Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Bài giảng Luật kinh tế (Trung cấp kinh tế)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.03 KB, 75 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam sau hơn 25 năm đổi mới và mở cửa đã có những chuyển
biến tích cực, hợp tác và giao lưu thương mại ngày càng phát triển. Các quan hệ này
không chỉ được thiết lập giữa các chủ thể kinh doanh trong nước mà còn mở rộng tới các
tổ chức, cá nhân nước ngoài. Điều này đòi hỏi, các chủ thể khi muốn tham gia các hoạt
động kinh doanh thì phải có những hiểu biết nhất định về pháp luật nói chung và pháp luật
về kinh tế nói riêng. Đặc biệt, là những quy định pháp lý trong tổ chức và hoạt động của
các chủ thể kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế. Do vậy, Luật kinh tế là một môn
học cơ bản không thể thiếu được ở hầu hết các ngành đào tạo thuộc khối kinh tế. Xuất
phát từ những lý do đó, mà giáo trình “Luật kinh tế” đã được các giảng viên Bộ môn pháp
luật, thuộc khoa Lý luận chính trị, trường Cao đẳng Công nghiệp Tuy Hòa biên soạn để
làm tài liệu học tập, tham khảo và nghiên cứu cho giảng viên và học sinh - sinh viên hệ
cao đẳng kế toán, quản trị kinh doanh, tài chính ngân hàng tại Trường và những người có
quan tâm đến việc tìm hiểu môn học Luật kinh tế.
Mục đích của việc biên soạn giáo trình Luật kinh tế là truyền đạt đến người học
những kiến thức pháp lý cơ bản trong quản lý kinh tế của Nhà nước nói chung và trong tổ
chức, hoạt động của các chủ thể kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế nói riêng. Đồng
thời, rèn luyện cho người học các kỹ năng tìm hiểu pháp luật và xử lý tình huống pháp lý
trong hoạt động kinh doanh diễn ra trong thực tế. Người học cũng biết cách lựa chọn mô
hình tổ chức kinh doanh phù hợp dựa trên các quyền cơ bản như: quyền tự do kinh doanh,
quyền tự do sở hữu; quyền tự do hợp đồng; quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp; quyền tự
do cạnh tranh.
Nội dung của giáo trình Luật kinh tế gồm 5 chương, sau mỗi chương đều có câu
hỏi ôn tập, bài tập tình huống và câu hỏi trắc nghiệm để người học tự học và nghiên cứu.
Cụ thể như sau:
Chương 1: Lý luận về Luật kinh tế
Trọng tâm của chương này là làm rõ khái niệm Luật kinh tế, phân tích đối tượng
và phương pháp điều chỉnh của Luật kinh tế, giới thiệu các văn bản pháp luật hình thành
nguồn của Luật kinh tế, để làm nền tảng tư duy cần thiết cho việc tìm hiểu các chương
sau một cách hiệu quả.
Chương 2: Địa vị pháp lý các loại hình doanh nghiệp và hợp tác xã


Nội dung của chương này tập trung vào việc phân tích địa vị pháp lý của các chủ
thể kinh doanh bao gồm: DNTN, Hộ kinh doanh, công ty THHH, công ty Cổ phần, công ty
hợp danh và Hợp tác xã để người học có thể xác định và phân biệt được sự khác nhau về
mặt pháp lý của từng chủ thể kinh doanh theo quy định của Luật doanh nghiệp hiện hành.
Chương 3: Chế độ pháp lý về hợp đồng kinh doanh thương mại
1
Nội dung của chương này tập trung làm rõ khái niệm, đặc điểm của hợp đồng nói
chung và hợp đồng kinh doanh thương mại nói riêng. Phân tích các quy định của pháp
luật về ký kết và thực hiện hợp đồng trong kinh doanh thương mại, các loại trách nhiệm
pháp lý khi vi phạm các thỏa thuận đã cam kết trong hợp đồng, các trường hợp hủy bỏ
và chấm dứt hợp đồng kinh doanh thương mại.
Chương 4: Phá sản doanh nghiệp, Hợp tác xã
Nội dung của chương này tập trung phân tích khái niệm, đặc điểm phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã, phân biệt sự khác nhau giữa phá sản và giải thể doanh nghiệp, hợp
tác xã, vai trò của luật phá sản trong nền kinh tế thị trường. Làm rõ trình tự, thủ tục giải
quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
Chương 5: Các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại
Trong quá trình hoạt động trên thị trường, các chủ thể kinh doanh không thể
tránh khỏi xảy ra những mâu thuẫn, bất đồng từ đó dẫn đến những tranh chấp. Những
tranh chấp này thường trực tiếp phát sinh từ hoạt động kinh doanh sôi động trên thị
trường hoặc là các tranh chấp liên quan đến hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh
doanh. Vì vậy, việc giải quyết nhanh chóng , kịp thời, đúng pháp luật và có hiệu quả
những tranh chấp giữa các bên trong hoạt động kinh doanh là là những nội dung trọng
tâm sẽ phân tích trong chương này.
Giáo trình Luật kinh tế dùng cho hệ cao đẳng kế toán, quản trị kinh doanh, tài
chính ngân hàng này được biên soạn trên cơ sở đã quán triệt những quan điểm của Đảng
và Nhà nước về quản lý kinh tế trong giai đoạn hiện nay, đảm bảo cập nhật các văn bản
quy phạm pháp luật hiện hành.
Những tác giả tham gia biên soạn giáo trình này gồm: Ths. Ngô Xuân Bình, chủ
biên, viết chương 1, chương 2 và chương 4. Ths. Đặng Thị Bảo Trang thành viên tham

gia viết chương 3 và chương 5. CN. Lê Xuân Trường tham gia vào việc góp ý, chỉnh sửa
và hoàn thiện nội dung giáo trình.
Trong quá trình tập hợp và biên soạn, mặc dù nhóm tác giả đã hết sức cố gắng
nhưng chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót, chúng tôi rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp của bạn đọc để giáo trình được hoàn thiện hơn.
Mọi ý kiến đóng góp xin gửi về theo địa chỉ email:
Xin trân thành cảm ơn./.
2
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ LUẬT KINH TẾ
- Tóm tắt: Trọng tâm của chương 1 là là truyền đạt đến người học những vấn đề
lý luận cơ bản về Luật kinh tế bao gồm: Khái niệm Luật kinh tế; Đối tượng và phương
pháp điều chỉnh của Luật kinh tế; Các văn bản pháp luật hình thành nguồn của Luật
kinh tế.
- Mục tiêu: Sau khi học xong chương này, người học có khả năng:
+ Phân tích được khái niệm Luật kinh tế, xác định được những quan hệ do Luật
kinh tế điều chỉnh trên cơ sở phân tích đối tượng và phương pháp điều chỉnh, từ đó
người học có cơ sở khoa học để phân biệt được sự khác nhau giữa ngành luật kinh tế
với các ngành luật khác.
+ Nêu được những văn bản pháp luật hình thành nguồn của Luật kinh tế.
+ Có nền tảng gợi mở để tìm hiểu những chương sau, đặc biệt là trong việc tìm
hiểu các văn bản pháp luật về kinh tế.
1.1 Khái niệm, đối tượng và phương pháp điều chỉnh của Luật Kinh tế.
1.1.1 Khái niệm Luật kinh tế
a, Khái niệm Pháp luật kinh tế
Trước khi đi vào tìm hiểu khái niệm Luật kinh tế ta phải hiểu một khái niệm có
liên quan đó là: Pháp luật kinh tế.
- Pháp luật kinh tế: Được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật thuộc nhiều
ngành luật khác nhau liên quan đến toàn bộ đời sống kinh tế trong xã hội. Pháp luật kinh
tế bao gồm các quy phạm pháp luật của các ngành luật có đối tượng điều chỉnh là các
quan hệ kinh tế liên quan chặt chẽ với nhau trong quá trình tổ chức, quản lý kinh tế và

các hoạt động kinh doanh. Pháp luật kinh tế bao gồm các ngành luật sau: Luật Kinh tế,
Luật Tài chính - Ngân hàng, Luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Bảo vệ môi trường.
Như vậy, pháp luật kinh tế là một khái niệm rất rộng, bao gồm tổng hợp của
nhiều văn bản pháp luật của nhiều ngành luật khác nhau nhưng phải có sự liên quan đến
hoạt động kinh tế.
b, Khái niệm Luật kinh tế
Theo khái niệm trên, Luật kinh tế chỉ là một bộ phận của pháp luật kinh tế, nhưng
là một ngành luật độc lập. Khái niệm Luật kinh tế ở Việt Nam được hiểu theo hai quan
niệm khác nhau, do yếu tố lịch sử để lại cụ thể:
- Luật kinh tế theo quan niệm truyền thống
Theo quan niệm truyền thống, Luật kinh tế là sản phẩm riêng của chủ nghĩa xã
hội và chỉ ở chủ nghĩa xã hội mới có những điều kiện cơ sở lý luận và thực tiển để hình
thành luật kinh tế. Những cơ sở đó là:
+ Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế được xây dựng và phát triển dựa
vào chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, tồn tại dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở
hữu tập thể và cơ chế quản lý là cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung. Theo cơ chế
này, nền kinh tế được tổ chức và quản lý theo phương pháp kế hoạch hoá tập trung cao
3
độ có sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của
các đơn vị kinh tế.
+ Nhà nước xã hội chủ nghĩa có chức năng kinh tế: với tư cách là chủ sở hữu duy
nhất và thống nhất các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, Nhà nước trực tiếp tổ chức,
điều hành nền kinh tế quốc dân.
Trong quá trình thực hiện chức năng kinh tế, Nhà nước xã hội chủ nghĩa đã làm
phát sinh hàng loạt các quan hệ kinh tế. Đó là những quan hệ phát sinh trong quá trình
Nhà nước quản lý kinh tế và trong quá trình các đơn vị kinh tế tiến hành hoạt động sản
xuất kinh doanh nhằm thực hiện kế hoạch thống nhất mà Nhà nước giao thông qua các
hệ thống chỉ tiêu.
Nhóm quan hệ phát sinh trong quá trình Nhà nước quản lý kinh tế là quan hệ lãnh
đạo kinh tế. Chúng phát sinh chủ yếu trong quá trình kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân. Vì

chúng là những quan hệ kinh tế nhưng mang tính chất hành chính nên được gọi là yếu tố tổ
chức kế hoạch, tuy nhiên khác với quan hệ hành chính chúng còn mang yếu tố tài sản.
Xét nhóm quan hệ kinh tế phát sinh giữa các đơn vị kinh tế, tuy được xem là bình
đẳng nhưng do tính kế hoạch chi phối thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ kế hoạch
Nhà nước giao. Vì thế nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và cùng có lợi không còn đúng
nghĩa của nó. Có thể nói quan hệ bình đẳng giữa các đơn vị kinh tế cũng chứa hai yếu tố
tổ chức kế hoạch và yếu tố tài sản, nó không còn là quan hệ tài sản thông thường do luật
dân sự điều chỉnh.
Bằng những lập luận trên, các chuyên gia luật học trước đây đã kết luận là trong
quá trình quản lý nhà nước về kinh tế, xuất hiện hai nhóm quan hệ kinh tế khác nhau
nhưng đều tồn tại hai yếu tố không thể thiếu: yếu tố tổ chức kế hoạch và yếu tố tài sản.
Chính điểm chung này đã đòi hỏi phải có ngành luật độc lập để điều chỉnh các quan hệ
kinh tế đó nhằm thực hiện triệt để cơ chế quản lý hành chính-kinh tế bao cấp. Luật kinh tế
đã ra đời với tư cách một ngành luật độc lập.
- Luật kinh tế theo quan niệm hiện nay
Ngày nay Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, cơ cấu kinh tế gồm nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh
doanh đa dạng dựa trên nhiều chế độ sở hữu khác nhau thì vấn đề lý luận về luật kinh tế
đã được xem xét lại, vì những quy định của luật kinh tế trước đây không còn phù hợp
với nền kinh tế thị trường hiện nay - một nền kinh tế có bản sắc khác hẳn với nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung.
Trong quá trình thảo luận khoa học về đổi mới luật kinh tế cho phù hợp, đã xuất
hiện những quan điểm khác nhau:
+ Theo quan điểm thứ nhất, không nên xây dựng luật kinh tế với tư cách là ngành
luật độc lập, mà để luật dân sự thực hiện chức năng điều chỉnh các quan hệ dân sự và quan
hệ kinh tế, bởi vì các quan hệ này đều là những quan hệ tài sản mang tính chất hàng hoá
tiền tệ. Chúng đều được thiết lập trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và cùng có lợi.
4
+ Theo quan điểm thứ hai, luật kinh tế tồn tại độc lập nhưng phải đổi mới cho
phù hợp với nền kinh tế thị trường. Luật kinh tế được xác lập trên cơ sở đối tượng điều

chỉnh có những khác biệt cơ bản với luật dân sự đó là:
Quan hệ kinh tế do luật kinh tế điều chỉnh là những quan hệ tài sản phát sinh
trong quá trình sản xuất kinh doanh là nhằm mục đích sinh lời, còn những quan hệ tài
sản do luật dân sự điều chỉnh có mục đích chủ yếu là đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và sinh
hoạt của các chủ thể trong xã hội.
Quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình thành lập các tổ chức kinh tế và tổ chức
quản lý chúng, đó là các quan hệ kinh tế nhưng lại mang tính chất hành chính, do vậy
chúng không thể là đối tượng điều chỉnh của luật dân sự.
Các tranh chấp trong kinh doanh và cơ chế giải quyết chúng có khác so với các
tranh chấp trong giao lưu dân sự được giải quyết phổ biến qua con đường tố tụng dân
sự.
Hơn nữa, việc duy trì và phát triển luật kinh tế với tư cách một ngành luật độc lập
sẽ có các lợi thế như sau :
+ Các nhà làm luật có thêm điều kiện để đi sâu nghiên cứu, tìm ra cơ chế pháp lý
phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường để vừa bảo đảm tốt hơn quyền tự do,
bình đẳng trong kinh doanh của doanh nghiệp; vừa tăng cường trách nhiệm của doanh
nghiệp đối với xã hội; đồng thời vừa đảm bảo tăng cường quản lý của Nhà nước đối với
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Xuất phát từ đặc thù của quan hệ kinh doanh so với quan hệ dân sự, luật kinh tế
bảo vệ tốt hơn lợi ích của các nhà kinh doanh. Chẳng hạn, với đặc thù khác nhau giữa
tranh chấp về kinh doanh và tranh chấp trong dân sư, đòi hỏi cơ chế giải quyết cũng
phải khác nhau; trong đó cơ chế giải quyết tranh chấp trong kinh doanh đòi hỏi thủ tục
giải quyết nhanh, gọn, đảm bảo bí mật trong kinh doanh cho doanh nghiệp; việc áp dụng
các biện pháp chế tài trong thương mại sẽ nâng cao ý thức trách nhiệm về tài sản, chữ
tín trong quan hệ kinh doanh giữa các doanh nghiệp…. Điều này rất phù hợp với nền
kinh tế thị trường.
Tuy nhiên trong nhóm quan điểm này xuất hiện nhiều ý kiến cho rằng trong nền
kinh tế thị trường chỉ nên tồn tại luật kinh doanh, có nghĩa là thu hẹp phạm vi điều chỉnh
của luật kinh tế ở những quan hệ kinh tế có mục đích sinh lời và phát sinh trong lĩnh vực
hoạt động kinh doanh mà thôi, nên tách các nhóm quan hệ kinh tế mang tính hành chính

ra khỏi các nhóm đối tượng điều chỉnh.
Trong giai đoạn hội nhập quốc tế về kinh tế hiện nay, việc hoàn thiện lý luận về
pháp luật trong kinh doanh là rất cần thiết mà một trong những yêu cầu cơ bản của thể
chế kinh tế là phải tách bạch hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế của Nhà nước với
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong đó, việc hình thành ngành luật kinh
doanh mà đối tượng điều chỉnh chủ yếu của nó là các quan hệ kinh tế phát sinh trong
hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh doanh thay thế cho ngành luật kinh tế hiện
nay, thiết nghĩ là quan điểm rất phù hợp với các định chế chung quốc tế mà Việt Nam đã
và sẽ tham gia, đồng thời phù hợp với tiến trình đổi mới hệ thống pháp luật nước ta hiện
5
nay. Với lập luận như vậy thì Luật kinh tế được hiểu theo một quan điểm cụ thể như
sau:
Luật kinh tế là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt nam, bao
gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hàn,h để điều chỉnh các quan
hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tổ chức và quản lý kinh tế của nhà nước và trong
quá trình sản xuất kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh với nhau.
Bên cạnh khái niệm Luật kinh tế thì hiện nay cũng tồn tại một số quan niệm khác
đó là: quan niệm về Luật thương mại và quan niệm về Luật kinh doanh.
- Luật thương mại: Được hiểu là tổng thể các quy phạm do nhà nước ban hành
hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình tổ chức và thực hiện
hoạt động thương mại giữa các thương nhân với nhau và với các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
Theo khái niệm này, thì Luật thương mại chủ yếu điều các quan hệ phát sinh
trong quá trình hoạt động của thương nhân.
Theo quy định tại điều 6 Luật thương mại năm 2005 thì Thương nhân bao gồm tổ
chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập,
thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Để một chủ thể được gọi là thương nhân thì
phải có những đặc điểm sau:
Một là, Thương nhân phải thực hiện hoạt động thương mại, muốn xem chủ thể có
phải là thương nhân hay không thì phải xem chủ thể đó có thực hiện các hoạt động

thương mại hay không. Thực hiện hoạt động thương mại là một đặc điểm không thể tách
rời tư cách thương nhân, đây là tiêu chí quan trọng để phân biệt thương nhân với các
chủ thể khác không là thương nhân.
Theo quy định tại khoản 1 điều 3 Luật thương mại năm 2005 thì hoạt độn thương
mại được định nghĩa như sau: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh
lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”.
Hai là, Thương nhân phải hoạt động thương mại một cách độc lập, mang danh
nghĩa chính mình và vì lợi ích bản thân mình.
Có thể hiểu rằng, đây là việc thương nhân thực hiện hoạt động thương mại một
cách tự thân mình, nhân danh mình, vì lợi ích bản thân và tự chịu trách nhiệm về việc
thực hiện hành vi thương mại đó. Khi thực hiện hoạt động thương mại, thương nhân
không bị chi phối bởi ý chí của chủ thể khác mà được hoạch định bởi ý chí của chính
thương nhân. Việc nhân danh của thương nhân xuất phát từ quyền độc lập kinh doanh
của chủ thể.
Trong hoạt động thương mại thường có rất nhiều người tham gia vào, trong đó
bao gồm cả những người làm công ăn, các nhân viên quản lý điều hành lương. Nhưng
những người này không có tư cách thương nhân vì họ chỉ là người làm công ăn lương,
người được các chủ doanh nghiệp thuê. Vì vậy, nếu thiếu điều kiện trên chủ thể không
phải là thương nhân.
Ba là, Thương nhân phải thực hiện hoạt động thương mại mang tính nghề nghiệp
thường xuyên.
Hoạt động thương mại thường xuyên là một trong các dấu hiệu pháp lý để xác
định tư cách thương nhân. Nếu một chủ thể thực hiện hoạt động thương mại không
6
thường xuyên, liên tục thì không là thương nhân.Trong trường hợp này thì có thể bị
pháp luật buộc chấm dứt thương nhân thông qua hình thức thu hồi giấy chứng nhân
đăng ký kinh doanh hoặc giải thể.
Bốn là, Thương nhân phải có năng lực hành vi thương mại.
Năng lực hành vi là khả năng của tổ chức, cá nhân bằng hành vi của mình có thể

xác lập và thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý. Năng lực hành vi trong lĩnh vực thương
mại là khả năng của cá nhân, pháp nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện
quyền, nghĩa vụ pháp lý thương mại.
Năm là, Thương nhân phải có đăng ký kinh doanh.
Đăng ký kinh doanh vừa được coi là một đặc điểm của thương nhân vừa có thể
coi như là một yêu cầu bắt buộc đối với cá nhân, tổ chức muốn trở thành thương nhân.
Đăng ký kinh doanh là sự ghi nhận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
về mặt pháp lý sự ra đời của thương nhân.
- Luật Kinh doanh:
Luật kinh doanh là tổng hợp các văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh
trong quá trình tổ chức hoạt động và giải thể doanh nghiệp. Nội dung kinh doanh gồm 04
bộ phận cơ bản cấu thành là: pháp luật về các loại hình doanh nghiệp, pháp luật về hành vi
kinh doanh, pháp luật về vỡ nợ, phá sản, pháp luật về cơ quan tài phán trong kinh doanh.
Tóm lại, xét ở một khía cạnh nào đó, Luật kinh tế, Luật kinh doanh, Luật thương
mại được sử dụng như nhưng khái niệm cùng loại, đều là ngành luật điều chỉnh các quan
hệ xã hội trong lĩnh vực kinh tế, thương mại hoặc kinh doanh tại một quốc gia nào đó
trong một giai đoạn lịch sử nào đó. Tuy nhiên, tuỳ tuộc vào cách thức và mức độ can
thiệp của Nhà nước vào hoạt động nói trên mà trong nội dung của chúng có những điểm
khác nhau.
1.1.2 Đối tượng và phương pháp điều chỉnh của Luật kinh tế
7
Để phân biệt giữa ngành luật với ngành luật khác thì phải dựa vào đối tượng và phương
pháp điều chỉnh, vì mỗi một ngành luật có đối tượng và phương pháp điều chỉnh riêng.
a. Đối tượng điều chỉnh của Luật kinh tế
Đối tượng điều chỉnh của Luật Kinh tế là những quan hệ do Luật Kinh tế tác động
vào, bao gồm các nhóm quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý kinh tế và nhóm quan
hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh với nhau. Cụ
thể, Luật Kinh tế điều chỉnh những nhóm quan hệ sau đây:
- Nhóm quan hệ phát sinh trong quản lý kinh tế.
+ Đây là nhóm quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý kinh tế giữa các cơ quan

quản lý nhà nuớc về kinh tế (chủ thể quản lý) với các chủ thể kinh doanh (chủ thể bị quản
lý).
+ Đặc điểm của nhóm quan hệ này là:
Đây là quan hệ bất bình đẳng dựa trên nguyên tắc quyền uy phục tùng.
Chủ thể quản lý có quyền hoạch định, quyết định và chủ thể bị quản lý phải phục
tùng thực hiện theo ý chí của chủ thể quản lý.
Ví dụ: Quan hệ giữa các cơ quan thuế của Nhà nước với các doanh nghiệp, hợp
tác xã về vấn đề thu và nộp thuế…
- Nhóm quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh giữa các chủ thể
kinh doanh với nhau.
+ Đây là nhóm quan hệ kinh tế phát sinh, thường xuyên và phổ biến nhất.
+ Đặc điểm của nhóm quan hệ này là:
Phát sinh trực tiếp trong quá trình kinh doanh nhằm đáp ứng các nhu cầu kinh
doanh của các chủ thể kinh doanh. Chủ thể của nhóm quan hệ kinh tế này là các chủ thể
kinh doanh (cá nhân, tổ chức) thuộc các thành phần kinh tế tham gia vào quan hệ kinh tế
trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, hai bên cùng có lợi.
Quan hệ này là quan hệ tài sản - quan hệ hàng hóa- tiền tệ, quan hệ tài sản do
Luật kinh tế điều chỉnh phát sinh trực tiếp trong quá trình kinh doanh giữa các chủ thể
phải có chức năng kinh doanh (các doanh nghiệp, Hợp tác xã) và mục đích chủ yếu là
lợi nhuận. Khác với quan hệ tài sản trong Luật dân sự thì mục đích kinh doanh chủ yếu
là tiêu dùng và sinh hoạt.
Ví dụ:

Quan hệ giữa các doanh nghiệp với nhau trong việc ký kết hợp đồng mua
bán hàng hóa, hợp tác kinh doanh….
- Nhóm quan hệ kinh tế phát sinh trong nội bộ của các chủ thể kinh doanh
+ Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các hình thức kinh doanh ngày càng trở
nên phong phú và phức tạp. Ngoài hình thức các doanh nghiệp vừa và nhỏ, ở Việt Nam
đã xuất hiện các đơn vị kinh doanh lớn dưới hình thức tổng công ty và tập đoàn kinh tế.
Tập đoàn kinh doanh hay tổng công ty là những hình thức liên kết của nhiều doanh

nghiệp có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ cung ứng
và tiêu thụ, dịch vụ và có tư cách pháp nhân.
Ví dụ:

Tập đoàn điện lực Việt Nam, được thành lập theo Quyết định số 562/QĐ-
TTg ngày 10/10/1994 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở sắp xếp lại các đơn vị thuộc
Bộ Năng lượng; tổ chức và hoạt động theo Điều lệ ban hành kèm theo Nghị định số
14/CP ngày 27/1/1995 của Chính phủ. Ngày 22/6/2006, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết
8
định số 147/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án thí điểm hình thành Tập đoàn Điện lực
Việt Nam và Quyết định 148/2006/QĐ-TTG về việc thành lập Công ty mẹ - Tập đoàn
Điện lực Việt Nam. Đến ngày 25/6/2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
số 975/QĐ-TTg về việc chuyển Công ty mẹ - Tập đoàn Điện lực Việt Nam thành công
ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thuộc sở hữu Nhà nước. Hiện nay, Tập đoàn điện
lực Việt Nam có rất nhiều các đơn vị thành viên, bao gồm các đơn vị trực thuộc và các
công ty con như: Công ty Thuỷ điện Hoà Bình, Công ty Thuỷ điện Ialy, Công ty Thủy
điện Sơn La, Công ty Phát triển Thủy điện Sê San, Tổng công ty Điện lực miền Bắc,
Tổng công ty Điện lực miền Trung…
+ Nhóm quan hệ này có những đặc sau:
Là quan hệ giữa một bên là pháp nhân và bên kia là một thành viên hoặc giữa các
thành viên với nhau khi tiến hành thực hiện kế hoạch của tổng công ty, tập đoàn. Các thành
viên là các doanh nghiệp hạch toán độc lập hoặc không nhưng được pháp luật và tổng công
ty hay tập đoàn đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh trong những lĩnh vực nhất định.
Quan hệ giữa các thành viên của tổng công ty được thiết lập để thực hiện kế hoạch
chung của tổng công ty, nhưng quan hệ đó vẫn là quan hệ hợp tác. Do vậy, phải được thể
hiện dưới hình thức hợp đồng, chịu sự điều chỉnh của pháp luật hợp đồng kinh doanh
thuong mai.
- Nhóm quan hệ kinh tế phát sinh trong hoạt động tố tụng cạnh tranh, tố tụng
kinh tế, giải quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
Nhóm này bao gồm các quan hệ giữa các cơ quan, tổ chức tài phán kinh tế với

các chủ thể kinh doanh trong quá trình giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh, giải
quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
+ Nhóm quan hệ này có những đặc sau:
Là quan hệ giữa một bên là các cơ quan tài phán kinh tế và bên kia là các chủ
doanh nghiệp, hợp tác xã xảy ra tranh chấp trong quá trình hợp tác làm ăn với nhau hoặc
khi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.
Ví dụ: Khi các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì sẽ do Tòa án giải
quyết theo Luật phá sản, hoặc khi các doanh nghiệp ký kết hợp đồng kinh doanh với
nhau và xảy ra tranh chấp nhưng không tự giải quyết được, thì khởi kiện để nhờ trọng
tài thương mại hoặc Tòa án giải quyết.
b. Phương pháp điều chỉnh của Luật Kinh tế
Xuất phát từ đối tượng điều chỉnh của Luật Kinh tế đó là vừa điều chỉnh quan hệ
quản lý kinh tế giữa các chủ thể bất bình đẳng vừa điều chỉnh các quan hệ kinh tế giữa
các chủ thể bình đẳng. Do vậy, Luật Kinh tế sử dụng và phối hợp hai phương pháp điều
chỉnh khác nhau:
- Thứ nhất, phương pháp quyền uy
Phương pháp quyền uy được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong
quản lý kinh tế của nhà nước và quản trị kinh doanh của doanh nghiệp. Trong quan hệ
quản lý kinh tế, chủ thể của nó ở vào vị trí không bình đẳng, chủ thể quản lý có thể đưa
ra những quyết định mà chủ thể bị quản lý phải phục tùng.
Ví dụ: Khoản 1 điều 9 Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định, doanh nghiệp phải
có nghĩa vụ “Hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã ghi trong Giấy chứng
9
nhận đăng ký kinh doanh; bảo đảm điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật khi
kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện”. Đây là “mệnh lệnh” của nhà nước bắt
buộc các doanh nhiệp phải thực hiện, nếu vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Tất nhiên, khi cơ quan quản lý kinh tế có thẩm quyền ra quyết định, nhất thiết
phải tuân thủ các quy định của pháp luật, không được tùy tiện và vi phạm quyền kinh
doanh của tổ chức kinh tế.
Trong nội bộ của doanh nghiệp (nhất là công ty nhà nước), phương pháp quyền uy

bao giờ cũng được nhà quản trị sử dụng khi điều hành doanh nghiệp, nó đảm bảo cho việc
điều hành doanh nghiệp được thông suốt, từ đó đạt hiệu quả trong quản trị kinh doanh.
Ví dụ: Công ty mẹ chỉ đạo cho các công ty con đẩy mạnh việc sản xuất kinh doanh
vào dịp cuối năm, để đạt kế hoạch đã đặt ra….
Như vậy, luật kinh tế cũng có trường hợp sử dụng phương pháp mệnh lệnh như
Luật hành chính. Nhưng phải lưu ý rằng phương pháp mệnh lệnh trong luật hành chính
mang tính "cứng rắn" còn trong luật kinh tế có tính "mềm" hơn nhiều do Luật kinh tế
luôn gắn liền với quá trình kinh doanh, chịu sự chi phối của các nguyên tắc quản lý nhà
nước về kinh tế cũng như các nguyên tắc trong quản trị điều hành doanh nghiệp.
Luật Kinh tế còn sử dụng phương pháp quyền uy kết hợp phương pháp hòa giải
trong tố tụng kinh tế.
- Thứ hai, phương pháp thoả thuận, ngang quyền.
Phương pháp thoả thuận, ngang quyền được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ
kinh tế phát sinh giữa các chủ thể kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế (thoả thuận
giao kết hợp đồng, thoả thuận trong giải quyết tranh chấp kinh tế, các thoả thuận kinh tế
khác), đó là các quan hệ hình thành trên cơ sở thống nhất ý chí thông qua hành vi thỏa
thuận giữa các chủ thể độc lập, bình đẳng và ngang quyền, không bên nào có quyền bắt
buộc bên nào, và đương nhiên là thoả thuận đó không trái với các quy định của pháp luật.
Ví dụ: Công ty TNHH A ký hợp đồng mua bán hàng hóa với công ty cổ phần B,
mối quan hệ này được thực hiện trên cơ sở “thuận mua vừa bán” giữa các bên, không
bên nào được ép buộc bên nào.
1.2. Nguồn của Luật kinh tế
1.2.1. Khái niệm nguồn của Luật kinh tế
- Nguồn của luật kinh tế là các văn bản pháp luật chứa đựng những quy phạm
pháp luật kinh tế do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
1.2.2. Các văn bản pháp luật hình thành nguồn của Luật kinh tế
a, Hiến pháp
- Hiến pháp là văn bản luật có giá trị pháp lý cao nhất, điều chỉnh những mối
quan hệ xã hội cơ bản nhất, quan trọng nhất gắn liền với việc xác định chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, chế độ văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ, địa vị pháp lý của công

dân, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
Như vậy,

Hiến pháp là nguồn có giá trị pháp lý cao nhất đối với Luật kinh tế nói
riêng và với tất cả các ngành luật khác nói chung. . Những quy định trong Hiến pháp
mang tính nguyên tắc chỉ đạo việc xác lập các chế định, các qui phạm cụ thể của Luật
kinh tế. Hiện nay, bản Hiến pháp đang có hiệu lực là Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm
10
2001 và năm 2013), tại chương 3 quy định về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa
học, công nghệ và môi trường.
b, Luật
- Luật là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực sau Hiến pháp, quy định những
vấn đề quan trọng trong quản lý kinh tế của nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của các
chủ thể kinh doanh. Trong hệ thống các văn bản luật hiện nay của nước ta, có rất nhiều văn
bản quy định liên quan đến lĩnh vực kinh tế nhưng về cơ bản Luật kinh tế được hình thành
từ những văn bản luật sau đây:
+ Bộ luật Dân sự 14/6/2005;
+ Luật Doanh nghiệp 29/11/2005 (sửa đổi năm 2009 và 2013);
+ Luật Phá sản doanh nghiệp năm 2004 (sửa đổi năm 2013);
+ Luật Hợp tác xã 20/11/2012;
+ Luật Đầu tư 29/11/2005;
+ Luật Thương mại 14/6/2005;
+ Luật Cạnh tranh 23/12/2004;
+ Luật Tổ chức Toà án nhân dân ngày 02/4/2002;
+ Luật Trọng tài thương mại 2010;
+ Bộ luật Tố tụng dân sự 15/6/2004 (sửa đổi năm 2011).
+ Ngoài ra có một số Luật chuyên ngành thuộc ngành luật kinh tế hoặc có liên quan
như Luật Đất đai, Bộ luật Hàng hải, Luật Ngân hàng, Luật các Tổ chức tín dụng, Luật Chứng
khoán, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Giao dịch điện tử, Luật Đấu thầu, Luật giá…
c, Văn bản dưới luật

Hiện nay hệ thống các văn bản dưới luật điều chỉnh về kinh tế có rất nhiều bao gồm:
- Nghị quyết của Quốc hội về kinh tế. Đây là hình thức văn bản pháp luật có giá trị
pháp lý như là luật.
Ví dụ: Nghị quyết số 32/2012/QH13 về dự toán ngân sách nhà nước năm 2013;
Nghị quyết số 33/2012/QH13 về việc phân bổ ngân sách trung ương năm 2013; Nghị
quyết số 53/2013/QH13 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014…
- Pháp lệnh của UB thường vụ Quốc hội. Là những văn bản quy phạm pháp luật
dùng để điều chỉnh các quan hệ kinh tế quan trọng khi chưa có luật điều chỉnh.
Ví dụ: Pháp lệnh số 28/2005/PL-UBTVQH11 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
về ngoại hối (sửa đổi năm 2013); Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về Án phí, lệ phí tòa án; Pháp lệnh số 07/2008/PL-UBTVQH12
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Sửa đổi, bổ sung Điều 6 Pháp lệnh thuế tài
nguyên…
- Nghị định của chính phủ, quyết định, chỉ thị của thủ tướng chính phủ về kinh tế,
thông tư của các Bộ, ngành…
11
Ví dụ: : Nghị định số 102/2010/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành
một số điều của Luật doanh nghiệp; Nghị định số 92/2013/NĐ-CP của Chính phủ hướng
dẫn Luật thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi; Nghị định số 190/2013/NĐ-CP của Chính
phủ về Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam; Nghị định số
184/2013/NĐ-CP của Chính phủ về Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty Hàng
hải Việt Nam; Nghị định số 182/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định mức lương tối thiểu
vùng đối với người lao động làm việc ở doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ
gia đình, cá nhân và các cơ quan, tổ chức có thuê mướn lao động; Thông tư số 90/2013/TT-
BTC ngày 28/6/2013 của Bộ Tài chính về hướng dẫn xây dựng dự toán ngân sách nhà nước
năm 2014…
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 1
12
Câu 1: Phân tích khái niệm Luật kinh tế, so sánh khái niệm Luật kinh tế với khái
niệm Pháp luật kinh tế, Luật kinh doanh, Luật thương mại?

Câu 2: Phân tích đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật kinh
tế, phân biệt những quan hệ do Luật kinh tế điều chỉnh với những quan hệ do Luật dân
sự điều chỉnh?
Câu 3: Phân tích phương pháp điều chỉnh của Luật kinh tế, phân biệt với phương
pháp điều chỉnh của Luật hành chính và Luật dân sự?
Câu 4: Phân tích đặc điểm pháp lý của thương nhân thep pháp luật Việt Nam.
Phân biệt sự khác nhau giữa thương nhân và pháp nhân?
Câu 5: Trình bày các loại thương nhân theo pháp luật Việt Nam?
Câu 6:

Nguồn của Luật kinh tế là gì, nêu những văn bản pháp luật hình thành
nguồn của Luật kinh tế?
Câu 7:

Luật kinh tế có vai trò như thế nào trong nền kinh tế thị trường hiện nay,
cần phải cơ chế như thế nào trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế?
Câu 8: Để tìm hiểu các văn bản pháp luật nói chung và các văn bản pháp luật về
kinh tế nói riêng, thì cần phải có những phương pháp tiếp cận như thế nào để dễ hiểu và
có thể áp dụng vào trong thực tiễn học tập và công tác?
LUYỆN TẬP TRẢ LỜI CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM CHƯƠNG 1
Hãy chọn phương án đúng nhất trong các câu sau:
Câu 1. Luật kinh tế là:
a. Một ngành luật độc lập
b. Không phải là một ngành luật độc lập
c. Ngành luật này hiện nay không tồn tại
d. Cả a,b,c đều sai.
Câu 2. Để phân biệt sự khác nhau giữa ngành luật này với ngành luật khác thì chủ
yếu căn cứ vào:
a. Tên gọi của các văn bản pháp luật
b. Đối tượng và phương pháp điều chỉnh

c. Đối tượng điều chỉnh và tên gọi của các văn bản pháp luật
d. Phương pháp điều chỉnh và tên gọi của các văn bản pháp luật
Câu 3. Trong những quan hệ sau đây, quan hệ nào thuộc đối tượng điều chỉnh của
Luật kinh tế:
a. Quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế với các chủ thể kinh doanh
b. Quan hệ về việc thuê mướn lao động của doanh nghiệp
c. Quan hệ giữa các doanh nghiệp, hợp tác xã với nhau
d. Cả a và c
Câu 4. Phương pháp quyền uy trong Luật kinh tế được sử dụng để điều chỉnh mối
quan hệ phát sinh:
a. Giữa các doanh nghiệp, hợp tác xã với nhau
b. Giữa các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế với nhau
13
c. Giữa cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế với các doanh nghiệp, hợp tác xã
d. Luật kinh tế không sử dụng phương pháp quyền uy
Câu 5. Phương pháp bình đẳng, thỏa thuận trong Luật kinh tế được sử dụng để
điều chỉnh mối quan hệ phát sinh:
a. Giữa các doanh nghiệp, hợp tác xã với nhau
b. Giữa các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế với nhau
c. Giữa cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế với các doanh nghiệp, hợp tác xã
d. Giữa người lao động và người sử dụng lao động trong doanh nghiệp
Câu 6. Trong các văn bản pháp luật sau đây, văn bản nào là nguồn của Luật kinh tế:
a. Luật giao thông đường bộ
b. Luật cư trú
c. Khoa học và công nghệ
d. Luật cạnh tranh
Câu 7. Luật doanh nghiệp năm 2005 đã được sửa đổi, bổ sung mấy lần:
a. 1 lần
b. 2 lần
c. 3 lần

d. 4 lần
Câu 8. Hiện nay văn bản pháp luật về đầu tư nào sau đây đang có hiệu lực:
a. Luật đầu tư trong nước
b. Luật đâu tư nước ngoài
c. Luật đầu tư
d. Luật đầu tư tại Việt Nam
Câu 9. Điều kiện để được công nhận là thương nhân:
a. Có đăng ký kinh doanh và hoạt động thương mại một cách độc lập
b. Kinh doanh ổn định và hoạt động thương mại một cách độc lập
c. Hoạt động thương mại một cách độc lập và đúng ngành nghề đã đăng ký kinh doanh
d. Hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh
Câu 10. Những đối tượng nào sau đây được công nhận là thương nhân :
a. Doanh nghiệp tư nhân
b. Những người buôn bán nhỏ lẻ
c. Cơ quan thuế
d. Cơ quan đăng ký kinh doanh

14
Chương 2: ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP VÀ HỢP TÁC XÃ
Tóm tắt: Nội dung trọng tâm của chương 2 là truyền đạt đến người học những
quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của các chủ thể kinh doanh hiện nay bao gồm:
DNTN, Hộ kinh doanh, công ty THHH, công ty Cổ phần, công ty hợp danh và Hợp tác xã
để người học có thể xác định và phân biệt được sự khác nhau của từng chủ thể kinh
doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp hiện hành.
Mục tiêu: Sau khi học xong chương này người học có khả năng
- Phân tích được được khái niệm, đặc điểm của DNTN, Hộ kinh doanh, công ty
THHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã, những đặc điểm đặc thù của
doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Phân biệt được sự khác nhau về mặt pháp lý giữa DNTN với hộ kinh doanh; giữa
DNTN với các loại hình công ty và giữa các công ty với nhau (bao gồm công ty THHH,

công ty cổ phần, công ty Hợp danh); giữa HTX với các loại hình doanh nghiệp khác.
- Biết cách lựa chọn mô hình tổ chức kinh doanh phù hợp dựa trên các quyền cơ
bản như: quyền tự do kinh doanh, quyền tự do sở hữu; quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp.
2.1 Khái quát chung về doanh nghiệp
2.1.1 Khái niệm, đặc điểm doanh nghiệp
a. Khái niệm doanh nghiệp
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản riêng, có trụ sở giao dịch
ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy đinh của pháp luật nhằm mục đích thực hiện
các hoạt động kinh doanh. (Điều 4 khoản 1 Luật doanh nghiệp năm 2005).
b. Đặc điểm của doanh nghiệp
- Đặc điểm thứ nhất, doanh nghiệp phải là một tổ chức kinh tế có tên riêng.
Để trở thành một doanh nghiệp thì phải được thành lập một cách hợp pháp. Tức
là, nó phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định thành lập, cho phép
thành lập hoặc được thừa nhận trên cơ sở tuân thủ các thủ tục do luật định, được tổ chức
dưới những hình thức nhất định với chức năng, nhiệm vụ và phạm vi hoạt động rõ ràng
theo các quy định của pháp luật
Bất cứ một doanh nghiệp nào khi thành lập cũng phải có tên riêng. Theo quy định
tại các điều 31, 32, 33, 34 Luật Doanh nghiệp 2005 thì tên doanh nghiệp phải viết được
bằng tiếng Việt, có thể kèm theo chữ số và ký hiệu, phải phát âm được và có ít nhất hai
thành tố: loại hình doanh nghiệpvà tên riêng. Ví dụ: DNTN An Phát trong đó DNTN là
loại hình doanh nghiệp còn An Phát là tên riêng của doanh nghiệp.
Tên doanh nghiệp phải được viết hoặc gắn tại trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng
đại diện của doanh nghiệp. Phải được in hoặc viết trên các giấy tờ giao dịch, hồ sơ tài
liệu và ấn phẩm do doanh nghiệp phát hành.
15
Tên doanh nghiệp có thể viết bằng tiếng nước ngoài nhưng với điều kiện là tên
được dịch từ tên bằng tiếng Việt sang tiếng nước ngoài tương ứng. Tên bằng tiếng nước
ngoài của doanh nghiệp được in hoặc viết với khổ chữ nhỏ hơn tên bằng tiếng Việt của
doanh nghiệp tại cơ sở của doanh nghiệp hoặc trên các giấy tờ giao dịch, hồ sơ tài liệu và
ấn phẩm do doanh nghiệp phát hành.

Những điều cấm trong đặt tên doanh nghiệp: Không được đặt tên trùng hoặc tên
gây nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp đã đăng ký theo quy định tại điều 34 Luật Doanh
nghiệp 2005. Không được sử dụng tên cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân
dân, tên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp để làm toàn bộ hoặc một phần tên
riêng của doanh nghiệp, trừ trường hợp có sự chấp thuận của cơ quan, đơn vị hoặc tổ chức
đó. Không được sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức
và thuần phong mỹ tục của dân tộc.
- Đặc điểm thứ hai, doanh nghiệp phải có trụ sở giao dịch ổn định
Khi doanh nghiệp được thành lập thì bắt buộc phải có trụ sợ chính. Điều 35 Luật
Doanh nghiệp 2005 quy định: trụ sở chính của doanh nghiệp là địa điểm liên lạc, giao
dịch của doanh nghiệp; phải ở trên lãnh thổ Việt Nam, có địa chỉ được xác định gồm số
nhà, tên phố (ngõ phố) hoặc tên xã, phường, thị trấn, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; số điện thoại, số fax và thư điện tử (nếu có).
Doanh nghiệp phải thông báo thời gian mở cửa tại trụ sở chính với cơ quan đăng
ký kinh doanh trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh.
Ngoài trụ sở chính thì doanh nghiệp có quyền thành lập văn phòng đại diện, chi
nhánh và địa điểm kinh doanh ở trong và ngoài nước theo quy định tại điều 37 Luật
Doanh nghiệp 2005.
- Đặc điểm thứ ba, doanh nghiệp phải có tài sản riêng
Tài sản là cơ sở vật chất không thể thiếu được để các tổ chức thực hiện các quyền
và nghĩa vụ tài sản đối với bên kia. Dấu hiệu này đặc biệt quan trọng đối với các chủ thể
kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp. Một tổ chức được coi là có tài sản khi tổ chức
đó có một khối lượng tài sản nhất định phân biệt với tài sản của cơ quan cấp trên hay
với các tổ chức khác đồng thời phải có quyền năng nhất định để chi phối khối lượng tài
sản đó và phải tự chịu trách nhiệm độc lập bằng chính tài sản đó.
Tài sản của doanh nghiệp có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi,
vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ
thuật, các tài sản hợp pháp khác.

Mức độ tài sản khi thành lập doanh nghiệp tùy vào điều kiện của những người
thành lập doanh nghiệp, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Đối với một số
ngành nghề và trong một số lĩnh vực kinh doanh nhất định Nhà nước quy đinh số vốn
tối thiểu phải có khi thành lập doanh nghiệp, đó gọi là vốn pháp định, ví dụ như trong
kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng… Phần lớn ngành nghề kinh doanh ở nước ta hiện
nay thuộc loại không có vốn pháp định nên chủ doanh nghiệp được tự quyết định mức
vốn đầu tư vào kinh doanh.
- Đặc điểm thứ tư, doanh nghiệp phải là những đơn vị tồn tại trước hết vì
mục đích kinh doanh, sinh lợi.
16
Đặc điểm này cho chúng ta hiểu rằng chỉ có những đơn vị, những thực thể pháp
lý lấy kinh doanh, sinh lợi làm mục tiêu chính cho hoạt động của mình mới được coi là
doanh nghiệp. Điều này đã được khẳng định cụ thể khoản 1 điều 4 Luật Doanh nghiệp
2005 đó là doanh nghiệp thì phải nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh và
tại khoản 2 điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005 đã khái niệm kinh doanh như sau: Kinh
doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu
tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì cũng tồn tại một số doanh
nghiệp xã hội hoạt động hoạt động vì mục đích công ích. Mặt khác, trong hệ thống các
chủ thể kinh doanh có một số loại chủ thể không được coi là doanh nghiệp, như các hộ
gia đình, tổ hợp tác, hộ kinh doanh mặc dù đây là các dạng chủ thể kinh doanh hợp
pháp hoặc một số doanh nghiệp xã hội hoạt động vì mục đích công ích
- Đặc điểm thứ năm, doanh nghiệp thì phải được được đăng ký kinh doanh.
Muốn trở thành một chủ thể kinh doanh hợp pháp thì doanh nghiệp phải được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động thông qua giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh. Trình tự thủ tục đăng ký và cấp giấy phép kinh doanh, sẽ được làm rõ hơn
ở những phần sau.
2.1.2 Phân loại doanh nghiệp
Có rất nhiều tiêu chí (căn cứ) khác nhau để phân loại doanh nghiệp và xét về mặt

lý thuyết cũng như thực tiễn có thể phân loại doanh nghiệp theo những căn cứ sau đây.
a, Căn cứ vào chủ sở hữu, doanh nghiệp được chia thành 2 loại:
- Doanh nghiệp một chủ sở hữu, bao gồm:
+ DNTN
+ Công ty TNHH một thành viên
- Doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu, bao gồm:
+ Công ty TNHH hai thành viên trở lên
+ Công ty cổ phần
+ Công ty hợp danh.
b, Căn cứ vào tư cách pháp lý trong kinh doanh, doanh nghiệp được chia thành 2
loại:
- Doanh nghiệp có tư cách pháp nhân
Theo quy định tại điều 84 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì pháp nhân phải là một tổ
chức khi có đủ các điều kiện sau:
Một là, được thành lập hợp pháp;
Hai là, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
Ba là, có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài
sản đó;
Bốn là, nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005 những doanh nghiệp có tư cách pháp
nhân bao gồm:
+ Công ty TNHH một thành viên
17
+ Công ty TNHH hai thành viên trở lên
+ Công ty cổ phần
+ Công ty hợp danh.
- Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005 chỉ duy nhất DNTN là không có tư
cách pháp nhân. Lý do quan trọng nhất được các nhà làm luật giải thích đó là tài sản của
doanh nghiệp và chủ DNTN không có sự tách bạch rõ ràng.
c, Căn cứ vào trách nhiệm tài sản trong kinh doanh, doanh nghiệp chia thành 2

loại:
Vấn đề giới hạn trách nhiệm tài sản trong kinh doanh được hiểu là trách nhiệm
của chủ đầu tư đối với tài sản do mình góp vốn để thành lập doanh nghiệp. Tùy thuộc loại
hình doanh nghiệp, trách nhiệm tài sản trong kinh doanh của người góp vốn vào doanh
nghiệp có thể là trách nhiệm vô hạn hoặc hữu hạn. Chế độ trách nhiệm hữu hạn, là loại
trách nhiệm tài sản trong kinh doanh, theo đó, chủ đầu tư chỉ phải chịu trách nhiệm trong
phạm vi số vốn đã cam kết góp vốn vào doanh nghiệp. Chế độ trách nhiệm vô hạn, là loại
trách nhiệm tài sản trong kinh doanh, theo đó, chủ đầu tư chịu trách nhiệm thanh toán các
khoản nợ của daonh nghiệp bằng toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, bao gồm
cả phần vốn, tài sản không góp vào doanh nghiệp.
Xuất phát từ tiêu chí này, doanh nghiệp được chia thành 2 loại như sau:
- Doanh nghiệp có chủ sở hữu chịu trách nhiệm vô hạn, bao gồm:
+ DNTN: chủ DNTN chịu trách nhiệm vô hạn.
+ Công ty hợp danh: thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn.
- Doanh nghiệp có chủ sở hữu chịu trách nhiệm hữu hạn, bao gồm:
+ Công ty TNHH một thành viên
+ Công ty TNHH hai thành viên trở lên
+ Công ty cổ phần.
2.2. Doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh
2.2.1 Doanh nghiệp tư nhân (DNTN)
a. Khái niệm, đặc điểm của DNTN
- Khái niệm DNTN
Điều 141 Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định: DNTN là doanh nghiệp do một
cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động
của doanh nghiệp; DNTN không được phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào; mỗi
cá nhân chỉ được quyền thành lập một DNTN.
- Đặc điểm của DNTN
Là một trong năm loại hình doanh nghiệp được điều chỉnh bởi Luật doanh nghiệp
năm 2005, DNTN cũng có những điểm chung, nhưng cũng có những nét để phân biệt
với các loại hình doanh nghiệp khác đó là:

+ DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ. Đây là đặc điểm rõ nét nhất để
phân biệt DNTN và các loại hình doanh nghiệp khác. Trong DNTN không có sự góp vốn
giống như các loại doanh nghiệp khác mà nguồn vốn của doanh nghiệp xuất phát từ một
cá nhân duy nhất là chủ doanh nghiệp.
18
+ DNTN không có tư cách pháp nhân. Theo Luật doanh nghiệp năm 2005, DNTN
là loại hình doanh nghiệp duy nhất không có tư cách pháp nhân. Sở dĩ pháp luật quy định
như vậy là bởi vì DNTN không có sự độc lập về tài sản. Tiêu chuẩn để xác định sự độc
lập về tài sản cuả một doanh nghiệp là tài sản của doanh nghiệp đó phải độc lập trong
quan hệ với tài sản của chủ doanh nghịêp.
+ Chủ DNTN chịu trách nhiệm vô hạn trước mọi khoản nợ phát sinh trong quá
trình hoạt động của DNTN:
Vì tính độc lập về tài sản của doanh nghiệp không có nên chủ DNTN sẽ phải chiụ
chế độ trách nhiệm vô hạn. Chủ DNTN không chỉ chịu trách nhiệm về hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đầu tư đã đăng ký với cơ quan đăng ký
kinh doanh mà phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình.
+ Mỗi cá nhân chỉ được làm chủ một doanh nghiệp tư nhân.
+ Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào
ra thị trường để huy động vốn.
b. Quy chế thành lập, quản lý và chấm dứt hoạt động kinh doanh của DNTN
- Thành lập DNTN
+ Điều kiện đăng ký kinh doanh
Về mặt chủ thể: DNTN do một cá nhân duy nhất làm chủ, đây là người trực tiếp
thành lập và quản lý DNTN, nên điều kiện để trở thành chủ DNTN cũng chính là những
điều kiện được quy định tại điều 13 Luật doanh nghiệp năm 2005. Theo đó, tất cả các cá
nhân Việt Nam, cá nhân nước ngoài đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
đều có quyền thành lập và quản lý DNTN tại Việt nam, trừ một số cá nhân sau đây không
thể trở thành chủ DNTN: Cán bộ, công chức; sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp, công nhân quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân; sĩ
quan, hạ sĩ quan trong các cơ quan, đơn vị thuộc công an nhân dân; cán bộ lãnh đạo, quản

lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp 100% vốn sỡ hữu nhà nước (trừ những người được
cử làm đại dịên theo uỷ quyền để quản lý phần vốn góp của nhà nước tại doanh nghiệp
khác); người chưa thành niên, người thành niên bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân
sự; người đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị toà án cấm hành nghề kinh doanh;
các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản.
+ Điều kiện về vốn:
Theo Luật doanh nghiệp 2005, về nguyên tắc không có vốn pháp định cho tất cả
các ngành nghề kinh doanh trừ một số ngành nghề đặc biệt. Như vậy, để thành lập một
DNTN, chủ doanh nghiệp không phải đáp ứng điều kiện về một số nhất định phải có nếu
doanh nghịêp không đăng ký kinh doanh trong những ngành nghề thuộc danh mục phải
có vốn pháp định. Tuy nhiên, đăng ký để thực hiện một hoạt động thì phải có vốn. Vốn
ban đầu của DNTN do chủ DNTN tự khai và chủ doanh nghịêp tư nhân có quyền tăng
hoặc giảm vốn ban đầu này.
+ Điều kiện về ngành nghề kinh doanh:
Pháp luật quy định DNTN được kinh doanh tất cả các ngành nghề mà pháp luật
không cấm. Ngành nghề kinh doanh được chia thành các nhóm: nhóm ngành nghề kinh
doanh tự do, nhóm ngành nghề kinh doanh có điều kiện, nhóm ngành nghề kinh doanh bị
cấm.Chủ đầu tư có thể bất kỳ ngành nghề nào nằm ngoài nhóm ngành nghề bị cấm kinh
doanh. Đối với những ngnàh nghề kinh doanh có điều kiện thì việc chọn ngành nghề kinh
19
doanh được coi là hợp pháp khi chủ đầu tư đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của pháp luật liên
quan đến ngành nghề đó.
+ Thủ tục đăng ký kinh doanh:
Hồ sơ đăng ký kinh doanh bao gồm: Giấy đề nghị đăng ký kinh doanh theo mẫu
thống nhất do cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền quy định; bản sao Giấy chứng
minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác;văn bản xác nhận vốn
pháp định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành,
nghề mà theo quy định của pháp luật phải có vốn pháp định; chứng chỉ hành nghề của
Giám đốc và cá nhân khác đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề mà theo quy
định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề.

Nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh tới cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh (Phòng
Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư. Riêng thành phố Hà Nội, thành phố
Hồ Chí Minh có thể thành lập thêm một hoặc hai cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh
và được đánh số lần lượt theo thứ tự. Việc thành lập thêm cơ quan đăng ký kinh doanh
cấp tỉnh do Ủy ban nhân dân thành phố quyết định).
Chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh,
phải công bố sự ra đời của DNTN trên các báo hàng ngày của trung ương và địa phương
trong 3 số liên tiếp với nội dung theo quy định của pháp luật.
c. Quản lý hoạt động của DNTN
Xuất phát từ chế độ trách nhiệm vô hạn về tài sản của chủ DNTN, nên Luật doanh
nghiệp năm 2005 cho phép chủ DNTN có toàn quyền quyết định mô hình tổ chức và
quản lý doanh nghiệp của mình. Chủ DNTN có thể trực tiếp hoặc thuê người khác quản
lý, điều hành hoạt động kinh doanh. Trường hợp thuê người khác làm Giám đốc quản lý
doanh nghiệp thì chủ doanh nghiệp tư nhân phải đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh
và vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
d. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của DNTN
Là một trong năm loại hình doanh nghiệp, nên DNTN cũng có những quyền và
nghĩa vụ như các loại hình doanh nghiệp khác được quy định tại điều 8, 9 và điều 10
Luật doanh nghiệp năm 2005. Trong đó có một số quyền và nghĩa vụ đáng chú ý sau:
- Quyền của DNTN
+ Quyền cho thuê DNTN
Cho thuê doanh nghiệp được hiểu là chủ DNTN chuyển quyền sử dụng doanh
nghiệp do mình đăng ký kinh doanh cho người khác sử dụng trong một thời gian nhất
định.
Ngươi thuê được sử dụng tài sản hữu hình và cả tài sản vô hình của doanh nghiệp
như: tên doanh nghiệp, uy tín trên thị trường, thương hiệu…
Việc cho thuê doanh nghiệp không làm chấm dứt tư cách pháp lý của doanh
nghiệp cũng không làm thay đổi chủ sở hữu doanh nghịêp. Vì vậy, trong thời gian cho
thuê, chủ doanh nghịêp vẫn phải chịu trách nhiệm trực tiếp trước pháp luật và trước bên
thứ 3 đối với các hoạt động của doanh nghiệp với tư cách là chủ sở hữu duy nhất của

doanh nghiệp.
+ Quyền bán DNTN: Việc bán DNTN được hiểu là việc chuyển giao toàn bộ quyền
sở hữu DNTN cho người khác. Bán ở đây là bao gồm cả tài sản hữu hình và tài sản vô hình.
20
Sau khi hoàn tất thủ tục mua bán, nếu muốn tiến hành hoạt động kinh doanh, bên mua
phải tiến hành đăng ký kinh doanh lại để hoạt động kinh doanh trên cơ sở DNTN đã mua.
+ Quyền tạm ngừng hoạt động kinh doanh: Pháp luật không quy định những
trường hợp được tạm ngừng mà nó phụ thuộc vào chủ DNTN. Tuy nhiên, việc tạm ngừng
hoạt động kinh doanh không có nghĩa là chủ DNTN được hoãn lại các nghĩa vụ thực hiện
đối với nhà nước hoặc với bên thứ 3.
Việc tạm ngừng được coi là hợp pháp nếu chủ DNTN báo cáo với cơ quan đăng
ký kinh doanh và cơ quan thuế bằng văn bản về việc tạm ngừng 15 ngày trước ngày tạm
ngừng hoạt động kinh doanh.
Trong thời gian tạm ngừng kinh doanh, doanh nghiệp sẽ không có doanh thu và nếu việc
tạm ngừng hợp pháp thì đây không là điều kiện để xét tình trạng phá sản cuả doanh nghịêp.
- Nghĩa vụ của DNTN
Nghĩa vụ của DNTN cũng chính là những nghĩa vụ quy định tại điều 8, 9 và điều
10 Luật doanh nghiệp năm 2005.
e. Chấm dứt hoạt động của DNTN
DNTN sẽ chấm dứt hoạt động trong 2 trường hợp đó là giải thể và phá sản DNTN.
- Giải thể DNTN: DNTN giải thể trong 2các trường hợp sau:
+ Một là, Giải thể tự nguyện: Theo quyết định của chủ DNTN
+ Hai là, Giải thể bắt buộc: DNTN bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
Thủ tục giải thể: Trong thời hạn 7 ngày làm việc phải tiến hành gửi quyết định giải
thể đến cơ quan đăng ký kinh doanh và thông báo đến tất cả những người có quyền và lợi
ích liên quan, các chủ nợ của doanh nghịêp, tiến hành thông báo qua việc niêm yết quyết
định giải thể tại trụ sở chính của doanh nghiệp và đăng baó địa phương hoặc trung ương
trong 3 số liên tiếp.
- Phá sản DNTN: Khi DNTN lâm vào tình trạng phá sản thì sẽ được áp dụng và
giải quyết theo quy định của Luật phá sản.

2.2.2 Hộ kinh doanh
Quy định từ điều 36 đến điều 42 NĐ số 88/2006/NĐ – CP ngày 29 tháng 8 năm
2006 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh.
a. Khái niệm, đặc điểm Hộ kinh doanh
- Khái niệm
Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc một nhóm người hoặc hộ gia đình làm chủ, chỉ
được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá 10 lao động, không có con
dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh.
- Đặc điểm
+ Hộ kinh doanh cá thể do một cá nhân hoặc một nhóm người hoặc một hộ gia
đình làm chủ, chủ thể kinh doanh dưới hình thức này phải là mộ cá nhân duy nhất hoặc
một nhóm người hoặc một hộ gia đình.
+ Hộ kinh doanh cá thể thường kinh doanh với quy mô nhỏ hẹp. Đối với các loại
hình doanh nghiệp, pháp luật không đưa ra bất cứ một hạn chế nào về số lao động được
sử dụng trong doanh nghịêp, về việc sử dụng lao động có thường xuyên hay không hay
doanh nghiệp có bao nhiêu cơ sở sản xuất kinh doanh. Còn đối với hộ kinh doanh bị hạn
21
chế số lượng lao động (chỉ được sử dụng không quá 10 lao động) và địa điểm kinh doanh
(chỉ được kinh doanh tại một địa điểm. nếu sử dụng quá 10 lao động và kinh doanh trên
một địa điểm thì phải đăng ký thành lập doanh nghiệp phù hợp.
+ Chủ hộ kinh doanh chịu trách nhiệm vô hạn trong hoạt động kinh doanh. Chủ hộ
kinh doanh không chỉ chịu trách nhiệm bằng phần vốn và tài sản dùng để trực tiếp kinh
doanh mà còn phải chịu trách nhiệm trên phần tài sản thuộc sở hữu của mình dù không
đưa vào kinh doanh doanh.
Nếu chủ hộ là một hộ gia đình thì mỗi thành viên trong hộ sẽ chịu trách nhiệm vô
hạn bằng tất cả tài sản của mình. Nếu số vốn chung không đủ để trả nợ thì mỗi thành viên
sẽ góp thêm bằng tài sản riêng của mình hoặc tài sản dân sự chung của cả hộ để trả nợ.
b. Đăng ký kinh doanh
- Điều kiện đăng ký kinh doanh
+ Điều kiện về chủ thể: Công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực pháp luật và

năng lực hành vi dân sự đầy đủ; các hộ gia đình có quyền thành lập hộ kinh doanh.
+ Điều kiện về ngành nghề kinh doanh: ngành nghề không bị pháp luật cấm, với
những ngành nghề kinh doanh có điều kiện thì các chủ hộ phải đáp ứng các điều kịên
này.
+ Điều kiện về tên kinh doanh của hộ kinh doanh: chủ hộ có thể lựa chọn có dùng
tên riêng cho hộ hoặc không dùng tên riêng. Nếu có dùng tên riêng thì tên đó không được
trùng với tên của hộ kinh doanh cá thể đã đăng ký trong phạm vi huyện.
- Thủ tục đăng ký kinh doanh
Trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh đượ quy định cụ thể tại điều 6 và 38 NĐ số
88/2006/NĐ – CP ngày 29 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh.
Cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh là Phòng đăng ký kinh doanh
(hoặc Phòng kế hoạch – Tài chính) cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
c. Chấm dứt hoạt động kinh doanh
Hộ kinh doanh bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong trường hợp sau đây:
- Không tiến hành hoạt động kinh doanh trong thời hạn 6 (sáu) tháng, kể từ ngày được
cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh;
- Ngừng hoạt động kinh doanh quá 6 (sáu) tháng liên tục mà không thông báo với cơ
quan đăng ký kinh doanh cấp huyện nơi đăng ký kinh doanh;
- Chuyển địa điểm kinh doanh sang quận, huyện khác;
- Kinh doanh ngành, nghề bị cấm.
2.3 Pháp luật về công ty
2.3.1 Khái niệm chung về công ty
a. Khái niệm, đặc điểm công ty
Có rất nhiều loại công ty với các mục đích khác nhau. Ở đây đề cập đến công ty
thương mại.
- Khái niệm
Công ty thương mại là loại công ty do hai hay nhiều người hoặc tổ chức góp vốn
thành lập để kinh doanh với mục đích kiếm lợi nhuận.
- Đặc điểm
22

+ Công ty là sự liên kết của nhiều cá nhân hoặc pháp nhân, sự liên kết này thể hiện
ở hình thức bên ngoài là một tổ chức.
+ Các thành viên bỏ ra một số tài sản (vốn) của mình để góp vào công ty.
+ Mục đích của việc thành lập công ty là kinh doanh kiếm lợi nhuận.
b. Các lọai công ty phổ biến trên thế giới
- Công ty đối nhân
Là loại hình công ty, mà việc thành lập dựa trên sự liên kết chặt chẽ bởi độ tin cậy
về nhân thân của các thành viên tham gia, sự góp vốn là thứ yếu.
Đặc điểm quan trọng là không có sự tách bạch tài sản cá nhân các thành viên và
tài sản của công ty. Các thành viên liên đới chịu trách nhiệm vô hạn đối với mọi khoản
nợ của công ty hoặc ít nhất phải có một thành viên chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản
nợ của công ty. Các thành viên có tư cách thương gia độc lập và phải chịu thuế thu nhập
cá nhân, bản thân công ty không phải chịu thuế.
Công ty đối nhân tồn tại dưới 02 dạng cơ bản sau:
+ Công ty hợp danh: là loại hình công ty trong đó các thành viên cùng nhau tiến
hành hoạt động thương mại chung và liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ
của công ty. Đây là loại hình đặc trưng của công ty đối nhân, việc thành lập công ty trên
cơ sở hợp đồng bằng văn bản, bằng miệng hoặc thậm chí chỉ cần có những hoạt động
chung thì công ty cũng được coi là đã thành lập.
Trách nhiệm: các thành viên cùng nhau liên đới chịu trách nhịêm vô hạn, thể hiện
ở các đặc trưng sau:
Các thành viên chịu trách nhiệm một cách trực tiếp cơ bản vì chủ nợ có quyền đòi
bất kỳ ai thanh toán toàn bộ số tiền nợ.
Trách nhiệm này không thể bị giới hạn đối với bất kỳ thành viên nào. Nếu họ có
thoả thuận khác thì lập tức công ty sẽ chuyển sang loại công ty hợp vốn đơn giản.
Trong công ty hợp danh không có sự phân biệt rõ ràng giữa tài sản công ty và tài
sản cá nhân.
+ Công ty hợp vốn đơn giản: là loại công ty có ít nhất một thành viên chịu trách
nhịêm vô hạn (thành viên nhận vốn) còn những thành viên khác chỉ chịu trách nhiệm hữu
hạn trong số vốn góp vào công ty (thành viên góp vốn).

Về cơ bản, công ty hợp vốn đơn giản giống công ty hợp danh, điểm khác nhau cơ
bản là công ty hợp vốn đơn giản có 02 loại thành viên có đặc điểm pháp lý khác nhau:
Thành viên nhận vốn chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty, có
quyền đại diện cho công ty trong các quan hệ đối ngoại.
Thành viên góp vốn chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số vốn góp vào công
ty, không có quyền đại diện cho công ty trong các quan hệ đối ngoại, nếu họ đứng ra thay
mặt công ty thì sẽ mất quyền chịu trách nhiệm hữu hạn. Họ chỉ có quyền trong quan hệ
nội bộ của công ty.
- Công ty đối vốn
Khác với công ty đối nhân, công ty đối vốn không quan tâm đến nhân thân người
góp vốn mà chỉ quan tâm đến vốn góp.
Đặc điểm của công ty đối vốn: Có sự tách bạch tài sản của công ty và tài sản của cá
nhân; có tư cách pháp nhân; các thành viên công ty chỉ chịu trách nhịêm về mọi khoản nợ
23
của công ty trong phạm vi số vốn mà họ góp vào công ty (chế độ trách nhiệm hữu hạn);
thành viên công ty thường rất đông vì việc thành lập chỉ quan tâm đến phần vốn góp.
Công ty đối vốn thường tồn tại dưới nhửng dạng sau:
+ Công ty cổ phần:
Là một tổ chức có tư cách pháp nhân; chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng của
công ty; ốn điều lệ của công ty được chia thành các cổ phần; trong quá trình hoạt động
công ty cổ phần được phát hành các loại chứng khoán ra thị trường để công khai huy
động vốn trong công chúng; việc chuyển nhượng phần vốn góp được thực hiện dễ dàng
thông qua hành vi bán cổ phiếu trên thị trừơng chứng khoán; công ty cổ phần thường có
số lượng thành viên rất đông.
Đặc trưng quan trọng nhất của công ty cổ phần có tính chất quyết định để phân
biệt với công ty trách nhiệm hữu hạn là cổ phần. Cổ phần là phần vốn điều lệ của công
ty, cổ phần chứng minh tư cách thành viên cổ đông, cổ phần được thể hiện dưới hình
thức giấy tờ là cổ phiếu.
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn:
Là một pháp nhân độc lập, địa vị pháp lý này quyết định chế độ trách nhiệm của

công ty; thành viên công ty không nhiều và thường là quen biết nhau; mỗi thành viên có
thể góp nhiều ít khác nhau vào vốn điều lệ của công ty và phải bắt buộc góp đủ khi công ty
thành lập, và công ty phải bảo toàn vốn ban đầu; phần vốn góp không thể hiện dưới hình
thức cổ phiếu và rất khó chuyển nhượng ra bên ngoài; trong quá trình hoạt động, không
được công khai huy động vốn trong công chúng; về tổ chức, điều hành ở công ty trách
nhiệm hữu hạn đơn giản hơn công ty cổ phần.
Về mặt pháp lý, công ty trách nhiệm hữu hạn thường chịu sự điều chỉnh bắt buộc ít
hơn công ty cổ phần; công ty trách nhiệm hữu hạn là mô hình lý tưởng để kinh doanh ở
quy mô vừa và nhỏ.
2.3.2 Những quy định chung về công ty theo pháp luật Việt Nam
a. Thành lập và đăng ký kinh doanh
Nội dung các quy định về thành lập và đăng ký kinh doanh bao gồm 02 vấn đề cơ
bản sau:
- Quyền thành lập và quyền góp vốn:
+ Đối tượng có quyền thành lập và quản lý công ty:
Theo khoản 1 điều 13 Luật doanh nghiệp 2005, tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ
chức, cá nhân nước ngoài nếu không thuộc đối tượng bị cấm thành lập, quản lý công ty
theo quy định tại khoản 2 điều 13 Luật doanh nghiệp 2005, thì đều có quyền thành lập,
quản lý công ty tại Việt Nam.
+ Đối tượng được quyền góp vốn vào công ty:
Theo quy định tại khoản 3 điều 13 Luật doanh nghịêp 2005 thì tổ chức, cá nhân
có quyền mua cổ phần của công ty cổ phần, góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty hợp danh trừ trường hợp quy định tại khoản 4 điều 13 Luật doanh nghiệp 2005,
đó là: Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng tài sản
nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình; các đối
tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về cán bộ,
công chức, viên chức.
24
- Đăng ký kinh doanh:
+ Là thủ tục luật định nhằm khai sinh về mặt pháp lý cho công ty và công ty sẽ

đựơc đảm bảo về mặt pháp lý kể từ khi hoàn tất thủ tục đăng ký kinh doanh. Vịêc đăng
ký kinh doanh được tiến hành tại cơ quan đăng ký kinh doanh thuộc uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh nơi công ty đặt trụ sở chính.
+ Trình tự và thủ tục đăng ký kinh doanh:
Nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh tới cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh (Phòng
Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư).
Cơ quan ĐKKD có trách nhiệm giải quyết việc đăng ký kinh doanh trong vòng 10
ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ. Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận ĐKKD thì phải
thông báo bằng văn bản cho người đăng ký thành lập công ty biết, trong đó nêu rõ lý do
và các yêu cầu sửa đổi, bổ sung.
Công ty được cấp giấy chứng nhận đăng lý kinh doanh khi có đủ các điều kiện
sau: Ngành nghề kinh doanh không thuộc danh mục ngành, nghề cấm; tên công ty được
đặt theo đúng quy định của pháp luật; có trụ sở chính theo quy định của pháp luật; có hồ
sơ đăng lý kinh doanh hợp lệ; nộp đủ lệ phí đăng lý kinh doanh.
Hồ sơ đăng lý kinh doanh được thực hiện theo quy định tại các điều 17, 18, 19
Luật doanh nghiệp năm 2005.
Khi đăng lý kinh doanh, công ty được ghi tên vào sổ đăng lý kinh doanh và được
cấp giấy chứng nhận đăng lý kinh doanh.
Công bố nội dung đăng lý kinh doanh: Công ty phải đăng ký nội dung đăng ký
kinh doanh trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đây là thủ tục bắt buộc được quy
định tại điều 28 Luật doanh nghiệp 2005.
b. Quyền và nghĩa vụ của công ty
Là những loại hình doanh nghiệp được điều chỉnh bởi Luật doanh nghiệp 2005,
nên các loại hình công ty đều có những quyền và nghĩa vụ quy định tại các điều 8, 9 và
điều 10 Luật doanh nghiệp năm 2005.
c. Tổ chức lại công ty
Tổ chức lại công ty là sắp xếp lại để tạo điều kiện cho công ty phát triển một
cách thuận lợi, hiệu quả và đa dạng hơn. Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định ( các
điều 150, 151,152,153,154, 155 Luật doanh nghiệp năm 2005) có 5 hình thức tổ chức lại
công ty như sau:

- Chia công ty
Được áp dụng cho công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, theo đó các
công ty này được chia thành các công ty cùng loại. Sau khi đăng ký kinh doanh công ty
mới, công ty bị chia chấm dứt sự tồn tại.Các công ty mới phải cùng liên đới chịu trách
nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác
của công ty.
- Tách công ty
Được áp dụng cho công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, theo đó các
công ty này được tách bằng cách chuyển một phần tài sản của công ty hiện có để thành lập
một hoặc một số công ty cùng loại, chuyển một phần quyền và nghĩa vụ của công ty bị tách
sang công ty được tách mà không chấm dứt tồn tại của công ty bị tách. Sau khi đăng ký
25

×