Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tiểu luận môn cải cách thuế nợ công đầu tư công ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.92 KB, 31 trang )

CAO HỌC ĐÊM 6 - K20 1
PHẦN I: CẢI CÁCH THUẾ
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Quan niệm về thuế:
Có nhiều quan niệm khác nhau về thuế:
Theo G. Jege trong cuốn “Tài chính công” cho rằng: “Thuế là một khoản thu
bằng tiền, có tính chất xác định, không hoàn trả trực tiếp cho các công dân đóng
góp cho Nhà nước thông qua con đường quyền lực nhằm bù đắp những chi phí của
Nhà nước”.
Một quan niệm khác cho rằng: Thuế là hình thức đóng góp nghĩa vụ theo luật
định của các doanh nghiệp và dân cư cho Nhà nước bằng một phần thu nhập của
mình.
Tuy có nhiều quan niệm về thuế nhưng chung quy, có thể hiểu Thuế là một hình
thức động viên bắt buộc của Nhà nước, nhằm thu hút một bộ phận nguồn lực của cải xã
hội vào ngân sách Nhà nước để đáp ứng với nhu cầu chi tiêu của Nhà nước thích ứng
từng giai đoạn phát triển của đời sống kinh tế – xã hội.
1.2. Đặc điểm của thuế
 Thuế là khoản thu nộp bắt buộc vào ngân
sách. Đặc tính bắt buộc của thuế là một trong
những dấu hiệu quan trọng để phân biệt thuế
với các khoản thu trên cơ sở tự nguyện hình
thành nên ngân sách Nhà nước.
 Thuế gắn với yếu tố quyền lực. Chỉ gắn với
yếu tố quyền lực, thuế mới đảm bảo hoàn
thành nhiệm vụ tạo nguồn thu nhập tài chính
cho Nhà nước.
 Thuế không mang tính đối giá, không hoàn
trả trực tiếp.
1.3. Phân loại thuế
 Nếu căn cứ vào mục đích điều tiết, thuế có
hai loại cơ bản là thuế trực thu và thuế gián


thu. Thuế trực thu bao gồm các loại thuế như
thuế thu nhập, thuế đánh vào của cải, thuế
đánh vào đối tượng thường trú. Chúng được
gọi là thuế trực thu vì người có nghĩa vụ nộp
thuế thường là người gánh chịu thuế. Thuế
gián thu bao gồm các loại thuế như thuế xuất
nhập khẩu, thuế gắn với sản xuất và bán hàng
hóa. Chúng được gọi là thuế gián thu vì người
gánh chịu thuế là khách hàng, nhưng người
Cải cách Thuế – Nợ công & Đầu tư công ở Việt Nam
CAO HỌC ĐÊM 6 - K20 2
nộp thuế lại là người bán hàng, nhà nhập
khẩu.
 Nếu căn cứ vào đối tượng tính thuế. Thuế
đánh vào thu nhập chỉ thực hiện đối với
những đối tượng có giá trị thặng dư phát sinh
từ tài sản của họ. Có các loại thuế như thuế
thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá
nhân…Thuế tiêu dùng, phần lớn là các loại
thuế gián thu như thuế giá trị gia tăng, thuế
tiêu thụ đặc biệt.
 Nếu căn cứ vào đối tượng nộp thuế, thuế bao
gồm thuế đánh vào các chủ thể có yếu tố
nước ngoài, thuế đối với các tổ chức và cá
nhân trong nước.
1.4. Vai trò của thuế trong nền kinh tế:
 Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách
Nhà nước. Trong tình hình hiện nay, nguồn
thu từ nước ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối
ngoại chịu sức ép của quan hệ “mua bán sòng

phẳng”,“có vay, có trả”, cho nên thuế là công
cụ quan trọng góp phần tích cực giảm bội chi
ngân sách, giảm lạm phát, ổn định kinh tế - xã
hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho việc
phát triển đất nước lâu dài.
 Thuế là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô
của Nhà nước. Thông qua việc xây dựng
đúng đắn cơ cấu và mối quan hệ giữa các sắc
thuế, việc xác định hợp lý người nộp thuế, đối
tượng đánh thuế, thuế suất, chế độ miễn giảm,
phương pháp quản lý thu thuế, thuế là công
cụ điều tiết đối với thu nhập của các tầng lớp
xã hội thể hiện trên hai mặt: khuyến khích,
nâng đỡ những hoạt động kinh doanh cần
thiết làm ăn có hiệu quả; đồng thời thu hẹp,
kìm hãm những ngành nghề, mặt hàng cần
hạn chế sản xuất, hạn chế tiêu dùng.
 Thuế góp phần bảo đảm bình đẳng giữa
các thành phần kinh tế. Hệ thống thuế được
áp dụng thống nhất giữa các ngành nghề, các
Cải cách Thuế – Nợ công & Đầu tư công ở Việt Nam
CAO HỌC ĐÊM 6 - K20 3
thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư theo
nguyên tắc đảm bảo công bằng và bình đẳng
trong làm nghĩa vụ và quyền lợi.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG
2.1. Hệ thống thuế Việt Nam trước khi đất nước đổi mới (năm 1986) :
Trước năm 1986, nến kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập
trung bao cấp, thu ngân sách chủ yếu từ kinh tế quốc doanh (chiếm tới hơn 90%
tổng số thu) thuế chỉ áp dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh dưới một số

hình thức: thuế hàng hóa, thuế lợi tức, thuế môn bài, thuế nông nghiệp…
Sau Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI (năm 1986), đất nước ta triển
khai thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trên mọi lĩnh vực kinh tế xã hội, cơ bản:
xóa bỏ kinh tế bao cấp, thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần; đổi mới về cơ
chế quản lý kinh tế: cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong lĩnh vực tài chính, Nhà nước đã tiến hành cải cách hệ thống thuế nhằm đáp
ứng yêu cầu phát triển các thành phần kinh tế một cách bình đẳng trong quá trình
sản xuất kinh doanh.
Có thể chia quá trình cải cách thuế 20 năm qua ở Việt Nam thành 3 giai đoạn:
2.2. Giai đoạn 1990 – 1999 (Cải cách lần thứ nhất)(
1
)
2.2.1. Mục tiêu cải cách:
Tiến hành cải cách hệ thống thuế theo hướng Thống nhất thuế đối với mọi thành
phần kinh tế nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển các thành phần kinh tế một cách bình
đẳng trong quá trình sản xuất kinh doanh.
2.2.2. Nội dung cải cách:
 Cơ cấu hệ thống chính sách thuế:
Ngày 28 tháng 12 năm 1989, Quốc hội khoá VIII, kỳ họp thứ 6 đưa ra Nghị quyết
giao cho Hội đồng Nhà nước nghiên cứu xem xét, ban hành hệ thống thuế mới. Trên
cơ sở này một hệ thống thuế mới có tính hiện đại, thống nhất đã được hình thành ở
nước ta.
 Về tổ chức bộ máy quản lý thuế:
Ngày 07/08/1990 Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ) ban hành Nghị định số 281 –
HĐBT về việc Thành lập Hệ thống thu thuế
Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính để quản lý
thống nhất trong cả nước công tác thu thuế và
các khoản thu khác của ngân sách Nhà nước.

1
Các sắc thuế cụ thể trong giai đoạn này được trình bày ở Phụ chương 01.
Cải cách Thuế – Nợ công & Đầu tư công ở Việt Nam
CAO HỌC ĐÊM 6 - K20 4
2.2.3. Kết quả:
 Thu ngân sách:
o Thuế ngày càng trở thành
nguồn thu chủ yếu, quan trọng nhất của NSNN. Việc thực hiện hệ thống
chính sách thuế và cơ cấu tổ chức mới cho thấy, số thu nội địa liên tục vượt
dự toán giao, năm sau cao hơn năm trước, tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng
thu ngân sách.
o Từ kết quả đó, Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VIII (6/1996) khẳng định: “Việt Nam đã hình thành được
hệ thống thuế áp dụng thống nhất cho các thành phần kinh tế, nâng dần tỷ lệ
động viên thuế và phí trong GDP, tạo thành nguồn thu chính cho NSNN, bảo
đảm toàn bộ chi thường xuyên và tăng dần dành cho đầu tư phát triển ”
 Hệ thống pháp luật về thuế: Các loại thuế
được ban hành dưới hình thức luật, pháp lệnh
đã từng bước nâng cao tính pháp lý đối với hệ
thống chính sách thuế.
 Bộ máy quản lý: Việc thống nhất hệ thống tổ
chức bộ máy quản lý về thuế không những
cho phép Nhà nước quản lý thống nhất chế độ
thuế trong cả nước, mà còn tạo cơ sở về mặt
tổ chức bảo đảm thực hiện thành công đường
lối đổi mới và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực
thuế.
 Kinh tế xã hội:
o Chính sách thuế mới đã tích cực
góp phần thúc đẩy sự chuyển dịch đầu tư, dẫn tới sự chuyển dịch về kinh tế,

khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất.
o Hệ thống thuế mới đã đảm bảo
sự đóng góp bình đẳng hơn giữa các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân
cư. Đây cũng là yếu tố quan trọng nhằm lập lại trật tự kỷ cương trong quản
lý kinh tế - tài chính theo pháp luật.
2.2.4. Hạn chế, tồn tại:
– Chưa bao quát các nguồn thu phát sinh.
– Một số sắc thuế vẫn bị đánh trùng, mức thuế suất cao.
– Chính sách thuế còn phức tạp.
– Còn phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế; còn nhiều nội dung chưa phù
hợp với bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Cải cách Thuế – Nợ công & Đầu tư công ở Việt Nam
CAO HỌC ĐÊM 6 - K20 5
2.3. Giai đoạn 2000 – 2005 (Cải cách lần thứ hai)(
1
)
2.3.1. Mục tiêu cải cách:
 Củng cố hiệu lực thu bằng cách tăng cường
quản lý và chống thất thu;
 Xây dựng ngân sách dựa vào nội lực;
 Chuẩn bị hội nhập kinh tế khu vực;
2.3.2. Nội dung cải cách:
 Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật về thuế, cải cách về thể chế chính sách
o Hai loại thuế mới ra đời là: Luật
thuế giá trị gia tăng thay thế Luật thuế doanh thu, Luật thuế Thu nhập doanh
nghiệp thay thế Luật thuế lợi tức;
o Bộ tài chính đã chủ động phối
hợp với các Bộ, ngành có liên quan nghiên cứu trình Chính Phủ, Quốc hội
sửa đổi, bổ sung 4 Luật, 2 Pháp lệnh, 17 Nghị định quy định chi tiết thi hành

các luật, pháp lệnh về thuế, phí; đã kịp thời ban hành các Thông tư hướng
dẫn và tổ chức triển khai thực hiện các luật, pháp lệnh, nghị định nói trên.
 Cải cách về thủ tục hành chính trong lĩnh vực
thuế, phí được thực hiện đồng bộ trên cả hai
mặt: Quan hệ giữa Nhà nước với dân (quan
hệ giữa người thu và người nộp) và quan hệ
giữa các cơ quan Nhà nước, giữa cấp trên với
cấp dưới trong hệ thống thuế… được triển
khai thực hiện trong tất cả các khâu công
việc.
 Cải cách về tổ chức bộ máy và cán bộ:
o Bộ máy quản lý thuế được tổ
chức lại theo mô hình quản lý trên nguyên tắc một cửa; chuyển từ quản lý
khép kín sang quản lý theo chức năng; bỏ những công việc trùng lặp và các
khâu giám sát chồng chéo, xây dựng lực lượng chuyên nghiệp, chuyên sâu
do đó thời gian giải quyết công việc được rút ngắn hơn trước.
o Đẩy mạnh phân cấp cho các
Cục, Chi cục Thuế, trong việc xác định giá tính thuế, thu lệ phí trước bạ, giải
quyết miễn, giảm thuế, hoàn thuế, …trên cơ sở có sự phân công rõ ràng, cụ
thuể hoá trách nhiệm của từng công chức, từng khâu công việc trong quy
trình thủ tục quản lý.
1
Các sắc thuế cụ thể trong giai đoạn này được trình bày ở Phụ chương 01.
Cải cách Thuế – Nợ công & Đầu tư công ở Việt Nam
CAO HỌC ĐÊM 6 - K20 6
o Tăng cường công tác đào tạo và
đào tạo lại để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ.
2.3.3. Kết quả:
 Thu ngân sách: Tổng thu thuế và phí luôn
hoàn thành vượt mức dự toán hàng năm được

Quốc hội thông qua, đạt tốc độ tăng trưởng
cao.
 Chính sách thuế:
o Hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật về thuế từng bước được hoàn thiện.
o Nhìn chung hệ thống chính sách
thuế, phí đã được cải cách theo hướng: Giảm mức thuế suất, mở rộng diện
ưu đãi thuế để khuyến khích đầu tư, đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển sản xuất
trong nước phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và thực hiện các cam kết quốc tế. Qua triển khai thực hiện đã được cộng
đồng doanh nghiệp nhất trí cao, không còn những vướng mắc lớn.
 Công tác quản lý thuế:
o Công cuộc cải cách đã hình
thành một hệ thống tổ chức quản lý thuế thống nhất trong cả nước.
o Ngành thuế cũng đã nỗ lực tập
trung nhiều giải pháp hữu hiệu để bố trí, sắp xếp lại bộ máy tổ chức theo hướng
chuyên môn hoá. Đồng thời, triển khai kết nối mạng thông tin giữa các chi cục
thuế và Cục thuế các tỉnh nhằm đảm bảo việc truyền dữ liệu và phục vụ công
tác quản lý thuế hiện
đại.
 Kinh tế xã hội: Cơ cấu kinh tế đã có sự thay
đổi, tỷ trọng nông nghiệp giảm; công nghiệp,
xây dựng và dịch vụ tăng nhanh.
2.3.4. Hạn chế, tồn tại:
 Do quá nhiều chính sách ưu đãi tác động đến
thuế thu nhập doanh nghiệp, nên thuế thu
nhập doanh nghiệp hầu như bị biến tướng và
trở nên phức tạp hơn.
 Sự thường xuyên thay đổi thuế suất của biểu
thuế nhập khẩu tuy phù hợp với những thay đổi

trước mắt của nền kinh tế nhưng lại phản ánh
chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam mang
tính đối phó ngắn hạn.
Cải cách Thuế – Nợ công & Đầu tư công ở Việt Nam
CAO HỌC ĐÊM 6 - K20 7
 Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao
không đề cập đến thu nhập của cá nhân kinh
doanh. Vì vậy, số lượng đối tượng nộp thuế
còn hạn hẹp do đó số thu từ sắc thuế này còn
chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số thu về thuế
và phí.
 Hệ thống chính sách thuế còn chưa phù hợp
với thông lệ quốc tế và chưa đảm bảo tính
tương thích với các nền kinh tế thị trường
khác trong khu vực.
 Tổ chức bộ máy quản lý thuế và hải quan
chưa đáp ứng được tốt yêu cầu hội nhập và
hiện đại hoá ngành. Một bộ phận cán bộ,
trong đó có cả cán bộ chủ chốt chưa đáp ứng
được yêu cầu hội nhập, chưa thích ứng được
với công nghệ quản lý mới, chưa nắm vững
pháp luật, chưa làm hết trách nhiệm trong thi
hành công vụ. Không ít trường hợp việc cải
cách thể chế, việc chỉ đạo của cấp trên đã rõ
ràng, kịp thời nhưng việc thực hiện ở cơ sở
vẫn còn nhiều phiền hà, thậm chí còn làm sai
chính sách, gây thiệt hại cho doanh nghiệp…
2.4. Giai đoạn 2006 – 2010 (Cải cách lần thứ ba)
1
2.4.1. Mục tiêu cải cách:

 Chính sách thuế phải tạo môi trường pháp lý
bình đẳng, công bằng. Áp dụng hệ thống thuế
thống nhất không phân biệt giữa các thành
phần kinh tế cũng như giữa các doanh nghiệp
trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài.
 Chính sách thuế phải thể hiện và tạo ra những
nội dung cụ thể phù hợp với tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế, đồng thời bảo đảm được
yêu cầu về bảo hộ có chọn lọc, có thời hạn, có
điều kiện một cách hợp lý, tăng sức cạnh
tranh của nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát
triển, bảo đảm lợi ích quốc gia hội nhập thành
công kinh tế thế giới. Phù hợp những thông lệ
1
Các sắc thuế cụ thể trong giai đoạn này được trình bày ở Phụ chương 01.
Cải cách Thuế – Nợ công & Đầu tư công ở Việt Nam
CAO HỌC ĐÊM 6 - K20 8
về thuế với các quốc gia trong khu vực và thế
giới.
 Đẩy mạnh cải cách hệ thống thuế theo hướng
đơn giản, minh bạch, công khai; tách chính
sách xã hội ra khỏi chính sách thuế.
 Nhanh chóng hiện đại hoá và nâng cao năng
lực của bộ máy quản lý thuế; khắc phục các
hiện tượng tiêu cực, yếu kém làm cho bộ máy
quản lý thuế trong sạch, vững mạnh.
2.4.2. Nội dung cải cách:
 Tiếp tục cải cách hệ thống chính sách thuế:
o Ban hành mới thuế thu nhập cá

nhân, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thuế bảo vệ môi trường.
o Sửa đổi, bổ sung đồng bộ các
sắc thuế hiện hành; tăng dần tỷ trọng các nguồn thu trong nước cho phù hợp
với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng diện thuế trực thu và tăng tỷ
trọng thuế trực thu trong tổng số thu về thuế.
o Về phí, lệ phí được sắp xếp lại
theo hướng: tiếp tục rà soát, bãi bỏ hoặc sửa đổi các loại phí, lệ phí không
hợp lý, gây phiền hà cho sản xuất và đời sống. Các loại phí thu do cung cấp
dịch vụ công sẽ chuyển dần sang giá dịch vụ, các loại phí mang tính chất
thuế chuyển thành thuế. Thống nhất mức thu phí, lệ phí đối với tổ chức, cá
nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài để thực hiện công bằng xã
hội.
 Cải cách quản lý thuế:
Đẩy mạnh cải cách hành chính thuế, nâng cao trình độ quản lý thuế của Việt
Nam ngang tầm với các nước trong khu vực theo hướng:
o Hiện đại hoá toàn diện công tác
quản lý thuế cả về phương pháp quản lý, thủ tục hành chính, bộ máy tổ chức,
đội ngũ cán bộ.
o Đẩy mạnh cải cách hành chính
trong công tác quản lý thu thuế nhằm nâng cao quyền hạn, trách nhiệm và
hiệu lực của bộ máy quản lý thuế. Năm 2006, Quốc hội khóa XI ban hành
Luật Quản lý thuế nhằm quy định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm của đối tượng
nộp thuế, cơ quan thuế và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan; bổ sung
quyền cưỡng chế thuế, điều tra các vụ vi phạm về thuế cho cơ quan thuế. Từ
năm 2007 áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thuế trên phạm vi toàn quốc.
Cải cách Thuế – Nợ công & Đầu tư công ở Việt Nam
CAO HỌC ĐÊM 6 - K20 9
o Áp dụng công nghệ tin học hiện
đại vào công tác quản lý thuế.
o Tăng cường công tác đào tạo,

bồi dưỡng nâng cao năng lực điều hành, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,
phẩm chất đạo đức của cán bộ thuế theo hướng chuyên sâu, chuyên nghiệp.
o Đã thành lập Trường nghiệp vụ thuế, thực hiện chức năng đào tạo và đào
tạo nâng cao trình độ cán bộ ngành thuế; bước đầu xây dựng đội ngũ
giảng viên kiêm chức và tài liệu đào tạo kỹ năng quản lý theo chức năng
để đào tạo đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu công tác mới.
o Đẩy mạnh việc đào tạo và đào tạo lại đồng bộ, toàn diện đội ngũ cán bộ về
cả kiến thức nghiệp vụ quản lý thuế, phong cách ứng xử, đạo đức nghề
nghiệp, tư tưởng chính trị, ứng dụng tin
học…
o Nâng cao chất lượng và hiệu
quả của công tác thanh tra, kiểm tra thuế nhằm ngăn ngừa, phát hiện và xử lý
kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật thuế.
2.4.3. Kết quả:
 Thu ngân sách: Thu ngân sách từ thuế, phí và
lệ phí tăng trưởng qua các năm và đều đạt
trên 20% trong khi mục tiêu theo tính toán
của Bộ tài chính được xác định trong chiến
lược phát triển tài chính đến năm 2010, thì tỷ
lệ thu NSNN phải ở mức bình quân năm vào
khoảng 20-21% GDP, trong đó thuế, phí và lệ
phí đạt 18-19% GDP.
1
 Chính sách thuế:
o Chính sách thuế đã bắt đầu phát
huy được tác dụng quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Hệ thống thuế đã tạo
ra môi trường bình đẳng về pháp luật cho sự cạnh tranh lành mạnh giữa các
thành phần kinh tế, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Chính sách thuế
từng bước tạo ra sự công bằng về nghĩa vụ nộp thuế giữa các đối tượng khác
nhau, góp phần thúc đẩy đầu tư vốn, cải tiến công nghệ, tăng năng suất lao

động, giảm giá thành ….
o Chính sách thuế từng bước
được điều chỉnh cho phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, phù hợp
những thông lệ về thuế với các quốc gia trong khu vực và thế giới.
 Công tác quản lý thuế:
1
Chi tiết quyết toán thu NSNN giai đoạn 2000 -2008 được trình bày ở Phụ chương 02.
Cải cách Thuế – Nợ công & Đầu tư công ở Việt Nam
CAO HỌC ĐÊM 6 - K20 10
o Đã xây dựng khung hệ thống
thông tin cơ sở dữ liệu về tổ chức, cá nhân nộp thuế phục vụ công tác quản
lý thu thuế;
o Đã tập hợp, lưu trữ được các
thông tin về tình hình đăng ký, kê khai nộp thuế, nợ thuế của tổ chức, cá
nhân nộp thuế;
o Đã triển khai công tác phối hợp
với các Bộ, ngành rà soát thông tin hiện có để ban hành quy chế trao đổi
cung cấp thông tin với các Bộ, ngành phục vụ công tác quản lý thuế theo quy
định của Luật Quản


thuế.
o Ngành thuế đã tăng cường đầu
tư thiết bị tin học phục vụ công tác quản lý thuế. Đã phát triển được gần 40
phần mềm ứng dụng tin học phục vụ công tác quản lý thuế như: Phần mềm
đăng ký thuế, Quản lý thuế, Quản lý nợ thuế, phân tích báo cáo tài chính
doanh nghiệp … phục vụ thanh tra và các phần mềm quản lý nội bộ ngành;
 Kinh tế xã hội:
o Chính sách thuế có tác dụng
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng tiến bộ:

Khu vực
Tỷ trọng trong cơ cấu GDP Cơ cấu lao động
Năm 2005 Năm 2010 Năm 2005 Năm 2010
Khu vực công nghiệp và xây dựng 41% 41,1% 18,2% 22,4%
Khu vực dịch vụ 38% 38,3% 24,7% 29,4%
Khu vực nông nghiệp 21% 20,6% 57,1% 48,2%
o Các luật thuế mới đã khuyến
khích việc chuyển hướng sản xuất theo hướng xuất khẩu và hình thành cơ
cấu kinh tế mới. Thông qua việc ưu đãi đầu tư, các luật thuế mới đã khuyến
khích đầu tư vào các lĩnh vực, ngành nghề, vùng kinh tế theo hướng phát
triển do Nhà nước đề ra.
2.4.4. Hạn chế, tồn tại:
 Hệ thống thuế của Việt Nam còn chưa hoàn
chỉnh, thể hiện ở chỗ vẫn còn để sót nhiều
nguồn thu, đối tượng thu. Luật thuế còn nhiều
kẽ hở, nhiều thay đổi. Nhiều cải cách còn
tiềm ẩn nhiều rủi ro.
 Năng lực một số cán bộ quản lý chưa đáp ứng
được yêu cầu công việc. Môt số cán bộ thuế
còn biểu hiện tiêu cực.
Cải cách Thuế – Nợ công & Đầu tư công ở Việt Nam
CAO HỌC ĐÊM 6 - K20 11
 Chưa đủ cơ sở hạ tầng để triển khai chính
sách thuế điện tử.
 Chưa tỏ rõ quyền
lợi của người nộp thuế.
CHƯƠNG 3: XU HƯỚNG CẢI CÁCH THUẾ CỦA VIỆT NAM:
TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2020
3.1. Thuận lợi, khó khăn:
3.1.1. Thuận lợi:

 Hệ thống chính trị ổn định, Đảng và Nhà
nước quyết tâm đổi mới chính sách và kiện
toàn hệ thống tài chính – tiền tệ nhằm thúc
đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững. Toàn
Đảng, toàn dân, quyết tâm hoàn thành mục
tiêu đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước
công nghiệp hiện đại vào năm 2020, vì một
nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
 Sự thành công của các lần cải cách chính sách
thuế trong thời gian qua đã cung cấp cho
Chính phủ có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh
vực cải cách chính sách thuế.
 Là một nước đi sau trong tiến trình hội nhập
quốc tế, Việt Nam có thể rút ra nhiều bài học
kinh nghiệm quý báu của các nước đi trước
trong việc đổi mới chính sách thuế.
3.1.2. Khó khăn và thách thức:
 Với một nền kinh tế đang phát triển như Việt
Nam, khó khăn lớn nhất trong cải cách hành
chính lĩnh vực thuế và hải quan là việc thực
hiện cải cách hành chính trên một cơ sở hạ
tầng xã hội vừa thấp so với các nước trong
khu vực vừa thiếu đồng bộ trong mối liên hệ
với các lĩnh vực có liên quan.
 Các doanh nghiệp trong cơ chế tự do kinh
doanh nhưng chưa được chuẩn bị tốt về mặt
kỷ cương kỷ luật trong chấp hành luật pháp;
chưa chấp hành đúng những quy định của
pháp luật về chế độ quản lý sử dụng hoá đơn

chứng từ, hạch toán sổ sách kế toán, việc
Cải cách Thuế – Nợ công & Đầu tư công ở Việt Nam
CAO HỌC ĐÊM 6 - K20 12
thanh toán bằng tiền mặt còn khá phổ biến (kể
cả bằng ngoại tệ); chưa có những tiêu chí
chung để thường xuyên theo dõi đánh giá
được tình hình hoạt động của doanh nghiệp…
Chính vì vậy, để đáp ứng yêu cầu hội nhập thì
đồng thời phải thực hiện cả hai mặt là vừa
khắc phục những mặt tồn tại về cơ sở hạ tầng
kinh tế - xã hội vừa khẩn trương hiện đại hoá
công tác quản lý thuế.
 Những thử thách của việc cải cách chính sách
thuế:
o Việc nghiên cứu hoàn thiện hệ
thống chính sách thuế phải nhằm thiết lập một hệ thống thuế công bằng và
hiệu quả, có khả năng tài trợ nhu cầu cần thiết của chi tiêu công. Đặc biệt
trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập vào kinh tế thế giới, thì chính sách thuế
đóng vai trò nhạy cảm đặc biệt vừa khuyến khích nền kinh tế trong nước
phát triển vừa đảm bảo không vi pham các cam kết quốc tế và thông lệ quốc
tế.
o Thử thách về nguồn thu: Sự hội
nhập vào kinh tế thế giới yêu cầu phải gia tăng nguồn thu thuế để Nhà nước
đảm nhận vai trò như Chính phủ của các nước công nghiệp phát triển. Nhưng
làm thế nào gia tăng được nguồn thu, mà không làm giảm đi những động lực
kinh tế trong khi nền kinh tế.
o Thử thách về quản lý thuế: Với
sự hội nhập kinh tế toàn cầu, hàng rào thương mại bị tháo dỡ và sự di chuyển
vốn quốc tế gia tăng trong khi năng lực quản lý thuế còn hạn chế.
o Về hiệu quả kinh tế và cạnh

tranh thuế: Sự cạnh tranh thuế trong quá trình thu hút vốn là một thử thách
không nhỏ trong bối cảnh vốn tự do chu chuyển.
3.2. Xu hướng cải cách thuế ở Việt Nam đến năm 2020
3.2.1. Mục tiêu cải cách thuế ở Việt Nam đến năm 2020 :
a. Mục tiêu tổng quát:
Xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, có cơ cấu hợp lý phù hợp với nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn với hiện đại hoá công tác quản
lý thuế nhằm đảm bảo chính sách động viên thu nhập quốc dân, đảm bảo nguồn lực
tài chính phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; góp phần thực
hiện bình đẳng, công bằng xã hội và chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế. Phấn
đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
Cải cách Thuế – Nợ công & Đầu tư công ở Việt Nam
CAO HỌC ĐÊM 6 - K20 13
(chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020) mà nghị quyết Đại hội XI của
Đảng đã thông qua.
b. Mục tiêu, yêu cầu cụ thể:
 Chính sách thuế, phí và lệ phí (sau đây gọi
chung là chính sách thuế) phải là công cụ
quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối
với nền kinh tế, động viên được các nguồn
lực, thúc đẩy phát triển nhanh sản xuất;
khuyến khích xuất khẩu, đầu tư, đổi mới công
nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; đảm bảo
cho nền kinh tế tăng trưởng cao, bền vững,
góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân
dân.
 Chính sách thuế phải huy động đầy đủ các
nguồn thu vào ngân sách Nhà nước, đảm bảo
nhu cầu chi tiêu thường xuyên của Nhà nước
và dành một phần cho tích luỹ phục vụ sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Đảm bảo tỷ lệ động viên về thuế vào
ngân sách Nhà nước bình quân hàng năm đạt
từ 20-21% GDP.
 Thực thi một chính sách thuế không phân biệt
đối xử giữa hàng nhập khẩu và hàng nội địa,
giữa các loại hình tổ chức kinh doanh.
 Mở rộng diện chịu thuế và nới lỏng áp lực
thuế lên mọi đối tượng nộp.
 Đề cao tính tự giác của mọi tổ chức và cá
nhân trong kê khai và nộp thuế.
 Tăng cường kiểm tra, thanh tra thuế.
 Ban hành sắc thuế mới.
3.2.2. Nội dung cải cách:
a. Nội dung cải cách hệ thống chính sách thuế:
 Tiếp tục sửa đổi, bổ sung đồng bộ các sắc
thuế hiện hành; tăng dần tỷ trọng các nguồn
thu trong nước cho phù hợp với tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế, mở rộng diện thuế trực
thu và tăng tỷ trọng thuế trực thu trong tổng
số thu về thuế.
Cải cách Thuế – Nợ công & Đầu tư công ở Việt Nam
CAO HỌC ĐÊM 6 - K20 14
 Ban hành mới các sắc thuế như chống bán
phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống phân
biệt đối xử; thuế tài sản. Việc ban hành và
thực hiện các sắc thuế mới này phải chú ý đến
đối tượng, mức độ và thời điểm áp dụng cho
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất
nước, đảm bảo ổn định sản xuất, thị trường và

đời sống nhân dân.
 Cải cách một số sắc thuế chủ yếu theo hướng
mở rộng đối tượng chịu thuế, đảm bảo
nguyên tắc khuyến khích đầu tư, bình đẳng,
không phân biệt đối xử về hàng hóa, đối
tượng nộp thuế, phù hợp với cam kết và thông
lệ quốc tế.(
1
)
b. Nội dung, lộ trình cải cách quản lý thuế:
Mục tiêu tổng quát của cả giai đoạn 2011 – 2020 là đẩy mạnh ứng dụng CNTT
trong các hoạt động quản lý thuế nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
các cơ quan thuế, thực hiện minh bạch hóa thủ tục thuế nhằm phục vụ người nộp
thuế và doanh nghiệp tốt hơn, chất lượng hơn.
Triển khai hệ thống ứng dụng CNTT đáp ứng tự động hóa 95% nhu cầu xử lý
thông tin quản lý thuế, 100% các chức năng quản lý thuế được ứng dụng CNTT.
Cung cấp dịch vụ kê khai thuế điện tử đạt 90% doanh nghiệp, nộp thuế điện tử
đạt 80%, cung cấp thông tin tra cứu hỗ trợ người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ thuế
thường xuyên 24/24 giờ, nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm, hiệu quả. Đảm bảo tính
đồng bộ, thống nhất với hệ thống tài chính điện tử
Theo đó, sẽ triển khai 11 nội dung, dự án gồm: Triển khai nâng cấp hệ thống ứng
dụng theo nội dung sửa đổi Luật Quản lý thuế; Chuyển đổi kiến trúc hệ thống Ứng
dụng Quản lý thuế theo mô hình xử lý tập trung; Triển khai rộng Ứng dụng Kê khai
thuế/ nộp thuế qua mạng, dịch vụ nhắn tin thông tin về thuế (SMS); Xây dựng và thí
điểm hệ thống dịch vụ thuế điện tử e-Tax service; Triển khai Ứng dụng Khai thác
cơ sở dữ liệu đối tượng nộp thuế tập trung tại Tổng cục; Triển khai rộng Hệ thống
ứng dụng Quản lý thuế thu nhập cá nhân; Triển khai các dự án ứng dụng xây dựng
từ năm 2010 như Quản lý hóa đơn tự in đáp ứng Nghị định 51, Quản lý rủi ro,
Thanh tra – Kiểm tra thuế…; Xây dựng và triển khai thí điểm hệ thống ứng dụng tự
động hóa văn phòng và các ứng dụng nội bộ ngành; Thiết lập Trung tâm Xử lý dữ

liệu và Trung tâm Dự phòng; Phối hợp phát triển hệ thống các nhà cung cấp dịch vụ
thuế trung gian; Đấu thầu lựa chọn đối tác và giải pháp hệ thống thuế tích hợp
(ITAIS).
1
Chi tiết nội dung cải cách một số sắc thuế cụ thể tại Phụ Chương 03
Cải cách Thuế – Nợ công & Đầu tư công ở Việt Nam
CAO HỌC ĐÊM 6 - K20 15
 Thực hiện tuyên truyền, giáo dục về thuế
bằng nhiều hình thức phong phú để nâng cao
ý thức tự giác tuân thủ pháp luật của đối
tượng nộp thuế; khuyến khích và phát triển
mạnh mẽ các dịch vụ tư vấn, kế toán thuế.
 Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao năng lực điều hành, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức của cán bộ thuế
theo hướng chuyên sâu, chuyên nghiệp.
 Nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác
thanh tra, kiểm tra thuế nhằm ngăn ngừa, phát
hiện và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm
pháp luật thuế.
3.3. Giải pháp thực hiện:
 Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp,
thường xuyên của Đảng, Quốc hội, Chính
phủ, các Bộ, ngành và chính quyền địa
phương các cấp trong tất cả các mặt của lĩnh
vực thuế và cải cách hệ thống thuế.
 Các cơ quan thông tin đại chúng, hệ thống
giáo dục quốc gia có trách nhiệm đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, giáo dục về các chính
sách thuế để mọi tổ chức, cá nhân hiểu rõ và

tự giác chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật
thuế. Biểu dương các tổ chức, cá nhân thực
hiện tốt nghĩa vụ thuế, đồng thời phê phán
mạnh mẽ các hiện tượng vi phạm pháp luật
thuế.
 Hoàn thiện, cải cách đồng bộ các cơ chế, chính
sách quản lý về đất đai, thanh toán không dùng
tiền mặt, đăng ký kinh doanh, xuất - nhập khẩu,
xuất - nhập cảnh, kế toán, giá để tạo điều kiện
thuận lợi cho công tác quản lý thuế và cải cách
hệ thống thuế.
 Tăng cường trách nhiệm của các tổ chức, cá
nhân trong việc phối hợp với cơ quan thuế
như: cung cấp thông tin, điều tra, xử lý vi
phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo và các biện
Cải cách Thuế – Nợ công & Đầu tư công ở Việt Nam
CAO HỌC ĐÊM 6 - K20 16
pháp hành chính khác để nâng cao hiệu lực,
hiệu quả của pháp luật thuế.
 Khuyến khích, đẩy mạnh các hoạt động tư
vấn, cung cấp dịch vụ về thuế, kế toán, kiểm
toán, đại lý thuế nhằm giúp cho tổ chức, cá
nhân nộp thuế hiểu rõ các quy định của pháp
luật về thuế, làm tốt công tác kế toán, thực
hiện đúng nghĩa vụ và trách nhiệm của mình.
 Kiện toàn bộ máy ngành thuế theo hướng
quản lý theo chức năng, tăng cường trách
nhiệm và quyền hạn của cơ quan thuế các
cấp.
 Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng

cao trình độ cán bộ thuế theo hướng chuyên
nghiệp, chuyên sâu, đáp ứng yêu cầu quản lý
thuế tiên tiến, hiện đại.
 Các chính sách về thuế được quy định và chỉ
có giá trị pháp lý trong các văn bản pháp luật
về thuế.
Cải cách Thuế – Nợ công & Đầu tư công ở Việt Nam
CAO HỌC ĐÊM 6 - K20 17
PHẦN II: NỢ CÔNG VÀ ĐẦU TƯ CÔNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Cơ sở lý luận về Nợ công:
1.1.1. Định nghĩa về nợ công :
Nợ công, hay còn gọi là Nợ quốc gia, là tổng giá trị các khoản tiền mà Chính phủ
thuộc mọi cấp từ Trung ương đến địa phương đi vay. Việc đi vay này là nhằm tài
trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách. Cho nên có thể nói cách khác, nợ chính phủ
là thâm hụt ngân sách luỹ kế đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình dung quy mô
của nợ chính phủ, người ta thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu phần trăm
so với GDP.
Theo quy định của Luật quản lý nợ công, nợ công bao gồm:
(i). Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước
ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ
hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát
hành theo quy định của pháp luật. Nợ Chính phủ không bao gồm khoản nợ do
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ
trong từng thời kỳ;
(ii). Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính,
tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh;
(iii). Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là UBND cấp tỉnh) ký kết, phát
hành hoặc uỷ quyền phát hành.

Nợ chính phủ thường được phân loại như sau:
 Nợ trong nước (các khoản vay từ người cho
vay trong nước) và nợ nước ngoài (các khoản
vay từ người cho vay ngoài nước phần lớn là
vốn ODA, vay ưu đãi và một phần vay
thương mại).
 Nợ ngắn hạn (từ 1 năm trở xuống), nợ trung
hạn (từ trên 1 năm đến 10 năm) và nợ dài hạn
(trên 10 năm).
1.1.2. Các hình thức vay nợ của Chính phủ :
a. Phát hành trái phiếu của Chính phủ :
Chính phủ có thể phát hành Trái phiếu Chính phủ (TPCP) để vay từ các tổ chức,
cá nhân. Trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ được coi là không có rủi ro tín
dụng. Trái phiếu chính phủ phát hành bằng ngoại tệ có rủi ro tớn dụng cao hơn so
với khi phát hành bằng nội tệ.
Cải cách Thuế – Nợ công & Đầu tư công ở Việt Nam
CAO HỌC ĐÊM 6 - K20 18
b. Vay trực tiếp
Chính phủ cũng có thể vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể
chế siêu quốc gia (ví dụ: Quỹ Tiền tệ Quốc tế) Hình thức này thường được Chính
phủ của các nước có độ tin cậy tín dụng thấp áp dụng vì khi đó khả năng vay nợ
bằng hình thức phát hành trái phiếu chính phủ của họ không cao.
1.2. Cơ sở lý luận về Đầu tư công:
1.2.1. Định nghĩa:
Đầu tư công là một bộ phận cấu thành trong chi tiêu công. Chi tiêu công chính
là các khoản chi của Nhà nước, gồm các cấp chính quyền, các đơn vị quản lý hành
chính, các đơn vị sự nghiệp, được kiểm soát và tài trợ bởi Chính phủ. Căn cứ vào
tính chất kinh tế, chi tiêu công được chia ra thành: chi thường xuyên và chi đầu tư
phát triển.
Trong đó, chi đầu tư phát triển bao gồm chi xây dựng công trình thuộc kết cấu

hạ tầng kinh tế xã hội – ưu tiên cho những công trình không có khả năng thu hồi
vốn; chi đầu tư hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực cần thiết có sự quản lý,
và điều tiết của Nhà nước, chi hỗ trợ các quỹ hỗ trợ tài chính của Chính phủ, chi dự
trữ Nhà nước.
Theo Dự thảo luật Đầu tư công Tháng 03/2010, tại Điều 3 của Dự thảo có định
nghĩa Đầu tư công như sau:
“Đầu tư công là việc sử dụng vốn Nhà nước để đầu tư vào các chương trình, dự
án phục vụ phát triển kinh tế - xã hội không có khả năng hoàn vốn trực tiếp.
Hoạt động đầu tư công bao gồm toàn bộ quá trình lập, phê duyệt kế hoạch,
chương trình, dự án đầu tư công; triển khai thực hiện đầu tư và quản lý khai thác, sử
dụng các dự án đầu tư công”.
Tóm lại, có thể hiểu Đầu tư công là khoản chi tiêu của Chính phủ, sử
dụng nguồn vốn từ Ngân sách Nhà nước để đầu tư vào các dự án, chương
trình, công trình cơ sở hạ tầng, tập trung tỷ trọng lớn ở những khoản chi
không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp nhằm mục đích phát triển cơ sở
hạ tầng kinh tế - xã hội.
1.2.2. Phương thức đầu tư trong đầu tư công :
Đầu tư công bao gồm 2 khoản mục chính:
Đầu tư trực tiếp của Chính Phủ nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng như
đường xá, cầu cống, hệ thống thủy lợi, đê điều, điện nước, trường học,
bệnh viện …
Đầu tư gián tiếp của Chính Phủ qua việc cấp vốn, vay nợ thay cho những công
ty, tập đoàn quốc doanh.
Cải cách Thuế – Nợ công & Đầu tư công ở Việt Nam
CAO HỌC ĐÊM 6 - K20 19
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG VÀ ĐẦU TƯ CÔNG Ở VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2000 – 2010.
2.1. Thực trạng Nợ công ở Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010:
2.1.1. Tình hình nợ công của Việt Nam :
Tổng số dư nợ công đến cuối năm 2009 của Việt Nam ước tính khoảng 52,6%

GDP, trong đó nợ của Chính phủ khoảng 41,9% GDP, nợ được Chính phủ bảo lãnh
khoảng 9,8% GDP và nợ của chính quyền địa phương khoảng 0,8% GDP.
Nợ nước ngoài của quốc gia 38,8% GDP. Nghĩa vụ trả nợ Chính phủ so với thu
NSNN chiếm 15,8%, nghĩa vụ trả nợ nước ngoài trung dài hạn so với kim ngạch
xuất nhập khẩu chiếm 4,2%.
Xét về tốc độ tăng nợ Chính phủ, từ năm 2001 đến 2010, dư nợ Chính phủ của
Việt Nam tăng từ 36% GDP lên 44,5% GDP; bội chi NSNN ở mức cao. Trong đó có
nhiều nguyên nhân, chủ yếu là do trong giai đoạn 2008 - 2010 cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu đã có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta. Để đối phó
với khó khăn này, Nhà nước ta ban hành nhiều chính sách hỗ trợ đặc biệt, giúp cho
nước ta vượt qua được những khó khăn đó, duy trì nền kinh tế vĩ mô cơ bản ổn
định, duy trì tăng trưởng trong các năm 2008 - 2010 ở mức khá. Những cơ chế,
chính sách này phần lớn liên quan đến chính sách tài khóa như miễn, giảm, giãn
một số sắc thuế, kích cầu đầu tư, tiêu dùng, đảm bảo an sinh xã hội… nên nợ công
tăng nhanh là tất yếu.
a. Nợ Chính phủ
Các khoản vay trong nước của Chính phủ chủ yếu là phát hành TPCP để đầu tư
vào các dự án công trình cấp bách về giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục.
Các khoản vay nước ngoài của Chính phủ phần lớn đều là các khoản vay dài hạn
với lãi suất ưu đãi. Tính đến 31/12/2009, vay ODA chiếm 75% tổng số nợ; phần lớn
đều có thời hạn vay dài (bình quân khoảng 26,6 năm). Lãi suất bình quân của các
khoản vay trung và dài hạn nước ngoài là 3,3%/năm, trong đó lãi suất bình quân đối
với các khoản vay của Chính phủ là 1,9%/năm. Với thời gian vay và mức lãi suất
như vậy, các khoản vay này hiện tại không gây sức ép cho NSNN về nghĩa vụ trả nợ
đến hạn.
Về quy định ngưỡng nợ: tại Quyết định số 527/QĐ-TTg ngày 23/4/2009 của Thủ
tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chương trình quản lý nợ nước ngoài trung hạn
giai đoạn 2009-2012”, trong đó quy định “Duy trì nợ nước ngoài ở mức an toàn và
bền vững, dư nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP; tổng nghĩa vụ trả
nợ nước ngoài của quốc gia dưới 25% xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ; nghĩa vụ

trả nợ nước ngoài của Chính phủ dưới 12% tổng thu NSNN hàng năm”. Theo đó,
dư nợ Chính phủ ước đến 31/12/2010 là 44,5% GDP, vẫn nằm trong giới hạn quy
định.
Cải cách Thuế – Nợ công & Đầu tư công ở Việt Nam
CAO HỌC ĐÊM 6 - K20 20
b. Nợ được Chính phủ bảo lãnh
Ước tính đến 31/12/2010, dư nợ được Chính phủ bảo lãnh khoảng 11,36% GDP,
trong đó bảo lãnh cho các doanh nghiệp chiếm 53,7% và bảo lãnh phát hành Trái
phiếu của Ngân hàng Phát triển Việt Nam và Ngân hàng Chính sách xã hội Việt
Nam để thực hiện chính sách tín dụng của Nhà nước chiếm 46,3%.
Nợ được Chính phủ bảo lãnh bao gồm:
 Bảo lãnh vay nước ngoài: Khối lượng vốn
vay nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh có
xu hướng tăng qua các năm. Nghĩa vụ trả nợ
thay của Chính phủ đối với các khoản nợ
nước ngoài của doanh nghiệp được Chính phủ
bảo lãnh trong những năm qua không lớn,
chưa gây áp lực lớn đối với nợ công. Với khả
năng cạnh tranh và năng lực tài chính còn hạn
chế, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa,
các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong
tiếp cận vốn vay, nên việc bảo lãnh của Chính
phủ cho doanh nghiệp vay vốn trong nhiều
năm qua đã giúp doanh nghiệp huy động vốn
để thực hiện nhiều dự án, công trình quan
trọng nhằm phát triển sản xuất - kinh doanh,
cơ sở hạ tầng, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
 Bảo lãnh vay trong nước cho các khoản vay
của các doanh nghiệp từ ngân hàng thương
mại trong nước: chủ yếu là bảo lãnh vay cho

các dự án dầu khí, điện lực, xi măng, hàng
không, viễn thông và một số lĩnh vực khác.
c. Nợ của chính quyền địa phương
Nợ này chủ yếu phát sinh từ việc phát hành trái phiếu chính quyền địa phương.
Tổng dư nợ chính quyền địa phương năm 2009 khoảng 0,8% GDP, trong đó bao
gồm phát hành trái phiếu chính quyền địa phương và vay ngân hàng thương mại.
2.1.2. Đánh giá tình hình quản lý nợ công thời gian qua
a. Về thể chế hóa:
Năm 2009, Luật quản lý nợ công được Quốc hội ban hành là một bước tiến bộ
lớn trong hệ thống văn băn pháp luật về quản lý nợ công. Trong đó, đã quy định
được các nội dung cơ bản về quản lý nợ công và nợ nước ngoài như nguyên tắc
quản lý nợ công; phân công có trách nhiệm cụ thể cho từng cơ quan, tổ chức có liên
quan; quy định về quản lý nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính
quyền địa phương; tổ chức thông tin về nợ công Trên cơ sở đó, các nghị định, qui
Cải cách Thuế – Nợ công & Đầu tư công ở Việt Nam
CAO HỌC ĐÊM 6 - K20 21
định của Chính phủ và thông tư hướng dẫn thi hành của các cơ quan liên quan đã
được ban hành, tạo ra một hành lang pháp lý tương đối đồng bộ trong việc quản lý
nợ công.
b. Về huy động nguồn vốn:
Tổng giá trị vốn vay trong và ngoài nước giai đoạn 2001-2009 chiếm khoảng
26% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội hàng năm. Cùng với các nguồn lực khác, vốn
vay đã góp phần tích cực vào việc huy động vốn thúc đẩy phát triển kinh tế. Công
tác huy động vốn đã được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau trong đó chủ
yếu là vốn ODA và phát hành TPCP .
Nguồn vốn vay của Chính phủ đã được sử dụng để cho vay lại đối với các
chương trình, dự án trong lĩnh vực điện, than, xi măng, dầu khí, cảng biển, sân bay,
chế biến đường, cấp nước sạch và một số chương trình tín dụng ưu đãi trong lĩnh
vực nông nghiệp, tạo việc làm. Vốn TPCP trong nước tập trung cho đầu tư các công
trình giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục. Đây là nguồn vốn lớn bổ sung cho đầu tư

phát triển, cân đối NSNN, thúc đẩy tăng trưởng nhanh.
c. Về các hình thức huy động vốn vay:
Các hình thức huy động vốn vay ngày càng đa dạng, linh hoạt, tạo tiền đề cho sự
hình thành và phát triển đồng bộ thị trường tài chính. Vay của Chính phủ chủ yếu
được huy động từ nguồn vốn vay ODA, vay ưu đãi và phát hành TPCP để đầu tư
cho các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội của đất nước.
Tính đến cuối năm 2009, tổng số vốn ODA mà các nhà tài trợ đã cam kết cho
nước ta đạt khoảng 47,4 tỷ USD, đã đàm phán và ký kết các Hiệp định vay ODA và
vay ưu đãi với tổng giá trí 37,5 tỷ USD và đã được giải ngân 19,5 tỷ USD, chiếm
52%% so với tổng số vốn ODA đã ký vay. Đây là nguồn vốn có ý nghĩa quan trọng
đối với việc phát triển kinh tế – xã hội, đầu tư bằng vốn ODA chiếm khoảng 12%
tổng đầu tư toàn xã hội. Một số lĩnh vực đã được ưu tiên sử dụng nguồn vốn ODA
như: giao thông vận tải, chiếm khoảng 26,5%; phát triển hệ thống nguồn điện, mạng
lưới chuyển tải và phân phối điện, khoảng 23,4%; phát triển nông nghiệp nông thôn
bao gồm cả thủy lợi, thủy sản, lâm nghiệp, khoảng 16,3%; cấp thoát nước và bảo vệ
môi trường, khoảng 9%; y tế và xã hội, khoảng 5,8%; giáo dục và đào tạo, khoa học
và công nghệ, khoảng 8% và các lĩnh vực khác khoảng 13%.
d. Về công tác quản lý nợ:
Trong thời gian qua, với chức năng giúp Chính phủ thống nhất quản lý nợ công,
Bộ Tài chính đã theo dõi chặt chẽ đến các chỉ tiêu an toàn nợ. Hiện tại, dư nợ nước
ngoài của quốc gia vẫn nằm trong giới hạn an toàn (dưới 50% GDP), các khoản nợ
trong và ngoài nước đến hạn được bố trí trả đầy đủ, không có nợ xấu.
Đối với quản lý nợ nước ngoài, nước ta đã tiếp cận gần với các thông lệ trên thế
giới như xác định rõ mục tiêu, nguyên tắc quản lý; ngoài việc hướng đến đạt được
các mục tiêu huy động vốn và quản lý hiệu quả sử dụng, đã chú trọng đến quản lý
Cải cách Thuế – Nợ công & Đầu tư công ở Việt Nam
CAO HỌC ĐÊM 6 - K20 22
rủi ro, giám sát nợ đảm bảo an toàn; việc phân loại nợ phù hợp với thông lệ quốc tế,
áp dụng các nguyên tắc thị trường và không phân biệt đối xử trong hoạt động quản
lý như quản lý cho vay lại, quản lý bảo lãnh Chính phủ.

Đối với quản lý nợ trong nước, đã và đang tổ chức tốt công tác phát hành trái
phiếu, huy động đảm bảo đủ khối lượng được Quốc hội và Chính phủ giao hàng
năm, đồng thời tạo hàng hóa cho sự phát triển thị trường vốn; nghiên cứu, áp dụng
các thông lệ tốt về phát hành trái phiếu của các nước tiên tiến trên thế giới, đa dạng
hóa các loại trái phiếu phát hành, tạo tiền đề cho sự phát triển thị trường thứ cấp
TPCP. Đã phát hành thí điểm trái phiếu lô lớn, nhằm cơ cấu lại thị trường, nâng cao
tính thanh khoản của trái phiếu, và hướng đến tạo ra đường cong lãi suất chuẩn
TPCP. Thị trường TPCP đã bước đầu thu hút được sự quan tâm, tham gia của các
nhà đầu tư trong và ngoài nước.
e. Về cơ cấu nợ công:
Cơ cấu nợ công đã hợp lý hơn, khá ổn định và tương đối bền vững. Ước tính đến
cuối năm 2010:
Trong nợ Chính phủ, nợ nước ngoài chiếm 55,9%, trong đó 75% là ODA; nợ
trong nước chiếm 44,1%. Xét về thời hạn, nợ ngắn hạn (tín phiếu kho bạc) chiếm tỷ
lệ rất thấp trong tổng số dư nợ Chính phủ.
Theo Bộ Tài chính, công tác quản lý nợ công tại Việt Nam hiện đang có 7
tồn tại cơ bản:
 Một là thị trường trái phiếu trong nước phát
triển còn hạn chế. Thực tế cho thấy tỷ lệ huy
động vốn thông qua trái phiếu còn thấp, chưa
đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế và
tiềm năng trong xã hội.
 Hai là công tác huy động vốn ODA còn thụ
động, nhiều khoản vay ODA còn gắn với
những ràng buộc làm tăng chi phí đầu vào
(nhiều dự án phải cùng lúc thực hiện 2 hệ
thống thủ tục: một thủ tục giải quyết vấn đề
nội bộ trong nước, một thủ tục với nhà tài trợ,
gia tăng chi phí chuẩn bị dự án, chi phí đầu tư
do lạm phát trong thời gian bị kéo dài).

Cải cách Thuế – Nợ công & Đầu tư công ở Việt Nam
Thành phần Nợ công Tỷ lệ
Nợ Chính phủ 78.44%
Nợ được CP bảo lãnh 20.51%
Nợ chính quyền địa phương 1.05%
Tổng nợ công 100.00%
Cơ cấu nợ chính phủCơ cấu Nợ công
CAO HỌC ĐÊM 6 - K20 23
 Ba là phân bổ vốn vay còn dàn trải; chủ
trương huy động và sử dụng vốn cần gắn kết
hơn với ngưỡng an toàn nợ.
 Bốn là hiệu quả sử dụng vốn vay chưa cao,
chưa được quản lý giám sát chặt chẽ;
 Năm là các chỉ tiêu nợ trong tầm kiểm soát
nhưng một số rủi ro thị trường cần được tính
toán đo lường chính xác hơn; rủi ro tín dụng
chưa được phản ánh trong phí cho vay lại và
phí bảo lãnh của Chính phủ.
 Sáu là cơ chế cảnh báo sớm còn hạn chế.
 Bảy là quyền hạn quản lý của các cơ quan còn
chồng chéo; năng lực cán bộ cần được cải
thiện.
Cộng thêm thách thức mới
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, công tác quản lý nợ công tại Việt Nam
còn phải “đối mặt” với 3 thách thức mới, gồm:
 Nhu cầu đầu tư phát triển và thâm hụt ngân
sách đòi hỏi phải tiếp tục tăng huy động vay
trong nước và nước ngoài;
 Việt Nam đã là quốc gia có mức thu nhập
trung bình nên tỷ trọng vốn ODA sẽ giảm

dần, vốn vay thương mại tăng dần;
 Thị trường tài chính quốc tế vẫn tiềm ẩn
nhiều biến động về lãi suất và tỷ giá giữa các
đồng tiền, đem lại cả các rủi ro và cơ hội.
2.2. Thực trạng Đầu tư công ở Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010:
2.2.1. Định hướng mục tiêu đầu tư công của Việt Nam.
Đầu tư nhằm đảm bảo nhịp độ tăng trưởng kinh tế, nhằm chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, xây dựng
năng lực khoa học và công nghệ quốc gia, phát triển kết cấu hạ tầng kỹ
thuật và xã hội, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
2.2.2. Những kết quả đạt được từ đầu tư công trong giai đoạn 2000 – 2010 :
Trong những năm qua, ở nước ta đầu tư công chiếm gần một nửa vốn đầu
tư toàn xã hội. Tỷ trọng đầu tư khu vực Nhà nước trong tổng vốn đầu tư
toàn xã hội đã giảm khá nhanh, từ khoảng 59,17% năm 2000 xuống còn
28,5% năm 2008; tỷ trọng vốn đầu tư khu vực Nhà nước tăng từ khoảng
22,85% lên 40% và tỷ trọng khu vực đầu tư nước ngoài tăng từ khoảng
Cải cách Thuế – Nợ công & Đầu tư công ở Việt Nam
CAO HỌC ĐÊM 6 - K20 24
17,98% lên 31,5% trong cùng thời kỳ. Nhưng năm 2009, ước tính tỷ
trọng đầu tư của khu vực Nhà nước lại tăng, chiếm khoảng 34,8% tổng
đầu tư xã hội (trong đó đầu tư ngân sách 21,8%).
Đầu tư công đã làm thay đổi đáng kể kết cấu hạ tầng kỹ thuật, tạo điều
kiện cho các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước phát triển, góp phần thúc
đẩy tăng trưởng, nâng cao đời sống nhân dân.
Đầu tư công đã mang lại hiệu quả trong đời sống và trong phát triển kinh tế - xã
hội. Đặc biệt, các chương trình mục tiêu quốc gia tại các vùng kinh tế khó khăn nói
riêng và cả nước nói chung, như: Chương trình 135, Chương trình trồng rừng,
Chương trình nước sạch vệ sinh môi trường, xóa đói giảm nghèo, các đầu tư về hạ
tầng giao thông, trường học, kiên cố hóa kênh mương, hỗ trợ sản xuất cho hộ

nghèo đã mang lại kết quả rõ rệt.
Nhiều công trình dự án trọng điểm được đầu tư phục vụ tốt sản xuất đời sống,
như Dự án cải tạo nâng cấp QL1A, đường Hồ Chí Minh, đường cao tốc TP Hồ Chí
Minh - Trung Lương, cầu Cần Thơ, Thông qua đầu tư công, hạ tầng giao thông,
thủy lợi và các công trình phúc lợi khác ngày một phát triển nhiều hơn, phục vụ đắc
lực cho công cuộc kiến thiết đất nước, nâng cao đời sống kinh tế xã hội.
Đầu tư của Chính phủ vào các tập đoàn kinh tế Nhà nước giúp tạo nên những
công ty công nghiệp lớn hoạt động trong các ngành công nghiệp chủ lực và thiết
yếu của nền kinh tế quốc gia.
Trong những năm suy thoái, đầu tư công là nguồn lực giúp cải thiện tình trạng
thất nghiệp ngăn chặn sự suy giảm nhanh chóng của khu vực đầu tư tư nhân, lôi kéo
sự tăng trưởng của các khu vực kinh tế khác.
2.2.3. Những hạn chế còn tồn tại trong đầu tư công giai đoạn 2000 – 2010 :
a. Cơ cấu đầu tư:
Cơ cấu đầu tư và việc phân bổ nguồn vốn đầu tư ở Việt Nam trong thời gian qua
là chưa hợp lý. Thứ nhất, trong giai đoạn 2000 - 2008, hơn 80% vốn đầu tư Nhà
nước đã tập trung vào 20 ngành, gồm: vận tải đường bộ, cung cấp nước, vận tải
đường thủy, sản xuất điện và khí đốt, khai thác dầu khí, quản lý Nhà nước, dịch vụ
y tế và trợ cấp xã hội, dịch vụ viễn thông, văn hóa - thể thao và thủy lợi, thương
mại, dịch vụ phục vụ nông nghiệp, sản xuất phân hóa học, khai thác than, sản xuất
xi-măng, khoa học và công nghệ, kinh doanh bất động sản, vận tải đường sắt, khách
sạn và du lịch. Điểm chưa hợp lý ở đây là đầu tư Nhà nước vào dịch vụ tài chính,
tiền tệ và các ngành công nghiệp chế biến công nghệ cao là chưa đáng kể. Trong khi
đó, đầu tư Nhà nước vẫn còn chiếm tỷ trọng đáng kể ở một số ngành mà tư nhân có
thể đã sẵn sàng đầu tư như: thương mại (2%), khách sạn (1%), xây dựng dân dụng
(5%), du lịch (1%), dệt (1%)
Thứ hai, việc phân bổ vốn đầu tư vào các ngành và mức đóng góp của chúng
vào GDP trong giai đoạn qua là chưa tương xứng nhau. Một số ngành có tỷ trọng
Cải cách Thuế – Nợ công & Đầu tư công ở Việt Nam
CAO HỌC ĐÊM 6 - K20 25

đầu tư cao hơn so với mức đóng góp vào GDP như khai thác dầu khí, quản lý Nhà
nước, sản xuất điện và khí đốt, kinh doanh bất động sản và dịch vụ bất động sản,
dịch vụ viễn thông, dịch vụ chăm sóc y tế…
b. Hiệu quả đầu tư:
Hiệu quả đầu tư thường gồm hai loại hiệu quả: hiệu quả kinh tế - xã hội và hiệu
quả kinh tế (hay hiệu quả kinh doanh).
Về hiệu quả kinh tế - xã hội, Việt Nam được cộng đồng quốc tế công nhận là
nước thành công nhất trong đầu tư giảm đói nghèo. Tuy nhiên, chúng ta lại có
không ít dự án đầu tư công lãng phí, không hiệu quả như đầu tư xây dựng nhiều
chợ, nhiều cảng biển để rồi gần như bỏ không. Hay xét về hiệu quả xã hội vẫn còn
mất cân đối khá lớn trong phân bổ và sử dụng lao động giữa các thành phần kinh tế
và trong nội bộ khu vực kinh tế ngoài Nhà nước. Do vậy, có thể thấy rằng hiệu quả
kinh tế - xã hội của đầu tư công ở Việt Nam là thấp.
Về hiệu quả kinh tế, đầu tư công ở Việt Nam kém hiệu quả. Những năm từ 2001-
2005, hệ số hiệu quả vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ICOR (Incremental Capital
Output Rate, tức tỷ lệ vốn đầu tư để tạo ra một đơn vị gia tăng GDP) là thấp hơn 5
lần nhưng đến năm 2007 lên 5,17 lần, hệ số này rất cao. So sánh với một số quốc
gia ở khu vực Châu Á, hệ số ICOR của Việt Nam là rất cao.
Nước Giai đoạn
Tăng trưởng
GDP(%/Năm)
Tổng đầu tư
(%GDP/Năm)
Icor
Hàn Quốc 1961 - 1980 7.9 23.3 3.0
Đài Loan 1961 - 1980 9.7 26.2 2.7
Indonexia 1981 - 1995 6.9 25.7 3.7
Malaysia 1981 - 1995 7.2 32.9 4.6
Thái Lan 1981 - 1995 8.1 33.3 4.1
Trung Quốc 2001 - 2006 9.7 33.8 4.0

Việt Nam 2001 - 2006 7.6 33.5 4.4
Hệ số ICOR của khu vực kinh tế Nhà nước, trong đó có đầu tư công và đầu tư
của DNNN năm 2007 là 8,1 lần, cao hơn nhiều so với con số 3,7 lần của khu vực
kinh tế ngoài Nhà nước.
Hiệu quả kinh doanh của các DNNN thấp và thấp hơn nhiều so với doanh nghiệp
của tư nhân trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đến năm 2010,
với sự đầu tư và hỗ trợ của Nhà nước, các Doanh nghiệp Nhà nước đang nắm giữ
khoảng 75% tài sản cố định quốc gia, gần 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, khoảng
60% tổng lượng tín dụng ngân hàng trong nước và tổng vốn vay nước ngoài, phần
lớn nguồn nhân lực được đào tạo có chất lượng cao. Tuy vậy, sự đóng góp của khu
vực DNNN cho nền kinh tế vẫn chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ, chỉ chiếm
khoảng 40%.
Hơn nữa, xét về doanh thu thuần được tạo ra bởi một đồng vốn kinh doanh thì:
(ĐVT: tỷ đồng)
Cải cách Thuế – Nợ công & Đầu tư công ở Việt Nam

×