Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Pháp luật về quyền tác giả trong quá trình hội nhập quốc tế ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (63.34 MB, 133 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC (JIA HẢ NỘI
KHOA LUẬT
¡50 <••*
BÙI THI PHIÍƠNG LAN
PHÁP LUẬT VỂ QUYÊN TÁC GIẢ
TRONG QUÀ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TÊ ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Quốc tè
Mã số: 5.05.12
LUẬN VÃN THẠC si LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG NGỌC GIAO
HÀ NỘI - 2003
MỤC LỤC
Chương 1: Một số vấn dể chung về bảo hộ quyền tác giả có yếu tỏ 06-36
nước ngoài
Trang
Phán mở đầu. 0 1 _06
/./
Khái quát về tác giả, quyên tác giả và việc bảo hộ quyền tác giả
06-19
1.1.1
Tác giả, chủ sở hữu tác phẩm
06-10
1.1.2
Quyền lác giả và bảo hộ quyền tác giả
10-19
1.2
Các quyên kê cận quy én tác giả
19-19
1.3
Quyến tác giả và hội nhập quốc tê
19-36


1.3.1
Quyền tác giả có yếu tố nước ngoài
20-24
1.3.2
Báo hộ quyền tác giả trong pháp luật Hợp chúng quốc Hoa Kỳ
24-30
1.3.3
Một số Điều ước quốc tế quan trọng vổ quyền lác giá
30-36
Chưưng 2: Hệ thống pháp luật và bộ máy thực thỉ quyển tác giả có yếu
to nước ngoài ừ Việt Nam hiện nay
37-98
2.1
Hệ thống pháp luật Việt Nam vê bảo hộ quvền tác giả
37-82
2.1.1
Quyền tác giả - sự ghi nhận và khẳng định trong các bản Hiến pháp
37-40
2.1.2
Quy định về quyền tác giả ở các văn bản quy phạm pháp luật khác
40-45
2.1.3
Báo hộ quyền tác giả theo quy định của Bộ luật dân sự ỉ 995
45-71
2.1.4
Bao hộ quyền tác giả theo các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham
gia, ký kết
71-79
2.1.5
Mộl số nhận xét về thực trạng pháp luật về quyền tác giá

79-82
2.2
Thưc trạng bô máy thực thi bảo hộ quyền tác có yếu tô nước
ngoài ở Việt Nam.
82-98
2.2.1
Hệ thống cơ quan tham gja thực thi bảo hộ quyền tác giả ở Việt
Nam.
82-87
2.2.2
Thực trạng hoạt dộng cúa các cơ quan ihực thi bảo hộ quyển tác giả
ở Việt Nam hiện nay
87-98
("hương 3: Một sô' phuong hướng hoàn thiện pháp luật vẻ quyền tác giả
trong quá trinh hội nhập quốc tê ở Việt Nam
3. ỉ Thực trạng vi phạm quyến tác giả và xứ lý vi phạm quyển tác giả
ở Việt Nam hiện nay
1.1 Thực trạng vi phạm quyền tác giả
.V 1.2 Xứ lý vi phạm quyền lác giả
.12 Một sô giải pháp và khuyên nghị nhằm tăng cường bảo hộ quyền
tác gỉẩ trong quá trình hội nháp quốc tế ở Việt Nam hiện nay
3.2. ] Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ
quyền tác giả có yếu tố nước ngoài
3.2.2 Một số giải pháp nâng cao hiệu quá thực thi pháp luật về bảo hộ
quyền tác giả Irong quá trình hội nhập quốc tế
3.2.3 Một số giải pháp nhằm đáp ứng yêu cầu cùa pháp luật quốc tế về
báo hộ quyền tác giả ở Việt Nam hiện nay
Phần kết luận
Danh mục tòi liệu tham khảo
99-123

100-111
101-103
103-111
111-123
í 12-119
119-121
121-123
124-125
CÁC T ừ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BLDS - Bộ luẠt Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1995
Pháp lệnh QTG
- Pháp lệnh quyén tác giả nãm 1994
Thoá thuận
- Thoá thuận vé những khía cạnh liên quan tới thương mại
TRIPs
của quycn sở hữu trí tuệ
Công ước Berne
- Công ước Beme báo hộ các tác phẩm văn học và nghệ
thuật
LBQ Anh quốc
- Luật Bản quyền, Kiểu dáng và Sáng chế năm 1988
của Anh quốc
LBQ Hoa Kỳ
- Luật Bản quyền của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
LBQ Nhật Bản
- Luật Bản quyền Nhật Bán
UBND
- Uỷ ban nhàn dân
PHẨN MỞ ĐẨU

Có thể nói, ngày nay trí tuệ, sản phẩm sáng tạo về tinh thần của C011 người
thể hiện qua hệ thống tri thức, được sử dụng có hiệu quả và rộng khắp trên thế
giới. Các quyền của nhũng người sáng tạo được công nhận là quyền cùa cá nhân
được phấp luật quốc gia, và pháp luật quốc tế bảo vệ.
Trong lĩnh vực quyên tác giả, những nãm gần đày với việc sử dụng và áp
dụng neày càng rộng rãi những tác phẩm vãn học nghẹ thuật, công nghệ thông
tin việc thực hiện và quàn lý các quyền cá nhân đối với tác phẩm thuộc về sở
hữu trí tuệ này ngày càng gặp phải những thách thức mới. Bảo hộ quốc tế quyền
sỏ' hữu trí luệ nói chung, quyền tác giả nói riêng đã trở nên cấp thiết khi mà xu
hướng ihưưng mại trẽn thế giới đã mở rộng từ lĩnh vực hàng hoá sang lĩnh vực
dịch vụ và sở hfru trí tuệ.
Với xu hướng giao lưu dân sạ quốc tế phát triển ngày càng mạnh mẽ, trong
lĩnh vực bão hộ quyền sở hữu tri tuệ, các quốc gia đều nhận thức được vai trò và
tấm quan trọng của cơ chế hao hộ quyền tác giả trong sự phát triển kinh tế xã hội
cũng như trong lĩnh vực khoa học, công nghệ. Ớ Việt Nam, báo hộ quyền tác giả
nói chung, quyền tác giả có yếu tố nước ngoài nói riêng là một vấn đồ có tính
thời sự, thu hút sự quan tâm của toàn xã hội, nhâì là khi Đảng và Nhà nước ta
chủ trương hội nhập quốc tế và khu vực.
Có thế nói, hệ thống Pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả được
hình thành và đang dần hoàn Ihiện cho phù hợp với pháp luật quốc tế. Hiến pháp
nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 - Văn bản pháp ]ý tối cao của nhà nưỡc ta
ghi nhận lại Điều 60: "Cóng dán cố quyển nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát
minh, súIIo chế, seing kiên cải liến kỹ thuật, lu/p lý hoá sản xuất, sáng tác, phê
bình vãn học, nghệ thuật IV/ tham gia các hoại động văn hoá khác. Nhà nước
hảo hộ quyền tác I>iá và quyển sà hữu côn# n g h iệ p Trên cơ sở quy định tại
Hiến pháp, quyển tác giả và bảo hộ quyền tác giả được quv định trong nhiều văn
bán pháp luật khác, đó là Bộ luật Dân s ự Việt Nam (tại Chương 1, Phẩn thứ 6),
Bộ luật Hình sự; lại các luật chuyên ngành như Luật Báo chí, Luật Xuất bản,
Luật Di sản vãn hoá, Pháp lệnh Quang cáo, Bên cạnh đó là các vãn bản của
1. Tính cấp thiết của đề tài.

Chính phủ. của Bộ Văn hoá Thông lin và một sô Bộ. Níìành hướng (lẫn việc Iluiv
lili qiiveii lác uiá trên phạm vi cá nước.
Song song với hệ Ihốnc. pháp luật quốc gia, Việt Nam cũng đã ìhain íiia
ký kết một số hiệp định song phương về sở hữu trí tuệ, trong đó bao gổni quyền
lác iĩia. đó là Hiệp định Quyền tác giả Việt Nam - Hoa Kỳ năm 1997: nam
1998. Cục Bán quyền lác giả đã ký tất bản ghi nhớ hợp tác trong lình vực quycn
tác ụiá va quyền kể cận với Cục Bán quyền tác già nước CHND Trini” Hoĩi:
Hiệp đinh song phương về Báo hộ sở hữu trí tuệ và chương trình hợp lác tronn
lình vực sớ hữu trí mộ Việt Nam - Thuỵ Sĩ nãm 1999; Hiệp định vổ quan hộ
Ihươiiíi mại giữa Chính phủ CHXHCN Việt Nam và Chính phủ Họp chúng quỏc
Hoa Kỳ ký ngày 13/7/2000.
Đổng thời với việc hình thành hệ ihống pháp luật về quyền lác Siiá. bộ
máy thực Ihi cũns đưực hình thành và từng bước hoàn thiện. Theo đó. tham
quyền quản lý hành chính vẻ quyền tác giá ở cấp TW có Chính phủ - cơ quan
hành chính Nhà nước cao nhất quản lý toàn bộ các lĩnh vực kinh lê - xã hội.
110112 đó có văn hoá thông tin và quyền lác giá: chịu trách nhiệm trước Chính
phủ về báo hộ quvền lác giá là Bô Vãn hoá Thông tin với cơ quan iỊÌúp vi ỘC' là
Cục Bán quyền tác uiã. Ớ địa phương có các Sở Văn hoá thông tin. và mội só
Bộ, ngành Ihuộc TW cũng tham gia quản lý hành chính về quyền lác giá tron ti
phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình, ở mức cao hơn. tuỳ theo mức độ.
lính chất cùa việc vi phạm quyền tác giả có hệ thống cư quan tnà án xét xử. đó
là Toà Hành chính. Toà Dân sự, Toà hình sự có nhiệm vu Ihụ lý nhũn*.’ vụ
kiện vé báo hộ quyền tác giá để xót xử.
Tuv nhiên, theo kinh nghiệm cùa các nước, hệ thống pháp luật và cư elk-
thực thi quyền tác giá ỏ Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với
pháp luật quốc lế, do dó hoạt động thực thi quyền tác giả còn gập nhiều khó
khăn, kết quả bao hộ chưa cao

Thực í ran 2 đó một phần hạn chế kha mìiiìỉ
sáng tạo của con người, và cổ tác động không nhỏ vào sự phái trien kinh lô xfi

hội cua đát nước.
Đè chuấn bị cho sư ạia nhập cùa Việt Nam vào Tổ chức thươnũ !tụii Ilié
iỊÌỚi WTO. ironu lĩnh vực sở hữu trí tuệ, chúng ta đang liến hành bó smtH
nhữnụ quy đinh pháp luậl về báo hộ quyển sớ hữu trí luệ. đặc hiệt ià lĩnh vực
quyền tác giả có vếu tô nước ngoài. Với những lv do irôn, chúnu tôi dã choi ì
đề tài nghiên cứu "Pháp luật về quyền tác già trong quá trình hội nhap
(ỊIIOC tè ó Việt
2
2. Tình hình nghiên cứu.
Cỏ thể nói trong rình vực quyền tác gia, số lượng các công trình nghicn
cứu về lĩnh vực này không nhiều, trong đó có thể kể đến một sô' công trình khoa
học nghiên cứu về pháp ỉuật vổ sở hữu trí tuệ như: Pháp luật xuất bản ở Việt
nam, quá trình thực hiện và dổi mới trong điều kiện cơ chế thị trường định
hưữtiỊỊ XỈỈCN - Luận án Tiến sĩ Luật học của tác giả Vũ Mạnh Chu; Các khía
cạnh Luật ('ông ty và Luật háo vệ sở hữu trí tuệ của quá trình chuyển giao CÔỈĨÍỊ
Iiạhệ (Ịn ố c tê iliông qua doanh nghiệp liền cloanh với nước ngoài - Luận án TS
Luật học cùa lác giá Phạm Duy Nghĩa; Hoàn thiện pháp luật báo hộ quyền sở
hữu tri tuệ cua Việt Nam trong liến trình hội nhập quốc tế - Đề tài NCKH đặc
biệt. Đại học Quốc gia Hà Nội do PGS.TS. Nguyên Bá Diễn chủ trì (200ỉ -
2003)
Trong những công trinh nghiên cứu này, các tác giả thường tập trung
vào một số lĩnh vực, đối tượng cụ thế hoặc một khía cạnh nào đó của quyẻn
sớ hữu Irí tuệ, chứ chưa có công trình nào đề cập một cách tổng quan và hệ
thống về quyền tác giả có yếu tố nước ngoài trong điều kiện Việt Nam hội
nhâp quốc tế. Luận văn này lập trung nghiên cứu về vấn đề đó.
3. Mục đích nghiên cứu.
Mục đích của cté tài dược tiếp cận nhằm có được cái nhìn tổng quan vé
pháp luật vé quyền tác giả, thực trạng bảo hộ quyền tác giả có yếu tố nước
nạoài, tìm ra những bất cập trong các quy định của pháp luật và thực tiễn áp
dụng để đưa ra giải pháp nhàm hoàn thiện pháp luật trong nước vé lĩnh vực bảo

hộ quyền tác giả nói chung, quyền tác giả có yếu tố nước ngoài nói riêng, đáp
ứng đùi hói của quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.
4. Nội dung và phạm vi nghièn cứu.
Quyền tác giả và bảo hộ quyền tác giả là một vấn đề khá rộng, liên quan
đến nhiều lĩnh vực, nhiều ngành luật. Trons khuôn khổ để tài luận văn, tác giá
không cổ tham vọng đi sâu vào tùng nội đung, đối tượng cụ thể của quyền tác
giả mà chí nghiên cứu một cách tống quan về cơ sở lý luận và thực trạng của
quyền tác giá và bảo hộ quyền tác giả có yếu tố nước ngoài trong quá trình hội
nhập quốc tế của Việt Nam. Do đó, chúng tôi chủ yếu nghiên cứu các quy định
của pháp luậl hiện hành vé quyền tác giả trong Bộ luật Dán sự năm 1995, và các
vãn bán hướng dẫn thi hành, đổns thời kết hợp so sánh với các vãn bản pháp luật
4
(rước đó, với các quy định tại Hiệp định về quyền tác giả mà Việt Nam đã tham
gia, ký kếl và iuậl ban quyển tác giả của một số nước.
Với mục đích và phạm vi nghiên cứu như trên, luận văn sè tiếp cận và íàm
rõ những nội dung sau:
Thứ nhái, khái quát hoá nhằm có nhận thức chung về bảo hộ quvền tác
ẹiá trong tư pháp quốc tế.
Thứ hai, nghiên cứu và phân tích thực trạng pháp luật về quyền tác giả và
bộ máy thực thi quyền tác già ở Việt nam hiện nay ngoài nhằm làm rõ nguyên
nhân của những bất cập trong pháp luật về bảo hộ quyền tác giả có yếu tố nước
ngoài, cơ chế thực thi bảo hộ quyền tác giả ở Việt Nam.
Thử ba, trên cơ sớ những bất cập của pháp luật thực định và thực tiền áp
dụng, đề xuất tĩiộl' sỏ giái pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ
quyén tác giả đáp ứng quá trình hội nhập quốc tế tại Việt Nam.
5. Cơ sỏ lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Đề tài dược nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh vc Nhà nước và Pháp luật; các tư tưởng, quan điểm mang
tính nguyên tắc của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước Việt Nam về
hoàn thiện hộ thống pháp luật và xây dựng Nhà nước pháp quyền.

Bèn cạnh đó, tác giá còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như
phương pháp phân tích tống hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống


6. Nhũng dóng góp của dề tài.
Đáy là công trình nghiên ciru có tính chất tổng quan về quyền tác giả, là
công trình nghiên cứu đầu tiên trong khoa học pháp lv nước ta nghiên cứu một
cách hệ thống về quyền tác giả và báo hộ quyền tác giả có yếu tố nước ngoài.
Trên cư sở lý luận và thực tiền về quyền tác giả và thực thi quyền lác giả ở
Việi Nam hiện nay, luận vãn sẽ đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện quy
dinh của pháp luật Việt Nam về bao hộ quyền tác giả trong quá trình hội nhập
với quốc lê, góp phần thúc đấy quá trình tham gia Điều ước quốc tế cơ bản về
quyền tác giả, cũng như quá Irình gia nhập các tổ chức quốc tế cua Việt Nam.
Nhũng kết quá nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần tao ra một bức tranh
tống thổ về bảo hộ quycn tác giả trong Tư pháp quốc tế trong quá trình hội nhập
quốc tê ớ Việt Nam, đổns thời sẽ là tài liệu tham khảo cho cán bộ làm công tác
.5
nghiên cứu, giảng dạy cũng như các nhà hoạt động pháp luật thực tiễn trong lĩnh
vực sở hữu trí tuệ.
7. Cư cáu của luận vãn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được chia thành 3 chương:
Chương ì - Một sô' vấn àề chung vê bảo hộ quyển tác giá có yểu íô nước
ngoài
Chương 2- Hệ thống pháp luật và bộ máy thực thi quyền tác giá Củ yếu tổ
nước ngoài ủ Việt Nam hiện nay
Chương 3 - Một số phương hướng hoàn thiện Pháp luật về quyền tác già
ĩrong quá trình hội nhập quốc tê ở Việt Nam
6
CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỂ CHUNG vít BẢO HỘ QUYEN t á c g iả
CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
1.1 Khái quát về tác giả, quyền tác giả và việc bảo hộ quyển tác giả.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, kinh tế tri
Ihức, việc khuyên khích các hoạt động sáng tạo trí tuệ ngày càng có vai trò quan
trọng trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia. Thực tế cho thấy các thành quả
từ hoạt động lao động trí óc có ý nghĩa to lớn về linh thần cũng như vật chất, và từ
lâu thuật ngữ “tói
sản trí tuệ” đã trở nên thông dụng và khá phổ biến ở các quốc
gia, cũng như trong các hoạt động giao lưu kinh tế, văn hoá - xã hội mang tính chất
quốc tế.
Tài sản trí tuệ (còn gọi là sờ hữu trí tuệ) bao gồm hai lĩnh vực là quyền tác
giả và quyền sở hữu công nghiệp. Để có cái nhìn tổng quan về quyền tác giả -
một lĩnh vực mà ở Việt Nam còn khá mới mẻ và phức tạp so với các nước phát
triển khác, việc đưa ra khái niệm, nội dung cơ bản của quyền tác giả là cần Ihiết,
góp phần làm sáng tỏ khía cạnh lý luận và thực tiễn của vấn đề này.
1.1.1 Tác giả, chủ sở hữu tác phẩm.
Tác giả.
Có thể nói, một trong những nội dung đặc biệt quan trọng khi đề cập đến
lác giả, quyền tác giả là cẩn phải hiểu rô khái niệm “tác giả” là gì? trôn cơ sở đó
mới có thể ghi nhận và bào vệ các quyền của tác giả. Thực tế có khá nhiều luận
điểm, ý kiến xung quanh vấn đề này bời như đã đề cập ử trên, đây là một lĩnh vực
mới và khá phức tạp ở Việt Nam, vì thế cho đến nay chúng ta cũng chưa đưa ra
được khái niệm chính ihức và chuẩn xác về thuật ngữ này.
Tác giả - người sáng tạo ra tác phẩm, theo pháp luật Nhật Bản là “là một [ự
nhiên nhân ihực sự đã tạo ra một lác phẩm và trở thành người sỏ hữu vé quyển
tác giả đối với tác phẩm dó ngay sau khi đã hoàn thành tác phẩm đỏ ” [51
Theo giải thích của từ diển Tiếng Việt năm 1996, tác giả là “người sáng tạo
ra một lác phẩm văn học, nghệ thuật hoặc khoa học nào đó” [52.tr 851 ]
7

Tác giả, theo qui định cùa pháp luật hiện hành là “người trực liếp sáng tạo
loàn bộ hoặc một phẩn tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học” (Khoản 1 Điều
745 BLDS 1995).
Từ những giải thích, định nghĩa Irên có thể nhận thấy, xét về nguồn gốc,
tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra một sản phẩm trí tuệ, là “cha sinh, mẹ đẻ"
của tác phẩm thuộc các lĩnh vực văn học, nghệ thuật hoặc khoa học. Khác với các
lao động sản xuất đưn thuần khác, đặc Irưng của lao động trí óc này là tạo ra sản
phẩm trí luệ và thể hiện nó một cách hữu hình.
Một người được coi là tác giả của một tác phẩm khi tác phẩm đó được hình
Ihành dưới một hình thức vật chất nhất định và phải “cớ lính sáng tạo”, và được
người này sáng tạo “trực tiếp” . Tính “trực tiếp” ở dây có thể hiểu là lính nguyên
gốc của tác phẩm do chính tác giả đã sáng tạo ra, chứ không phải là sự sao chép
từ một lác phẩm nào đó của một người nào đó. Tác phẩm phải là thành quả của
quá trình lao động trí óc của chính bản thân người tạo ra nó - tác giả. Tính “sáng
tạo” đòi hỏi tác phẩm đó phải có tính mới hoặc về ý tưởng hoặc về hình ihức mà
nó thể hiện. Có như vậy, người này mới được coi là lác giả - là chủ sở hữu của lác
phẩm đó và có đầy đủ các quyền của một sở hữu chủ đối với tác phẩm của mình,
mà theo qui định cùa pháp luật đó là quyén tác giả.
Như vậy, cổ thể hiểu lác giả là người trực tiếp sáng tạo ra mộl tác phẩm trí
Uiệ và thể hiện nó dưứi một dạng vật chất nhất định thuộc một trong các thể loại
văn học, nghệ thuật hoặc khoa học.
Tác giả phái sinh. Thực tô' sinh động của đời sống văn hoá xã hội cho thấy
có những tác phẩm được sáng tạo khổng xuất phát lừ ý tưửng đầu tiên mà được
hình thành lừ một lác phẩm nguyôn gốc nào dó. Những người sáng tạo ra loại tác
phẩm này được coi là tác giả phái sinh - tức là những người mà hoại động trí luệ
của họ đổu dựa trên tác phẩm gốc của tác giả khác đổ tạo ra một tác phẩm mới.
Tuy nhiên, tác phẩm phái sinh được hình thành khống phải là sự sao chép lác
phẩm gốc mà tác phẩm phái sinh này phải đáp ứng được tính mới, lính sáng tạo
vổ hình thức, thì người sáng tạo tác phẩm đó mới được coi là tác giả của lác phẩm
phái sinh. Các quyén của các tác giả phái sinh không ảnh hưởng dến quyén tác

giả của tác phẩm gốc, nhưng để thực hiên hoạt động sáng lạo của mình, những
người này phải tôn trọng bản quyền của tác giả đối với tác phẩm gốc.
Tác giả phái sinh gồm có:
Dịch giả là người dịch tác phẩm lừ ngồn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Với
sự phát triển mạnh mẽ của quan hệ quốc tế không những vé kinh tế mà cả Irong
8
lĩnh vực văn hoá - nghê thuật, vai trò của các dịch giả rất cần thiết và quan trọng,
nó góp phần thúc đẩy môi quan hệ giao lưu giữa các quốc gia Irôn ihế giới irong
việc tìm hiểu bản sắc văn hoá của mỗi nước cũng như thúc đẩy quá trình tiếp cận
và áp dụng các sản phẩm khoa học, kỹ thuật, công nghệ của các nước khác. Do
đó, pháp luật các nước đều ghi nhận và bảo vệ lao động sáng tạo của dịch giả đối
với lác phẩm dịch.
Người phóng tác, cải biên, chuyển thể tác phẩm', như đã đề cập ờ trên tác
giả là người sáng tạo ra tác phẩm và thể hiôn tác phẩm đó dưới một hình thức vật
chấl nhất định và tác phẩm này phải có tính mới, tính sáng tạo. Tuy nhiên, tính
mới, lính sáng lạo ở đây không nhất thiết và bắl buộc là mới, là sáng tạo ở ý
tường mà có thể chỉ ờ hình thức, phương thức thể hiện ý tưởng đó. Thực tế cho
thấy có rất nhiều tác phẩm được sản sinh dựa trôn một tác phẩm gốc khác (tác
phẩm gốc là nguổn cảm hứng cho tác phẩm sau), tác phẩm phái sinh này được
thừa nhận là một tác phẩm sáng lạo của một tác giả phái sinh. Do đó, những
người phóng tác, cải biên, chuyển thể tác phẩm từ loại hình này sang loại hình
khác được thừa nhận là tác già của loại hình tác phẩm mới này. V í dụ, một bộ
phim được chuyển thể từ một tác phẩm văn học; một bài thơ được chuyổn thể
sang một tác phẩm âm nhạc; một giai điệu âm nhạc cũ dược cải biên sang một thể
loại nhạc mới, Như vậy, những lao động sáng tạo của các tác giả phái sinh đã
góp phẩn làm phong phú, đa dạng các loại hình tác phẩm, làm cho đời sống tinh
thần của con người thêm sinh động, giàu màu sắc.
Người biên soạn, chú giải, tuyển chọn tác phẩm. Biôn soạn, tuyển chọn tác
phẩm của người khác thành tác phẩm có tính sáng tạo là một hoại động có (inh
tổng hợp lựa chọn, sắp xếp tư liệu nhầm giúp người đọc có được cái nhìn tổng

quan, hộ thống vé một lĩnh vực nào đó. Tuy nhiên, vỉộc biên soạn, tuyển chọn tác
phẩm không chỉ dừng lại ở đó, mà viộc biên soạn, tuyển chọn tác phẩm phải có lính
sáng tạo, có như vây mới được coi là tác giả theo đúng nghĩa. Tính sáng tạo của
người biôn soạn, tuyển chọn tác phẩm đòi hỏi người làm công tác này phải là người
có trình độ, am hiểu sáu rộng về lĩnh vực mà tác phẩm thể hiện để có sự so sánh
đối chiếu và chọn lọc tác phẩm điển hình giữa vô vàn các tác phẩm khác. Chú giải
là việc làm rõ nghĩa của một số từ, câu, đoạn vãn về một địa danh đưực thể hiện
trcn một tác phẩm nào đó nhằm giúp người đọc hiểu rõ được ý tưởng của tác giả.
G ) thể hiổu tác giả phái sinh là người tạo ra một tác phẩm mới có tính sáng
tạo dựa trên các ý iưỏng của tác phẩm gốc đã có sẵn và khi thực hiện hoạt động
sáng tạo trí tuệ này họ phải lôn trọng các quyền của tác giả và luàn iheo các qui
định của pháp luậl về bản quyền.
9
Đồng tác giả. Tác giả có thể sáng tạo toàn bộ hoặc một phần lác phẩm văn
học, nghệ thuật, khoa học bởi lẽ cảm hứng sáng tạo nhiều khi không phải từ một
người, mà có thể từ một nhóm người. Hiện tượng có lì nhất hai người cùng sáng
lạo ra một lác phẩm được gọi là đổng tác giả của tác phẩm đó, và đồng thời là chủ
sở hữu chung của lác phẩm đó, trừ trường hợp việc sáng tạo lác phẩm íà do thực
hiện một hơp đổng, hoặc thực hiện nhiệm vụ. Các đồng tác giả có các quyền lợi
tương ứng với phần tác phẩm mà mồi người đã tạo ra.
Chủ sở hữu tác phẩm (chủ sờ hữu quyền tác giả): Để khuyến khích các
hoạt động sáng tạo trí tuệ, cá nhàn có (oàn quyền tự do sáng tạo các tác phẩm văn
học, nghệ thuật, khoa học phù hợp với pháp luật và quy chuẩn đạo đức xã hội.
Thông thường, một người sáng tạo ra một tác phẩm là tác giả của tác phẩm đó và
đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm, tuy nhiên cũng có những trường hợp tác giả
không đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm. Đó là các trường hợp:
Thứ nhất, việc lạo ra một lác phẩm để hoàn thành nghĩa vụ trong hợp đồng
với tổ chức, cá nhãn khác. Các tổ chức, cá nhân có quyền thuê một người khác
sáng tạo mội tác phẩm cho riêng mình dưới hình thức giao kết hợp đổng sáng lạo
tác phẩm. Và đo vậy tổ chức, cá nhân này chính là chủ sở hữu của tác phẩm;

Thứ hai, tắc phẩm được hình thành là nhiệm vụ được giao đối với người
này. Thực tế cho thấy, thông thường các trường đại học, viện nghiên cứu, học
viện, nhà xuất bản có các hoạt động liôn quan đến các sản phẩm trí luê, và
những cơ quan, lổ chức này có quyền giao việc sáng tạo một lác phẩm nào đó cho
tác giả như là mội nhiệm vụ chuycn môn của người này.
Trong hai irường hợp trên, cơ quan, tổ chức, cá nhân giao viộc hoặc người
giao kết họp đồng sáng tạo tác phẩm với tác giả mới là chủ sở hữu thực sự của tác
phẩm. Và tuy Ihco thoả thuận giữa hai bên trong hợp đồng sáng tạo tác phẩm mà
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thổ là chủ sờ hữu toàn bộ hoặc một phần tác phẩm.
Thứ ba, chủ sờ hữu lác phẩm do được chuyển giao các quyền sờ hữu tác
phẩm. Là trường hợp chuyển dịch một số quyổn nhân thân và các quyền tài sản từ
chủ sở hữu tác phẩm cho một cá nhân, tổ chức khác dưới hình thức hợp đổng
chuyển giao quyền sở hữu tác phẩm.
Thứ tư, chủ sở hữu tác phẩm do được hưởng thừa kế quyên lác giả, trong
(rường hợp tác giả này đồng thời là chủ sờ hữu tác phẩm. Các quyển đối với tác
phẩm của người được hưởng thừa kế phát sinh sau sự kiện tác giả, chủ sở hữu tác
phẩm chết và để lại quyền tác giả (bao gồm mộl số quyền nhân thân và quyền tài
sản) cho người này. Tuy nhiôn, thừa kế quyền tác giả chỉ dược phép dịch chuyổn
10
một số quyền nhân thân nhâì định. Bởi lẽ các quyển nhân thân như quyền đứng
tôn tác phẩm, đặt tên cho tác phẩm luôn gắn liền với lác giả. V í dự, lác giả của
cuốn tiểu thuyết “Cuốn theo chiều gió” sau khi chết đã dể lại thừa kế quyền tác giả
cho cháu gái của mình và người cháu này có quyền viết tiếp câu chuyện, có quyền
được hưởng các quyền tài sản (vật chất) do việc sử dụng cuốn sách đcm lại, nhưng
việc đật tên, đứng lên tác phẩm gốc vẫn thuộc vê tác giả ban đầu - người đã viết
cuốn tiểu thuyết này.
Đặc thù của quyền nhân thân là luôn gắn liền với tác giả, nói đến tác phẩm
là nói đến tác giả, mộl tác giả không đồng thời là chủ sờ hữu tác phẩm vẫn có đầy
đủ các quyồn nhân thân đối với tác phẩm mà mình sáng tạo ra, do đó chủ sở hữu
tác phẩm không đổng thời là tác giả có các quyền tài sản, nhưng chỉ có một sổ'

quyền nhân ihân nhất định như quyén công bố, phổ biến, cho phcp hoặc không
cho phép người khác sử dụng tác phẩm của mình (theo pháp luật Việt Nam).
Như vậy, có thổ hiểu chủ sở hữu tác phẩm là người không trực tiếp tạo ra tác
phẩm nhưng có một số quyền (chủ yếu là quyền vật chất) Ihuộc bàn quyền tấc giả,
và quyền này hình thành trên cư sở đổng giao việc, hợp đồng chuyển giao các
quyổn sở hữu tác phẩm, hoặc do được thừa kế quyền sở hữu lác phẩm.
Thực tế cho thấy, tác phẩm - tài sản trí tuệ - dối tượng đặc biệt trong các
giao dịch dân sự (mua, bán, tặng, cho, thừa kế), với tính chất là mộl tài sản phi vật
chất, các tác phẩm trí tuệ rất dễ bị người khác sử dụng nôn rất cần được pháp luật
hảo vệ. V ì vậy, pháp luật quốc eia và quốc tế đã xây dựng hệ thống quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vục tác giả và quyền sở hữu
tác phẩm, đó chính là quyền tác giả.
Vậy tác giả có những quyền gì đối với tác phẩm do mình tạo ra? phạm vi
và đối tượng bảo hộ của quyén này được hiểu như thế nào?
1.1.2 Quyền tác giả và bảo hộ quyên tác giả.
Dựa trên nguyên tắc tác giả có quyền hưởng thụ thành quả lao động của
mình, và cũng để khuyến khích vồ tinh thần cũng như vẻ kinh tế để có những
sáng tạo mới đóng góp vào việc thúc đẩy xã hội tiến bộ, các quốc gia (đặc biệt là
ở các nước phát triển) trong hệ thống pháp luật của minh đều xây dựng các quy
phạm pháp luật về quyền tác giả (còn gọi là luật bản quyền).
Là một nhánh của hô thống pháp luật của quốc gia, luật bản quyền diều
chỉnh các quan hệ phái sinh trong hoạt động sáng tạo tác phẩm văn học, nghệ thuật,
khoa học và nhằm bảo vê quyén lợi của tác giả - người sản sinh ra các sản phẩm trí
11
tuệ. Như vậy có thể hiểu bảo hộ quyền tác giả là việc bảo vệ các quyền và lợi ích hựp
pháp cùa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả chống lại mọi hành vi xâm phạm.
Quyồn lác giả phát sinh từ ihời điổm một tác phẩm được hình thành dưới
một dạng vật chất nhất định, tức là nguy sau khi hoạt động sáng tạo trí luệ được
tạo ra và thể hiện dưới dạng tác phẩm hữu hình đã khẳng định quyền lác giả của
người sáng tạo ra sản phẩm trí tuệ đó, quyển này phái sinh không phụ thuộc vào

việc tác phẩm đã được công bố hay chưa, cũng như không phụ thuộc vào việc có
hay không đăng ký bảo hộ. Việc đăng ký bảo hộ quyền tác giả chỉ là căn cứ để
các cơ quan tư pháp giải quyêì khi có tranh chấp vé quyền tác giả. Do đó, việc
đăng ký bản quyền tác giả không phải là nghĩa vụ bắt buộc đối với tác giả mà là
quyền lợi của người này để bảo vê cho đứa con tinh thần của mình, chống lại các
hành vi xâm phạm bản quyền.
* Các nội dung của quyền tác giả.
Như đã đề cập b trôn, mục tiêu chính của luật quyền tác giả là khuyến
khích tác giả tạo ra các tác phẩm bẳng cách bảo hộ các lợi ích tinh thần và kinh tế
của tác giả. Hầu hết các nước đều ghi nhận và bảo vệ các lợi ích này cho tác giả,
ví dụ: pháp luật Nhật bản quy định mục đích của luật bản quyền là nhằm “bảo
đảm cho tác giả quyền về tinh thần và quyền tác giả (quyển về kinh tê')". Ị 5]
Quyền tác giả theo định nghĩa của Từ điển Bách khoa Việt Nam là “quyền
lợi vật chất và tinh ihần mà tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học kĩ thuật đem
lại cho người trực tiếp sáng tạo ra /ỉớ”.[ 53.tr 640]
Pháp luật hiện hành của Việt Nam tuy không định nghĩa trực tiếp về khái
niệm quyền tác giả, nhưng theo Điồu 750 và Điêu 751 BLDS có Ihổ hiổu quyẻn
tác giả bao gồm quyén nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm.
Như vậy, quyền tác giả gổm có hai nội dung chính là quyén nhân thân (linh
thần) và quyền tài sản (vật chất). Tuy nhiên, cũng có nước không ghi nhận và chú
trọng vào quyồn nhân thán của tác giả (Luật Bản quyển của úc không qui định
quyền nhân thân cho tác giả, pháp luật của Anh, Mỹ gần đây mới ghi nhận quyền
này), hoặc có một số nước không có sự phân biệt hai nội dung của quyổn tác giả.
Sở dĩ cố sự khác biệt như vậy là do xuất phát từ cách tiếp cận khái niệm quyền tác
giả của mỗi nước không giống nhau. Nhữne> nước như Anh Mỹ, gọi đó là luật bản
quyền - Copyright theo nghĩa Bản quyền là độc quyền được tái tạo một tác phẩm
của tác giả hằng bất kỳ biểu hiệu hữu hình nào. Với cách gọi như vậy đã hàm
chứa mục đích của quyển này - bản quyén về cho phép sự sao chép tác phẩm. Do
12
đó, ở các nước này, về lĩnh vực quyền lác giả, pháp luậl chủ yếu dồ cập đốn các

quyền tài sản - quyền độc quyền của tác giả dối với việc cho phép người khác sử
dụng lác phẩm của inình; một số nước khác gọi đó là luật quyền tác giả -
Author’s right với nghĩa đầy đủ của quyền dân sự, tức là bao gồm quyền nhân
thân và quyền tài sản. Khái niệm quyền tác giả ở Việt Nam đưực tiếp cận dưới
góc độ này.
Quyển nhân thán đối với tác phẩm luôn gắn liồn với tác giả, theo đó các
quyền nhân thân thuộc quyền tác giả gồm có: Quyền đặt tên cho tác phẩm;
Quyền đứng tên tác phẩm; Quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm; và theo pháp
luật Việt Nam, ngoài những quyền trốn, quyền nhân thân của tác giả còn bao gồm
quyền công bố, phổ biến hoặc cho người khác công bố, phổ biến tác phẩm; quyền
cho hoặc không cho người khác sử dụng tác phẩm của mình (điểm c, d Khoản 1
Điều 751 BLDS).
Chúng ta đều biết mỗi tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học được hình
thành là kết quả của một quá trình sáng tạo, của lao động trí tuộ của tác giả, do đỏ
khi “đứa con tinh thần” của mình đã thành hình, tác giả đương nhiên có quyền
đặt tên cho tác phẩm đó. Việc ghi nhận quyền đặt tên cho tác phẩm không chỉ
nhằm khẳng định quyền nhân thân của tác giả đối với lác phẩm dó mà còn giúp
phân biệt giữa các tác phẩm với nhau.
Về nguyên tắc, một tác phẩm được hình thành luôn gắn lién với tác giả đã
sản sinh ra nó, và người này có toàn quyền đứng lôn ihật hoặc bút danh đối với
tác phẩm này. Như vậy, việc đặt tên cho tác phẩm là nhằm phân biệt các tác
phẩm, còn việc đúng tên lác giả trên tác phẩm nhằm cá biệt hoá giữa các tác giả
với nhau. Nội dung của quyền nhân thân này đặc biệt có ý nghĩa và quan trọng
khi có tranh chấp về quyền tác giả đối với tác phẩm, Ĩ1Ó là căn cứ để CƯ quan có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp xác định ai là người đã tạo ra tác phẩm.
Nhằm chống lại việc Ihay đổi, sửa chữa, hay bất kỳ hành vi nào làm sai
Iộch nội dung tác phẩm khi được đưa ra sử dụng phổ biến, tác giả có quyền bảo vệ
sự loàn vẹn của tác phẩm, có quyền cho phép hay không cho phcp người khác sửa
đổi nội dung tác phẩm. Mục đích của việc ghi nhận quyền này là nhằm bảo vệ
ihanh danh của tác giả. Bởi lẽ, khi thực hiện hoạt động lao động sáng tạo này, tác

giả muốn thể hiện ý tưởng của mình vào trong tác phẩm, nhưng tư duy của mỗi
người là không đổng nhất, và không phải bất cứ ai cũng hiổu đúng ý ìưởng đã
được chuyển tải trong tác phẩm, do đó có thể có những cách hiổu khác nhau dẫn
đến việc người ta dỗ dàng thay đổi, sửa chữa nội dung của tác phẩm iheo ý mà họ
cho là đúng, là chuẩn xác. Quy định này là nhằm ngăn chặn hành vi trôn.
13
Một tác phẩm khi được hình thành có được đem vào sử dụng hay không
hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của tác giả. Tức là quyền của tác giả đối với việc
có đcm công bố, phổ biến sản phẩm trí tuệ hay không. Thông thường, các tác giả
sau khi đón đứa con tinh thần chào đời đéu mong muốn nó được xã hội đón nhận,
được phổ biến rộng rãi trong công chúng. Hơn thế, việc phổ biến tác phẩm còn
mang lại cho tác giả những lợi ích vật chất nhất định, dó là khoản nhuận bút hoặc
thù lao của viộc tác phẩm được sử dụng. Vì thế, pháp luật một số nước qui định
các quyền công bố, phổ biến tác phẩm thuộc phạm trù quyền tài sản của tác giả
(LBQ Hoa Kỳ).
Với việc qui định tác giả có loàn quyền quyết định đưa tác phẩm ra sử dụng
rộng rãi trong công chúns, do đó khi một người muốn sử dụng tác phẩm phải xin
phép tác giả về việc sử dụng tác phẩm đó. Sự xin phép này thường thổ hiện dưới
hình thức hợp đổng sử dạng tác phẩm và tuỳ thuộc vào sự thoả thuận giữa tác giả
và người sử dụng mà người này có thế sử dụng toàn bộ hoặc một phần lác phẩm.
Các quyền nhấn thán luồn gắn liền với tác giả dù họ có sờ hữu các quyẻn
kinh tế hay không. Tức là trone trường hợp tác giả không đổng thời là chủ sở hữu
tác phẩm thì pháp luật vẫn qui định các quyền nhân thàn thuộc về người sáng tạo
tác phẩm.
Tóm lại, quyền nhân thân cùa tác giả theo Điều 6 bis Cồng ước Beme qui
định là các quyền “độc ỉập với các quyền kinh tế của lác giả, và cả sau khỉ quyền
này đã được chuyển nhượng, tác giả vẫn giữ nguyên quyền được đòi thừa nhận
mình ỉà tác già của tác phẩm và phản đối bất kỳ sự xuyên tạc, cắt xén hay sửa
đổi hoặc những vi phạm khác đối với tác phẩm có thể làm phương hại đến danh
dự và tiếng tâm tác giả". í 13. Ư12-13]

Quyền tài sản.
Bên cạnh các lợi ích tinh thần trôn đây, pháp luậi các nước đều quyđịnh tác
giả có quyền hưởng các lọi ích vật chất từ thành quả lao động sáng tạo trí tuệ của
mình. Theo đó, quyền tài sản của tác giả được quy định gổm những quyền sau:
Một là, quyền hưởng nhuận bút - quyền tài sản phổ biến của tác giả. Cũng
như các quyền tài sản khác, quyền hưừng nhuận bút nhằm mục đích khuyến khích
về vật chất cho tác giả trong các hoại động sáng tạo trí tuệ. về nội dung này, Nhà
nước Việt Nam đã ban hành một văn bản quy định về tiền nhuận hút cho tác giả,
đó ià Nghị định số 59/HĐBT ngày 5/6/1989 của Hội đồng bộ trưởng (nay là
Chính phủ) về chế độ nhuận búi đối với các lác phẩm chính trị - xã hội, văn hoá -
giáo dục, văn học - nghệ thuật, khoa học - kỹ thuật.
14
Ị ỉ ai là, quyền được hưởng thừ lao khi tác phẩm được sử dụng. Ngoài việc
dược hưởng nhuận búi, tác giả có quyén hường một khoán chi phí nhất định (thù
lao) khi tác phẩm của mình được sử dụng dưới bất kỳ hình thức nào. Tuỳ theo
từng loại hình mà tác phẩm đưực sử dụng dưới hình thức xuất bản, tái bản, trưng
bày, triển lãm, biểu diỗn, phát thanh, truyổn hình, ghi âm, ghi hình, chụp ảnh
Trên cơ sở hợp đổng sử dụng tác phẩm như thế nào (sử dụng toàn bộ hay một
phần tác phẩm) mà những người sử dụng (dịch giả, người phóng tác, cải biôn,
chuyển thể, cho thuê ) có nghĩa vụ phải trả cho tác giả đổng Ihời là chủ sở hữu
tác phẩm một khoản lợi ích vật chất như đã thoả Ihuận tại hợp dồng.
Ba là, quyền nhận giải thưởng. Nhằm khuyến khích sự sáng tạo cá nhân,
các quốc gia thường tổ chức Irao giải thưởng hàng năm cho các tác phẩm văn học,
nghệ thuật, khoa học, theo đó tác giả được quyền nhận giải thưởng đối với tác
phẩm mà mình đã sáng tạo ra. Tuy nhiên, Pháp luật qui định chỉ trao giải thưởng
cho các tác phẩm thuộc đối tượng được Nhà nước bảo hộ, những lác phẩm có nội
dung chống lại Nhà nước, đi ngược lợi ích quốc gia, hoặc vi phạm các chuẩn mực
xã hội không được thừa nhận và bảo hộ thì đương nhiôn không dược quyền nhận
giải thưởng.
Như vậy, các quyền nhân ihân và quyền tài sản của lác giả đồng thời là chủ

sở hữu tác phẩm tương đối rộng so với quyén của tác giả không đồng thời là chủ
sở hCru tác phẩm hoặc quyền của chủ sờ hữu tác phẩm không đồng thời là tác giả.
Ngoài ra, tác giả, chủ sở hữu tác phẩm còn có các quyền khác như: quyền
yôu cầu được bảo hộ khi bị người khác xâm phạm quyền tác giả; quyền buộc
người vi phạm phải chấm đứi hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai và
bổi thườne thiệt hại; quyổn đăng ký và nộp đơn yôu cầu bảo hộ quyền lác giả,
quyền sở hữu tác phẩm; quyền chuyển giao, ihừa kế quyền tác giả.
Tóm lại, quyền tác giả là các quyén lợi về vật chất và tinh thần mà tác giả
có được từ hoạt động sáng tạo ra các tác phẩm trí tuệ được Nhà nước ghi nhận và
bảo vệ.
* Phạm vi, đối tượng và thời hạn bảo hộ quyền tác giả.
Nhu dã đề cập ờ trên, các tác phẩm được hình thành là một tài sản trí tuệ,
tài sản phi vật chất (tài sản tinh thần) của con người, vì vậy rất dề bị người khác
sử dụng, do dó nếu khổng có cơ chế bảo vệ rất khó kiểm soát hành vi vi phạm các
quyền của tác giả - người sản sinh ra tác phẩm. V ì vậy, pháp luật các quốc gia và
pháp luật quốc tế khôn£ chỉ ghi nhận các quyền của lác giả, mà còn quy định cơ
chế bảo hộ quyền tác giả. Đó là những quy định về những nội dung sau:
15
Về đối tượng bảo hộ quyền tác giả. Một sô nước qui định đối tượng bảo hộ
quyển tác giả gồm có 4 nhóm tác phẩm cơ bản (LBQ Anh quốc); có nước qui
định gồm 8 đối tượng bảo hộ (LBQ Hoa Kỳ), có nước liệt kô 14 đối tượng được
bảo hộ bản quyền (BLDS). Nhìn chung, tác phẩm được bảo hộ bản quyền ià các
tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học được thổ hiện dưới bất kỳ dạng vật chất
nào, lừ các dạng chữ viết chữ đến các tác phẩm hội hoạ (tranh, đồ hoạ, điêu khắc),
âm nhạc, sân khấu (kịch câm, múa baỉô), truyền hình, truyền thanh (phim ảnh và
các tác phẩm nghe nhìn khác ), các bản ehi âm, phẩn mềm máy tính, và các tác
phẩm phái sinh từ những loại hình này Pháp luật của nhiều nước không hạn chế
thổ loại hoặc hình thức của tác phẩm VI tác giả vẫn tiếp tục sáng tác dưới nhiều
hình thức khác nhau để Ihể hiện ý tường cùa bản thân. [20.tr 31 ]
Pháp luật các nước cũng qui định một số loại hình tác phẩm không được

bảo hộ quyền tác giả, đó là những tác phẩm có nội dung vi phạm pháp luật, di
ngược lại lợi ích Nhà nước, lợi ích chung của xã hội.
Vê phạm vi bảo hộ quyền tác giả là các tác phẩm thuộc các lĩnh vực văn
học, nghệ thuật, khoa học dược thể hiện dưói một dạng vật chất nào đó.
Sử dụng hợp ỉý hay còn gọi là giới hạn bảo hộ.
Phần lớn các nước đéu ghi nhận và bảo hộ quyền cùa tác giả đối với những
sản phẩm trí tuệ hữu hình, mà không bảo hộ ý tưởng của tác giả. Bởi nếu bảo hộ ý
lường SC hạn chế tính sáng tạo của công dân, mà mục đích chính của luật bản
quyền là khuyến khích con người tạo ra được những tác phẩm mới.
Như vậy, một người có thể sử ciụng ý tưởng của tác phẩm có sẩn để tạo ra
lác phẩm khác (tức là ý tường của tác phẩm gốc đã dược ihổ hiện dưới rnộl hình
thức khác) mà không bị coi là xâm phạm quyền tác giả của tác giả đối với tác
phẩm gốc. Tuy nhiên, việc sử dụng ý tưởng của lác phẩm gốc phải nhằm tạo ra
một tác phẩm có tính mới, tính sáng tạo và phải luân theo một thủ íục luật định.
Trong trường hợp này, tính mới, tính sáng tạo có thể được thể hiên ở viộc lựa
chọn, sắp xếp từ ngữ, nốt nhạc, màu sắc Bất cứ mộl hành vi sao chép, chiếm
đoạl và sử dụng hình thức đã được thể hiện ở một lác phẩm nguycn gốc mà không
được phép của lác giả đều là hành vi vi phạm luật bản quyén và phải chịu những
biện pháp xử phạt và chế lài tương ứng.
Để xác định một trường hợp được coi là “sử dụng hợp lý” người ta xem xét
việc sử dụng đó vổ: mục đích và đặc diổm của việc sử dụng; bản chất của tác
phẩm được bảo hộ; số lượng và thực chất của phần được sử dụng trong tác phẩm
được hảo hộ như là một tổng thổ; và ảnh hưởng của việc sử dụng dối với tiềm
16
năng thị trường hoặc đối với giá trị của tác phẩm được bảo hộ. Một số nước quí
định rõ số lượng của phần được sử dụng trong tác phẩm (số từ, đoạn vãn, số
trang ) mà nếu sử dụng quá phần được qui định thì bị coi là xâm phạm bản
quyền. (V í dụ, LBQ Anh quốc chì cho phép người đọc copy tới 10% nhưng không
được quá một chương của một cuốn sách)
Pháp luật quyền tác giả không bảo hộ những thòng tin chứa trong lác

phẩm. Qui định như vậy là hợp lý, bởi cho dù thống tin đó là do tác giả lạo ra, cho
dù tác phẩm đó chứa những thồng tin về một phát kiến khoa học thì cũng không
thể ngăn cấm người khác sừ dụng nó. vể nội dung này, pháp luật quốc tố lại Điều
2.8 Công ước Beme bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật cũng qui định
iưoTìg tự “việc bảo hộ theo Công ước này sẽ không áp dụng cho những ùn tức thời
sự hay vụ việc vụn vặt chỉ mang tính chấl thông lin báo ch í”.
Vê' thời hạn bảo hộ quyền tác giả là khoảng thời gian mà pháp luật qui
định nhằm bảo vệ quyén độc quyền của tác giả đối với tác phẩm do mình trực liếp
sáng tạo, trong khoảng thời gian này bất kỳ ai muốn sử đụng tác phẩm phải xin
phép và được sự đồng ý của tác giả, chù sở hữu tác phẩm mới được sử dụng tác
phẩm đó. Tuỳ thuộc vào từng loại đối tượng được bảo hộ mà pháp luật của mỗi
nước qui định mức thời gian phù hợp, có nước qui định dài hơn, có nước qui định
Ihời hạn ngắn hơn, nhưng nhìn chung pháp luật các nước đều qui định ihời hạn
bảo hộ lác phẩm viết là cả cuộc đời tác giả và 50 nãm tiếp theo sau khi tác giả
chếl. Thời hạn này chủ yếu áp dụng với các quyền tài sản của tác giả, còn quyền
nhân thân của tác giả với đặc trưng luôn gắn với tác giả nốn các nước thường qui
định thời hạn bảo hộ là vô hạn.
* Điều kiện được bảo hộ bản quyền.
Tác phẩm là sản phẩm của một quá trình lao dộng trí tuộ của tác giả luôn
luôn thể hiện ý tưởng của tác giả. Với đặc trưng là một tài sản không định hình,
một tác phẩm sau khi được “bộc lộ công khai có thể lan truyền vô giới hạn tới
mức không thể kiểm soát được” [45. trl6J, do đó để dược pháp luật bảo hộ, chống
lại các hành vi xâm phạm, tác phẩm phải được thể hiện dưới một hình thức vật
chất nhất định. Tức là, ý tưởng của tác giả phải được diễn dạt, phải thể hiện trên
một tác phẩm như một kếl quả của hoạt động trí tuộ của người này. Cụ thể, điéu
kiện bảo hộ của các tác phẩm được qui định như sau:
Thứ nhất, tác phẩm phải là một sản phẩm trí tuệ dã được định hình. Tức là
được ihể hiện dưới một dạng vật chất nhất định. Tuy nhiên, điều này cũng khó
xác định đối với một số loại hình tác phẩm nghệ thuật, như việc xem xét khía
17

cạnh nào của mội buổi biổu diễn của một vờ sân khấu được coi là thổ hiện dưới
dạng hữu hình. Tức là sẽ khó khăn trong việc bảo hộ các lác phẩm ứng khẩu (đặc
biệt là trong lĩnh vực âm nhạc, hài phát biổu, các bài Ihơ ứng biến, kịch ). V í dụ,
dối với việc ghi âm buổi biểu diễn thì quyền đối với bản ghi đó phải là ihuôc về
người tạo ra bản ghi chứ không thuộc về tác phẩm.
Thứ hai, /ác phẩm là kết quả lao động trí tuệ nguyên gốc. Các ý iưởng
Irong Lác phẩm không cần mới nhưng hình thức thể hiện các ý tưởng phải là kết
quả quá trình lao động sáng tạo trực tiếp của tác giả, tức là ihành quả lao động
của chính tác giả, không sao chép lừ tác phẩm của người khác. Công ước Beme
khống qui định nhưng pháp luật các nước trực tiếp hay gián tiếp đều khẳng định
Luậl Bản quyổn chỉ bảo hộ các tác phẩm có lính nguyên gốc. Bởi vậy có thể nói
tính nguyên gốc là yếu tố then chốt đối với bản quyền, và bảo hộ bản quyền
không lính đến chất lượng hoặc giá trị lác phẩm
Để một tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả còn có những qui định vé tác
giả, vổ nơi sáng tạo, công bố tác phẩm. Đối với việc đãng kỷ tác phẩm, thực tế
cho thấy, pháp luật các nước đều thừa nhận bản quyền phát sinh ngay từ khi lác
phẩm được tạo ra và được thể hiện dưới một dạng vật chất nhất định, khồng cần
đãng ký để xác lập quyền như quyền sở hữu công nghiệp, tức là bảo hộ tự động.
Vổ nội dung này, LBQ Nhật Bản ghi nhân việc hưởng các quyền lợi của tác giả
“không qua một thủ tục nào chẳng hạn như đăng kỷ, khi tác phẩm được sáng tạo
ra, tác giả sẽ lự động được hưởng các quyền này”. [5] Pháp luật Việt Nam cũng
quy định tương tự “Quyền tác giả phát sinh từ thời điểm lác phẩm được sáng lạo
dưới hỉnh thức nhất định” (Điều 754 BLDS).
Như vậy, việc đăng ký bản quyền là thuộc vé quyền lựa chọn của tác giả
chứ không phải là nghĩa vụ bắt buộc đối với họ. Tuy nhiên, pháp luậl khuyến
khích các tác giả, chủ sở hữu tác phẩm đăng ký tác phẩm lại cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền vì khi có tranh chấp phát sinh thì giấy chứng nhận đăng ký bản quyền
là điều kiện tiên quyết đổ bảo vệ quyền lợi cho tác giả, chủ sở hữu tác phẩm, đồng
thời đó cũng là bằng chứng sơ khởi cho việc áp dụng các biên pháp xử lý hành vi
vi phạm bản quy ồn.

Vi phạm quyền tác giả và các hình thức xử lý.
Về nguyên tắc, các nước đều qui dịnh bất kỳ người nào thực hiện hành vi vi
phạm một trons các quyền thuộc tác phẩm có bản quyền có thể bị kiện vì vi phạm
bản quyén. Có 2 loại hành vi vi phạm quyền tác giả là vi phạm trực tiếp (trường
hợp một người không được sự đồng ý của người giữ quyền thực hiện một hành vi
; • V - LO 1'ắMi
18
thuộc bản quyền) và vi phạm gián tiếp (xảy ra ngay khi hành vi vi phạm trực tiếp
xảy ra, và liên quan đến việc kinh doanh các vật vi phạm).
V i phạm bản quyền thường được thực hiện chỉ liôn quan đến các phẩn
trong tác phẩm chứ khổng phải toàn bộ (ví dụ: photocopy các chương quan Irọng
trong một cuốn sách), luật quốc gia thường quy định hành vi vi phạm lừng phẩn
cũng có thể cấu thành vi phạm. Pháp luậl cũng qui định trách nhiệm của nguyên
đon trong việc chứng minh hành vi vi phạm đă thực hiện liên quan đến phần cơ
bản, trọng yếu của toàn bộ tác phẩm. Phần trọng yốu ờ đây muốn nói đến chất
lượng hơn là số lượng. Tuy nhiên, việc xác định yếu tố quyết định để xem xct
phần bị vi phạm được sử dụng trong tác phẩm là phần “trọng yếu” thật không đơn
giản và không phải các nước đều qui định giống nhau.
Theo Luật bản quyền của úc, một trong những quy định pháp lý quan
trọng nhất để quyết định vi phạm là hành vi vi phạm phải liên quan đến "phần
chính" của tác phẩm, nếu không phải là toàn bộ tác phẩm (Luật bản quyền Điều
14). Do đó, khi áp dụng quy định này, toà án sẽ xác định các quyền nào bị coi là
vi phạm và xem xét hành vi cùa bị đơn có vi phạm các quyền này của tác giả
hay không.
Xử lý vi phạm quyền tác giả.
Pháp luật các nước qui định hình thức xử lý vi phạm quyền tác giả chủ yếu
bằng biện pháp dân sự, ngoài ra biôn pháp hành chính, hình sự và biện pháp kiểm
soái biên giới cũng được một số nước áp dụng Irong những trường hợp cần ihiết.
Như vậy, tuỳ thuộc vào mức độ của hành vi vi phạm và thiệt hại do việc vi phạm
bản quyồn của tác giả mà áp dụng các hình thức xử lý Ihích hợp. Nhìn chung, các

hình thức xử lý vi phạm quydn tác giả bao gồm những biện pháp sau:
- Ngăn chặn, chấm dứt hành vi tiếp tục vi phạm quyồn tác giả;
- Ngăn chặn sự lưu thông các sản phẩm do hành vi vi phạm bản quyền mà có;
- Tịch thu, ticu huỷ vật vi phạm, thiết bị được sử dụng đổ sản xuất hàng vi phạm;
- Buộc người có hành vi vi phạm hổi ihường thiệt hại cho tác giả, chủ sở hữu
tác phẩm.
Biện pháp hình sự cũng được sử dụng tại nhiéu nước vì hành vi cố ý vi
phạm bản quyền. LBQ Hoa Kỳ quy định “bất kỳ người nào mà xâm phạm một
cách cố ỷ quyền tác giả phục vụ cho mực đích lợi nhuận thương mai hoặc giành
cúc mục tiêu tài chính cá nhân sẽ bị phạt ỉu \ hình phạt tién được áp dụng với
mức cáo nhất khônR vượt quá 2.500ƯSD. Pháp luật của Việt Nam bên cạnh việc
19
áp dụng các biện pháp trôn còn buộc n^ười có hành vi vi phạm phải xin lỗi, cải
chính công khai. Qui định này nhằm khôi phục lại thanh danh cho lác giả.
1.2 C ác quyền kề cận quyền tác gỉả.
Quyền tác giả là một quyền đân sự đặc biệt có đối tượng điều chỉnh khá
rộng, ngoài các tác phẩm viết và nghệ thuật, quyền tác RÌả cũng điều chỉnh những
quan hệ liên quan đến các đối tượng trên, đó là các qui định về quyền kề cận, hay
còn gọi là quyền liên quan quyền tác giả. Đó là các quyén:
- Quyển ghi âm, ghi hình, sao chcp và phát thanh truyền hình buổi biểu diễn
của những người biổu diễn;
- Quyền sao chép, phân phối các bản ghi âm cùa các nhà sản xuất bản ghi âm;
- Quyền ghì âm, ghi hlnh, sao chép và phát lại các buổi phát (hanh, truyén
hình của các tổ chức phát thanh truyền hình.
Sở dĩ pháp luật qui định các quyền liên quan quyền tác giả vì chúng ta đều
biết một tác phẩm trí tuệ - kết tinh của hoạt động sáng tạo trí óc, được thổ hiện
dưới rất nhiều hình thức. V í dụ, một đĩa nhạc gồm một bài hát dược sản xuất tại
ức có ihổ phát sinh những quyền sau: quyền của người viết nhạc (“tấc phẩm âm
nhạc” được Ihừa nhận theo Công ước Bemc); quyền của người viết lời (“tác phẩm
viếl” dược thừa nhận theo Công ước Beme); quyền của người biểu điỗn/ca sĩ

(“buổi biểu diễn” dược thừa nhận theo Công ước Rome); và quyồn của nhà sản
xuất bản ghi âm (“bản ghi ám” được thừa nhân theo Công ước Rome).
Như vậy, chủ sở hữu các quyồn liên quan quyền tác giả cũng được ghi nhận
Irong luật bản quyền và được Nhà nước bảo hộ các quyền và lợi hựp pháp có được
lừ các hoạt động liên quan trong lĩnh vực quyền tác giả.
1.3 Q uyền tác giả và hội n hập quốc tế.
Có thể nói với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, sự phát íriển
nhanh chóng của khoa học kỹ Ihuật và công nghệ đã đặt ra nhu cầu hợp tác giữa
các quốc gia về mọi mặt đời sống kinh lê, văn hoá xã hội. Thực liễn quốc tế trong
những năm gần đây cho thấy bằng nhiẻu hình thức khác nhau, giao lưu dân sự,
thương mại giữa các quốc gia ngày càng phát triển, và làm nảy sinh hiện lượng
mới - hội nhập kinh tế quốc tế. Đó là “quá trình mở rộng giao lưu kinh tế và khoa
học công nghệ giữa các nước trên quy mô toàn cầu” [26]. Nhu vậy, hội nhập kinh
tế quốc tế là sự hợp tác giữa các quốc gia với quy mô toàn cầu và vé mọi lĩnh vực
và mọi hình thức.
20
Trong lĩnh vực sờ hữu trí tuệ nổi chung, qu v ền tác giả nói riông, hội nhập
quốc tế về vấn đổ này là nhu cầu phát triển tất yếu và được xác định trong chính
sách phát triển của quốc gia. Mục đích chính của bảo hộ quốc tế vé quyền tác giả
là nhằm dảm bảo quyén lợi chính đáng của lác giả (công dân, tổ chức nước ngoài
ở nước sở tại), góp phần thúc đẩy giao lưu về văn hoá, kinh tế, khoa học, công
nghệ, giữa các quốc gia trên thế giới. Để thực hiện mục đích này, các quốc gia
đã ký kết các đ iều ước quốc tế về quyền tác giả và các quyền liên quan nhằm bảo
vệ quyền tác giả cho công dân, tổ chức nước mình ờ ngoài ỉãnh thổ quốc gia,
dồng thời giành cho công dân của nước bên ký kết được hường sự bảo hộ quyền
tác giả lương tự như cống dàn nước mình.
Với mục liêu “ nâng cao rõ rệt đời sống vậl chất, văn hoá, tinh thân của
nhăn dân” [26], trong quan hệ đối ngoại, Đảng và Nhà nước ta chủ trương “thực
hiện nhâĩ quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa
dạng hoá các quan hệ quốc tể'. Hội nhập kinh tế quốc lế nối chung, hội nhập

quốc tế về quyền tác giả nói riêng ở Việt Nam phải được xác định trên cơ sở
nghiên cứu tình hình thực tiễn quốc tế và nhu cầu trong nước dể có những bước đi
hợp lý, chuẩn bị tốt cho việc gia nhập có hiệu quả vào các liên kết kinh lế khu vực
và toàn cầu, đặc biệt là xúc tiến ký kết các Điều ước quốc tế trong cam kếl của lộ
trình gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
1.3.1 Quyền tác giả c ó yếu tố nưóc ngoài.
Hộ quả của quá trình hội nhập quốc tế về quyồn tác giả đã làm đa dạng
boá chủ thể cũng như những yếu tố khác tham gia vào quan hệ quyền tác giả,
các nội dung của quyền tác giả không còn bó hẹp trong phạm vi Ịânh thổ một
quốc gia mà viộc giải quyết các vấn đề phái sinh trong hoạt động (hực thi bảo hô
quốc tế quyền tác giả liên quan đến nhiẻu quốc gia, nhiều hệ thống pháp luật,
tức là xuất hiện “yếu tố nước ngoài" trong quan hê quyền tác giả. Là một Cịuan
hệ dãn sự đặc biệt, quyền tác giả có yếu tố nước ngoài thể hiện ở những khía
cạnh sau:
Thứ nhất, về chủ thể. Tác giả có thể ỉà ngưừi nước ngoài, pháp nhân nước
ngoài có tác phẩm được cổng bố lần dầu tại Việt Nam hoặc tác phẩm được sáng
tạo và thổ hiện dưới hình thức vật chất nhấi định trên lãnh thổ Việt Nam; tác già
là công dân, pháp nhân mang quốc tịch Việt Nam sáng tạo tác phẩm hoặc công
bố tác phẩm b nước ngoài.
Thứ hai, đối tượng của quyền tác giả. Tác phẩm của công dân, pháp nhàn
Việt Nam dược sáng tạo hoặc công bố ở ngoài lãnh thổ Việl Nam, tức là sự kiện
21
pháp lý và khách thổ của quan hộ quyền tác giả xảy ra ở nước ngoài; Tác phẩm
của người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài được sáng tạo hoặc công bố lần đầu
ở Việt Nam. Cụ thể, Điều 836 BLDS quy định tác phẩm của cá nhân, tổ chức
nước ngoài được sáng tác ở Việt Nam hoặc được cống bố, phổ biến lần đẩu tại
Việi Nam được hảo hộ theo qui định của pháp luậi Việt Nam và các điều ước
quốc tô' mà Việt Nam tham gia hoặc ký kết.
Thứ ba, về áp dụng luật.
Là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật của quốc gia, Tư pháp

quốc tế không chỉ qui định vấn đề chọn luật áp dụng đối với những quan hệ pháp
luật có yếu tố nước ngoài, mà còn xây dựng những quy phạm pháp luật nhằm bảo
vệ các quan hệ dân sự, kinh tế và thưotig mại, hôn nhân và gia đình, lao động, và
tố tụng dân sự giữa những người không cùng quốc tịch. Đối với việc bảo hộ
quyền tác giả có yếu tố nước ngoài, Tư pháp quốc tế không đặt vấn đề “nghiên
cứu việc lựa chọn giữa Luật quốc tịch và Luật nơi cứ trú” [17.trl56] lên hàng
đầu, quy phạm pháp luật về quyển tác giả trong Tư pháp quốc tế được xây dựng
chủ yếu nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của tác giả (công dân, pháp nhân nước
sở tại) ở nước ngoài, cũng như bảo vệ các quyền của tác giả là người nước ngoài ở
nước sở tại.
Theo đó, pháp luật áp dụng đổ điều chỉnh các quan hệ quyền lác giả có yếu
lố nước ngoài được quy định gồm có: pháp luật quốc gia; Điều ước quốc tế mà
quốc gia đó ký kết hoặc tham gia; Tập quán quốc tế hoặc pháp luật nước ngoài. Ở
Việt Nam, theo các quy định tại Điều 827 BLDS, Điồu 2, 3, 4, 5 Nghị định 60/CP,
Mục II Thống lư số 27/TT-BVHTT, việc chọn luật áp dụng đối với quan hệ quyền
tác giả có yếu lố nước ngoài ở Việt Nam cũng quy định lương tự.
Với tính chất là một quyền dân sự đặc biệt, pháp luật về quyền sở hữu trí
tuệ nói chung quyền tác giả nói riêng đề cập và điều chỉnh các đối tượng là các tài
sản trí tuệ, lài sản tinh thần mang tính chất lãnh thổ triệt đổ. Tính “lãnh thổ triệt
dế' thể hiện ờ chỗ một tác phẩm được công bố ử nước này có thể dược sử dụng
(xuất bản, dịch, ) ờ nước khác mà không cần xin phép tác giả, cũng không cần
phải trả một khoản chi phí cho việc sử dụng tác phẩm cho tác giả nếu không bị
ràng buộc bởi một điều ước quốc tế có hiệu lực.
Tính chất “lãnh thổ” của quyền tác giả trong Tư pháp quốc tế còn khẳng
định quyền của mỗi quốc gia trong việc xây dựng và ban hành những quy
phạm pháp luật về bảo hộ quyền tác giả phát sinh trong phạm vi lãnh thổ nước
đó. V ì vậy, không Ihể buộc một nhà nước phải áp dụng quy phạm pháp luâl về

×