Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Xoá đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số Việt Nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (57.76 MB, 128 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TÊ
LÊ NCOC THANH
xon ĐÓI GIẢM NGHềO
Ở VÙNG DRN TỘC THlếu s ố VI€T N _
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Chuyên ngành: K in h tế chính trị X H C N
Mã số: 50201
V .
\J ) ỊZ %
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC KINH TÊ
« « «
Người hướng dẫn khoa học:
PCS.TS NGUYỄN cúc
HÀ NỘI - 2004
MỤC LỤC
M ở đầu
Chương 1:
C ơ sở lý luận và thực tiễn về nghèo đói và xoá
đói giảm nghèo.
1.1
Vấn đề đói nghèo và tầm quan trọng của công tác xoá đói giảm
nghèo.
1.1 .ỉ :
Vấn đề nghèo đói và tiêu chí xác định nghèo đói.
1.1.2:
Nghèo đói trên thế giới và nguyên nhân
ỉ .1.3:
Những khó khăn và thách thức đối với các nước nghèo
và nhóm dân cư nghèo đói.
1.2


Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về thực hiện xoá
đói giảm nghèo.
1.3
Vấn đề đói nghèo

V iệt Nam.
1.3.1 :
Các quan điểm xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam.
Ị .3.2:
Tiêu chí xác định nghèo đói ở nước ta.
1.3.3:
Khái quát về thực trạng đói nghèo và vấn đề XĐ GN


Việt Nam
C h ư ơ n g 2 :
Thực trạng đói nghèo và công tác xoá đói giảm nghèo
ở vùng dân tộc thiểu số.
2.1
Một số đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của vùng dân tộc
thiểu số nước ta có ảnh hưởng đến đói nghèo và công tác xóa
đói giảm nghèo.
2 ././: Vùng dân tộc thiểu số ở miền núi và trung du Bắc bộ.
2.1.2:
Vùng dân tộc thiểu số ở miền Trung và Nam Trung bộ.
2.Ị .3:
Vùng dân tộc thiểu số

Tây Nguyên.
2.1.4:

Vùng dân tộc thiểu số

Nam Bộ.
2.2.
Thực trạng đói nghèo và những nguyên nhân cơ bản dẫn đến đói
nghèo ở vùng dân tộc thiểu số của nước ta.
2.2.1 :
Thực irạng đói nghèo ư vùng dân tộc thiểu số nước ta.
2.2.2:
Những nguyên nhân cơ bản về tình trạng đói nghèo ở
vùng dân tộc thiểu số của nước ta.
5
47
52
2.3
Thực trạng công tác xóa đói giảm nghèo

vùng dân tộc thiểu số
nước ta.
2 J . /: Giai đoạn 1992- 1995
2.3.2:
Giai đoạn 1996 - 2000
2.3.3:
Giai đoạn 20 01-2 0 0 3
2.3.4:
Các chương trình, chính sách hướng vào mục tiêu
XĐGN.
2.3.5:
Một số chủ trương, chính sách hiện nay nhằm góp phần
đẩy mạnh XĐG N, đặc biệt là


vùng dân tộc thiểu số
nước ta.
C h ư ơ n g 3 :
Kiến nghị về định hướng và một số giải pháp xóa đói
giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số của nước ta.
3.1
Định hướng:
3 .Ì.1 :
Định hướng mục tiêu theo vùng lãnh thổ.
3 .1 2 :
Định hướng theo nhóm sản xuất hàng hoá dịch vụ.
3.1.3:
Định hướng mục tiêu theo lĩnh vực.
3.2
Một số giải pháp chủ yếu nhằm xóa đói giảm nghèo

vùng dân
tộc thiểu số của nước ta.
3.2.Ị :
Vấn đề phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.
3.2.2:
Các vấn đề xã hội.
5.2 J .T rợ giúp đối tượng chính sách xã hội.
3.2.4:
Cứu tế, viện trợ khẩn cấp.
3.2.5:
Chống tệ nạn xã hội - xây dựng nếp sống văn hoá.
Kết luận
98

10
17
»8
>8
O
n
O
n
Q
MỞ ĐẦU
Ngày nay, nghèo đói và chống nghèo đói đã trở thành vấn đề toàn cầu.
Nhiều quốc gia, tổ chức và diễn đàn quốc tế đều lấy hoạt động chống nghèo đói
làm một trong những mục tiêu quan trọng trong chương trinh hoạt động.
ở nước ta, ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định mục
tiêu cơ bản trong hoạt động của mình là giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ mới
để đem lại hạnh phúc, ấm no cho mọi người dân Việt Nam. Lúc sinh thời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, Đảng và Nhà nước phải tạo điều kiện “ Làm cho
người nghèo đủ ăn. Người đủ ăn thì khá, giàu. Người khá, giàu thì giàu th ê m ,,.
Trong những năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có bước tiến phát triển
vượt bậc, đời sống của đa số dân cư được cải thiện. Công tác xoá đói giảm nghèo
(X ĐGN) đã thu được những thành tựu đáng kể. Tuy vậy, mức sống của người dân
vần còn thấp, phân hoá thu nhập có xu hướng tăng lên. M ột bộ phận dân cư sống
nghèo đói - trong đó có những gia đình có nhiều đóng góp cho cách mạng vẫn
chịu nhiều thua thiệt trong hoà nhập cộng đồng và không đủ sức tiếp nhận những
thành quả do công cuộc đổi mới đem lại. Hiện nay, tỉ lệ hộ đói nghèo của nước ta
là 10,86% (khoảng 2 triệu hộ). Đặc biệt, có hơn 1000 xã nghèo đói với số hộ
nghèo chiếm từ 40% trở lên. Từ khi thực sự trở thành phong trào và có một số
văn bản quy phạm pháp luật

một số khía cạnh khác nhau, công tác xoá đói,

giam nghèo ở nước ta đã được Liên hợp quốc đánh giá là có nhiều sáng tạo và
liến bộ; các lổ chức quốc tế như U N D P , UNFPA, ƯNICEP, FAO đã có cam kết
tiếp tục hợp tác và hỗ trợ Việt Nam phát triển. Nhưng nếu nhìn lại một cách
nghicm túc vẫn còn có những bất cập và thiếu sót cần sớm khắc phục và bổ sung
để thúc đẩy nhanh hơn, hiệu quả hơn công cuộc XĐ GN ở nước ta. Chương trình
quốc gia XĐ GN đã được triển khai ở tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước,
nhưng hiệu quả chưa cao. Tuy số hộ nghèo hàng năm giảm trên 20%, nhưng với
tiêu chuẩn phân định nghèo rất thấp. M ột khía cạnh rất đáng quan tâm ở đây là
còn nhiều hộ gia đình


những vùng dân tộc thiểu số thực sự đang lúng túng,
quẩn quanh trong tình trạng đói nghèo, gặp khó khăn về khách quan và chủ quan
1 - Sự cần thiết của đề tài
khó có the vượi qua nếu không có sự giúp đỡ từ phía Nhà nước và xã hội. Xoá đói
giám nghèo

vùng dân tộc thiểu số thực sự là một vấn đề bức xúc, cần được xem
xét và soi sáng, dưới nhiều khía cạnh, nhiều góc độ nghiên cứu trên các lĩnh vực
khác nhau, để giải quyết một cách khoa học, có hiệu quả. Nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX (tháng 4 năm 2001) đã khẳng định tiếp tục đầu tư,
giúp đỡ “ những vùng nghèo, xã nghèo và nhóm dân cư nghèo’’,‘‘phấn đấu đến
năm 2010 về cơ bản không còn hộ nghèo. Thường xuyên củng cố thành quả xoá
đói, giảm nghèo” và định mục tiêu “ cơ bản xoá hộ đói, giảm tỷ lệ hộ nghèo
xuống còn 10% vào năm 2005” . Vì vậy, việc xem xét, đánh giá thực trạng nghèo
đói và hình thành những giải pháp để XĐGN ở một vùng khó khăn như là vùng
dân tộc thiểu số nước ta là vấn để thiết thực, cấp bách cả về lý luận và thực tiễn.
Cho nên học viên lựa chọn đề tài luận văn là: “ Xoá đói giảm nghèo

vùng dân

tộc thiểu số Việt Nam : Thực trạng và giải pháp” .
2 - Tình hình nghiên cứu
Vấn đề nghèo đói, phân hoá giàu nghèo và XĐGN ở nước ta là chủ đề
được Đảng, Nhà nước và nhiều cơ quan, cán bộ nghiên cứu, chỉ đạo thực tiễn
quan tâm. Bên cạnh hệ thống các tài liệu, báo cáo của các cơ quan Nhà nước và
đoàn thể quần chúng như Bộ NN và PTNT, Tổng cục Thống Kê, Bộ LĐTB và
XH, Hội nông dân, Hội phụ nữ, Ban XĐG N các tỉnh, thành phố, nhiều tài liệu
nghiên cứu về XĐ GN đã được công bố

nước ta.
Có thể phân loại các công trình nghiên cứu về XĐG N được công bố

nước
ta làm 2 nhóm : nhóm tài liệu dịch và nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài về
XĐG N và nhóm tài liệu nghiên cứu về nghèo đói và XĐ GN ở nước ta. về phân
hoá giàu nghèo và X ĐGN của các nước trên thế giới, nhiều nhà nghiên cứu như
GS Dương Phú Hiệp, GS Tôn Tích Thạch, GS Vũ Thị Ngọc Phùng, TS Lê Bộ
Lĩnh, TS Vũ Văn Hà đã có nhũng công trình nghiên cứu sâu sắc. Đối với vấn
đề XĐGN được sự quan tâm đặc biệt của các cán bộ nghiên cứu, chỉ đạo thực
tien. Nhiều hội thảo quốc tế, quốc gia và địa phương được tiến hành. Nhiều ấn
phẩm được phát hành. Các tác giả như TS Trần Đ ìn h Hoan, Th.s Nguyễn Thị
Hằng, TS Nguyễn Hải Hữu, PGS.TS Nguyễn Sinh Cúc, TS Nguyễn văn Tiêm, GS
Phạm Xuận Nam, PGS. TSKH Lê Du Phong, TS Chư Tiến Quang đã có nhũng
2
công trình nghiên cứu công phu về XĐ GN ở nước ta. Nhiều nghiên cứu sinh và
học viên cao học cũng lấy chủ đề phân hoá giàu nghèo và XĐG N làm đề tài luận
văn. Ở địa bàn vùng dân tộc thiểu số nước ta, nhiều năm nay cũng đã có những
nghiên cứu tổng kết về XĐGN. Ngoài tổng kết của Ưỷ ban Dân tộc và Miền núi,
Ban XĐGN của các tỉnh, các huyện còn có các nghiên cứu của Bộ LĐ - TB và
XH , Tổ chức O XF A M Anh (Tổ chức phi chính phủ của Anh), CSF - UK (Tổ

chức quỹ nhi đồng Anh), A A V (Tổ chức hành động vì người nghèo Anh)
Có thể khảng định, các nghiên cứu về nghèo đói và xoá đói giảm nghèo


nước ta nói chung và ở vùng dân tộc thiểu số là rất phong phú. Bên cạnh những
phương pháp nghiên cứu, tiếp cận truyền thống, các công trình nghiên cứu, chỉ
đạo XĐ GN đã vận dụng nhiều phương pháp mà các tổ chức quốc tế đã vận dụng
nghiên cứu về phân hoá giàu nghèo và XĐGN ở nước ta đã thực sự cung cấp
những luận cứ khoa học, thực tiễn cho xây dựng, triển khai các chương trình
XĐ G N cấp toàn quốc và địa phương.
3 - Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở nhận thức về lý luận và thực tiễn của nghèo đói và XĐGN, mục
đích của luận văn là đề xuất một số giải pháp chủ yếu về kinh tế - xã hội nhằm
thực hiện XĐGN cho dân cư vùng dân tộc thiểu số nước ta.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Hộ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về nghèo đói và xoá đói giảm nghco.
+ Phân tích thực trạng đói nghèo

vùng dân tộc thiểu số và nguyên nhân.
+ Phùn tích những lợi thế và thách thức của vùng dân tộc thiểu số trong công tác
xoá đỏi giảm nghèo.
+ Đc xuất định hướng và những giải pháp thực hiện xoá đói, giảm nghèo ở vùng
dân lộc thiểu số Việt Nam.
4 - Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Vùng dân tộc thiểu số nước ta có đặc điểm tương đối phức tạp về điều kiện
sống, khí hậu và địa hình có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến nghèo đói
cho lừng vùng, từng hộ. Tỷ lệ hộ đói nghèo cao nhất tập trung

vùng dân tộc
thiểu số, vì thế luận văn chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề nghèo đói và XĐGN ở

vùng này. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm gợi mở, góp phần vào sự nghiên
3
cứu tổng thể một cách khoa học và toàn diện trong quá trình hình thành các
chương trình dự án cụ thể để thực thi trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của cả nước nói chung và ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi nói riêng.
Về thời gian, luận văn tập trung nghiên cứu về vấn đề nghèo đói

địa bàn
dân tộc thiểu số

nước ta từ năm 1992 cho đến nay. v ề mục tiêu và giải pháp
XĐ GN, dự báo đến năm 2010 để phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội
của cả nước. Một số mục tiêu được lượng hoá cụ thể đến năm 2005.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của ỉuận vần.
Để xem xét vấn đề đói nghèo và XĐGN một cách khách quan, sát thực
tiễn, luận văn vận dụng phép biện chứng của triết học Mác xít, các quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trên cơ sở đó, luận văn vận dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu cụ thể của kinh tế học và xã hội như: so sánh, điều tra, phân
tích, tổng kết thực tiễn thông qua cấc mô hình
6. Những đóng góp mới của luận văn.
Trong quá trình nghiên cứu, học viên đã tiếp thu thừa kế kết quả nhiều công
trình khoa học liên quan đến XĐGN. Với phạm vi và địa điểm nghiên cứu được
lựa chọn, luận văn có những điểm mới sau đây:
- Trình bày tương đối có hệ thống những nhận thức về đói, nghèo và XĐGN,
những nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo đặc biệt là nhân tố, chính sách quản lý
điều hành công tác XĐGN.
- Phân tích thực trạng nghèo đói gắn với điều kiện kinh tế - xã hội của vùng
dân tộc thiểu số nước ta.
7. Bố cục của luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm

3 chương:
- Chương 1 : Cơ sở lý luận và thực tiễn về nghèo đói và xoá đói giảm nghèo.
- Churơng 2: Thực trạng đói nghèo và công tác xoá đói, giảm nghèo

vùng
dân tộc thiểu số.
- Chương 3: Kiến nghị về định hướng và một số giải pháp xoá đói, giảm
nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta.
4
CHƯƠNG 1
Cơ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIEN VÊ NGHẺO ĐÓI
VÀ XOÁ ĐÓI GIẢIVI NGHẺO
1.1. Vấn đề đói nghèo và tầm quan trọng của công tác xoá đói giảm nghèo.
1.1.1 Vấn đề nghèo đói và tiêu chí xác định nghèo đói.
Các quốc gia trên hành tinh chúng ta khác n h a u về nhiều mặt : trình độ
phát triển kinh tế, điều kiện địa lý tự nhiên, dân số và trình độ dân trí, bản sắc
văn hoá, tín ngưỡng và tập tục, hệ tư tưởng và chế độ chính trị Nhưng dù có sự
khác biệt đến mấy, vẫn có những điểm chung, những vấn đề bức xúc cần được
quan tâm, một trong những vấn đề rộng lớn có tính toàn cầu là nạn đói nghèo,
trình độ lạc hậu.
Nhiều diễn đàn khu vực và thế giới đã khảng định, đói nghèo là vấn đề nổi
cộm của xã hội, đồng thời cũng cảnh báo rằng vấn đề đói nghèo không chỉ ở
phạm vi quốc gia, quốc tế sẽ đưa đến mất ổn định chính trị trong và ngoài nước,
sẽ lạo ra những hậu quả khôn lường; di dân quốc tế ồ ạt, phá huỷ môi trường, tiêu
cực xã hội lan rộng, ảnh hưởng chung đến cả nhân loại.
Vì vậy, nghèo đói không còn là vấn đề riêng của một quốc gia, mà là vấn
đề quốc tế. Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội, họp tại Copehagen
Đan Mạch tháng 3/1995, những người đứng đầu các quốc gia, đã trịnh trọng
tuyên bố “ Chúng tôi cam kết thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo trên thế
giới, ihông qua các hành động quốc gia kiên quyết và sự hợp tác quốc tế, coi đây

như đòi hỏi bắt buộc về mặt đạo đức xã hội, chính trị kinh tế của nhân loại” .
Để hình thành các giải pháp xoá đói giảm nghèo, cần thiết phải có quan
niệm đúng về đói nghèo. Tuy vậy, cho đến nay q u a n niệm về đói nghèo và tiêu
chí xác định có nhiều quan niệm và cách tiếp cận khác nhau.
Đến nay nhiều nhà nghiên cứu và tổ chức quốc tế đã đưa ra nhiều khái
niệm khác nhau về đói nghèo. Có những tác giả chỉ nêu những đặc trưng nào đó
của nghèo đói như là “ thiếu ãn” ,“ thiếu dinh dưỡng” ,“ nhà

tạm bợ” hoặc thậm
5
chí là sự “ thất học” Theo tôi, những quan niệm trên chỉ mới nêu những biểu hiện
riêng nào đó của nghèo đói trong xã hội mà thôi. Khái niệm về nghèo đói được
nêu ra tại hội nghị bàn về xoá đói giảm nghèo ở khu vực Châu Á Thái Bình
Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc tháng 9/1993 :
Nghèo là tình trạng một

bộ phận dân cư không được hưởng và tìiod mãn những nhu cầu cơ bản của con
người mà những nhu cầu này đ ã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát
triển
kinh tế xã hội và phong tục tập quán cùa địa phương
là phù hợp. Khái niệm
trên có những ưu điểm : làm rõ được bộ phận dân cư nghèo đói là “ không được
hưởng” hoặc “ không thoả mãn” những nhu cầu cơ bản ; làm rõ tính chất động
của nghèo đói là “ tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế, xã hội và phong tục tập
quán lừng địa phương” .
Khi xác định tiêu chí và mức nghèo đói, các cồng trinh nghiên cứu quốc tế
thường chia làm hai cấp độ : phận định giữa các quốc gia và giữa các nhóm dân
cư, từ đó xác định các quốc gia giàu, nghèo trên thế giới và phân chia dân cư của
mỗi quốc gia hoặc từng địa phương thành nhóm giàu, nghèo.
Đối với các quốc gia, hiện nay Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra các tiêu chí đánh

giá mức độ giàu nghèo của các quốc gia bằng thu nhập bình quân đẩu người theo
hai cách tính:
- Phương pháp ATLAS tức là tỷ giá hối đoái và tính theo USD.
- Phương pháp ppp là phương pháp sức mua tương đương tính theo USD
Từ đó ở cấp quốc gia, WB chia các quốc gia trên thế giới thành 4 nhóm:
Nhóm các nước nghèo nhất.
Nhóm các nước có trình độ trung bình.
Nhóm các nước có thu nhập khá cao.
Nhóm các nước có thu nhập cao và rất cao.
Theo phương thức thứ nhất (lấy theo mức thu nhập năm 1990) từ 600USD/
người/ năm đến dưới 2500USD/ người/ năm là nước nghèo. Dưới 600ƯSD/ người/
năm là nước cực nghèo.
6
Đối với đối tượng nghèo đói trong dân cư, hiện nay trên thế giới các nhà
nghiên cứu và các tổ chức quốc tế đã đưa ra một số phương pháp xác định giới
hạn khác nhau. Hai phương pháp được quan tâm nhất là phương pháp của nhà
nghiên cứu kinh tế - xã hội Rowntree và phương pháp của W orld Bank.
Phương pháp của Rowntree: Đê xác định mức nghèo đói, Rowtree đã tiến
hành điều tra về thu nhập và chi tiêu của các gia đình lao động tại thành phố
York (nước Anh). Qua thu nhập thông tin, Rowntree cho rằng mức nghèo đói là
mức thu nhập không đủ để mua sắm các sản phẩm cần thiết để duy trì các hoạt
động cơ thể bao gồm cả lương thực, tiền thuê nhà và một số nhu cầu tối cần thiết
khác. Ông cho rằng, mỗi gia đình 5 người (gồm 3 người con và cha mẹ), cần phải
chi tiêu tối thiểu mỗi tuần là 21 xilin h 8 xu. Từ đó, ông cho rằng gia đình có mức
thu nhập 1 tuần dưới 21 xilinh 8 xu là gia đình thuộc điện nghèo đói. ở thời kỳ
nghiên cứu, trên cơ
sở
thông tin thu nhập của các gia đình và mức chuẩn nêu
trên, Rowntree cho rằng thành phố York có 10% số dân thuộc diện nghèo đói.
Phương pháp của Ngân hàng thế giới: Phương pháp này nhằm tìm ra mức

chuẩn nghèo đói chung cho toàn thế giới. Phương pháp chủ yếu của Ngân hàng
thế giới nhằm thực hiện 2 yêu cầu: Xác định được múc thu nhập có thể so sánh
giữa các quốc gia và định ra mức (chuẩn) nghèo đói chung cho toàn thế giới. Để
so sánh thu nhập, thực hiện phương pháp tính “ rổ hàng hoá” ,sức mua tương
đương dể tính được mức thu nhập dân cư giữa các quốc gia có thể so sánh, v ề
giới hạn nghèo đói, Ngân hàng thế giới đưa ra mức năm 1985 là 1USD/ người/
ngày. Với mức trên, Ngân hàng thế giới ước tính, có khoảng 1,2 tỷ người đang
phái sống trong nghèo đói. Ngoài hai phương pháp trên, xác định tiêu chí nghèo
đói giữa các quốc gia và nội bộ dân cư, một số công trình nghiên cứu đưa ra chỉ
tiêu “chất lượng cuộc sổng” ,“ chỉ số phát triển con người” ,“ mức dinh dưõng
năng lượng do bữa ăn mang lại trong ngày” . Chỉ tiêu “ chất lượng cuộc sống” ,
“ chỉ số phát triển con người” thường được phân biệt nghèo đói, trình độ phát triển
giữa các quốc gia, còn “ mức dinh dưỡng, năng lượng do bữa ăn mang lại trong
một ngày” thường dùng để phân biệt nghèo đói trong nội bộ dân cư. Hoặc

Việt
Nam, khi xác định tiêu chí nghèo đói Tổng Cục thống kê đưa ra mức thu nhập
nhằm đáp ứng nhu cầu bữa ăn hàng ngày mang lại, còn Bộ LĐ - TB và XH chỉ
đưa ra mức thu nhập trên cơ sỏ đáp ứng nhu cầu tối thiểu về lương thực. Như vậy,
những căn cứ để xác định tiêu chí và định chuẩn nghèo đói từng thời kỳ đang là
vấn đé có nhiều ý kiến khác nhau.
Trong quá trình nghiên cứu nghèo đói và thực hiện hỗ trợ chương trình
XĐGN

Việt Nam, Ngân hàng thế giới đưa ra mức chuẩn nghèo đói cho Việt
Nam. Căn cứ cơ bản để Ngân hàng thế giới xác định ngưỡng nghèo đói ở Việt
Nam là lượng Calo tối thiểu cho 1 người trong 1 ngày. Từ đó, so sánh thu nhập
của gia đình mua sắm thức ăn đủ số Calo cần thiết theo yêu cầu. Ngân hàng thế
giới đưa ra mức yêu cầu lượng calo của người Việt Nam là 2100Cl/người/ ngày.
Căn cứ vào giá cả các loại thức ăn cần thiết, Ngân hàng thế giới đưa ra mức chi

phí cẩn cho 1 người

nước ta vào thời kỳ 1992 - 1993 là 729.000 đổng/năm.
Dựa vào số liệu điều tra mức sống dân cư ìại nước ta năm 1993 và năm
1998,Ngân hàng thế giới phân loại nghèo đói thành 2 loại: nghèo đói chung và
nghòo dói lương thưc, thực phẩm, ứng với mỗi loại nghèo đói trên, Ngân hàng
thế giới nêu ra ngưỡng đói nghèo cho từng loại

Việl Nam.
Ngưỡng nghèo lương thực, thực phẩm:
- Nãm 1993 : 62.500 đồng/người/tháng.
- Năm 1998 : 107.000 đổng/người/tháng.
Ngưỡng nghèo chung:
- Năm 1993 : 96.600 đồng/người/tháng
- Năm 1998 : 149.000 đồng/người/tháng.
Như vậy, theo quan niệm của Ngân hàng thế giới, Việt Nam cần thiết phân
loại nghèo đói ở cả 2 dạng : dạng và ngưỡng nghèo đói chung; dạng và ngưỡng
nghèo đói lương thực. Theo quan niệm của Ngân hàng thế giới, ngoài chi tiêu tối
thiểu về lương thực để đảm bảo đủ lượng calo 21 oo/người/ngày,còn có những
khoán chi tiêu tối thiểu phi lương thực, thực phẩm. Do đó, chuẩn của ngưỡng
nghèo đói chung có mức cao hơn chuẩn nghèo đói lương thực, thực phẩm.
8
Nghèo có 2 dạng: nghòo lương đối và nghèo tuyệt đối.
Nghèo tuyệt đối

tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn các nhu cầu tối thiểu
để duy trì cuộc sống.
Nghèo tương đối
là sự nghèo khổ thể h iệ n ở sự bất bình
đẳng trong quan hệ phân phối của cải xã hội giữa các n h ó m xã hội, các tầng lớp

dân cư, các vùng địa lý. Như vậy, nghèo đói là quan niệm mang tính chất tương
đối cả về không gian và thời gian, v ề nghèo tuyệt đối, biểu hiện chủ yếu thông
qua tình trạng một bộ phận dân cư không được thoả mãn các nhu cầu tối thiểu -
trước hết là ăn gắn liền với dinh dưỡng. Ngay nhu cầu này cũng có sự thay đổi,
khác biệt từng quốc gia. Phạm trù “ nhu cầu tối thiểu” cũng được mở rộng dần.
Còn vể nghèo tương đối gắn liền với sự chênh lệch về mức sống của một bộ phận
dân cư so với mức sống trung bình của địa phương

một thời kỳ nhất định. Vì
những lẽ đó, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng việc xoá dần nghèo tuyệt đối là công
việc có thể làm, còn nghèo tương đối là hiện tượng thường có trong xã hội và vấn
đề cần quan tâm là rút ngắn khoảng cách chênh lệch giàu nghèo, và hạn chế sự
phân hoá giàu nghèo.
Đói nghèo là một khái niệm động, phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế xã
hội, lịch sử, mức độ tăng trưởng kinh tế và nhu cầu phát triển của con người. Ở
mật thời điểm, một vùng, một quốc gia là đói nghèo nhưng một thời điểm khác,
vùng khác, một quốc gia khác thì chỉ số đó mất ý nghĩa. Do đó, rất khó quy định
hợp lý một chuẩn mực chung về đói nghèo cho tất cả mọi quốc gia, ngay trong
một quốc gia cũng có thể khác nhau giữa các vùng, giữa các thời kỳ.
1.1.2. Nghèo đói trên thế giới và nguyên nhân.
1.1.2.1. Về nghèo đói trên thế giới.
Thế giới ngày nay đã và đang phát triển mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, do
sự tác động và ảnh hưởng to lớn của cách mạng khoa học - kỹ thuật - công nghệ,
cùng nhiều nhân tố khác của thời đại. Tuy vậy, toàn thế giới hiện có hơn 1,2 tỷ
người nghèo đói chiếm 25% dân số thế giới sống dưới mức tối thiểu. Khu vực
9
Châu Á, Châu Phi, Mỹ La Tinh có số lượng người nghèo đói lớn nhất (Châu Á
gần 800 triệu người, Châu Phi gần 500 triệu người).
Theo nhận định của các nhà nghiên cứu và tổ chức quốc tế, ở một số vùng trên
thế giới, số người nghèo có thể tăng và có thể lên tới 1,5 tỷ người vào năm 2025.

Người nghèo đói không chỉ ở nông thôn mà

thành thị cũng chiếm một tỷ
lệ đáng kể, xu hướng chung đang tăng dần, bởi vì ngoài dân nghèo thành thị còn
có người nghèo đói từ nông thôn tràn vào thành thị tìm việc làm, họ không có
nhà ở, không có việc làm và thu nhập không ổn định, không được hưởng dịch vụ
y tế, văn hoá Đối với nhiều quốc gia, đây còn là môi trường làm cho tiêu cực xã
hội phát triển. Điều đáng chú ý là đa số người nghèo đói là phụ nữ, trẻ em, tình
trạng suy dinh dưỡng, thất nghiệp mù chữ, dịch bệnh lây lan, môi trường sinh
thái ô nhiễm nghiêm trọng, tuổi thọ và trí lực giảm sút. Tệ nạn xã hội và những
rối loạn làm mất ổn định xã hội thường xảy ra. Sự chênh lệch giàu nghèo giữa
các nước giàu chi phối, lệ thuộc, bất bình đẳng trong quan hệ quốc tế. Bên cạnh
một bộ phận dân cư nghèo, điều đáng quan tâm là chênh lệch về thu nhập, mức
sống giữa các nước giàu với nước nghèo, giữa các nhóm dân cư ở hầu hết các
quốc gia trên thế giới ngày càng gia tăng.
Ở các nước tư bản phát triển, mặc dầu năng suất lao động đạt

mức cao,
các thành tựu khoa học - công nghệ được ứng dụng rộng rãi trong đời sống kinh
tế - xã hội nhưng vẫn tồn tại một bộ phận dân nghèo khổ trong lúc một bộ phận
khác sống thừa thãi, xa hoa. ở Anh, chỉ
5%
số người giàu đã chiếm 50% tổng thu
nhập cá nhân của cả nước, ở Mỹ, trong thập kỷ tám mươi, có thêm 4 triệu trẻ em
rơi vào cảnh nghèo đói, mặc dù mức thu nhập của nền kinh tế đã tăng lên hơn
20%. Ở Liên minh Châu Âu (EU), khu vực gồm hầu hết các nừớc giàu thì số
người nghèo khổ cũng tăng từ 38 triệu người năm 1975 lên 52 triệu người năm
1988. Ở nhiều quốc gia, phân hoá giàu nghèo làm tăng bất công xã hội và chuyến
thành đối kháng lợi ích. Ngày nay, trong toàn bộ hệ thống tư bản chủ nghĩa,
10

chênh lệch thu nhập, bất công xã hội tăng lên: 20% số người giàu nhất chiếm
82,7% thu nhập; 20% số người nghèo nhất chỉ chiếm 1,4% thu nhập.
Như vậy, nghèo đói và chênh lệch giàu nghèo đã trở thành hiện tượng có
tính chất toàn cầu, có nguồn gốc sâu xa từ sở hữu, bản chất chế độ, địa vị xã hội,
sắc tộ, tổ chức quản lý V ì thế, nhiều tổ chức quốc tế, nhiều quốc gia rất quan
tâm đến việc thiết lập một trật tự kinh tế mới, đang tìm kiếm các giải pháp rút
ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia, giữa các nhóm dân cư, tăng
cường sự giúp đỡ cho các nước nghèo, các nhóm dân cư nghèo là yêu cầu rất cơ
ban.
1.1.2.2. Về nguyên nhân nghèo đói trên thê giới.
Nghèo đói là hiện tượng xuất hiện từ lâu trong xã hội. Đã hàng trăm năm
nay, nhiều nhà nghiên cứu đã cố gắng lý giải hiện tượng nghèo đói, nhất là
nguyên nhân và cách khắc phục. Có thể nói, tiếp cận nguyên nhân nghèo đói và
phàn hoá giàu nghèo rất đa dạng. Có những nhà nghiên cứu tiếp cận theo khía
cạnh thuần tuý kinh tế, cũng có những nhà nghiên cứu tiếp cận nguyên nhân
nghèo đói và phân hoá giàu nghèo chủ yếu từ khía cạnh nhân chủng học hoặc
dân số học. Đồng thời cũng xuất hiện nhiều nhà nghiên cứu tiếp cận cả nguyên
nhân về tự nhiên, kinh tế, chính trị - xã hội.
Người có công trình nghiên cứu về nguyên nhân nghèo đói chủ yếu dựa
vào dân số - xã hội thường được nhắc đến đầu tiên đó là Mantuýt. Theo Mantuýt,
lượng của cải từ sản xuất tăng chậm - theo cấp số cộng. Còn dân số thì tăng quá
nhanh - theo cấp số nhân. Do đó, nghèo đói là hậu quả tất yếu của nguyên nhân
dân số tăng nhanh. Từ đó, theo ông muốn giảm nghèo đói, tất yếu phải chấp nhận
bệnh dịch, chiến tranh. Tuy nhiên quan niệm của Mantuýt mang yếu tố phản
động nhưng cũng đã cảnh báo cho loài người, nhất là các nước đang phát triển
phải chủ động trong việc phát triển dân số và phải xem hạ thấp tỷ lệ tăng dân số
tự nhiên là yêu cầu bắt buộc để hạn chế nghco đói. Nhiều nhà nghên cứu như

y V
Kudcmhét, Alơvít, Otsima cũng đã có những tiếp cận đáng quan tâm vê phân

11
hoá giàu nghèo và nguồn gốc của nghèo đói. Theo quan niệm của Kudơnhét
(1971), mức độ phân hoá giàu nghèo phụ thuộc vào các giai đoạn phát triển và
quy mô tổng sản phẩm quốc dân. Khi nghiên cứu quan hệ vẻ di chuyển lao động
và xu hướng biến đổi tiền công giữa cồng nghiệp và nông nghiệp (1955),Lơvít
cho rằng tăng trưởng kinh tế, nhất là tăng trưởng của cả nông nghiệp, công
nghiệp là điều kiện để giảm bất bình đẳng trong thu nhập của dân cư Ngoài các
nhà nghiên cứu trên, hai học giả : C.Mác (1818- 1883) và Mác Veibơ (1864 -
1920) được xem như là “ hai nhười khổng lồ về lý thuyết phân tầng xã hội” . Lý
giái về nguyên nhân phân tầng xã hội và giàu nghèo giữa C.Mác và Mácveibơ có
những kết luận khác nhau. Theo C.Mác, nguyên nhân cơ bản, sâu xa nhất dẫn
đến phân hoá giai cấp, phân hoá giàu nghèo là có hoặc không có quyền sở hữu
đối với tư liệu sản xuất, dùng tư liệu sản xuất làm phương tiện để bóc lột và trở
nên giàu có. Còn giai cấp vô sản “ trần như nhộng” , chỉ có hàng hoá sức lao động
buộc phải bán để kiếm sống. Do là chủ
sở
hữu tư liệu sản xuất nên chủ tư bản có
quyền quyết định việc phân phối sản phẩm và trở nên giàu có. Còn người làm
thuê thì bị bóc lột, trở nên nghèo tuyệt đối hoặc tương đối. Theo C.Mác, sự khác
biệt về thu nhập giữa những người lao động còn có sự khác nhau về trình độ nghề
nghiệp và hiệu quả lao động. Khi phân tích nguyên nhân giàu nghèo và phân tầng
xã hội, Mác Veibơ đặc biệt nhấn mạnh nguyên nhân uy tín và quyền lực. Khác
với C.Mác, Mác Veibơ cho rằng nguyên nhân cơ bản dẫn đến giàu nghèo và phân
tầng xã hội là khả năng thị trường của từng thành viên trong xã hội. Tuy thừa
nhận những khía cạnh hợp lý về quan niệm của Mác Veibơ nhưng nhiều nhà xã
hội học tư sản cũng phê phán, đánh giá : “ Những tiếp cận của Mác Veibơ có xu
hướng tập trung vào công việc mà coi nhẹ của cải như một yếu tố cốt yếu của cấu
trúc giai cấp” và nếu “ chúng ta quan tâm đến tập trung lợi thế và quyển lực,
chúng ta không thể quên giai cấp tư sản của C.Mác với độc quyền
sở

hữu các tài
sản sản xuất” .
Cùng tham gia tìm kiếm các nguyên nhân dẫn đến nghèo đói, các nhà
nghiên cứu trên thế giới đã phân tích khá toàn diện các nguyên nhân dẫn đến
12
nghèo đói. Tuy vậy, cách tiếp cận phàn tích các nguyên nhân dẫn đến giàu nghèo
và phân hoá thu nhập rất đa dạng. Nhiều nhà xã hội học hiện đại khái quát 3
nhóm nhân tố liên quan đến giàu nghèo là tài sản, trí tuệ, uy tín và quyền lực.
Thông thường, ở nước ta, nguyên nhân dẫn đến nghèo đói thường được tiếp
cận thành hai nhóm ; nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Khi
phân tích nguyên nhân khách quan thường nhấn mạnh lý do chung, môi trường,
những tác nhân “ bên ngoài” người nghèo đói như hậu quả chiến tranh, thiếu tư
liệu sản xuất, thiên tai, mặt trái của kinh tế thị trường, thiếu sót trong chính sách
của Nhà nước, gặp rủi ro về nguyên nhân chủ quan là do thiếu vốn, thiếu khả
năng kinh doanh, sinh đẻ nhiều, chi tiêu không có kế hoạch… M ột số cá nhân và
tổ chức, khi nghiên cứu nguyên nhân nghèo đói đã xem xét nguyên nhân ớ 2 cấp
độ : cấp cộng đồng và cấp hộ gia đình, ở cấp cộng đồng, các nguyên nhân
thường được nhắc đến là : khí hậu khắc nghiệt, sự cách biệt về địa lý, hậu quả
chiến tranh Còn cấp độ hộ gia đình gồm những nguyên nhân như thiếu vốn, bị
rủi ro riêng, thiếu đất đai Cũng có thể tiếp cận trực diện, gọi “ đích danh” từng
nguyên nhân dẫn đến nghèo đói. Dù tiếp cận nguyên nhân như thế nào chúng ta
đều thấy sự phân biệt các nguyên nhân có tính chất tương đối và giữa các nguyên
nhân có quan hệ chặt chẽ với nhau, khảng định nguyên nhân của đói nghèo rất đa
dạng và giải quyết chúng phải có quá trình lâu dài.
Từ việc nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến nghèo đói của các học giả trên thế
giới và ở nước ta có thể thấy việc phân hoá giàu nghèo, nghèo đói do các nhóm
nguycn nhân chủ yếu sau đây;
- Chiến tranh thế giới, cục bộ, sắc tộc.
- Khủng hoảng kinh tế, mất ổn định về chính trị. Trong những thập kỷ gần
đây trào lưu mở cửa, hội nhập diễn ra ồ ạt trên thế giới bên cạnh mặt tích cực

cũng gây nên những hậu quả xấu cho nhiều quốc gia do xem nhẹ nội lực, quá
nhấn mạnh nguồn lực từ bên ngoài, (như Indonesia,

Áchemtina )
~
Bản chất của Nhà nước chi phối các chính sách liên quan đến phuc vụ lợi
ích cho các nhóm dân cư trong xã hội.
13
- Các cơ chế chính sách phát triển kinh tế - xã hội và xoá đói giảm nghèo.
- Các nguồn lực và điều kiện tự nhiên như : khí hậu thời tiết, đất đai, tài
nguyên, khoáng sản
- Các khả năng lãnh đạo, quản lý kinh lế - xã hội, hoạt động kinh doanh
như : quản lý vĩ mô, quản lý các nguồn lực, quản trị kinh doanh
- Hoàn cảnh riêng và sự cố gắng của bản thân của từng người nghèo, vùng
nghèo và của cả quốc gia (như vốn, đất đai và tài nguyên khác, ý thức, kỹ năng )
- Sự quan tâm của cộng đồng quốc tế hoặc cộng đồng trong phạm vi từng
quốc gia
Khi phân tích các nguyên nhân dẫn đến nghèo đói, có những nguyên nhân
hầu hết được các học giả khảng định, nhưng cũng có những nguyên nhân còn
được Iranh luận. Sự khác biệt trong nhận dạng các nguyên nhân dẫn đến nghèo
đói của các học giả không chỉ xuất phát từ trình độ hoặc phương pháp tiếp cận
mà còn phụ thuộc vào nhãn quan chính trị - giai cấp của từng học giả.
Từ việc liếp cận hàng loạt các quan niệm khác nhau về nguyên nhân nghèo
đói nêu trên, có thể rút ra một số kết luận sau đây:
- Nghèo đói, nhất là nguyên nhân dẫn đến nghèo đói là vấn đề được thế
giới rất quan tâm. Nhận diện chính xác nguyên nhân dẫn đến nghèo đói là điều
kiện cơ bản để hoạch định chính sách, phương pháp phù hợp cho công tác xoá
đói giảm nghèo.
- Dù theo cách tiếp cận nào thì nguyên nhân dẫn đến nghèo đói đều được
thừa nhận là rất đa dạng, mức độ tác động với các quốc gia rất khác nhau. Từ đó,

các giải pháp thực hiện xoá đói giảm nghèo vừa mang tính phổ biến bao gồm cả
những giải pháp về chính trị, kinh tế và xã hội, vừa mang tính đặc thù.
- Nghèo đói là vấn đề liên quan đến quốc gia, quốc tế, cộng đồng và từng
nhóm nghèo. Do đó, chương trình xoá đói giảm nghèo phải là sự cố gắng của
nhiều cấp, nhiều nghành và nỗ lực chủ quan của người nghèo.
- Nước nghèo, người nghèo thường chịu thua thiệt và thiếu lợi thế trong
hoà nhập quốc tế và hoà nhập cộng đồng. Sự giúp đỡ hỗ trợ của bên ngoài là rất
14
quan trọng nhưng quyết định là sự cô' gắng tự vươn lên cua từng quốc gia nghèo
và từng gia đình nghèo.
1.1.3. Những khó khăn thách thức đối với các nước nghèo và nhóm dân cư
nghèo đói.
Trong phạm vi một quốc gia, trong quá trình phát triển, sự phân hoá giàu
nghèo ngày càng có khoảng cách lớn, bộ phận người nghèo đói bị tụt hậu nhiều
mặl, muốn vươn lên đủ ãn, khá giả là một quá trình đầy gian khổ. Trên phạm vi
quốc tế, các quốc gia nghèo muốn vươn lên cũng gặp phải những khó khăn thách
thức không nhỏ. Các nước nghèo muốn cạnh tranh để đứng vững và phát triển
phải chấp nhận mọi thử thách nghiệt ngã, vượt lên không phải dễ dàng, trong
vòng xoáy của xu thế toàn cầu hoá hội nhập có nước lên ngôi, có nước tụt hậu,
xuống cấp. Những khó khăn thách thức bao gồm:
- Cạnh tranh không ngang sức giữa các nước nghèo với các nước giàu. Phải
khắng định rằng hiện nay, hệ thống “ luật chơi” quốc tế và hầu hết các tổ chức
kinh tế
-
xã hội trên thế giới đều do các nước giàu, các tập đoàn xuyên quốc gia
khống chế và bênh vực quyền lợi cho các nước giàu. Từ sau chiến tranh thế giới
thứ hai đến nay, các nước đang phát triển - nhất là các tổ chức các nước không
liên kết đã và đang đấu tranh cho việc thiết lập một trật tự kinh tế quốc tế mới,
một hệ thống “ luật chơi” mới bình đẳng nhưng kết quả còn thấp. Vươn lên trong
hoàn cảnh cạnh tranh không ngang sức với các nước giàu là thách thức đối với

các nước nghèo. Và thực tế từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay khoảng
cách về trình đội phát triển, thu nhập, đời sống của các nước thuộc nhóm nghèo
với các nước giàu không những không giảm mà còn gia tăng.
- Toàn cầu hoá, khu vực hoá, hội nhập là xu hướng tất yếu buộc mọi nước
nghèo phải tham gia. Nhưng lý thuyết, thực tiễn đã chứng minh tính hai mặt của
hội nhập quốc tế đối với các nước nghèo. Bên cạnh việc có thể tiếp nhận được
vốn, công nghệ, mở rộng thị trường lưu thông hàng hoá thông thoáng, kinh
nghiệm quản lý thì cũng vấp phải hàng loạt khó khăn, mức độ canh tranh gay
15
gắt, do khả năng quản lý có hạn dễ bị nguy cơ như phải tiếp nhận kỹ thuật công
nghệ lạc hậu, hàng hoá sản xuất trong nước không có khả năng cạnh tranh, hiệu
quá sử dụng máy móc, thiết bị mua sắm bằng vốn vay kém hiệu quả, nợ nần
chồng chất
- Sức ép của dòng người di tản ra nước ngoài, dòng người nông thôn vào đô
Ihị, đang làm cho đói nghèo tãng lên cả ở thành thị và nông thôn, cả trong nước
và liên quốc gia.
- Mức độ hưởng thụ về văn hoá, giáo dục, y tế, thông tin và thị trường, đối
với người nghèo bị hạn chế đang là lực cản rất lớn đối với người nghèo, không
chí trước mắt mà hậu quả của nó còn lâu dài.
- Mâu thuẫn nội bộ về sắc tộc, tôn giáo, nước mạnh tuỳ tiện dùng bạo lực
ép nước yếu, chiến tranh, xung đột luôn đẩy người nghèo đến bên bờ vực thẳm.
- Chiến lược, chính sách, hệ thống tổ chức quản lý chưa đồng bộ và sự hạn
chế về nguồn lực cho xoá đói giảm nghèo ở các quốc gia kém phát triển, các
nước giàu chưa đóng góp một cách tích cực để tăng nhanh phương tiện vật chất
thúc đẩy quá trình xoá đói giảm nghèo trên phạm vi toàn thế giới.
Nhận rõ những thách thức nghiêm trọng trên, càng đặt trách nhiệm nghiêm
túc trước mọi quốc gia đối với hàng tỷ người nghèo khổ và cũng là sứ mệnh lịch
sử ciia các quốc gia muốn phát triển bền vững để bước vào thế kỷ X X I này.
1.2. Kinh nghiệm của một sỏ quốc gia trên thế giới về thực hiện
X Đ (;N .

Trong mấy thập niên gẩn đây, nhiều nước đang phát triển rất chú trọng
việc XĐGN. Các diễn đàn quốc tế và khu vực về đói nghèo ở Malaisia,
Cophchagen (Đan Mạch), Bắc Kinh (Trung Quốc) đều đưa vấn đề đói nghèo vào
nội dung chính của chương trình nghị sự. Riêng các nước Đông Nam Á, đói
nghèo đã được bàn bạc tranh luận thường xuyên trong 2 thập niên nay. M ột quốc
gia như Philippin và Indonesia đã xây dựng chương trình quốc gia về XĐGN, có
cơ chế chính sách và tổ chức bảo đảm thực hiện, từ cấp vĩ mô xuống các ngành
16
các cấp. Trong hợp lác song phương, Cộng hoà liên bang Đức đã rất chú trọng
mục tiêu xoá đói giảm nghèo trong chính sách hợp tác quốc tế. Nhiều tổ chức
quốc tế, trong hoạt động của mình đã và đang quan tâm đến các nước nghèo và
dân nghèo. Ngoài việc giúp đỡ vốn, Ngân hàng thế giới có phân biệt trong chính
sách dựa vào mức thu nhập cua từng quốc gia. Nhiều nước có số dân đông nhất
thế giới như Trung Quốc, Ấn Độ đã gắn phát triển kinh tế - xã hội với XĐGN và
đã thành công trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo, coi đó là yếu tố phát triển kinh
tế bền vững. Nhờ một số giải pháp tích cực trong hai thập kỷ 1970 - 1990, số
người nghèo đói nói chung

nhiều quốc gia đã giảm đáng kể như Malaysia và
Indonesia. V í dụ ở Indonesia, năm 1970 số người nghèo đói là 60% thì năm 1994
còn khoảng 25%. Tuy vậy, trong 3 năm gần đay tỷ lệ người nghèo

một số quốc
gia Châu Á như Thái Lan, Indonesia, Philippin lại tăng lên do khủng hoảng
kinh tế, bất ổn về chính trị, xung đột sắc tộc. Thậm chí, có học giả nhận định
rằng khủng hoảng kinh tế và bất ổn về mặt xã hội

Indonesia trong 3 năm gần
đây đil làm tiêu tan toàn bộ thành tựu về xoá đói giảm nghèo của quốc gia này
trong hơn hai thập kỷ qua. V ì vậy, phân hoá thu nhập, nghèo đói là hiện tượng đã

tồn tại từ lâu trong lịch sử và phấn đấu giảm nghèo đói là việc mà nhiều quốc gia
đã và đang quan tâm.
Cần lưu ý là XĐ GN ở mỗi quốc gia không chỉ do Nhà nước của quốc gia
đó tiến hành mà còn do nhiều tổ chức quốc tế (như Liên hợp quốc, Ngân hàng thế
giới, Hội phụ nữ dân chủ quốc tế ), các tổ chức phi chính phủ thực hiện (như
O XFAM , tổ chức thầy thuốc không biên giới ). Ở tầm quốc gia, trên thế giới
xuất hiện nhiều mô hình khác nhau, ở đây không có điều kiện trình bày thực tiễn
và kinh nghiệm XĐ GN của tất cả các quốc gia và tổ chức quốc tế mà chỉ nêu
cách làm, kinh nghiệm của một số quốc gia mà theo học viên là có những nét tiêu
biểu, những kinh nghiệm quí có thể nghiên cứu XĐGN

nước ta. Vì mỗi quốc
gia có những kinh nghiệm đặc thù. Vì vậy, để XĐ GN phải có sự nỗ lực từ phía
bán thân người nghèo, cộng đồng, quốc gia và quốc tế
I 丨:V 一 LO姆
17
a. Ở Vương quốc Thuỵ Đ iển
: Đã có một thời kỳ, Thuỵ Điển phát triển theo
mỏ hình Nhà nước phúc lợi chung. Đặc trưng cơ bản của mô hình này là ở Thuỵ
Điển so với nhiều nước tư bản khác là Nhà nước rất coi trọng và có vai trò quan
trọng trong phân phối. Năm 1995, chi tiêu của Chính phủ đạt mức 65% thu nhập
quốc dân, trong lúc đó,

các nước khác chỉ tiêu trên chí ở mức 33 - 52%. Có Ihể
nói, Chính phủ Thuỵ Điển đã thực hiện hàng loạt các biện pháp để đảm bảo các
nhu cầu tối thiểu cho con người, chiếu cố thoả đáng đến nhóm có thu nhập thấp
và cố gắng giảm dần mức chênh lệch thu nhập giữa các nhóm dân cư. Nhờ đó, ở
những năm 80,ớ Thuỵ Điển, 20% số hộ gia đình có thu nhập cao nhất nhận được
26,9% thu nhập, còn 20% số gia đình có mức thu nhập thấp nhất được hưởng 8%
thu nhập. Cùng thời gian trên, hai chí tiêu trên ở M ỹ là 41,9% và 4,7%.

Tuy vậy, sau nhiều năm thực hiện mô hình nhà nước phúc lợi chung, nền
kinh tế Thuỵ Điển bước vào giai đoạn trì trệ, tăng trưởng thấp, tỷ lệ thất nghiệp,
chí số giá tiêu dùng đều tăng Nguyên nhân quan trọng được nhiều chuyên gia
đánh giá là động lực kinh tế giảm sút, sự ỷ lại của người dân vào phúc lợi xã hội.
Thuỵ Điển buộc phải điều chỉnh chính sách, tăng động lực kinh tế, sử dụng nhiều
hơn các công cụ thị trường. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đây chính là biểu
hiện thất bại của mô hình Nhà nước phúc lợi chung.
ở các nước nghèo, các nước đang phát triển cũng tiến hành nhiều biện
pháp XĐGN, giảm khoảng cách giàu nghèo. Cách làm của các nước rất khác
nhau, có những kết quả, thành công nhưng nảy sinh không ít những vấn đề nan
giải, có cả thành công và không thành công. Sau đây là kinh nghiệm của một số
nước đang phát triển.
b. Ở T n m q Quốc.
Từ khi cách mạng vô sản thành công (1949),có thể chia
quá trình phát triển kinh tế, phân hoá giàu nghèo và các hoạt động XĐGN làm
hai giai đoạn, từ năm 1949 đến năm 1977 là thời kỳ xây dựng CNXH theo mô
hình kế hoạch hoá tập trung và từ năm 1977 đến nay thực hiện cải cách kinh tế
theo hướng nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
18
So với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, tuy ở Trung Quốc chênh
lệch nghèo không lớn nhưng số dân nghèo đói rất cao. Từ 1985 - 1988,chênh
lệch thu nhập giữa 20% nhóm dân cư giàu nhất với 20% nhóm nghèo nhấl chỉ 6,5
lần và hệ số G ini chỉ là 0,3.
Nhờ đổi mới nền kinh tế có hiệu quả và thực hiện một số chính sách trực
tiếp để XĐGN nên số người nghèo

Trung Quốc giảm xuống nhanh chóng. Nếu
theo mức chuẩn nghèo của Cục Thống kê Trung ương Trung Quốc là có thu nhập
100 nhân dân tệ/ 1 người/ 1 năm thì số người nghèo


nông thôn năm 1978 là 250
triệu người ( chiếm 30% dân số ),đến năm 1985 chỉ còn 125 triệu người và 1998
chỉ còn 42 triệu người. Trong quá trình cải cách kinh tế, Trung Quốc đã thực hiện
nhiều biện pháp để hạn chế phân hoá giàu nghèo và XĐGN. Tuy vậy, dân nghèo
nói chung và dân cư nông thôn Trung Quốc không những thu nhập thấp mà mức
hướng thụ của dịch vụ xã hội vẫn rất thấp kém. Năm 1996,trong lao động nông
thôn Trung Quốc, số người mù chữ chiếm 22,25%, số có trình độ tiểu học là
45,1%.
Có thể phân loại những biện pháp được thực hiện

Trung Quốc thành hai
nhóm: nhóm các biện pháp chung và nhóm các biện pháp trực tiếp XĐGN.
- Nhóm các biện pháp chung: các biện pháp chung của Trung Quốc được
thực hiện rất phong phú và thay đổi từng thời kỳ, những biện pháp chính đã thực
hiện:
+ Duy trì ổn định chính trị: Trung Quốc quan niệm rằng giữa ổn định
chính trị và nghèo đói có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu không ổn định chính
trị, các mục tiêu kinh tế - xã hội không thể thực hiện, người dân không yên ổn
làm ăn, sinh sống, nếu làm cho người nghèo tăng, bị bần cùng hoá còn bộ phận
khác lại giàu có, sẽ dần đến xung đột chính trị, xã hội. Từ đó, cùng với chính
sách cải cách mở cửa, Trung Quốc không ngừng củng cố quốc phòng, an ninh,
sẵn sàng trấn áp các hành vi chống lại chính quyền, đe doạ an ninh quốc gia và
trật tự xã hội.
19
+ Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhằm tạo thêm việc làm, thu nhập cho mọi
người: Hai thập kỷ gần đây, Trung Quốc là quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao nhất thế giới. Bên cạnh việc hình thành những khu công nghiệp, khu chế xuất
hiện đại

vùng ven biển, vùng hấp dẫn đầu tư nước ngoài, Trung Quốc chú ý đến

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nông thôn. Đến nay, sản phẩm của công nghiệp
hưng trấn, công nghiệp địa phương với hầu hết là quy mô vừa và nhỏ đã tạo ra
việc làm và thu nhập cho hàng chục triệu nông dân.
+ Điều tiết hợp lý thu nhập, phân phối: Trung quốc đã thực hiện kiên quyết
việc chống tham nhũng, kinh doanh trái pháp luật đồng thời thực hiện bảo hiểm
xã hội, áp dụng nhiều biện pháp để điều tiết vĩ mô về thu nhập.
+ Tạo việc làm thông qua thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhất là cơ
cấu kinh tế nông thôn. Ngoài thúc đẩy phái triển xí nghiệp hương trấn, việc hình
thành các thị tứ, thị trấn, hoàn thiện dần hệ thống giao thông nồng thôn đã thú
đẩy dịch vụ nông thôn phát triển.
+ Chú ý thích đáng đến phát triển vùng: Trước hết, Trung Quốc thúc đẩy
việc hình thành những vùng động lực, trọng điểm, đồng thời khuyên khích bố trí
công nghiệp theo lãnh thổ để góp phần cải biến nông thôn. Chính sách thu ngân
sách và điều tiết ngân sách có phân biệt để ưu tiên cho các vùng khó khăn có
điều kiện tài chính để vươn lên.
- Các giải pháp, chính sách XĐGN ở Trung Quốc khá đa dạng, linh hoạt.
Sau clây là những giải pháp được khuyến khích thực hiện:
-4- Xây dựng các mô hình, chỉ đạo điểm cho từng vùng, từng địa phương để
làm hình mẫu, đầu tàu “ lan toảM. Trung Quốc chú ý xây dựng các điểm “ tiêu
phú” ,xây dựng các thị trấn, thị tứ

nông thôn để từ đó làm tiền để lan tỏa cho cả
vùng.

Huy động nhiều nguồn lực để thực hiện XĐGN: trước hết, Trung Quốc
khuyến khích các nhà đầu tư nuớc ngoài đầu tư vào những vùng đất hoang, đồi
núi. Để giữ đất nông nghiệp trước yêu cầu cao của công nghiệp hoá, đô thị hoá,
chính phủ Trung Quốc quy định: việc chuyển mục đích quyền sử dụng đất nông
20
nghiệp phải thực hiện theo nguyên tắc “ lấy bao nhiêu khai hoang bù bấy nhiêu”

và hình thành quỹ riêng để khai hoang bù đắp cho việc chuyển mục đích sử dụng
đất nông nghiệp. Ngoài vốn của nhà nước, của cộng đồng, Trung Quốc tranh thủ
tối đa vốn cho mục tiêu XĐGN lừ Ngân hàng thế giới, và các tổ chức phi chính
phủ.Cùng với sự trợ giúp vốn để tạo việc làm, tăng thu nhập, Trung Quốc còn có
sự hỗ trợ tích cực về truyền thông, giáo dục, y tế cho các hộ nghèo và vùng khó
khăn. Đặc biệt Trung Quốc đã yêu cầu và khuyến khích các vùng giàu, địa
phương giàu giúp đỡ các vùng, địa phương nghèo như đã hình thành các cặp địa
phương sau: Bắc Kinh - Nội Mông, Thiên Tân - Cám Túc, Hà Bắc - Quỳ Châu,
Thượng Hải - Vân Nam.
Từ sự phân tích trên cho thấy, các biện pháp hạn chế phân hoá giàu nghèo
và XĐGN của Trung Quốc rất đa dạng, ngoài những biện pháp chung còn có
những biện pháp trực tiếp tác động đến người nghèo, vừa có những biện pháp
kinh tế giúp vốn, mở mang sản xuất vừa có những biện pháp xã hộ như giáo dục,
y tế, đào tạo, kế hoạch hoá gia đình.
c. Ở cộng hoà ỉnđônêxia:
Inđônêxia là quốc gia đông dân nhất khối Đông
Nam Á ’ với hơn 7 ngàn đảo lớn nhỏ với những tính đa dạng về điều kiện sinh
thái, dân tộc, chia cắt về địa hình, phát triển kinh tế và thực hiện xoá đói giảm
nghèo là công việc rất phức tạp.
Ở thời kỳ đầu sau khi giành được độc lập, nền kinh tế và chiến lược phát
triển kinh tế rất khó khăn, lúng túng. Kinh tế chậm tăng trưởng, dân số tăng
nhanh nên thu nhập bình quân của dân cư có xu hướng giảm sút. Nếu như năm
1957, thu nhập bình quân 1 người dân còn đạt 131 USD thì đến năm 1961 giảm
xuống chỉ còn 83 USD
Sau đó, Nhà nước Inđônêxia có hàng loạt các biện pháp nhằm khôi phục và
phát triển kinh tế. Inđônêxia thực hiện chiến lược mở của, tăng xuất khẩu - nhất
là xuất khẩu khoáng sản, sản phẩm nông lâm thuỷ sản. Đến năm 1996, kim
ngạch xuất khẩu của Inđônêxia đạt 55 tỷ USD. Nhờ kinh tế tăng trưởng và bước
đầu nhận thức được tác hại của phân hoá giàu nghèo và cuộc sống khó khăn của
21

người nghèo, trong suốt thập kỷ 80 và nửa đầu thập kỷ 90, Inđônêxia đã thực
hiện nhiều biện pháp xoá đói giảm nghèo, đưa mục tiêu xoá đói giảm nghèo
thành mục tiêu quốc gia. Chính phủ đã trợ cấp ngân sách hỗ trợ tín dụng cho
người nghèo, khuyến khích phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ Nhờ những
biện pháp tích cực, nên số người nghèo của Inđônêxia từ những năm 70 đến đầu
những năm 90 liên tục giảm xuống. Năm 1976, số người sống dưới mức nghèo
khổ là 54 triệu người nhưng đến năm 1987 chỉ còn 30 triệu người. Năm 1996

Inđônêxia được giải thưởng của Liên hợp quốc về thực hiện chương trình xoá đói,
giám nghèo.
Nhưng từ cuối năm 1996,kinh tế - xã hội và chính trị Inđônêxia lâm vào
khủng hoảng nghiêm trọng. Các nhà lãnh đạo tham nhũng, xung đột về lãnh thổ,
bạo động, khủng hoảng kinh tế, đặc biệt thực thi cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư
thiên về hướng ngoại, khi có chấn động khủng hoảng kinh tế xuống dốc, đời sống
của nhân dân - nhất là tầng lớp nghèo bị giảm sút nghiêm trọng. Có nhà nghiên
cứu đã khảng định rằng, khủng hoảng kinh tế - xã hội và bất ổn về chính trị đã
làm tiêu tan thành quả xoá đói giảm nghèo của gần 20 năm trước đó.
Ngoài Inđônêxia, Philippin, Thái Lan và nhiều nước trong khu vực đều nảy
sinh tình trạng phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng, bất bình đẳng, một bộ phận
dãn cư sống nghèo khổ. Dù ít nhiều và mức độ, cách làm khác nhau nhưng các
nước khu vực châu Á như : Thái Lan, Philippin đều có những biện pháp để cố
gắng giảm mức chênh lệch và giúp đỡ người nghèo.
Qua nghiên cứu thực tế phân hoá giàu nghèo, thực hiện các chính sách xã
hội và chống đói nghèo của các nước đã nêu trên và một số quốc gia khác trên
thế giới, chúng ta rút ra những nội dung sau:
- Phân hoá thu nhập, chênh lệch giàu nghèo là hiện tượng phổ biến

các
quốc gia. Đó là kết quả của nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân thuộc
về sự quan tâm của Nhà nước trong việc hoạch định và thực thi chiến lược, chính

sách phát triển, gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, xoá đói,
giảm nghèo.
22

×