BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
---------------------------
Nguyễn Thị Mai Thu
Chuyên ngành : Quản lý giáo dục
Mã số : 60 14 05
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS BÙI NGỌC OÁNH
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BGD&ĐT : Bộ Giáo dục và đào tạo
BGH : Ban Giám hiệu
BLV : Bình luận viên
BTV : Biên tập viên
CĐ PT-TH II : Cao đẳng Phát thanh- Truyền hình II
CNH-HĐH : Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
ĐH : Đại học
ĐHQG : Đại học Quốc gia
ĐH KHXH&NV : Đại học Khoa học xã hội và nhân văn
GD-ĐT : Giáo dục- Đào tạo
GS : Giáo sư
GS. VS : Giáo sư Viện sĩ
GS. TS : Giáo sư Tiến sĩ
GS.TSKH : Giáo sư Tiến sĩ Khoa học
GV : Giáo viên
KT : Kỹ thuật
NXB
: Nhà xuất bản
PGS : Phó Giáo sư
PGS. TS : Phó Giáo sư Tiến sĩ
TW : Trung ương
TNVN : Tiếng nói Việt Nam
TP : Thành phố
SV : Sinh viên
sx : sản xuất
SP : Sư phạm
UBND : Ủy ban nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Khoa học Công nghệ -
Sau đại học Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi trong suốt khóa học và trong việc hoàn thành luận
văn này.
Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy, hướng
dẫn, đóng góp nhiều ý kiến quý báu cho chúng tôi trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu.
Xin cảm ơn Ban giám hiệu trường Cao đẳng Phát thanh - Truyền hình II,
các bạn đồng nghiệp đã hỗ trợ, giúp đỡ, động viên tạo điều kiện để chúng tôi
yên tâm học tập.
Đặc biệt, xin bày tỏ lòng biết ơn đến PGS.TS. Bùi Ngọc Oánh, người đã
tận tâm hướng dẫn, chỉ bảo để chúng tôi hoàn thành luận văn này.
Thành phố Hồ Chí Minh ngày tháng năm
Tác giả
Nguyễn Thị Mai Thu
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực
quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội Đảng lần thứ X
đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển giáo dục: “Ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao
chất lượng dạy và học. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất
lượng đội n
gũ giáo viên và tăng cường cơ sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng
tạo và độc lập suy nghĩ của học sinh.”
Ở hệ thống các trường đại học, cao đẳng, đổi mới giáo dục bắt nguồn từ đổi mới phương
pháp dạy học của người thầy, trong đó phải lấy việc phát triển năng lực thực hành, năng lực giải
quyết vấn đề của sinh viên làm định hướng. Công tác thực tập là khâu quan trọng quyết định
chất lượng, khả năng làm
nghề của sinh viên sau khi ra trường. Tại buổi hội thảo “ Công tác
thực tập sư phạm ở các trường sư phạm” được tổ chức ngảy 29/04/2008 tại trường ĐHSP Tp
HCM, 49 bài tham luận của các tác giả từ các viện nghiên cứu, trường đại học, cao đẳng, sở
GDĐT…đã chia sẻ các ý kiến về thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng thực tập, qua đó
nhận định rằng công tác thực tập hiện nay của các trường hầu như bị thả nổi, chưa được coi
trọng như công tác đào tạo chuyên m
ôn. Vì thế, việc nâng cao chất lượng thực tập là vấn đề
phải được đặc biệt coi trọng, và cần được thực hiện trong thời gian tới.
1.2. Thực tập là một phần rất quan trọng trong chương trình đào tạo báo chí. Đây là cơ
hội quý gi
á để sinh viên báo chí tác nghiệp tại các cơ quan báo đài, rèn luyện năng lực cho bản
thân, tích lũy kinh nghiệm trước khi chính thức bước vào nghề báo. Đợt thực tập sẽ giúp sinh
viên báo chí có điều kiện tiếp cận, cọ sát thực tế sau phần học lý thuyết; đồng thời cũng là dịp
để sinh vi
ên nắm bắt một cách hoạt động của các cơ quan báo chí, học hỏi nghiệp vụ báo chí,
kiểm tra và rèn luyện năng lực của chính bản thân mỗi người. Cũng thông qua đợt thực tập, các
em có dịp tôi rèn năng khiếu chuyên môn (viết, đọc, nói); khả năng ứng xử nhạy bén, thông
minh; kỹ năng giao tiếp, phẩm chất đạo đức của một nhà báo tương lai, đáp ứng tốt nhất yê
u
cầu vốn rất khắc khe của cơ quan báo chí nói riêng và xã hội nói chung về một phóng viên báo chí.
Trong từ 2 đến 3 năm được đào tạo tại trường Cao đẳng Phát thanh- truyền hình II (CĐ
PT-TH II), sinh viên và học sinh có đợt thực tập vào học kỳ cuối của năm 2 (đối với học sinh hệ
Trung cấp), và vào học kỳ cuối của năm 3 (đối với sinh viên hệ Cao đẳng). Đợt thực tập là dịp
để các em có điều kiện tiếp xúc với m
ôi trường thực tế, con người thực tế, hoàn cảnh thực tế,
trên cơ sở vận dụng những kiến thức đã học để sáng tạo ra những tác phẩm báo chí có chất
lượng, sử dụng được trên các phương tiện thông tin đại chúng, được bạn đọc, công chúng chấp
nhận.
Từ ngày thành lập đến nay, việc tổ chức và quản lý thực tập ở trường Cao đẳng PT-TH II
đã được các thế hệ Ban giám hiệu quan tâm chỉ đạo và thực hiện, song nhìn lại vẫn còn một số
tồn tại. Nhất là trong giai đoạn trước mắt, trường vừa được nâng cấp lên hệ Cao đẳng với số
lượng sinh viên tăng cao, đòi hỏi phải có kế hoạch tương ứng.
1.3. Nghiên cứu khoa học về vấn đề thực tập nghề cho học sinh sinh viên nói
chung đã có
nhiều tài liệu, luận văn thạc sĩ khác đề cập, song chưa có một công trình nghiên cứu về quản lý
thực tập báo chí của ngành Phá
t thanh-Truyền hình khu vực phía Nam. Vì vậy, chúng tôi mạnh
dạn chọn đề tài: “Thực trạng việc quản lý thực tập báo chí tại trường Cao đẳng Phát thanh-
Truyền hình II”, với mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả thực tập cho học sinh, sinh viên;
thực hiện phương châm giáo dục đúng đắn của Đảng “Học đi đôi với hành”.
2. Mục đích nghiên cứu
Phân tích thực trạng của việc quản lý thực tập của trường Cao đẳng PT-TH II trong
những năm qua, để tìm
ra những giải pháp cụ thể nhằm giúp nhà trường, các bộ phận có liên
quan có thể quản lý việc thực tập của học sinh hệ trung học chuyên nghiệp và sinh viên hệ cao đẳng
một cách chặt chẽ, hiệu quả hơn.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
-Thực trạng công tác quản lý thực tập báo chí tại trường CĐ PT-TH II.
3.2. Khách thể nghiên cứu
- Hoạt động thực tập của sinh viên khoa báo chí trường CĐ PT-TH II.
- Sinh viê
n trường Cao đẳng PT-TH II.
- Giáo viên trường Cao đẳng PT-TH II.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Công tác quản lý việc thực tập báo chí ở khoa báo chí trường CĐ PT-TH II.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu, đề tài tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Xây dựng những cơ sở lý luận liên quan đến việc thực tập và quản lý thực tập báo chí.
- Thực trạng việc quản lý thực tập báo chí của trường CĐ PT-TH II.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thực tập.
6. Giả thuyết nghiên cứu
Việc quản lý thực tập báo chí của trường Cao đẳng PTTH II từ trước đến nay đã dạt được
những kết quả nhất định, song vẫn còn một số tồn tại trong một số khâu như việc chuẩn bị cho
kỳ thực tập, tổ chức thực tập…. Vì vậy, nếu đánh giá đúng thực trạng, xác định được nguyên
nhân, nêu được ra các giải pháp quản lý khoa học, chủ động, phù hợp hơn với tình hì
nh thực tế
sẽ giúp nhà trường quản lý tốt hơn việc thực tập của sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng
giảng dạy ở trường Cao đẳng PTTH II.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu
- Xây dựng phiếu trưng cầu ý liến dựa trên cơ sở lý luận, mục đích nghiên cứu, trong đó
gồm
Câu hỏi dành cho sinh viên
Câu hỏi dành cho giáo viên, cán bộ quản lý
- Xử lý số liệu, thống kê, tính phần trăm
, bình luận từng vấn đề.
7.2. Phương pháp phỏng vấn
Nhằm tìm hiểu những thuận lợi, khó khăn, mong muốn, nguyện vọng của các em về việc
thực tập, những ý kiến đóng góp đề xuất về việc quản lý của trường, khoa cho việc thực tập.
Đối tượng phỏng vấn:
Cán bộ quản lý
Giáo viên hướng dẫn
Sinh viên t
hực tập
Cơ sở hướng dẫn thực tập
7.3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm để đánh giá chất lượng:
Nhận xét kết quả học tập các môn báo chí của sinh viên.
Nhận xét kết quả thực tập tại cơ sở.
So sánh, đối chiếu, đánh giá, phân loại, tổng kết.
7.4. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Nghiên cứu các văn bản về chủ trương, chính sách của Bộ giáo dục đào tạo,
Nghị quyết của Đảng, văn bản của Ngành giáo dục.
Tham khảo các nguồn tư liệu từ sách báo, tạp chí, internet có liên quan đến
vấn đề nghiên cứu.
7.5. Phương pháp quan sát
Thực hiện bằng cách tiếp cận, xem xét để thu thập dữ liệu thực tế về hoạt động thực tập và
hoạt động quản lý thực tập, để đánh giá sự phù hợp giữa phương pháp quan sát và phương pháp
điều tra.
Đối tượng quan sát: Phòng đào tạo, Khoa báo chí, Sinh viên khoa báo chí, các Trưởng phó
khoa, các cơ sở tiếp nhận sinh viên đến thực tập.
Mục đích của việc quan sát là tìm hiểu thực trạng của việc quản lý thực tập của Phòng đào
tạo, Khoa báo chí, sự phối hợp với các bộ phận có liên quan.
7.6. Phương pháp sử dụng toán thống kê
Dùng toán thống kê xử lý số liệu điều tra
, phân tích kết quả nghiên cứu, định lượng chính
xác từng nội dung, nâng cao tính thuyết phục của các số liệu được nêu ra trong luận văn.
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hoạt động thực tập nói chung từ lâu đã được thực hiện ở các trường Sư phạm, Y khoa…
Vấn đề thực tập không phải là một vấn đề hoàn toàn mới lạ, xuất phát từ yêu cầu rèn luyện
nâng cao tay nghề cho sinh viên, tạo điều kiện cho sinh viên tiếp xúc với môi trường thực tế,
trên cơ sở vận dụng những kiến thức đã học; vấn đề này đã được nhiều nhà khoa học, giáo dục
quan tâm
nghiên cứu.
Bộ giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) đã ban hành bộ chương trình thực tập sư phạm thống
nhất cho tất cả các trường sư phạm. Qua nhiều lần chỉnh sửa, thay đổi, bổ sung (vào các năm
1974, 1982, 1986), chương trình thực tập sư phạm chính thức được áp dụng tại các trường Cao
đẳng sư phạm h
iện nay. Đó chính là bộ chương trình được ban hành kèm theo các Quyết định
số 3086/GD-ĐT ngày 27/7/1996, Quyết định số 3637/GD-ĐT ngày 30/8/1996 của Bộ trưởng
Bộ Giáo dục.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu dưới nhiều dạng khác nhau, nhằm mục đích nâng cao
chất lượng thực tập như:
+ Cá
c Hội thảo, Hội nghị chuyên đề những năm gần đây:
- Hội thảo “Công tác thực tập sư phạm ở các trường sư phạm”
do Viện nghiên cứu Giáo
dục tổ chức tháng 04/2008, xoay quanh các vấn đề đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp
nâng cao chất lượng công tác thực tập sư phạm.
- Hội thảo hoa học Quốc gia “Sinh viên với đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, nhu cầu đất
nước” do GS.TSKH Nguyễn Thiện Nhân- Bộ trưởng Bộ GD-ĐT- Phó thủ tướng chính phủ chủ
trì, ngày 20/8/2008, nhấn mạnh việc ngành giáo dục chủ động xây dựng chương trình chú trọng
thực học, thực hành, chuẩn bị kỹ năng nghề cho người học; các cơ sở đào tạo tăng cường tổ
chức các hoạt động, các loại hình câu lạc bộ để si
nh viên có điều kiện rèn luyện các kỹ năng
liên quan đến nghề, phát huy đựơc năng lực của bản thân sau khi ra trường.
- Hội thảo “Công tác thực tập và đào tạo báo chí” do khoa Báo chí Trường Đại học khoa
học xã hội và nhân văn Hà Nội tổ chức ngày 19/04/2008.
- Hội thảo “Thực hành về nghiệp vụ Báo chí” do Chi cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng
Bắc Giang tổ chức trong 2 ngà
y 7, 8/4/2008.
- Hội thảo khoa học “Đào tạo Báo chí đáp ứng nhu cầu xã hội, thực tiễn và những vấn đề
đặt ra” do Học viện Báo chí và tuyên truyền tổ chức ngày 22/04/2008. Hội thảo tập trung thảo
luận về chất lượng sinh viên ra trường; đổi mới phương pháp đào tạo; bồi dưỡng cán bộ làm
công tác giảng dạy; tăng cường sự liên kết giữa nhà trường và các cơ quan báo chí.
- Hội thảo “Tiềm năng và khả năng của Trường Đại học Tiền Giang trong hợp tác về
khoa học công nghệ”, nhấn mạnh việc phối hợp tổ chức hướng dẫn si
nh viên khối ngành kỹ
thuật, công nghiệp thực hành, thực tập tại các Trung tâm chuyển giao công nghệ của Sở công
nghệ.
- Hội thảo khoa học “Xây dựng chương trình t
hống nhất cho trình độ Cao đẳng” của
Trường Cao đẳng PT-TH I kết hợp với Trường Cao đẳng PT-TH II tổ chức (
Từ ngày 26 đến
28/07/2007), nhấn mạnh việc tăng cường thời lượng thực hành, kỹ năng tác nghiệp cho sinh
viên báo chí; tiến tới đào tạo theo chế tín chỉ theo qui định của Bộ GD-ĐT.
+ Một số đề tài nghiên cứu khoa học:
- “Thực trạng việc quản lý thực tập ở trường Cao đẳng bán công hoa sen và một số giải
pháp” (2004)–Luận văn thạc sĩ của tác giả Bùi Trân Thúy- Trường Cao đẳng bán c
ông Hoa sen.
Đây là một công trình nghiên cứu phân tích thực trạng của việc quản lý thực tập của trường
Hoa Sen. Từ đó đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm giúp cho nhà trường, các bộ phận liên
quan, các khoa, ngành có thể quản ký việc thực tập của sinh viên một cách chặt chẽ, hiệu quả
hơn.
-“Quản lý hoạt động thực tập sư phạm ở trường Cao đẳng sư phạm Nha Tran
g- Thực
trạng và giải pháp” (2003) – Luận văn thạc sĩ của tác giả Phan Phú- Trường Cao đẳng sư phạm
Nha Trang. Đây là một công trình nghiên cứu đi sâu vào việc phân tích thực trạng của việc
quản lý thực tập tại trường Cao đẳng sư phạm Nha Trang, các nguyên nhân dẫn đến thực trạng,
để từ đó đưa ra những giải pháp căn cứ trên các điều kiện thực tế của t
rường nhằm quản lý tốt
hơn hoạt động thực tập.
-“Kiến tập và thực tập sư phạm” (1999) – Giáo trình đào tạo giáo viên Trung học cơ sở
hệ Cao Đẳng sư phạm dùng cho các trường Cao Đẳng sư phạm của Tiến sĩ Nguyễn Đình Chỉnh
và Tiến sĩ Phan Trung Thanh. Các tác giả đã nêu lên những vấn dề đang được đặt ra hiện nay
đối với hoạt động thực tập sư phạm và đề xuất những giải pháp khắc p
hục nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo nghề cho giáo sinh.
-“Thực tập sư phạm” (1997) của Tiến sĩ Nguyễn Đình Chỉnh đã nêu lên và giải quyết
những vấn đề cơ bản như: xác định nội hàm khái niệm cơ bản là năng lực sư phạm; mối quan
hệ giữa lý thuyết và thực hành; thực tập sư phạm đối với những môn học công cụ như: tâm lý
học, giáo dục học, phương pháp dạy học bộ m
ôn; các hình thức tổ chức thực tập sư phạm ở các
trường sư phạm.
Như vậy, các đề tài quản lý hoạt động thực tập tuy chưa nhiều nhưng thực sự là vấn đề
được nhiều người quan tâm nghiên cứu và cần được tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về từng
chuyên ngành. Với nguồn tài liệu thu thập được, chúng tôi nhận thấy chưa có tác giả nào đề cập
và nghiên cứu vấn đề này ở phạm vi một trường Cao đẳng giảng dạy báo chí, nên đã chọn đề tài
“Thực trang quản l
ý thực tập báo chí tại trường Cao đẳng phát thanh-truyền hình II”. Những
công trình nghiên cứu nêu trên sẽ là cơ sở khoa học để tham khảo, giúp chúng tôi nắm chắc, sâu
hơn về lĩnh vực nghiên cứu.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Một số quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước
1.2.1.1. Về giáo dục đào tạo
Đảng cộng sản Việt Nam
luôn khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Văn kiện Đại hội Đảng VII ghi rõ: “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo được
xem là quốc sách hàng đầu, đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ tổ quốc, là một động lực đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu; vươn lên
trình độ tiên tiến của thế giới”.
Một trong những giải pháp phát triển giáo dục ở nước t
a từ nay đến năm 2010 được
chính phủ trình trước Quốc hội tháng 10 năm 2004 là: “Tập trung đổi mới mạnh mẽ phương
pháp dạy học…giảm bớt giờ lên lớp, tăng thời gian tự học và thảo luận chuyên đề”
Mục tiêu phát triển các cấp bậc học, trình độ và loại hình giáo dục được ghi rõ trong
Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010: “Phát triển giáo dục không chính quy như là một
hình t
hức huy động tiềm năng của cộng đồng để xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội cho mọi
người, ở mọi trình độ, lứa tuổi, mọi nơi có thể học tập suốt đời, phù hợp với hoàn cảnh và điều
kiện của mỗi cá nhân, góp phần nâng cao dân trí và chất lượng nguồn nhân lực”. [17
]
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX tiếp tục khẳng định giáo dục và đào tạo
là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy động lực con người
- yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng ki
nh tế nhanh và bền vững. Tiếp tục nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, hệ thống trường lớp và
hệ thống quản lí giáo dục; “thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”. Phát huy tinh thần
độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học
vấn và tay nghề, đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng những hình thức giáo dục
chính quy và không chính quy, thực hiện “giáo dục cho mọi người”, “cả nước trở thành một xã
hội học tập”. Thực h
iện phương châm “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản
xuất, nhà trường gắn với xã hội”.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta ngày càng coi trọng vai trò của giáo dục, quan tâm nhiều
hơn, đòi hỏi giáo dục phải đổi mới và phát triển, đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của tầng lớp
nhân dân về học tập và
tiếp thu những kiến thức, kĩ năng nghề nghiệp, rèn luyện những phẩm
chất, năng lực cần thiết trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập nền
kinh tế quốc tế.
Phương hướng phát triển giáo dục trong những năm sắp tới là phải: Tiếp tục nâng cao
chất lượng toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, phát huy tinh thần độc lập,
sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề.
Để thực hiện được nhiệm vụ trên, cần phải đặc biệt coi trọng công tác hướng nghiệp và
phân luồng cho học sinh, chuẩn bị cho t
hanh niên, thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp; mở
rộng quy mô và phát triển đa dạng các loại hình trường Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.
Hiện đại hóa một số trường dạy nghề, tăng nhanh tỷ lệ lao động được đào tạo trong toàn bộ lao
động xã hội. Đào tạo để thế hệ trẻ có nghề nghiệp theo yêu cầu của xã hội là nhiệm vụ trước
mắt mà ngành giáo dục phải đặc biệt quan tâm.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, hệ thống giáo dục đại học- cao đẳng chiếm một vị trí
vô cùng quan trọng. Vì thế, nâng cao chất lượng giáo dục cao đẳng, đại học để đáp ứng yêu cầu
của thực tiễn giáo dục, thiết thực phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước l
à yêu
cầu bức thiết trong giai đoạn hiện nay.
Điều 36 của Luật giáo dục đã ghi: “Đào tạo trình độ cao đẳng phải đảm bảo cho sinh viê
n
có những kiến thức khoa học cơ bản và chuyên ngành cần thiết; chú trọng rèn luyện kỹ năng cơ
bản và năng lực thực hiện công tác chuyên môn”.
Nét đặc thù cơ bản trong nội dung và phương pháp đào tạo ở các trường cao đẳng, đại
học chính là đào tạo nghề. Trong đào tạo nghề thì việc rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp cho sinh
viên để đáp ứng nhu cầu của thực tế xã hội là một yêu cầu phải đựơc đặt lên hàng đầu. Do vậy,
nội dung t
hực hành, thực tập phải chiếm một tỷ trọng khá lớn trong nội dung chương trình đào
tạo. Nâng cao chất lượng đào tạo nghề, cũng chính là thực hiện theo tinh thần của Nghị quyết
IX: “Đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người
học, coi trọng thực hành, thực nghiệm, ngoại khóa, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt,
học chay”.
Quy định về “Công tác hướng nghiệp, tư vấn việc làm trong các cơ sở giáo dục đại học
và trung cấp chuyên nghiệp” (Ban hành kèm
theo Quyết định số: 68/2008/QĐ-BGDĐT ngày
09/12/2008 của Bộ trưởng Bộ giáo dục đào tạo) cũng ghi rõ: các đơn vị đào tạo cần “ Tăng
cường sự phối hợp giữa cơ sở giáo dục với đơn vị sử dụng lao động để việc đào tạo của nhà
trường tiếp cận với thực tiễn và đáp ứng nhu cầu của xã hội; Tổ chức câu
lạc bộ hướng nghiệp,
hoạt động ngoại khóa, giao lưu với đơn vị sử dụng lao động, giúp người học bổ sung kiến thức
thực tế và kỹ năng cần thiết để hòa nhập với môi trường làm việc sau khi tốt nghiệp”.
Những ý kiến có giá trị trên đây về trách nhiệm trong việc giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ
cho chúng ta thấy mục tiêu đào tạo ở nhà trường bậc cao đẳng,
đại học là cung cấp kiến thức
chuyên môn, rèn luyện kỹ năng cho sinh viên bằng cách tạo điều kiện để sinh viên thực tập, tiếp
xúc, va chạm với thực tế. Chính vì vậy, việc thực tập có một vai trò quan trọng trong quá trình
đào tạo, nhất là đối với bậc cao đẳng, đại học.
1.2.1.2. Về công tác báo chí trong sự nghiệp đổi mới của đất nước
Đất nước ta đã có hơn 20 năm đổi mới, bản thân báo chí cũng đổi mới chính m
ình, với
tốc độ phát triển khá nhanh so với trước đây. Đội ngũ báo chí Việt Nam đã chung lòng, chung
sức, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới của đất nước. Nhiều tác phẩm báo chí đã
nhanh nhạy tuyên truyền và cổ vũ các tầng lớp nhân dân thực hiện đư
ờng lối, chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; phát hiện và đề xuất những ý kiến xác đáng giúp
Đảng, Nhà nước xây dựng, bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách phù hợp với
yêu cầu và nhiệm vụ Cách mạng trong giai đoạn mới.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định công tác báo chí là
một lĩnh vực đặc biệt quan trọng trong toàn bộ công tác tư tưởng của Đảng, nhất là những giai
đoạn có ý nghĩa bước ngoặc của cách mạng. Đảng cộng sản Việt Nam luôn coi trọng công tác
tuyên truyền báo chí, coi báo chí là: “công cụ sắc bén trong công tác tư tưởng của Đảng”, là
“lực lượng xung kích trên mặt trận tư tưởng văn hóa”. Báo chí cách mạng thật sự là người
“tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, tổ chức tập thể” các phong trào hành động cách mạng
của nhân dân do Đảng lãnh đạo.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đảng mạnh vì Đảng ta tư tưởng nhất trí, hành động
nhất trí, suốt từ trên xuống dưới. Tờ báo của Đảng có nhiệm vụ làm cho tư tưởng hành động
thông suốt và thống nhất”.
Nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu cũng đã từng nhắc nhở: Báo chí Việt Nam rất cần
phát huy nội lực trong thời kỳ mới, nâng cao chất lượng chính trị, văn hóa, khoa học của tác
phẩm
báo chí Việt nam….Muốn hiểu, muốn chia xẻ với nhân dân phải có mặt ở những nơi tiêu
biểu nhất, sôi động nhất của cuộc sống.
Phát biểu tại buổi làm việc với Trung ương Hội Nhà báo Việt Nam, nhân kỷ niệm 82
năm ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam, ngày 20/06/2007, đồng chí Trương Tấn Sang -Ủy
viên Bộ chính trị, Thường trực Ban Bí thư đã có bài phát biểu quan trọng. Đồng chí nhấn mạnh:
“Báo chí góp phần tích cực vào việc tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thông tin, cổ vũ các
phong trào hành động cách mạng, phản ánh tâm tư, nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp
nhân dân; phát hiện, cổ vũ những nhân tố mới, điển hình tiên tiến, chống tham nhũng, lãng phí,
quan liêu, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, chống âm mưu “diễn biến hòa bình” của các
thế lực thù địch; góp phần thắt chặt tình hữu nghị, sự hợp tác nhiều mặt của đất nước ta với bạn
bè quốc tế.”
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X chỉ rõ: “Hướng báo chí xuất bản làm
tốt chức năng
tuyên truyền, thực hiện đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước; Tạo điều kiện
cho các lĩnh vực xuất bản, thông tin đại chúng phát triển, nâng cao chất lượng tư tưởng văn hóa,
vươn lên hiện đại về m
ô hình, cơ cấu tổ chức, cơ sở vật chất- kỹ thuật; đồng thời xây dựng cơ
chế quản lý phù hợp, chủ động và khoa học”
Đặt báo chí trong tiến trình đổi mới, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá: “Sau Đại
hội Đảng lần thứ X, qua một số hoạt động của Đảng và Nhà nước, bước đầu đã tạo được sự
đồng t
huận và hưởng ứng tích cực của nhân dân, nhất là về phát triển kinh tế, cải cách hành
chính và về thái độ kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Kết quả này có
sự đóng góp tích cực của báo chí”.
Chỉ thị số 37/2006/CT-TTg, ngày 29/11/2006, của Thủ tướng Chính phủ về việc thực
hiện kết luận của Bộ chính trị về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí, ghi
rõ: Thực hiện nghiêm
túc quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, rà soát, kiện toàn, bố trí
đúng cán bộ lãnh đạo và đội ngũ phóng viên báo chí thuộc quyền, đảm bảo tiêu chuẩn chính trị,
nghiệp vụ.
Kế hoạch 03-KH/TW của Ban Bí thư có các quy định rất quan trọng như: Quy định về sự
phối hợp giữa các cơ quan làm công tác lãnh đạo, quản lý báo chí, các cơ quan chủ quản và các
cơ quan hữu quan; Chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, phóng viên báo chí.
Tháng 7/2007, tại Hội nghị lần thứ V, Ban Chấp hành Trung ương ra quyết định về
“Công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới”, trong đó nhấn mạnh hoạt động báo
chí và công tác chỉ đạo, quản lý báo chí có một vị trí xứng đáng; đã thể hiện sự quan tâm
sâu
sắc, sự lãnh đạo thường xuyên của Đảng đối với báo chí.
Chỉ thị 22/CT/TW của Bộ Chính trị (Khóa VIII), Thông báo 162 của Bộ Chính trị (Khóa
IX) đã khẳng định: Hoạt động báo chí phải tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước và đảm bảo đúng pháp luật, phát triển báo chí phải đi đôi
với quản lý tốt.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn có sự quan tâm đặc biệt đến công tác
đào tạo, đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ của phóng viên báo chí. Tuy nhiên, để phát triển
một nền báo chí phục vụ công cuộc đổi mới trong giai đoạn CNH-HĐH theo định hướng
XHCN, vẫn đang rất cần những giải pháp hiệu quả nâng cao chất lượng của công tác đào tạo.
1.2.2. Một số kh
ái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu
1.2.2.1. Quản lý
Có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm quản lý:
- Theo Từ điển Tiếng Việt - Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên, NXB Đà Nẵng
1998, quản lý có nghĩa là:
+ Trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định.
+ Tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định.[23]
- Quản lý là chức năng của những hệ thống có tổ chức với bản chất khác nhau (xã hội,
sinh vật, kỹ thuật), nó bảo toàn cấu trúc xác định của chúng, duy trì chế độ hoạt động, thực hiện
những chương trình, mục đích nhất định. (Đại Bách khoa Liên Xô, 1997)
- “Hoạt động có sự tác động qua lại giữa hệ thống và môi trường, do đó: quản lý được
hiểu là việc đảm bảo hoạt động của hệ thống trong điều kiện có sự biến đổi liên tục của hệ
thống và m
ôi trường, là chuyển động của hệ thống đến trạng thái mới thích ứng với hoàn cảnh
mới” [33]
- Quản lý là tác động có định hướng, có kế họach của chủ thể quản lý đến tập thể những
người lao động nói chung là khách thể quản lý nhằm thực hiện được mục tiêu dự kiến. [31,
tr.35]
- Quản lý là nhằm phối hợp nỗ lực của nhiều người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân
biến thành những thành tựu của xã hội. (Trần Kiểm- Giáo trình “Quản lý giáo dục và trường
học”- Viện khoa học giáo dục, Hà Nội. [44, tr.15]
- Quản lý là một quá trình tác động gây ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến khách thể
quản lý nhằm đạt được mục tiêu chung. (Khoa học tổ chức và quản lý-một số vấn đề lý luận và
thực tiễn, Trung tâm nghiên cứu khoa học tổ chức quản lý - NXB Thống kê- Hà Nội - 1999).
[36]
- Quản lý là tác động có mục đích đến tập thể những con người để tổ chức và phối hợp
hoạt động của họ trong quá trình lao động. (TS. Nguyễn Bá Sơn: Một số vấn đề cơ bản về khoa
học quản lý, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000). [32]
- Quản lý là những t
ác động của chủ thể quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp,
sử dung, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức
(chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất. [45]
- Quản lý là: phải biết đào tạo, bồi dưỡng, chia sẻ trách nhiệm
, quyền hạn và phải biết ủy
quyền. [37]
- Hoạt động quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người
quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận
hành và đạt được mục đích của tổ chức. [31]
Như vậy, quản lý bao gồm các thành phần:
+ Chủ thể quản lý và tác động t
rong quản lý.
+ Mục tiêu quản lý.
+ Đối tượng quản lý.
Những điểm chung của các khái niệm nêu trên đã cho chúng ta một cái nhìn tổng thể về
khái niệm quản lý. Quản lý chính là những tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể
quản lý lên khách thể quản lý trong một tổ chức nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng,
các cơ hội của tổ chức, thông qua việc t
hực hiện một cách sáng tạo các chức năng quản lý, để
đạt được mục tiêu đã được xác định.
*Bản chất của hoạt động quản lý:
Trong quá trình vận động, sự phát triển của xã hội và quản lý không thể tách rời nhau;
khi lao
động
đạt tới một trình độ nhất định, có sự phân công xã hội thì quản lý như là một chức
năng, là điều kiện tất yếu khách quan.
Trong một tồ chức nhóm, cộng đồng, chủ thể quản lý tác động có định hướng, có chủ
đích đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục đích. Những tác động qua lại đó có tác động lan
tỏa. Trong xã hội có giai cấp thì hoạt động quản lý phục vụ quyền lợi của giai cấp thống trị, do
vậy hoạt động quản lý mang tính giai cấp rõ rệt.
Hoạt động quản lý mang tính khoa học cao, bởi sự tác động giữa chủ thể quản lý đến
khách thể quản lý thông qua công cụ, phương tiện, phương pháp phù hợp với quy luật khách
quan thì mới đạt được hiệu quả.
Hoạt động quản l
ý vừa có tính khoa học vừa có tính nghệ thuật. Tính nghệ thuật của hoạt
động quản lý thể hiện những tác động hợp quy luật, hoàn cảnh.
Vậy, hoạt động quản lý vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan vì được thực hiện
bởi người quản lý. Mặt khác, nó vừa có tính giai cấp, vừa có tính kỹ thuật, vừa có tính khoa
học, vừa có tính nghệ thuật, vừa có tính pháp luật Nhà nước vừa có tính xã hội. Chúng là những
mặt đối lập trong một thể thống nhất. Đó l
à biện chứng, là bản chất của hoạt động quản lý.
Quản lý còn có tác dụng định hướng sự phát triển của tổ chức trên cơ sở xác định mục
tiêu và hướng mọi nỗ lực của các cá nhân, của tổ chức vào mục tiêu chung đó. Tổ chức, điều
hòa, phối hợp và hướng dẫn hoạt động của các cá nhân trong tổ chức, giảm độ bất định nhằm
đạt đựơc mục tiêu quản lý đã xác định. Tạo ra động lực cho hoạt động bằng cách kích thích
,
đánh giá, khen thưởng, trách phạt, tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển cá
nhân và tổ chức, đảm bảo phát triển ổn định, bền vững và có hiệu quả.
Bản chất của hoạt động quản lý là tổ chức, chí huy và điều khiển phù hợp quy l
uật của
chủ thể quản lý nhằm thực hiện có hiệu quả những mục tiêu của tổ chức (đơn vị) đã đề ra.
1.2.2.2. Quản lý giáo dục
- Theo M.M. Mêchti- Zade, quản lý giáo dục là tập hợp những biện pháp (tổ chức,
phương pháp cán bộ, kế hoạch hóa, tài chính, cung tiêu…) nhằm bảo đảm sự vận hành bình
thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, bảo đảm sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ
thống cả về mặt số lượng cũng như chất lượng.
- Theo GS.TS Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục (và nói riêng, quản lý trường
học) là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp với qui luật của chủ thể quản lý
(hệ giáo dục) nhằm làm cho hệ vận hành theo đuờng lối
và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực
hiện được các tính chất của nhà trường XHCN của Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình
dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới
về chất.” [31]
- Theo TS Trần Kiểm thì khái niệm “quản lý giáo dục” có nhiều cấp độ. Hai cấp độ chủ
yếu là cấp vĩ mô và cấp vi mô. [44]
Đối với cấp vĩ mô: Quản lý giáo dục là những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích,
có kế hoạch, có hệ thống, hợp qui luật) của chủ thể quản lý đến tất cả các mắt xích của hệ thống
(từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục của nhà trường) nhằm t
hực hiện có chất lượng và hiệu
quả mục tiêu phát triển giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành Giáo dục.
Đối với cấp vi mô: Quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động tự giác (có ý
thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp qui luật) của chủ thể quản lý đến tập thể giáo
viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài
trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường.
- Theo TS. Nguyễn Gia Quý “Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản
lý đến khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động giáo dục tới mục tiêu đã định, trên cơ sở nhận
thức vận dụng đúng những qui luật khách quan của hệ thống giáo dục quốc dân.” [35]
- Quản lý giáo dục là việc đảm bảo sự hoạt động của tổ chức trong điều kiện có sự biến
đổi liên tục của hệ thống giáo dục và môi trường, là chuyển hệ thống đến trạng thái mới thích
ứng với hoàn cảnh mới.
- Quản lý giáo dục là thiết kế và duy trì một môi trường mà trong đó các cá nhân làm
việc với nhau trong các nhóm có thể hoàn thành các nhiệm vụ và các mục tiêu giáo dục đã định.
-
Quản lý giáo dục là quá trình đạt đến mục tiêu giáo dục của hệ thống giáo dục bằng
cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra.
*Quản lý giáo dục gồm:
Chủ thể quản lý: Bộ máy quản lý các cấp, trong đó vai trò quan trọng là các cán bộ quản
lý, những người điều hành toàn bộ hoạt động giáo dục.
Khách thể quản lý: Hệ thống gi
áo dục quốc dân, các trường học, người dạy, người học.
Quan hệ quản lý: Đó là những mối quan hệ giữa người học và người dạy; quan hệ giữa
người quản lý với người dạy, người học; quan hệ người dạy- người học; quan hệ giữa
giáo giới-cộng đồng… Các mối quan hệ đó có ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, chất
lượng hoạt động của nhà trường, của toàn bộ hệ thống giáo dục.
Như vậy, chúng tôi
hiểu rằng, quản lý giáo dục là sự tác động liên tục có tổ chức, có
định hướng, của chủ thể quản lý lên đối tượng giáo dục và khách thế quản lý giáo dục về các
mặt chính trị, văn hóa, xã hội
, kinh tế… bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các
nguyên tắc, các phương tiện, các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự
phát triển của đối tượng. Nói khác, quản lý giáo dục là tìm kiếm, xây dựng những giải pháp,
biện pháp quản lý phù hợp, dựa trên tình hình thực tế về nhân lực, về điều kiện vật chất của một
cơ quan giáo dục để có thể ngày càng nâng cao, phát triển hệ thống giáo dục đó trong chiều
hướng phát triển của toàn xã hội.
Quản lý giáo dục được xem như một khoa học nhằm góp phần nâng cao hiệu quả, chất
lượng đào tạo.
Đối tượng và
khách thể quản lý
giáo dục
Chủ thể quản lý
giáo dục
Phương pháp
Công cụ
Mục tiêu
Sơ đồ 1.1: Mô hình quản lý gi
áo dục
1.2.2.3. Quản lý nhà trường
Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân thuộc mọi loại hình đều được thành lập
theo quy hoạch, kế hoạch của nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục.
Trường học là bộ phận của xã hội, là tổ chức giáo dục cơ sở của hệ thống giáo dục quốc
dân. Hoạt động dạy và học là hoạt động trung tâm
của nhà trường, mọi hoạt động đa dạng, phức
tạp khác đều hướng vào hoạt động trung tâm này. Do vậy, quản lý trường học thực chất là:
Quản lý hoạt động dạy- học, tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái
khác để dần tiến tới mục tiêu g
iáo dục.
GS.VS Phạm Minh Hạc đã đưa ra khái niệm về quản lý nhà trường như sau: “Quản lý
nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức
là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào
tạo với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh. Việc quản lý nhà trường là quản lý
hoạt động dạy học, tức là làm
sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để
dần dần tiến tới mục tiêu giáo dục.” [41]
PGS.TS Trần Tuấn Lộ xác định “Quản lý trường học là sự quản lý của Hiệu trưởng đó
với toàn bộ những con người, những hoạt động, những tổ chức và những phương tiện vật chất,
kỹ thuật, tài chính của trường để đạt cho được mục tiêu của sự giáo dục (và đào tạo) học sinh
loại trường đó” [45]
Tóm lại, Quản lý nhà trường là những hoạt động có ý thức, có kế hoạch và hướng đích
của chủ thể quản lý tác động đến các hoạt động của nhà trường hướng vào việc thực hiện mục
tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo có chất lượng và hiệu quả.
1.2.2.4. Quản lý hoạt động thực tập
- Quản lý hoạt động thực tập là quá trình vận dụng các chức năng quản lý (lập kế hoạch
,
tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra) một cách sáng tạo để tổ chức, điều hành toàn bộ các hoạt động có
liên quan đến việc thực tập. Cụ thể là:
Xây dựng kế hoạch thực tập với nội dung thực tập rõ ràng.
Tổ chức thực hiện hoạt động thực tập với sự phân công phân nhiệm cho từng nội
dung công việc đến từng người, từng bộ phận có liên quan.
Kiểm tra t
hực tập theo những quy định và thời điểm nhất định.
Đánh giá hoạt động thực tập.
- Quản lý hoạt động thực tập cũng bao hàm ý nghĩa tìm những giải pháp tốt nhất để thực
hiện một cách có hiệu quả nội dung thực tập trên cơ sở đảm bảo những điều kiện thuận lợi giúp
sinh viên có thể thực tập tốt và tích lũy thêm được kiến thức, kinh nghiệm cho bản thân. Từ đó,
kiến thức đã học được củng cố và nâng cao để sinh viên có thể vững vàng hơn về các kỹ năng
cũng như có những nhận thức đúng đắn hơn về nghề nghiệp.
Mục đích cuối cùng của quản lý thực tập là thực hiện được mục tiêu của kỳ thực tập bằng
những biện pháp tốt nhất, khả thi nhất.
Quản lý tốt việc thực tập cũng chính là thông qua các biện pháp m
à nâng cao hiệu quả
thực tập cho sinh viên, làm cho thực tập trở thành một thời gian bổ ích đối với sinh viên.
* Thực tập là gì?
Thực tập là làm trong thực tế để áp dụng và củng cố kiến thức lý thuyết, trau dồi thêm
về nghiệp vụ chuyên m
ôn (Từ điển tiếng Việt - Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên -
NXB Đà Nẵng 1998)
Theo định nghĩa của Đại tự điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên): Thực tập là tập
làm trong thực tế để áp dụng, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn: sinh viên đi thực tập ở nhà máy,
sau đợt thực tập phải nộp tổng kết, báo cáo cho nhà trường.
Thực tập (Stage) theo định nghĩa của tự điển LaRousse thì đây là giai đoạn học tập,
nghiên cứu qua thực tế, được yêu cầu đối với học viên theo học một số nghề (thực tập luật sư,
thực tập sư phạm), cũng là giai đoạn mà một người phải tạm thời đến làm việc tại doanh nghiệp
để hoàn tất chương trình đào tạo.
* Thực tập báo chí là gì?
Theo TS. Nguyễn Thị Minh Thái- Khoa Báo chí trường ĐH KHXH&NV (ĐHQG HN),
thực tập báo chí là giai đoạn sinh viên báo chí thực hiện các khả năng làm
phóng viên, bình
luận viên, biên tập viên, cộng tác viên, thông tín viên cho các cơ quan truyền thông đại chúng
như báo in, đài phát thanh, đài truyền hình, báo trực tuyến, hãng thông tấn, các cơ quan xuất
bản, quảng cáo, quan hệ công chúng… [56]
Theo TS. Đinh Văn Hường- chủ nhiệm khoa báo chí Trường Đại học KH XN & NV
(ĐHQG HN), thực tập báo chí là một phần rất quan trọng trong chương trình đào tạo cử nhân
báo chí, là cơ hội quí giá để sinh viên tiếp xúc với thực tế tác nghiệp tại các cơ quan báo đài,
rèn luyện năng lực cho bản thân, tích lũy kinh nghiệm trước k
hi chính thức bước vào nghề báo.
Kỳ thực tập chủ yếu là để sinh viên hội nhập với môi trường báo chí, vận dụng những gì đã học
vào công việc, rèn luyện phong cách làm việc, biết ứng xử trong các mối quan hệ… [13
]
Theo ThS. Phạm Đình Lân- Phó chủ nhiệm khoa Báo chí trường ĐH KHXH&NV ĐQG
HN: “Thực tập báo chí là để sinh viên biết thêm về hoạt động của các cơ quan báo chí, có cơ
hội để thực hành kiến thức trong nhà trường, thu thập kinh nghiệm thực tiễn, chuẩn bị hành
trang khi ra trường. Đây có thể là thời gian chuyển giao để các em tiếp cận với nghề nghiệp, với
công việc sắp tới”.
Theo bà Melinda McAdams- GS ngành báo chí trực tuyến của Trườn
g Báo chí và truyền
thông, ĐH Florida, Mỹ, thực tập báo chí có nghĩa là sinh viên phải làm những công việc y như
họ sẽ làm thật tại tòa soạn sau khi tốt nghiệp. Họ phải lao vào cuộc sống, tìm tòi đề tài và viết
bài. [60]
Từ những ý kiến trên có thể nói, thực tập báo chí là một hình thức thực hành nghề
nghiệp, rèn luyện các kỹ năng chuyên môn, tác nghiệp báo chí, giúp sinh viên từng bước nâng
cao tay nghề, hoàn thiện ý thức và tình cảm nghề nghiệp. Đây là khoảng thời gian sinh viên tìm
một cơ sở truyền thông và đến đó làm việc như một nhân viên thực thụ, chấp hành mọi qui định
của nơi thực tập, được nơi tiếp nhận quản lý và đánh giá. Thời gian này sẽ giúp sinh viên làm
việc một cách vững vàng hơn sau khi tốt nghiệp, hoặc sẽ chọn đựơc những công việc phù hợp
hơn với khả năng của chính mình trong tương lai.
Như vậy, việc thực tập báo chí là một hình thức đào tạo có mục đích rõ ràng là rèn luyện
và nâng cao tay nghề làm báo cho sinh viên thông qua việc cọ xát với môi trường thực tế, góp
phần đào tạo những phóng viên báo chí vừa hồng vừa chuyên, đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của
hoạt động báo chí căng thẳng trong xã hội hiện đại.
* Yêu cầu thực tập báo chí
Sinh viên sẽ được phân công t
hực hiện những công việc cụ thể theo chuyên ngành bá
o
chí đã được đào tạo. Đối với nhà trường, sinh viên thực tập cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Sinh viên báo chí hệ trung cấp thực hiện tối thiểu 8 tin hoặc 1 bài có khả năng được
phát sóng hoặc đăng báo. (Với những t
in, bài được đăng hoặc phát sóng, tùy theo đánh giá của
cơ sở thực tập mà Hội đồng chấm thực tập quyết định cộng thêm điểm)
- Sinh viên báo chí hệ cao đẳng t
hực hiện tối thiểu 10 tin và 2 bài; có thể kết hợp viết bài,
làm chương trình theo nhóm. (Với những tin, bài được đăng hoặc phát sóng, tùy theo đánh giá
của cơ sở thực tập mà Hội đồng chấm thực tập quyết định cộng thêm điểm)
- Tin, bài đã viết phải có ý kiến nhận xét, sữa chữa và xác nhận của người hướng dẫn tại
cơ sở thực tập, có ký duyệt của người chịu trách nhiệm nội dung với loại hình PT-TH, có kèm
theo băng thu chương trình, bài
báo có kèm manchette đối với báo in.
- Kết thúc đợt thực tập cơ sở, sinh viên phải nộp báo cáo cùng phiếu thực tập có nhận xét
và xác nhận của cơ sở thực tập, có thể kèm theo băng cassette, băng ghi hình hoặc đĩa thu
chương trình đã được phát sóng.
1.2.2.5. Nội dung quản lý thực tập báo chí
* Quản lý mục tiêu
Mục tiêu thực tập là kết quả đạt được sau quá t
rình thực tập, thể hiện qua việc sinh
viên sáng tạo ra được những sản phẩm báo chí có chất lượng thông qua việc ứng dụng những
kỹ năng đã học, đồng thời hình thành thái độ đối với nghề nghiệp.
Quản lý mục tiêu là quản lý việc làm cho sinh viên nhận thức được mục tiêu thực tập, từ
đó phấn đấu đạt được kết quả thực tập tốt nhất.
* Quản lý việc xâ
y dựng kế hoạch thực tập
Kế hoạch thực tập được xây dựng dưới sự chỉ đạo giám sát của Ban giám hiệu, lãnh đạo
phòng đào tạo, lãnh đạo khoa báo chí; dựa trên chương trình khung của Bộ và đặc thù của
ngành học. Thông thường việc lập kế hoạch thực tập thông qua các bước sau:
- Phòng đào tạo có kế hoạch cụ thể của từng học kỳ, năm học.
- Ban giám hiệu, phòng đào tạo tổ chức theo dõi tiến độ thực hiện chương trình từng
tuần, tháng, học kỳ, cả năm.
- Khoa báo chí lập kế hoạch xây dựng kế hoạch thực tập dựa trên tiến độ chung của
chương trình.
* Quản lý nội dung thực tập
Nội dung thực tập được cụ thể hóa trong các chương trình khung và các chương trình
thực tập. Quản lý nội dung thực tập là quản lý việc thực hiện các chương trì
nh thực tập để đạt
được kết quả thực tập; quản lý việc chỉ đạo học sinh sinh viên đạt được các mục tiêu thực tập.
- Nhà trường quản lý thông qua chủ thể quản lý Ban giám hiệu, quản lý các hoạt động
của phòng đào tạo, khoa báo chí theo đúng mục tiêu, chương trình đã quy định bằng các biện
pháp quản lý hành chính như các văn bản qui định các qui chế hoạt động chuyên môn (báo cáo
định kỳ các hoạt động giảng dạy).
- Khoa bao chí quản lý các hoạt động giảng dạy của giáo viên, theo dõi tiến độ thực hiện
kế hoạch g
iảng dạy, quản lý các hoạt động học tập của sinh viên, mục tiêu và nội dung thực tập,
các quy định về báo cáo lịch giảng dạy, đánh giá kết quả học tập của sinh viên theo nội quy,
quy chế của trường; quản lý việc thực hiện các nội dung công tác giáo viên chủ nhiệm của gi
áo
viên chủ nhiệm các lớp.
* Quản lý việc chuẩn bị thực tập
- Quản lý việc chuẩn bị thực tập là quản lý việc làm cho giáo viên, sinh viên nhận thức
được mục tiêu thực tập, nắm vững kế hoạch thực tập, nắm vững chương trình thực tập, hình
thức thực tập.
- Công tác chuẩn bị thực tập phải được khoa báo chí báo cáo với lãnh đạo phòng đào tạo,
Ban giám hiệu vào đầu năm học mới.
- Phòng đào tạo lên kế hoạch để thông báo chung cho sinh viên và giảng viên toàn
trường.
- Quản lý việc khoa báo chí kết hợp với giáo viên chủ nhiệm hỗ trợ việc liên hệ tìm địa
điểm thực tập cho sinh viên.
* Quản lý việc triển khai kế hoạch thực tập:
- Phổ biến mục tiêu thực tập
- Hướng dẫn sinh viên thực tập
- Phương pháp hướng dẫn sinh viên thực tập
- Kết quả thực tập
- Đánh giá về thực tập:
+ Mức độ vừa sức của nội dung thực tập
+ Mức độ hợp lý về thời gian thực tập
+ Việc quản lý tổ chức thực tập
* Quản lý việc kiểm tra, đánh giá thực tập
- Quản lý việc tổ chức theo dõi thực tập (tại cơ sở trường, tại cơ sở báo chí) của sinh
viên.
- Quản lý việc ra qui định về chế độ kiểm tr
a, cho điểm kết quả thực tập.
- Căn cứ vào nội dung báo cáo thực tập của sinh viên ở cuối kỳ thực tập, khoa báo chí
thành lập hội đồng chấm báo cáo thực tập, thống nhất một số tiêu chí về cách chấm điểm, đánh
giá, thời gian hoàn thành việc chấm điểm…
- Tổng kết báo cáo phòng đào tạo, nhà trường về kết quả thực tập của sinh viên.
Những nội dung quản lý thực tập trên được biểu hiện ở những vấn đề cụ thể sau:
* Nhận thức về công tác thực tập:
- Nhận thức về tầm quan trọng của việc thực tập:
Thực tập báo chí có vai trò quan trọng trong chương trình học để trở thành một nhà báo
tương lai, nhưng không phải si
nh viên báo chí nào cũng nhận thức rõ điều đó. Vì vậy việc tăng
cường nhận thức cho
sinh viên để họ hiểu hơn về tầm quan trọng này là một việc làm cần thiết.
- Nhận thức về mục tiêu của đợt thực tập:
Mục tiêu của việc thực tập là những gì mà sinh viên cần phải đạt được sau quá trình thực
tập. Do đó sinh viên trước khi bước vào môi trường thực tế cần phải nhận thức rõ đích đến của
chính m
ình để phấn đấu đạt được mục tiêu đó.
Ở mỗi đợt thực tập (tại trường, tại cơ sở), mục tiêu thực tập có khác nhau nhưng đều
hướng đến điểm chung là chuẩn bị cho sinh viên bước vào thực tế của nghề làm báo. Vì vậy,
làm cho sinh viên nhận thức rõ mục tiêu này trước mỗi đơt thực tập là vô cùng cần thiết.
- Tác dụng của đợt thực tập
Thông qua
đợt thực tập, sinh viên được dịp cọ sát với trang thiết bị thực tập, với thực tế,
tích lũy được nhiều kinh nghiệm quí báu. Vì vậy cần phải làm cho sinh viên thấy rõ tác dụng
nổi bật này của đợt thực tập, từ đó phấn đấu hoàn thành mục tiêu của chính mình.
* Quản lý việc triển khai công tác thực tập
- Phổ biến mục ti
êu thực tập
Phổ biến mục tiêu thực tập trước mỗi đợt thực tập là khâu cần phải được chú trọng hàng
đầu trong việc triển khai công tác thực tập, để làm cho mỗi sinh viên có những chuyển biến
hoặc nhận thức rõ hơn về việc thực tập của mình.
- Hướng dẫn sinh viên thực tập
Trong thời g
ian thực tập, người theo sát, hướng dẫn sinh viên là các giáo viên thực hành
bộ môn (đối với thực tập tại trường), các phóng vi
ên, biên tập (đối với thực tập tại các cơ sở
báo chí). Vì vậy chúng tôi đã tiến hành thăm dò về việc này để biết sinh viên được hướng dẫn
như thế nào?
- Phương pháp hướng dẫn thực tập
Phương pháp hướng dẫn thực tập cũng là vấn đề được quan tâm hàng đầu của những
người làm công tác quản lý thực tập. Tuy nhiên, trong điều kiện có hạn, chúng t
ôi chỉ mới thăm
dò ý kiến về phương pháp hướng dẫn thực tập tại cơ sở trường, chưa thăm dò được ý kiến về
phương pháp hướng dẫn của các cơ sở báo chí.
- Nội dung thực tập:
Nội dung thực tập là những gì mà sinh viên thực tập cần phải hoàn thành để đạt được
mục tiêu thực tập. Việc nắm rõ và thực hiện được nội dung của mỗi đợt thực tập cũng giúp si
nh
viên chủ động hơn trong quá trình thực tập, giúp họ hoàn thành tốt hơn mục tiêu thực tập của
mình, đồng thời, cũng giúp giáo viên và nhà trường biết được khả năng của sinh viên để có ý
kiến bổ sung hoặc chỉnh sửa hợp lý hơn nội dung này.
- Kết quả của việc t
hực tập
Việc thực tập sẽ mang lại những hiệu quả và những lợi ích nhất định. Trong mỗi lần thực
tập, sinh viên sẽ học hỏi được n
hiều vấn đề từ lý thuyết đến thực tế làm việc.
- Mức độ vừa sức của nội dung thực tập
Thăm dò mức độ vừa sức của nội dung thực tập l
à việc mà những người làm công tác
quản lý thực tập quan tâm. Vì vậy chúng tôi đã tiến hành t
hăm dò mức độ vừa sức của nội dung
thực tập, để có những ý kiến đóng góp sát thực cho nội dung này.
- Mức độ hợp lý của t
hời gian thực tập
Thời lượng t
hực tập được sắp xếp cân đối với các học phần lý thuyết và mức độ ứng
dụng của môn học, sau khi học sinh, sinh viên hoàn thành các học phần lý thuyết chuyên ngành.
Xem xét mức độ hợp lý của thời gian này để chúng tôi
có những đề xuất phù hợp hơn với tình
hình thực tế.
- Quản lý việc đánh giá thực tập
+ Đánh giá về kết quả thực tập
Đánh giá kết quả thực tập là phương pháp kiểm tra sau một đợt thực tập để biết sinh viên
có đạt được mục tiêu
thực tập hay không, đồng thời giúp giáo viên và nhà trường có cái nhìn
toàn cục về cách thức tổ chức thực tập, để cải thiện hoặc góp ý chỉnh sửa cho hoàn thiện.
+ Quản lý về việc phân công người chịu trách nhiệm về công tác thực tập:
Người chịu trách nhiệm q
uản lý thực tập sẽ góp phần quan trọng trong việc đánh giá kết
quả thực tập, cũng như giúp đỡ sinh viên rất nhiều khâu trong quá trình triển khai thực tập. Từ
nhiều năm qua, trường chưa có một bộ phận quản lý, chịu trách nhiệm chính cho toàn bộ quá
trình triển khai thực tập cho sinh viên.
* Tìm hiểu mong muốn của si
nh viên về thực tập:
Khi bước vào mỗi kỳ thực tập, sinh viên thường có những trăn trở, m
ong muốn, nguyện
vọng…Nắm bắt được những suy tư này, chúng tôi cũng đã tiến hành thăm dò để biết được
mong muốn nhiều nhất của sinh viên là ở khâu nào của kỳ thực tập.
* Quản lý về trang thiết bị thực tập:
Trang
thiết bị thực tập (ở cơ sở trường) là công cụ giúp ích trực tiếp cho việc thực thập.
Vì vậy chúng t
ôi có tiến hành tìm hiểu về việc quản lý trang thiết bị thực tập tại cơ sở trường để
biết trang thiết bị có đáp ứng được nhu cầu học tập của sinh viên và việc giảng dạy của giáo
viên hay không.
* Tìm hiểu những khó k
hăn của sinh viên trong quá trình thực tập:
Bước vào thực tập, sinh viên sẽ gặp những khó khăn nhất định về nhiêu mặt, nhiều khâu.
Chúng tôi đã thăm dò để tìm hiểu một số khó khăn trong quá trình thực tập của sinh viên.