Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Hoàn cảnh ra đời và sự tác động của nó tới nội dung và tính chất của các bản Hiến pháp Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.4 KB, 15 trang )

ĐỀ BÀI:
Hoàn cảnh ra đời và sự tác động của nó tới nội dung và tính
chất của các bản Hiến pháp Việt Nam.
-----o0o-----
TRẢ LỜI:
Hiến pháp là đạo luật cơ bản của một quốc gia, có vai trò rất
quan trọng trong việc điều chỉnh toàn bộ đời sống xã hội. Mỗi
một bản hiến pháp ra đời trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể mang
theo dấu ấn đặc thù của mỗi quốc gia. Lịch sử lập hiến Việt Nam
đã trải qua những bước ngoặt to lớn cùng với sự ra đời của các
bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp 1992 sửa
đổi, bổ sung năm 2001. Nó đánh dấu bước phát triển trong lịch
sử lập hiến Việt Nam cũng như sự tác động của hoàn cảnh lịch sử
tới nội dung và tính chất của các bản hiến pháp.
Trước cách mạng tháng 8/ 1945, nước ta là một nước thuộc
địa nửa phong kiến với chính thể quân chủ chuyên chế, nhưng
thực chất là bộ máy tay sai của thực dân Pháp. Bởi vậy, nước ta
là một nước thuộc địa không có hiến pháp.
LuËt HiÕn ph¸p 1
Tuy nhiên, do ảnh hưởng tư tưởng cách mạng của các nước
trên thế giới trong giới trí thức Việt Nam đã xuất hiện tư tưởng
lập hiến. Có hai khuynh hướng chính trị chủ yếu trong thời gian
này. khuynh hướng thứ nhất của Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh
và Bùi Quang Chiêu chủ trương xây dựng Nhà nước quân chủ
lập hiến trong sự thừa nhận sự bảo hộ của Chính phủ Pháp.
khuynh hướng thứ hai của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và
Nguyễn Ái Quốc chủ trương giành độc lập, tự do cho dân tộc sau
đó xây dựng hiến pháp của nhà nước độc lập vì không có độc
lập, tự do thì không thể có hiến pháp thực sự. Đây cũng là
khuynh hướng tiến bộ và đúng đắn nhất. Bằng những hoạt động
tích cực Nguyễn Ái Quốc đã cụ thể hoá tư tưởng lập hiến của


mình và tư tưởng ấy được thể hiện trong hiến pháp 1946 – hiến
pháp đầu tiên của nước nhà.
1/ Hoàn cảnh ra đời và sự tác động của nó tới nội dung và
tính chất hiến pháp 1946.
Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà. Một ngày sau đó, trong phiên họp đầu
tiên của Chính phủ Hồ Chủ tịch đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách,
một trong những nhiệm vụ đó là: “chúng ta phải có một bản hiến
pháp dân chủ”.
LuËt HiÕn ph¸p 2
Ngày 9/11/1946, sau một thời gian dài làm việc, Quốc hội đã
thông qua bản hiến pháp đầu tiên với 240 phiếu thuận, 2 phiếu
trống.
Vào thời điểm Quốc hội thông qua hiến pháp, thực dân Pháp đã
phản bội các hiệp định đã kí kết với Chính phủ ta, chúng không
ngừng khiêu khích và tấn công chúng ta bằng vũ lực, hòng lặp lại
ách thống trị của chúng tại Việt Nam. Do hoàn cảnh chiến tranh
mà hiến pháp 1946 không được chính thức công bố. Tuy nhiên
Chính phủ dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban
thường vụ Quốc hội luôn luôn dựa vào tinh thần và nội dung của
Hiến pháp 1946 để điều hành mọi hoạt động của Nhà nước. Với
hoàn cảnh lịch sử như vậy, nội dung và tính chất của Hiến pháp
1946 mang những đặc thù riêng.
Hiến pháp 1946 bao gồm 70 điều chia làm 7 chương. Do đất
nước có chiến tranh nên lời nói đầu của bản hiến pháp xác định
nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là: bảo toàn lãnh thổ,
giành độc lập hoàn toàn, kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân
tộc. Đồng thời xác định ba nguyên tắc cơ bản của hiến pháp là:
đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, trai gái, giai cấp,

tôn giáo; đảm bảo các quyền tự do dân chủ; thực hiện chính
quyền mạnh mẽ của toàn dân. Toàn bộ 7 chương của hiến pháp
đều được xây dựng dựa trên ba nguyên tắc cơ bản, chính ba
LuËt HiÕn ph¸p 3
nguyên tắc này đã thể hiện ba đặc điểm cơ bản của Hiến pháp
năm 1946: dân tộc, dân chủ, nhân dân.
Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, hình thức nhà nước là hình
thức cộng hoà. Nhà nước ta là nhà nước dân chủ nhân dân thể
hiện sự phát triển của tư tưởng dân chủ, đề cao tính dân tộc của
Nhà nước. Trong công cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do khai
sinh ra nhà nước dân chủ cộng hoà đã có sự đóng góp của bao
giai tầng trong xã hội. Bởi thế Nhà nước dân chủ nhân dân đầu
tiên của ta là Nhà nước đoàn kết toàn dân không biệt giống nòi,
trai gái, giàu nghèo, tôn giáo (Điều 1).
Tuân thủ nguyên tắc “ Đảm bảo các quyền tự do, dân chủ”,
Hiến pháp 1946 rất chú trọng đến chế độ công dân (chương II).
Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, nhân dân được đảm bảo các
quyền tự do, dân chủ (Điều 70); quyền bình đẳng trước pháp luật
(Điều 6,7); phụ nữ được ngang quyền với nam giới về mọi
phương diện; công dân được hưởng các quyền bầu cử, ứng cử, có
quyền bãi miễn các đại biểu do mình bầu ra khi họ không còn
xứng đáng với danh hiệu đó nữa; quyền tư hữu tài sản của công
dân được bảo vệ…
Dựa trên nguyên tắc: “thực hiện chính quyền mạnh mẽ và
sáng suốt của nhân dân”, hình thức Nhà nước theo Hiến pháp
1946 có nhiều nét độc đáo đáng chú ý. Đứng đầu Chính phủ là
Chủ tịch nước có quyền phủ quyết (Điều 31 và 54). Hình thức
LuËt HiÕn ph¸p 4
chính thể của nước ta là sự kết hợp giữa cộng hoà tổng thống và
cộng hoà đại nghị.

Mặc dù là bản hiến pháp đầu tiên của nước ta, nhưng Hiến
pháp 1946 tiến bộ không kém bất cứ một bant hiến pháp nào trên
thế giới. Là một bản hiến pháp cô đúc, khúc chiết, mạch lạc và dễ
hiểu, là một bản hiến pháp mẫu mực trên mọi phương diện.
2/ Hoàn cảnh ra đời và sự tác động của nó tới nội dung và
tính chất Hiến pháp 1959.
Tính đến thời điểm năm 1959, Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà đã ra đời và phát triển được14 năm. Hiến pháp 1946 đã
hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, tuy nhiên với tình hình đất
nước và nhiệm vụ cách mạng mới nó cần được bổ sung và điều
chỉnh.
Với chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954 Hiệp định
Giơnevơ được kí kết buộc Pháp phải công nhận độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Miền Bắc
nước ta được hoàn toàn giải phóng, miền Nam tạm thời vẫn dưới
sự thống trị của Mĩ và tay sai.Vì vậy đất nước tạm thời bị chia
cắt làm hai miền và việc thống nhất đất nước theo hiệp định sẽ
được thực hiện sau hai năm bằng cuộc tổng tuyển cử trong cả
nước do chính quyền hai miền hiệp thương tổ chức.
LuËt HiÕn ph¸p 5
Ngay sau khi hất cẳng Pháp đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai đã vi
phạm Hiệp định Giơnevơ từ chối hiệp thương thống nhất đất
nước. Vì vậy nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới là miền
Bắc đi lên xây dựng CNXH, miền Nam tiếp tục thực hiện cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân – thống nhất đất nước. Để đáp
ứng nhiệm vụ cách mạng mới, trong kì họp thứ 6 nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà khoá I đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm
1946 và thành lập ban dự thảo hiến pháp sửa đổi. Sau một thời
gian bản dự thảo được đưa ra thảo luận và lấy ý kiến xây dựng
ngày 1/1/1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí sắc lệnh công bố hiến

pháp.
Hiến pháp 1959 gồm lời nói đầu và 112 điều chia làm 10
chương. Hiến pháp 1959 được xem là bản hiến pháp XHCN đầu
tiên của nước ta trong đó qui định về chế độ kinh tế, chính trị,
văn hoá- xã hội, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tổ chức
và hoạt động của Bộ máy Nhà nước.
Để phù hợp với hoàn cảnh đất nước bị chia cắt thì Hiến pháp
1959 không thể chỉ mang tính chất dân tộc dân chủ nhân dân như
Hiến pháp 1946 mà còn phải mang tính chất XHCN. Nội dung
Hiến pháp 1959 là sự thể chế hoá nhiệm vụ ở nước ta thời kì này:
xây dựng CNXH ở miền Bắc và làm cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ỏ miền Nam, đấu tranh thống nhất nước nhà . Tình
trạng chia cắt đất nước chỉ là tạm thời, dù sớm hay muộn thì “
LuËt HiÕn ph¸p 6

×