàng hoạt
động tín dụng tại các vùng nông thôn Đồng bằng sông Cửu Long với số vốn điều lệ ban
đầu 1,2 tỷ đồng, đến nay vốn điều lệ của Ngân hàng đã lên 3.000 tỷ đồng. Hiện tại,
Kienlong Bank đã có mạng lưới hoạt động tại các vùng trọng điểm trong cả nước với 82
Chi nhánh và Phòng Giao dịch. Phấn đấu đến năm 2015 sẽ có 150 Chi nhánh và Phòng
Giao Dịch trong cả nước.
2.1.1.1 GIAI ĐOẠN 1995-2000
Đây là giai đoạn hình thành Ngân hàng TMCP Kiên Long, giai đoạn này chủ yếu đầu
tư cho vay ở địa bàn nông thôn từ nguồn tiền mặt huy động từ dân cư và các tổ chức kinh
tế. Nâng vốn điều lệ từ 1,2 tỷ đồng lên 4,5 tỷ đồng. Từng bước mở rộng mạng lưới qua
22
việc thành lập thêm 03 Phòng giao dịch gồm: Số 01, Số 02, Số 03. Bên cạnh đó, Ngân
hàng Kiên Long đã chạy chương trình phần mềm Kế toán - truyền số liệu của Ngân hàng
Sài Gòn Thương Tín tại TP.HCM. Cũng kể từ đó, Kiên Long là Ngân hàng Cổ phần đầu

tiên tại Kiên Giang thực hiện truyền số liệu Kế toán qua mạng điện thoại từ các đơn vị về
Hội sở, giúp cho Ban Lãnh đạo và Phòng Kế toán kiểm tra giám sát hàng ngày hoạt động
của các đơn vị.
2.1.1.2 GIAI ĐOẠN 2000 – 2005:
Ngân hàng TMCP Kiên Long đã xây dựng Hội sở khang trang đặt tại Thị xã Rạch Giá
là trung tâm quản lý toàn Ngân hàng, các đơn vị trực thuộc gồm 04 Chi nhánh ( 2 chi
nhánh cấp 1 gồm: Rạch Giá, Phú Quốc; 2 chi nhánh cấp 2 gồm: Phú Quốc, Tân Hiệp) và
03 phòng giao dịch hoạt động trên tỉnh Kiên Giang
• Khi mới thành lập Ngân hàng chỉ có hơn 10 nhân viên, đến tháng 12/2004 lực lượng
nhân sự Kiên Long đã có trên 200 nhân sự.
• Từ khởi đầu(1995) thành lập với số vốn điều lệ 1,2 tỷ đồng đến 31/12/2005 vốn điều lệ
đạt 28 tỷ 039 triệu đồng, tăng trên 23 lần so với năm 1995.
• Đến 31/12/2005 số dư nợ đã đạt đến 331tỷ 500 triệu đồng, tăng hơn 107 lần so với năm
đầu thành lập. Với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trên 42%. Lợi nhuận đã nâng
lên 14 tỷ 164 triệu đồng tăng hơn 314 lần, nâng tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm
đạt trên 98%.
Cũng trong giai đoạn này, Kienlong Bank đã hoàn thiện và phát triển các dịch vụ như:
thanh toán thẻ, séc du lịch, dịch vụ chuyên tiền nhanh trong và ngoài nước, thu đổi ngoại
tệ và các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt khác thông qua tài khoản của
khách hàng, với tốc tăng trưởng bình quân hàng năm trên 40%.
23
2.1.1.3 GIAI ĐOẠN 2005 ĐẾN NAY:
Từ việc Ban lãnh đạo và toàn thể nhân viên đã nỗ lực không ngừng để đưa ngân hàng
ngày càng phát triển Kiênlong Bank đã có những bứt phá ngoạn mục trong việc mở rộng
mạng lưới, đẩy mạnh đầu tư hiện đại hóa công nghệ, phát triển đa dạng hóa các sản phẩm
dịch vụ ngân hàng hiện đại, nhằm đáp ứng nhu cầu khả năng thanh toán của nền kinh tế.
Về nhân sự và đào tạo: Trong giai đoạn này, do mạng lưới ngày càng mở rộng, nên
nguồn nhân lực của Kienlong Bank đã tăng lên cả chất lượng và số lượng. Đến cuối năm
2010, tổng số nhân viên của Kienlong Bank là 1.963 người trong đó có 816 cộng tác viên,
tăng 200 lần so với giai đoạn đầu thành lập. Trong đó số CBNV có trình độ đại học và

trên đại học chiếm gần 70%, còn lại là đội ngũ cộng tác viên.
Về công nghệ thông tin: chương trình quản lý tác nghiệp ngân hàng Goldriver được
vận hành ổn định đáp ứng nhu cầu hiện tại và mở rộng quy mô hoạt động của Kiênlong
Bank.Bên cạnh đó để tiến tới mục tiêu Kiênlong Bank trở thành ngân hàng hiện đại,
Kiênlong Bank đã thương thảo và kí kết hợp đồng mua và triển khai hệ thống Core
banking TCBS ( sản phẩm của tập đoàn OSI- Hoa Kì), một phần mềm quản lí được nhiều
ngân hàng hàng đầu Việt Nam sử dụng như Ngân hàng ACB, Ngân hàng Phương Nam…
và đã chính thức được Kiênlong Bank đưa vào sử dụng vào cuối quý III/ 2011.
Về phát triển mạng lưới: đặc biệt sau khi chuyển đổi lên ngân hàng đô thị( từ
30/06/2007 đến 31/07/2010), hiện nay Kiênlong Bank đã nâng tổng số chi nhánh lên 19
cùng với 63 phòng giao dịch, phủ mạng lưới hoạt động 18 tỉnh thành trên toàn quốc. Đây
chính là cơ sở để phát triển các sản phẩm mới, tiếp cận với những phân khúc thị trường
đầy tiềm năng mà trước đây Ngân hàng TMCP Kiên Long chưa vươn tới được.
24
Về phát triển thương hiệu: ký hợp đồng xây dựng và phát triển thương hiệu với Công
ty MASSO CONSULTING để tư vấn và xây dựng thương hiệu Kienlong Bank. Đồng
thời quảng bá thương hiệu trên các phương tiện truyền thông, thực hiện các chương trình
quảng cáo, khuyến mãi, hoạt động xã hội và tham gia tài trợ các sự kiện văn hóa thể dục
thể thao …và xây dựng mới Website Kienlong Bank.
Về liên kết với các đối tác: Ngân hàng TMCP Kiên Long đã liên kết với Viện Nghiên
cứu Kinh tế Phát triển – Đại học Kinh tế TP.HCM đào tạo các lớp: lớp Giám đốc điều
hành (CEO), lớp Văn hoá Doanh nghiệp nhằm trang bị đầy - Ký kết hợp tác chiến lược
với ba đối tác là Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), Tổng công ty Du lịch Sài Gòn
(Saigontourist), Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh nhằm nâng cao năng lực tài
chính, chuyển giao công nghệ và đào tạo.
Về xây dựng cơ sở vật chất: tính đến ngày 31/12/2010, tổng tài sản đạt gần 13.000 tỷ
đồng,; vốn điều lệ từ 1,2 tỷ đồng năm 1995 lên 3.000 tỷ đồng tăng 2500 lần so với thời
gian đầu thành lập; dư nợ cho vay 7.008 tỷ đồng; tổng huy động vốn 9.217 tỷ đồng, tăng
3.907 lần so với năm 1995; lợi nhuận trước thuế tăng trưởng bình quân 172,88%/năm.
Các hoạt động kinh doanh dịch vụ khác như: doanh số chuyển tiền nhanh, kinh doanh

ngoại tệ, thanh toán quốc tế đều tăng trưởng và ngày càng thu hút thêm khách hàng sử
dụng dịch vụ. Cụ thể trong năm 2009, lợi nhuận từ dịch vụ này chiếm 8% lợi nhuận trước
thuế. Ngoài ra, Ngân hàng vẫn đảm bảo chất lượng hoạt động nhờ việc chú trọng quản trị
rủi ro, duy trì cơ cấu tín dụng an toàn và hiệu quả, tỷ lệ nợ xấu được kiểm soát ở mức
1,2%, thấp hơn mức cho phép của Ngân hàng Nhà nước.
Về phát triển sản phẩm, dịch vụ: công tác triển khai sản phẩm dịch vụ được
Kiênlong Bank chú trọng, tập trung thực hiện nhằm thu hút khách hàng mở rộng thị phần.
25

×