Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Áp dụng dịch vụ hỗ trợ sau cho vay nhằm nâng cao khả năng thu nợ của Ngân hàng TMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - VPBank.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.13 KB, 75 trang )

Trường ĐH Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Cho vay luôn chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động kinh doanh của NHTM,
cho vay là hoạt động đem lại nguồn thu chủ yếu của NHTM đặc biệt là các
NHTMVN và VPBank không phải là một ngoại lệ, song cho vay mới chỉ là
“điều kiện cần”, “điều kiện đủ” là phải thu hồi nợ. Chỉ thu đủ nợ - cả gốc và
lãi - thì hoạt động kinh doanh của ngân hàng mới có thể được coi là hiệu quả.
Muốn vậy, các khâu của hoạt động cho vay phải được thực hiện một cách trôi
chảy theo những nguyên tắc nhất định để bảo đảm cho NHTM thu hồi được
cả gốc và lãi khi hết thời hạn cho vay.
Thực trạng hoạt động cho vay hiện nay cho thấy khả năng thu nợ chưa
cao: nợ quá hạn, khó đòi, mất vốn và xoá nợ luôn và là một trong những nguy
cơ đe doạ hiệu quả kinh doanh của các NHTM. Áp lực cạnh tranh giữa các
ngân hàng ngày càng tăng, đặc biệt sau khi hội nhập. Trong bối cảnh đó, các
NHTM phải nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh, phải có doanh số
cho vay cao và khả năng thu nợ tốt.
Vì vậy, đây chính là lý do mà tác giả chọn đề tài "Áp dụng dịch vụ hỗ
trợ sau cho vay nhằm nâng cao khả năng thu nợ của Ngân hàng TMCP
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - VPBank " để nghiên cứu và tìm ra
những yêu cầu của thực tiễn hoạt động VPBank cũng như các NHTMVN nói
chung hiện nay.
Đối tượng nghiên cứu trong bài viết là hoạt động cho vay và dịch vụ hỗ trợ
sau cho vay đối với khách hàng của các NHTM.
Phạm vi nghiên cứu:Về mặt lý luận, đề tài tập trung nghiên cứu chủ yếu về
hoạt động cho vay và dịch vụ hỗ trợ sau cho vay. Các mặt hoạt động khác của
NHTM như: tăng cường quản lý hoạt động cho vay, hoàn thiện quy trình
nghiệp vụ cho vay, các dịch vụ thanh toán, môi giới, tiện ích, v.v…, cũng sẽ
Triệu Mai Anh-Lớp Ngân hàng 45B
1
Trường ĐH Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
được đề cập song không phải là trọng tâm nghiên cứu. Về mặt thực tiễn, đề tài


sử dụng số liệu và tài liệu của VPBank từ năm 2003-2006.
Bài viết sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học, bao gồm:
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh.
- Phương pháp chuyên gia.
- Phương pháp quy nạp.
Nhằm đạt mục đích nghiên cứu nói trên, kết cấu của bài viết ngoài phần mở
đầu, phần kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung chính sẽ bao gồm
3 Chương như sau:
- Chương I: Dịch vụ hỗ trợ sau cho vay và khả năng thu nợ của ngân
hàng thương mại.
- Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay, thu nợ và cung cấp dịch vụ
hỗ trợ sau cho vay của Ngân hàng TMCP các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh - VPBank
- Chương III: Giải pháp áp dụng dịch vụ sau cho vay nhằm tăng cường
khả năng thu nợ của Ngân hàng TMCP các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh - VPBank.
Do thời gian và điều kiện tiếp cận với chi nhánh ngân hàng VPBank có
giới hạn, hơn nữa kiến thức, kinh nghiệm trong vấn đề nghiên cứu còn hạn
chế nên trong phạm vi của luận văn chỉ phản ánh, phân tích một phần nào đó
về các hoạt động và dịch vụ hỗ trợ sau cho vay của VPBank qua các năm
2003 – 2006 và một số biện pháp chủ yếu nhằm áp dụng hiệu quả các dịch vụ
này.
Triệu Mai Anh-Lớp Ngân hàng 45B
2
Trường ĐH Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG 1: DỊCH VỤ HỖ TRỢ SAU CHO VAY VÀ KHẢ NĂNG
THU NỢ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.Hoạt động cho vay và thu nợ của ngân hàng thương mại
1.1.1 Hoạt động cho vay của NHTM và những nét đặc thù

• Khái niệm về hoạt động cho vay của NHTM
Cho vay là một mặt của hoạt động tín dụng ngân hàng, thông qua hoạt
động cho vay ngân hàng thực hiện điều hòa vốn trong nền kinh tế dưới hình
thức phân phối nguồn vốn tạm thời nhàn rooic huy động được từ trong xã hội
(qũy cho vay) để đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ sản xuất kinh doanh và đời
sống.
Cho vay là quyền của NHTM với tư cách là người cho vay (chủ nợ) yêu
cầu khách hàng của mình – người đi vay muốn vay được vốn phải tuân thủ
những điều kiện nhất định, những điều kiện này là cơ sở ràng buộc về mặt
pháp lý đảm bảo cho người cho vay có thể thu hồi được vốn (gốc + lãi) sau
một thời gian nhất định. Để thu hồi được vốn, các ngân hàng có quyền yêu
cầu người đi vay đáp ứng những điều kiện vay cụ thể dựa trên cơ sở mức độ
tin tưởng, tín nhiệm lẫn nhau giữa ngân hàng với khách hàng.
Mặt khác, cho vay là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ
người sở hữu (NHTM) sang người sử dụng (người vay – khách hàng), sau
một thời gian nhất định lại quay về với lượng giá trị lớn hơn một lượng giá trị
ban đầu.
Cho vay là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể (NHTM và người
vay), trong đố một bên (NHTM) chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia
(người vay) sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền
hoặc tài sản cam kết hoàn trả vốn (gốc và lãi) cho bên cho vay vô điều kiện
theo thời hạn đã thỏa thuận.
Triệu Mai Anh-Lớp Ngân hàng 45B
3
Trường ĐH Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Qua khái niệm trên cho thấy bản chất của cho vay là một giao dịch về
tiền hoặc tài sản trên cơ sở có hoàn trả mà thực chất là sự vay mượn dựa trên
cơ sở tin tưởng, tín nhiệm lẫn nhau. Trong đó sự hoàn trả là đặc trưng thuộc
về bản chất của cho vay, là nguyên tắc để phân biệt phạm trù cho vay với cấp
phát của NSNN.

• Vai trò của hoạt động cho vay:
Khả năng cho vay đối với khách hàng của ngân hàng là lí do cơ bản để
ngân hàng được các cơ quan quản lý cấp giấy phép hoạt động. Cho vay là
chức năng kinh tế hàng đầu của các ngân hàng – để tài trợ cho chi tiêu của
doanh nghiệp, cá nhân và các cơ quan của chính phủ.
Đối với ngân hàng Thương mại:
Hoạt động kinh doanh chủ yếu của NHTM là huy động vốn và cho vay,
bên cạnh đó NH cũng tiến hanh một số các dịch vụ khác nhằm thu được lợi
nhuận.
Hoạt động cho vay là hoạt động sử dụng vốn của NH. Qua sử dụng vốn
để đầu tư vào các dự án, NH thu lãi do doanh nghiệp trả. Có càng nhiều
khoản đầu tư tín dụng thì NH càng có cơ sở để thu được nhiều lãi. Từ phần lãi
thu được đó, sau khi trừ chi phí cần thiết khác như trả lãi vốn huy động, trả
lương cho cán bộ công nhân viên, trích lập các quỹ… là phần lợi nhuận của
NH.
Bên cạnh đó, khi NHTM đầu tư tín dụng cho doanh nghiệp, nhất là
những doanh nghiệp mới thì thường hoạt động của doanh nghiệp gắn kiền với
NH, mọi nhu cầu về vốn lưu động phục vụ cho chu kỳ sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp đều qua NH, nhờ vậy, NH có thể phát triển thêm được các
loại hình tín dụng khác từ đó góp phần tăng thêm thu nhập cho ngân hàng.
Ngoài ra, khi doanh nghiệp tiến hành vay vốn của NHTM thì doanh
nghiệp cần phải mở tài khoản tại ngân hàng, do đó mọi hoạt động thu chi
Triệu Mai Anh-Lớp Ngân hàng 45B
4
Trường ĐH Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
doanh nghiệp đều nhờ ngân hàng thực hiện hộ. Như vậy, ngân hàng có thể
cung cấp các dịch vụ phục vụ cho khách hàng. Nhờ phát triển mạnh mẽ
nghiệp vụ cho vay, NH có thể củng cố thêm vị thế trên thị trường, điều này vô
cùng thuận lợi cho NH trong cả công tác huy động vốn cũng như sử dụng
vốn. Nếu ngân hàng có uy tín, khách hàng sẽ đến giao dịch với ngân hàng

nhiều hơn, sử dụng các dịch vụ ngân hàng thường xuyên hơn. Đây là cơ sở để
ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh, tăng sức cạnh tranh trên thị trường
nhằm thu được nhiều lợi nhuận.
Đối với khách hàng
Hoạt động cho vay đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình sản xuất
được liên tục đồng thời đầu tư phát triển kinh tế. Thực trạng hiện nay là tài
sản cố định của các doanh nghiệp đã cũ nát và lạc hậu, thời gian khấu hao đã
hết là cho doanh nghiệp khó có thể tăng năng suất lao động và phát triển sản
xuất. Nghiệp vụ cho vay đã góp phần khắc phục được vấn đề đó.
- Làm tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp
Trong môi trường kinh tế cạnh tranh, các chủ thể kinh doanh luôn phải
chủ động tìm kiếm và thực hiện nhiều biện pháp để các sản phẩm của mình
tiêu thụ được nhanh, nhiều trên thị trường. Ví dụ như: Ứng dụng những thành
tựu khoa học đổi mới công nghệ, hoàn thiện nghệ thuật quản trị kinh doanh,
tìm kiếm thị trường mới… nhằm tự nâng cao khả năng sản xuất, làm cho các
sản phẩm của bản thân doanh nghiệp có chỗ đứng trên thị trường, nhờ vậy,
các doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển. Muốn thực hiện được điều đó
các doanh nghiệp cần có một lượng vốn lớn mà không ai khác ngoài ngân
hàng có thể cung cấp cho họ. Nghiệp vụ cho vay đã góp phần rất lớn vào quá
trình sản xuất kinh doanh ổn định của doanh nghiệp. Nhờ đầu tư xây dựng
mới cũng như áp dụng công nghệ hiện đại mà doanh nghiệp cũng như sản
phẩm của doanh nghiệp nâng cao được uy tín và vị thế trên thị trường, thu hút
Triệu Mai Anh-Lớp Ngân hàng 45B
5
Trường ĐH Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
được khách hàng, làm cho mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp được thực
hiện dễ dàng hơn.
- Tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất, chiếm lĩnh
thị trường:
Khi được đầu tư trung và dài hạn, doanh nghiệp có cơ hội để mở rộng

quy mô sản xuất, tăng thêm máy móc thiết bị cũng như dây truyền sản xuất
mới nhằm tạo thêm nhiều sản phẩm có mẫu mã và chất lượng cao, cung ứng
ra thị trường. Nhờ vậy, sản phẩm của doanh nghiệp được thị trường tin tưởng
và chấp nhận từ đó lượng tiêu thụ tăng lên, dần dần chiếm lĩnh được thị
trường, mở rộng thị phần hoạt động, tạo điều kiện tiền đề về vật chất cho
doanh nghiệp.
Qua việc vay vốn và tiến hành đầu tư những dự án mới, doanh nghiệp có
cơ sở và điều kiện tăng số lượng hàng hóa dịch vụ cung ứng ra thị trường, nhờ
vậy doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp cũng tăng lên đáng kể.
Đối với nền kinh tế
Nghiệp vụ cho vay đã tạo điều kiện thay đổi đời sống kinh tế xã hội.
- Thúc đẩy sản xuất phát triển:
Xuất phát từ chức năng tập trung và phân phối vốn trong nền kinh tế,
ngân hàng đã thu hút những nguồn vốn dư thừa, tạm thời nhàn rỗi đưa vào
hoạt động sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp từ đó
thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế.
Mặt khác, trong quá trình cho vay, để tránh rủi ro, ngân hàng thường
xuyên đánh giá, phân tích khả năng tài chính, giám sát hoạt động sản xuất
kinh doanh để có thể điều chỉ, tác động kịp thời khi cần thiết, hướng hoạt
động của doanh nghiệp đi đúng hướng. Do vậy, nghiệp vụ cho vay đã góp
phần thúc đẩy sản xuất phát triển bền vững, tạo tiền đề vật chất cho xã hội.
- Góp phần ổn định tiền tệ và giá cả:
Triệu Mai Anh-Lớp Ngân hàng 45B
6
Trường ĐH Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, việc chú trọng phát triển lưu thông hàng
hóa đồng thời phải gắn với ổn định tiền tệ. Nghiệp vụ cho vay là một trong
những cách để đưa tiền vào lưu thông, từ đó, các ngân hàng nhà nước có thể
kiểm soát được phần nào khối lượng tiền trong lưu thông nhằm giúp cho khối
lượng tiền tệ trong nền kinh tế phù hợp với khối lượng hàng hóa trên thụ

trường. Nếu nghiệp vụ cho vay hoạt động có hiệu quả sẽ góp phần đảm bảo
cho khối lượng tiền cung ứng phù hợp (vì cho vay là ngân hàng đưa tiền vào
lưu thông, thu nợ là ngân hàng rút tiền ra khỏi lưu thông) điều đó làm cho giá
cả hàng hóa cũng dần dần ổn định.
Hoạt động của ngân hàng tập trung vốn tiền tệ tạm thời chưa sử dụng, mà
vốn này nằm phân tán ở khắp mọi nơi, trong tay các nhà doanh nghiệp các cơ
quan nhà nước và của cá nhân. Trên cơ sở đó cho vay các đơn vị kinh tế. Tuy
nhiên quá trình đầu tư cho vay khong phải rải đều cho mọi chủ thể có nhu cầu
mà việc đầu tư được thực hiện một cách tập trung, chủ yếu là cho các xí
nghiệp lớn, những xí nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Đầu tư tập trung là quá
trình tất yếu, vừa đảm bảo tránh rủi ro cho vay, vừa thúc đẩy quá trình tăng
trưởng kinh tế.
- Góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm và ổn định trật tự xã
hội.
Nghiệp vụ cho vay chú trọng vào nhiều lĩnh vự mới, cải tạo và nâng cao
năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, mở rộng quy mô sản xuất, từ
đó tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Bên cạnh đó, do năng
lực sản xuất ngày càng được nâng cao nên số lượng sản phẩm tiêu thụ sẽ
nhiều hơn, đó là nguồn để tăng thu nhập và ổn định đời sống cho cán bộ trong
doanh nghiệp. Mặt khác, tín dụng trung và dài hạn tạo điều kiện thuận lợi cho
việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư, hợp lý hóa cơ cấu nền kinh tế từ đó làm tiền
đề cho sự ổn định và trật tự an toàn xã hội.
Triệu Mai Anh-Lớp Ngân hàng 45B
7
Trường ĐH Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trong điều kiện ngày nay, phát triển kinh tế của một nước luôn gắn liền
với thị trường thế giới, vì vậy hoạt động cho vay đã trở thành một trong
những phương tiện nối liền các nền kinh tế các nước với nhau.
• Phân loại cho vay:
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động cho vay của ngân hàng thương

mại rất đa dạng và phong phú với nhiều hình thức khác nhau. Việc áp dụng
các loại cho vay tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế của đối tượng vay vốn nhằm
sử dụng và quản lý vốn vay một cách hiệu quả. Để làm được điều đó, chúng
ta cần thiết phải phân loại cho vay.
Phân loại cho vay là việc sắp xếp các khoản vay theo từng nhóm dựa trên
một số tiêu thức nhất định. Nếu việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học sẽ
là tiền đề để thiết lập câc quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả
quản trị rủi ro tín dụng.
Có nhiều tiêu thức để phân loại cho vay, tuy nhiên trên thực tế, người ta
thường phân loại cho vay theo các tiêu thức sau
Căn cứ theo thời hạn cho vay:
Ngân hàng cho khách hàng vay vốn ngắn, trung và dài hạn nhằm đáp
ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống và các dự án đầu
tư phát triển:
- Cho vay ngắn hạn : là các khoản cho vay có thời hạn cho vay đến 12
tháng, chủ yếu nhằm mục đích tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu
cầu sử dụng vốn ngắn hạn của nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất,
cá nhân.
- Cho vay trung hạn : là các khoản cho vay có thời hạn cho vay từ 12
tháng đến 60 tháng.
- Cho vay dài hạn : là các khoản vay có thòi hạn cho vay trên 60 tháng
trở lên. Các khoản cho vay trung và dài hạn thường chiếm một tỷ
Triệu Mai Anh-Lớp Ngân hàng 45B
8
Trường ĐH Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
trọng rất lớn trong tổng dư nợ cho vay của các NHTM, chiếm phần
lớn lợi nhuận mà hoạt động cho vay đem lại.
Phân loại theo thời gian có một ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì
thời gian liên quan đến tính an toàn và sinh lợi của món vay cũng như khả
năng hoàn trả của khách hàng.

Căn cứ vào phương thức cho vay
- Cho vay theo hạn mức thấu chi :
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay
được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn
nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn
mức thấu chi.
- Cho vay trực tiếp từng lần:
Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các
khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có đủ điều kiện để
cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng
thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, bổ sung vốn lưu động
không thường xuyên hoặc khách hàng có vòng quay vốn kinh doanh dài mới
vay ngân hàng, tức là vốn ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất
định của chu kỳ sản xuất kinh doanh.
- Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng:
Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách
hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì.
Đó là số dư tại thời điểm tính. Phương thức này thường áp dụng với khách
hàng có nhu cầu vay bổ sung vốn lưu động thường xuyên, mục đích sử dụng
vốn rõ ràng và có tín nhiệm với Ngân hàng (có khả năng tài chính, sản xuất
kinh doanh ổn định, có lãi, trong thời gian một năm trước đó không có quá
hạn tại các tổ chức tín dụng).
Triệu Mai Anh-Lớp Ngân hàng 45B
9
Trường ĐH Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Căn cứ vào nhu cầu vay vốn theo hạn mức của khách hàng, giá trị tài sản
thế chấp, tài sản cầm cố hoặc bảo lãnh (nếu có) và khả năng nguồn vốn của
mình, ngân hàng và khách hàng vay xác định hạn mức tín dụng phù hợp với
đặc điểm chu kỳ sản xuất, kinh doanh, vòng lưu chuyển tiền tệ. Hợp đồng tín
dụng được ký kết trong phạm vi hạn mức được xác định.

Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn
thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh
doanh. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ. Khi
khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lý
ngân quĩ cho khách hàng. Tuy nhiên do các lần vay không tách biệt thành các
kì hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay.
Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính,
hoặc dư nợ lâu không giảm sút.
- Cho vay theo dự án đầu tư:
Phương thức này áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu vay vốn để thực
hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án
phục vụ đời sống .
Khách hàng vay vốn phải có vốn tự có đầu tư tham gia vào dự án. Vốn
tham gia dự án có thể là tiền hoặc tài sản đưa vào sử dụng cho dự án kể cả giá
trị quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà xưởng, tiền thuê đất đã trả, các chi
phí mà khách hàng đã tự đầu tư vào dự án.
- Cho vay trả góp :
Khách hàng vay trả góp phục vụ tiêu dùng hoặc kinh doanh phải có
phương án trả nợ gốc và lãi vay khả thi bằng các khoản thu nhập chắc chắn ổn
định. Ngân hàng và khách hàng có thể thỏa thuận việc cho vay trả góp theo
một trong hai phương thức sau:
+ Cho vay trả góp theo lãi gộp : khoản vay sẽ được tính lãi theo số tiền
Triệu Mai Anh-Lớp Ngân hàng 45B
10
Trường ĐH Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
vay ngay tại thời điểm cho vay và trong suốt thời gian vay, cộng với nợ gốc
và chia đều cho các kỳ trả nợ.
+ Cho vay trả góp theo dư nợ thực tế : khoản vay trả góp được áp dụng
lãi suất thả nổi tính theo dư nợ thực tế hàng thàng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng:

Phương thức cho vay này áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu dự
phòng nguồn vốn tín dụng trong một khoảng thời gian nhất định nhằm đảm
bảo khả năng chủ động về tài chính khi thực hiện sản xuất, kinh doanh dịch
vụ và đời sống.
- Cho vay thong qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng:
Ngân hàng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng vốn vay trong
phạm vi hạn mức tín dụng thẻ thanh toán tiền mua hàng hóa dịch vụ và rút
tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc các điểm ứng tiền mặt là đại lý của
chính ngân hàng.
Khi cho vay thông qua phát hành thẻ tín dụng, ngân hàng và khách hàng
phải tuân theo các quy định của Chính phủ, Ngân hàng nhà nước về phát hành
va sử dụng thẻ tín dụng.
- Các phương thức cho vay khác:
Ngân hàng có thể áp dụng các phương thức cho vay khác mà pháp luật
không cấm, phù hợp với Quy chế này và điều kiện kinh doanh cụ thể của mỗi
ngân hàng và đặc điểm của khách hàng vay.
Căn cứ theo hình thức đảm bảo tiền vay
- Cho vay có bảo đảm bằng tài sản:
Cho vay có tài sản đảm bảo là việc cho vay vốn của tổ chức tín dụng mà
theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay được cam kết bảo đảm thực hiện
bằng tài sản cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay của khách hàng
vay hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Trong trường hợp này tài sản
Triệu Mai Anh-Lớp Ngân hàng 45B
11
Trường ĐH Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
bảo đảm tiền vay là tài sản của khách hàng vay, của bên bảo lãnh để đảm bảo
nghĩa vụ trả nợ, bao gồm tài sản thuộc quyền sở hữu, giá trị quyền sử dụng
đất của khách hàng vay, của bên bảo lãnh; tài sản thuộc quyền quản lý, sử
dụng của khách hàng vay, của bên bảo lãnh là doanh nghiệp nhà nước, tài sản
hình thành từ vốn vay.

Cho vay có bảo đảm bằng tài sản áp dụng đối với các khách hàng uy tín
không cao đối với ngân hàng. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng
có thêm nguồn thu nợ thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc
chắn.
- Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản:
Cho vay không có bảo đảm là việc tổ chức tín dụng cho khách hàng vay
vốn không có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc không có bảo lãnh của người thứ
ba. Ngân hàng cho vay chỉ dựa vào uy tín của khách hàng để xem xét cho
vay. Loại cho vay này chỉ áp dụng đối với những khách hàng có uy tín. Khách
hàng có uy tín là khách hàng tôt, trung thực trong kinh doanh, khả năng tài
chính lành mạnh, quản trị có hiệu quả, có tín nhiệm với ngân hàng cho vay
trong sử dụng vốn vay, hoàn trả nợ ( gốc và lãi).
Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ định của Chính phủ: Tổ
chức tín dụng Nhà nước cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với
khách hàng vay để thực hiện các dự án đầu tư thuộc chương trình kinh tế đặc
biệt, chương trình kinh tế trọng điểm của Nhà nước, chương trình kinh tế- xã
hội và đối với một số khách hàng thuộc đối tượng được hưởng các chính sách
tín dụng ưu đãi về điều kiện vay vốn theo qui định tại các văn bản quy phạm
pháp luật của Chính phủ.
Căn cứ vào đối tượng cho vay:
Triệu Mai Anh-Lớp Ngân hàng 45B
12
Trường ĐH Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Thông qua các phân loại này, NHTM phân chia khách hàng của mình
thành các đối tượng khác nhau, từ đó lập ra kế hoạch cũng như các chiến lược
khác nhau phù hợp với đặc điểm riêng của từng loại khách hàng.
- Cho vay khách hàng là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế.
Đây là hình thức cho vay của các NHTM mà các donah nghiệp. tổ chức
kinh tế là đối tượng được phục vụ. Do đặc thù riêng có của đối tượng này mà
các NHTM phải tổ chức các phòng tín dụng chuyên trách phục vụ. Nhóm

khách hàng này thương có nhu cầu vốn với số lượng lớn, và có thể là rất lớn.
Tuy nhiên số lượng khách hàng loại này của mỗi NHTM thường không lớn,
vì vậy các NHTM cần đặc biệt chú ý quan tâm đến từng khách hàng cụ thể, từ
đó xây dựng tôt mối quan hệ tín dụng lâu dài, đồng thời mở rộng mối quan hệ
với khách hàng mới.
- Cho vay khách hàng cá nhân:
Nhóm đối tượng còn lại là các khách hàng cá nhân (bao gồm cá nhân, hộ
gia đình, chủ trang trại, tổ hợp tác…) được các NHTM áp dụng phương thức
cho vay theo quy trình thủ tục của cho vay khách hàng cá nhân. Nhóm đối
tượng này có số lượng rất lớn và có nhu cầu vay các khoản nhỏ lẻ, tuy nhiên
đây là nhóm khách hàng khá nhạy cảm nên các NHTM cần có phương thức
tiếp cận cũng như quản lý hợp lý mới có thể khai thác tốt mảng khách hàng
này.
Tuy nhiên tùy vào mỗi mục đích quản lý khác nhau mà mỗi ngân hàng
có thể phân loại các khoản cho vay theo các tiêu thức khác nhau phù hợp với
mục đích đó. Trên thực tế việc kết hợp nhiều tiêu thức với nhau thường được
các ngân hàng sử dụng.
Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn:
- Cho vay theo dự án:
Triệu Mai Anh-Lớp Ngân hàng 45B
13
Trường ĐH Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Khi khách hàng có kế hoạch mua sắm, xây dựng tài sản cố định… nhằm
thực hiện dự án nhất định, có thể xin vay ngân hàng. Một tring những yêu cầu
của ngân hàng là người vay phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích, kế hoạch
đầu tư cũng như quá trình thực hiện dự án (sản xuất kinh doanh). Phân tích và
thẩm định dự án là cơ sở để ngân hàng quyết định phần vốn vay và xác định
khả năng hoàn trả của doanh nghiệp.
- Cho vay tiêu dùng:
Cho vay tiêu dùng được bắt đầu từ các hãng bán lẻ do yêu cầu đẩy mạnh tiêu

thụ hàng hóa. Hình thức cho vay tiêu dùng của các hãng bán lẻ là trả góp. Một
số hãng phải vay ngân hàng để bù đắp vốn lưu động thiếu hụt.
Ngân hàng cho vay đối với người tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cần mua
sắm hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa, phương tiện vận chuyển.
Các hình thức phân loại khác
Cho vay hợp vốn: (đồng tài trợ)
Ngân hàng phối hợp với một hoặc một số tổ chức tín dụng khác cùng cho
vay đối với một dự án vay vốn của khách hàng, trong đó ngân hàng hoặc một
tổ chức tín dụng khác làm đầu mối dàn xếp.
Cho vay theo đối tượng khách hàng: Cho vay cá nhân, cho vay doanh
nghiệp, cho vay các tổ chức chính trị xã hội...
Cho vay theo lĩnh vực kinh tế: Cho vay nông nghiệp, công nghiệp, xây
dựng, dịch vụ,...
Có rất nhiều loại cho vay khác nhau mà ngân hàng phân loại ra nhưng
thông thường, ngân hàng áp dụng những loại nhằm đảm bảo việc thu hồi vốn
vay có hiệu quả như: cho vay trực tiếp từng lần, cho vay trả góp, cho vay có
đảm bảo bằng tài sản và cho vay khách hàng cá nhân.
 Rủi ro của hoạt động cho vay:
Triệu Mai Anh-Lớp Ngân hàng 45B
14
Trường ĐH Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu do khách
hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi.
Khi thực hiện một hoạt động cụ thể, ngân hàng không dự kiến là khoản cho
vay đó sẽ bị tổn thất . Tuy nhiên những khoản cho vay đó luôn hàm chứa rủi
ro.
Có nhiều nguyên nhân gây rủi ro cho ngân hàng:
Thứ nhất, do khách hàng :người vay vốn làm ăn thua lỗ hoặc kém hiều
quả, không có khả năng thanh toán nợ hoặc cố tình chây ì hoặc lừa đảo… dẫn
đến không trả được nợ cho ngân hàng.

Thứ hai, do cán bộ ngân hàng bất cập về trình độ, quản lý yếu kém hoặc
vi phạm đạo đức trong kinh doanh dẫn đến cho vay khống, cho vay không
đúng mục đích, thẩm định dự án đầu tự, phương thức kinh doanh không chính
xác.
Thứ ba, do thiếu thông tin về khách hàng nên ngân hàng đã cho vay
những khách hàng kinh doanh kém hiệu quả, nên việc thu nợ gặp khó khăn,
đến hạn khách hàng không trả được nợ cho ngân hàng. Hoặc có thể do ngân
hàng quá chú trọng về lợi tức, đặt kỳ vọng về lợi tức cao hơn khoản cho vay
lành mạnh.
Thứ tư, do các thay đổi bất thường trên thị trường vượt quá khả năng
phán đoán của ngân hàng như thay đổi lãi suất và tỷ giá, khủng hoảng nợ dây
truyền, những thay đổi trong quyết định của Chính phủ.
Ngân hàng không kinh doanh, cho vay theo hình thức rủi ro mạo hiểm,
bởi nếu làm như vậy thì ngân hàng phải trả cho những người gửi tiền một lãi
suất cao hơn rất nhiều do những rủi ro mà ngân hàng gặp phải. Trong khi đó,
nguyên nhân gây ra rủi ro hoạt động cho vay xuất phát từ: môi trường, khách
hàng và cả bản thân ngân hàng, vì vậy, mỗi ngân hàng, khi giải quyết cho
khách hàng vay cần phải có những biện pháp và dịch vụ cụ thể nhằm giúp cho
Triệu Mai Anh-Lớp Ngân hàng 45B
15
Trường ĐH Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
việc thu nợ của mình thuận lợi hơn. Có câu ngạn ngữ cổ cho rằng “Bất kỳ một
thằng ngốc nào cũng có thể cho vay tiền nhưng để thu được nợ thị lại cần một
cái đầu thông minh”.
1.1.2. Thu nợ:
Ngân hàng là tổ chức trung gian đi vay để cho vay. Tiền đi vay qua dân
cư, qua các tổ chức tín dụng khác, qua NHNN… đều phải trả lãi. Đó là chi
phí khi ngân hàng sử dụng vốn của các chủ thể trong nền kinh tế. Vì hoạt
động của ngân hàng là đi vay để cho vay nên vốn của nó phải được bảo tồn và
phát triển. Khi các chủ thể trong nền kinh tế sử dụng vốn của ngân hàng thì họ

phải trả lãi cho ngân hàng. Phần lãi này phải bù đắp được phần lãi mà ngân
hàng đi vay, phần chi phí cho hoạt động ngân hàng và đảm bảo cho ngân hàng
có lợi nhuận. Hoạt động cho vay là hoạt động có nhiều rủi ro , đồng vốn mà
ngân hàng cho vay có thể được thu hồi đúng hạn, trễ hạn hoặc có thể không
thu hồi được. Vì vậy công tác thu hồi nợ (đúng hạn và đầy đủ) được ngân
hàng đặt lên hàng đầu, bởi một ngân hàng muốn hoạt động tốt không phải chỉ
nâng cao doanh số cho vay mà còn chú trọng đến công tác thu nợ làm sao để
đảm bảo đồng vốn bỏ ra và thu hồi lại nhanh chóng, tránh thất thoát và có
hiệu quả cao.
Mặc dù việc thu nợ là yếu tố chưa nói lên hiệu quả hoạt động của ngân
hàng một cách trực tiếp nhưng nó là yếu tố chủ yếu thể hiện khả năng phân
tích, đánh giá, kiểm tra khách hàng của ngân hàng là thành công hay không.
Việc thu hồi một khoản nợ đúng với các điều kiện đã cam kết trong hợp đồng
tín dụng là một thành công rất lớn trong hoạt động cấp tín dụng của ngân
hàng vì đã cho vay đúng đối tượng, người sử dụng vốn vay đúng mục đích có
hiệu quả và người vay đã tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng qua việc họ trả nợ và
Triệu Mai Anh-Lớp Ngân hàng 45B
16
Trường ĐH Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
lãi đầy đủ, đúng hạn cho ngân hàng. Để thu hồi được nợ, các cán bộ ngân
hàng phải có sự quan tâm sắt sao đến khách hàng, thường xuyên gặp gỡ và
thông báo cho họ biết trước khi khoản vốn đến hạn.
Công tác thu nợ là rất quan trọng trong hoạt động cấp tín dụng, nó đòi hỏi
người cán bộ tín dụng phải có năng lực, trình độ chuyên môn, phẩm chất tốt
kể từ khâu phân tích thẩm định khách hàng, bởi một khoản tín dụng có độ rủi
ro cao hay thấp sẽ phụ thuộc rất lớn từ khâu đầu tiên này. Đối với ngân hàng,
một khoản tín dụng cấp ra phải đạt chất lượng - tức phải thu hồi được nợ, lãi
đúng hạn thì đó là kết quả của sự thận trọng và thường xuyên trong phân tích,
đánh giá, kiểm tra của cán bộ tín dụng từ lúc khách hàng vay vốn, sử dụng
vốn đến khi trả nợ và lãi cho ngân hàng. Đối với những khách hàng không

thanh toán được nợ cho ngân hàng vì nguyên nhân bất khả kháng nhưng vẫn
còn khả năng sản xuất hay phương án kinh doanh có hiệu quả để khắc phục
thì cán bộ tín dụng nên đề nghị xem xét cho gia hạn nợ hoặc có thể cho vay
vốn tiếp để tăng cường sức mạnh tài chính cho khách hàng để họ khôi phục
sản xuất và ngân hàng phải giám sát chặt chẽ những khách hàng này cho đến
khi thu hối được nợ. Nếu thấy không có khả năng thu hồi nợ thì sẽ tiến hành
thủ tục khởi kiện để phát mãi tài sản thế chấp để thu nợ giúp ngân hàng bảo
toàn nguồn vốn hoạt động.
1.2.Dịch vụ hỗ trợ sau cho vay của ngân hàng thương mại:
Ngân hàng là loại hình tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực tạo lập và
cung cấp các dịch vụ quản lý quĩ cho công chúng, đồng thời nó cũng thực
hiện nhiều vai trò khác nhau đối với nền kinh tế. Thành công của ngân hàng
phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu,
thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả và bán chúng tại một mức giá
cạnh tranh. Kinh tế càng phát triển, các dịch vụ tài chính ngân hàng thương
Triệu Mai Anh-Lớp Ngân hàng 45B
17
Trường ĐH Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
mại cung cấp càng đa dạng. Cùng với các dịch vụ ngân hàng truyền thống
như: thực hiện trao đổi ngoại tệ. chiết khấu thương phiếu và cho vay thương
mại, nhận tiền gửi, bảo quản vật có giá, tài trợ các hoạt động chính phủ, cung
cấp các tài khoản giao dịch, cung cấp dịch vụ ủy thác… thì gần đây các dịch
vụ ngân hàng mới phát triển cũng ngày càng nhiều, liên quan tới công tác tư
vấn về mặt chuyên môn của các ngành khác nhau: tư vấn tài chính, cung cấp
các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, lưu ký chứng khoán, các dịch vụ
tiện ích…
1.2.1 Dịch vụ hỗ trợ sau cho vay
Ngoài các loại hình dịch vụ trên, gần đây, các ngân hàng đang tổ chức,
nâng cao dịch vụ hỗ trợ khách hàng sau cho vay nhằm đạt hiệu quả cao trong
việc thu nợ. Loại hình này được áp dụng với các khách hàng sau khi hồ sơ

vay vốn được duyệt và giải ngân. Mỗi một khách hàng đều có mục đích vay
vốn riêng, và không ai biết chắc chắn về sự thành công trong tương lai vì vậy
luôn có khả năng xảy ra rủi ro không trả được nợ. Nhằm hạn chế rủi ro ở mức
thấp nhất, các ngân hàng sẽ đưa ra sự giúp đỡ về công nghệ, kỹ thuật, kỹ năng
quản lý tài chính, tư vấn tài chính,....
Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt và mạnh mẽ, các ngân
hàng không ngừng mở rộng và cải tiến các dịch vụ nhằm nâng hiệu quả hoạt
động. Nhu cầu về dịch vụ hỗ trợ tư vấn xuất hiện ở tất cả các lĩnh vực, các
hoạt động kinh doanh và các loại hình tổ chức. Ngân hàng thương mại nhờ
khả năng ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, đặc biệt là hệ thống
thông tin rộng lớn, nhanh chóng, chính xác, đảm bảo bí mật đã tạo điều kiện
phát triển nhanh chóng các dịch vụ này. Việc mở rộng các hoạt động hỗ trợ
của ngân hàng đã giúp khách hàng giảm thấp các rủi ro trong sản xuất, kinh
doanh, thu được lợi nhuận cao từ đó tạo ra khả năng trả nợ cho ngân hàng,
đồng thời, giúp ngân hàng nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng cường hiệu quả
Triệu Mai Anh-Lớp Ngân hàng 45B
18
Trường ĐH Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
thu nợ, củng cố và tăng cường vị thế, uy tín của ngân hàng, góp phần mở rộng
các hoạt động chính trong các lĩnh vực tín dụng, đầu tư, thanh toán…,tạo ra
các mối quan hệ tốt đẹp giữa ngân hàng với khách hàng.
Vì vậy, việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ là cần thiết, không chỉ nhằm
thu thêm lợi nhuận mà còn giải thích cho khách hàng thấy được tính chất tinh
vi của hoạt động ngân hàng, của các loại dịch vụ mới, điều đó mặc nhiên làm
tăng số lượng khách hàng của ngân hàng.
1.2.2 Các loại dịch vụ hỗ trợ sau cho vay
Lĩnh vực cung cấp dịch vụ hỗ trợ sau cho vay liên quan rất nhiều đến
hoạt động của khách hàng như cung cấp thông tin về thị trường, hỗ trợ kỹ
thuật công nghệ, tư vấn trong quản lý tổng hợp, quản lý tài chính, trong tiếp
thị và quản lý phân phối, tư vấn trong quản lý sản xuất, trong quản lý phát

triển nguồn nhân lực… Nhưng các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thường chỉ
giới hạn trong một số lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến hoạt động của ngân
hàng, chủ yếu bao gồm
• Dịch vụ cung cấp thông tin về thị trường
Các hoạt động kinh tế trên thị trường hiện nay rất phức tạp và luôn biến
động. Đó là nguyên nhân chính gây khó khăn cho các nhà quản lý trong việc
thu thập các thồng tin cần thiết và rút ra các kết luận.
Bên cạnh đó, các NHTM trong các hoạt động đầu tư, cho vay có thể tổng
hợp được nhiều thông tin liên quan đến các ngành, nền kinh tế. Chính vì vậy,
ngân hàng có thể tổ chức việc chọn lọc và cung cấp cho khách hàng những
thông tin về môi trường kinh doanh trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị,
pháp luật, đạo đức và kỹ thuật công nghệ… Để nhận được các thông tin đó,
khách hàng cần phải trả một số tiền nhất định cho ngân hàng. Ngoài ra, việc
cung cấp các dịch vụ thông tin đã làm tăng đáng kể số lượng khách hàng của
ngân hàng, bởi vì nó tạo ra sự thuận tiện hơn đối với khách hàng khi họ nhận
Triệu Mai Anh-Lớp Ngân hàng 45B
19
Trường ĐH Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
thông tin và thực hiện giao dịch ngay tại ngân hàng mà không phải đi đâu.
Các dịch vụ về thông tin hỗ trợ bao gồm: phân tích hệ thống thông tin
hiện tại, xác định các thông tin cần thiết cho quản lý chiến lược và kiểm tra
tác nghiệp, lựa chọn và đưa vào công nghệ xử lý thông tin khách hàng... Mục
đích là đảm bảo cho khách hàng không bỏ qua những thông tin cần thiết cho
các quyết định chiến lược cũng như tác nghiệp, đồng thời tránh việc thu thập
và xây dựng các thông tin mà khách hàng không trực tiếp sử dụng. Trong quá
trình này, vấn đề quan trọng là ngân hàng phải giúp đỡ khách hàng dự đoán
trước những điều kiện bất lợi từ thị trường sẽ có thể ảnh hưởng quan trọng tới
các hoạt động của khách hàng và giúp khách hàng phát huy năng lực nội bộ,
thay đổi chiến lược cho thích hợp với các cơ hội và hạn chế mới. Việc dự
đoán về thay đổi thị trường trong tương lai có thể tạo ra những cơ hội mới cho

các công ty, giúp họ thay đổi sản phẩm dịch vụ cho phù hợp nhanh hơn các
đối thủ cạnh tranh, hoặc đưa ra các sản phẩm mới đáp ứng được các mục
đích, tiêu chuẩn về chất lượng,…
Trên cơ sở giúp khách hàng xây dựng các hệ thống và quy trình trong
việc phân tích thị trường, ngân hàng còn có thể giúp khách hàng xây dựng hệ
thống theo dõi và chuẩn đoán kinh doanh thường xuyên. Việc xây dựng một
hệ thống như vậy giúp khách hàng phát hiện và ngăn chặn các cuộc khủng
hoảng có thể xảy ra. Điều đó giúp cho việc thay đổi chiến lược công ty nhằm
đảm bảo sự phát triển liên tục và bền vững của công ty.
• Dịch vụ tư vấn, hỗ trợ trong quản lý tài chính:
Tư vấn là việc đưa ra sự giúp đỡ về nội dung, phương pháp, quá trình
hoặc cơ cấu hoạt động của các doanh nghiệp. Xuất phát từ bản chất của tình
huống khách hàng gặp phải, ngân hàng đưa ra các dịch vụ tư vấn nhằm cải
thiện tình hình hiện tại hoặc có thể tạo ra tình huống hoàn toàn mới cho khách
hàng.
Triệu Mai Anh-Lớp Ngân hàng 45B
20
Trường ĐH Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Quản lý tài chính chiếm vị trí quan trọng và là điều kiện tiền đề để phát
triển hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có thể
thành công được khi có một chiến lược kinh doanh hiệu quả và bộ phận quản
lý tài chính trình độ cao. Tuy nhiên, đây là một vấn đề hết sức phức tạp đối
với các nhà quản lý doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các NHTM tiến hành thường
xuyên các hoạt động phân tích tín dụng và thẩm định dự án đầu tư có nhiều
lợi thế trong việc cung cấp các dịch vụ này.
Đa số các nhà quản lý tài chính doanh nghiệp đều có những hiểu biết cơ
bản về phân tích tài chính, nhưng những vấn đề chuyên sâu và cần thiết thì họ
hầu như còn thiếu sót. Do vậy, công việc đầu tiên của các nhà tư vấn ngân
hàng là giúp khách hàng đọc và phân tích các báo cáo tài chính. Trên cơ sở
việc phân tích các báo cáo tài chính sẽ dẫn đến việc phân tích các tỉ lệ về khả

năng thanh toán, hoạt động đầu tư, cơ cấu vốn và doanh lợi,… ngân hàng sẽ
cung cấp dịch vụ hỗ trợ tập trung vào tất cả các lĩnh vực: Phân tích tài chính;
thực hiện các dịch vụ hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc giám sát và quản trị
tài chính công ty; tư vấn tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp; hỗ trợ các
hoạt động quản trị cho các doanh nghiệp cổ phần hóa, tư vấn trong quản lý
tiền mặt,….
Tư vấn trong quản lý tiền mặt
Ngân hàng có thể trợ giúp các doanh nghiệp trong việc xây dựng một
chương trình quản lý ngân quỹ với mục đích sử dụng tiền mặt một cách hiệu
quả nhất nhưng vẫn đảm bảo khả năng thanh toán. Các biện pháp đưa ra bao
gồm việc lập kế hoạch thu chi và sử dụng các công cụ của thị trường tiền tệ.
Bằng việc phân tích tính quy luật và mức độ của các khoản thu chi trong
báo cáo lưu chuyển tiền tệ, trên cơ sở kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp
trong tương lai, ngân hàng tư vấn cho khách hàng lập ra kế hoạch thu chi tiền
tệ. Nó phản ánh mức độ chắc chắn về số lượng các luồng tiền trong tương lai
Triệu Mai Anh-Lớp Ngân hàng 45B
21
Trường ĐH Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
vào những thời gian nhất định. Thông qua đó, ngân hàng có thể giúp doanh
nghiệp cân đối ngân quỹ hiệu quả dựa vào việc sử dụng các công cụ của thị
trường tiền tệ.
Tư vấn trong việc xác định một cơ cấu vốn hiệu quả
Cơ cấu vốn của một doanh nghiệp ảnh hưởng đến các quyết định tài
chính dài hạn cũng như các chi phí vốn của doanh nghiệp. Nhà tư vấn có thể
giúp khách hàng xem xét đánh giá cơ cấu vốn hiện hành gắn với những điều
kiện thị trường và các dòng tiền mặt chu chuyển trong tương lai. Trên cơ sở
đó đưa ra các quyết định về việc có nên huy động vốn bổ sung hay không,
huy động vốn dưới hình thức nào và những điều kiện cần thiết liên quan đến
việc bổ sung thêm vốn…
Nhà tư vấn giúp khách hàng sắp xếp một cơ cấu vốn hợp lý, lập kế hoạch

dài hạn về vốn, đảm bảo khả năng huy động vốn và sử dụng vốn một cách
hiệu quả trong điều kiện kinh tế bình thường cũng như trong thời kỳ kinh tế
khó khăn.
Tư vấn trong quản lý rủi ro hối đoái
Khi các hoạt động kinh tế đối ngoại được mở rộng, các công ty có thể
gặp phải rủi ro liên quan đến sự biến động của ngoại tệ khi không có sự hiểu
biết cần thiết để hạn chế mức rủi ro. Đây là một lĩnh vực mà NHTM có thể
cung cấp các dịch vụ tư vấn hỗ trợ nhằm giúp đỡ khách hàng trong việc:
- Xác định khả năng về rủi ro hối đoái và phân biệt những loại hình rủi
ro khác nhau. Toàn bộ các tài sản tính bằng ngoại tệ đều có thể rơi vào tình
trạng của rủi ro hối đoái. Để có những biện pháp quản lý phù hợp, đầu tiên,
doanh nghiệp phải phân loại được rủi ro hối đoái:
 Khả năng rủi ro trong thương vụ: nảy sinh trong các hoạt động
mua bán quốc tế tính bằng ngoại tệ hoặc các hoạt động vay
mượn ngoại tệ khi có sự thay đổi tỷ giá của ngoại tệ đó so với
Triệu Mai Anh-Lớp Ngân hàng 45B
22
Trường ĐH Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nội tệ.
 Khả năng rủi ro trong chuyển dịch: nó có thể xảy ra đối với các
công ty đa quốc gia. Khi chuyển đổi các tài sản nợ, tài sản có từ
ngoại tệ ghi sổ sách của công ty con sang tiền hạch toán của công
ty mẹ, sự thay đổ tỷ giá có thể biến các khoản lãi thành lỗ dẫn tới
rủi ro hối đoái.
 Khả năng rủi ro về kinh tế có thể xảy ra đối với các công ty có
các đại lý bán hàng ở các nước khác nhau. Sự thay đổi tỷ giá hối
đoái không chỉ đơn thuần ảnh hưởng tới các thương vụ hiện tại
mà có tác động dài hạn đến lợi nhuận của công ty. Ví dụ khi
ngoại tệ giảm giá, công ty phải lựa chọn giữa việc giữ nguyên giá
hàng bán (làm giảm lợi nhuận bán hàng) hay tăng giá bán tương

ứng với sự sụt giá ngoại tệ (có thể dẫn đến việc giảm lượng hàng
bán ra).
- Đánh giá những hoạt động có khả năng xảy ra rủi ro, trên cơ sở các
dự đoán tốt nhất liên quan đến sự biến động tỷ giá, xác định mức thiệt hại mà
các doanh nghiệp phải gánh chịu.
- Đưa ra quyết định quản lý rủi ro hối đoái.
Trên cơ sở các dự đoán về thị trường hối đoái, nhà tư vấn khuyến khích
khách hàng của mình giữ nguyên tình trạng hối đoái hoặc đưa ra các biện
pháp chống rủi ro thông qua việc so sánh giữa thiệt hại và chi phí bảo hiểm
theo dự án.
Việc phòng chống rủi ro có thể xảy ra thường được thực hiện bằng các
biện pháp tài chính: sử dụng thị trường có kỳ hạn, quyền lựa chọn ngoại tệ
hoặc sử dụng thị trường tiền tệ nước ngoài. Với các công ty có điều kiện có
thể áp dụng các biện pháp tác nghiệp, tiến hành một hoạt động mua bán đối
ứng. Một công ty bán hàng ra nước ngoài có thể mua nguyên nhiên vật liệu
Triệu Mai Anh-Lớp Ngân hàng 45B
23
Trường ĐH Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hoặc hàng hóa tại nước đó. Một số công ty đa quốc gia có thể loại trừ rủi ro
bằng việc thúc đấy nhanh một số khoản thanh toán hoặc trì hoãn một số
khoản khác để lợi dụng sự biến động tỷ giá theo dự đoán.
Ngoài ra, ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ tư vấn/ hỗ trợ cho các tổ
chức song/đa phương thông qua việc xác định và cung cấp các chuyên gia tư
vấn chuyên nghiệp cho các dự án phát triển như các dự án phát triển nông
thôn, xoá đói, giảm nghèo.vv... Cung cấp các dịch vụ tư vấn cho các tổ
chức/nhà tài trợ quốc tế trong việc xác định đối tác, chuẩn bị kế hoạch hoạt
động, tổ chức hội thảo, triển khai các dự án trợ giúp kỹ thuật .vv...
Ngoài ra, ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ tư vấn/ hỗ trợ cho các tổ
chức song/đa phương thông qua việc xác định và cung cấp các chuyên gia tư
vấn chuyên nghiệp cho các dự án phát triển như các dự án phát triển nông

thôn, xoá đói, giảm nghèo.vv... Cung cấp các dịch vụ tư vấn cho các tổ
chức/nhà tài trợ quốc tế trong việc xác định đối tác, chuẩn bị kế hoạch hoạt
động, tổ chức hội thảo, triển khai các dự án trợ giúp kỹ thuật .vv...
Tư vấn khách hàng chống lại rủi ro lãi suất:
Ngày nay, càng có nhiều khách hàng mong muốn các ngân hàng quốc tế
giúp đỡ họ trong việc phòng chống rủi ro lãi suất – tổn thất gây ra bởi những
thay đổi bất lợi của lãi suất. Đối với khách hàng vay theo lãi suất thả nổi, lãi
suất tăng sẽ làm tăng chi phí đi vay và có thể làm giảm lợi nhuận cận biên của
các dự án đầu tư được tài trợ bằng vốn vay. Ngược lại, khách hàng cũng có
thể chịu tổn thất trong trường hợp lãi suất giảm nếu vốn của họ được đầu tư
dưới dạng tiền gửi mang lãi suất thả nổi hay vào các công cụ đầu tư ngắn hạn
khác (do đó, việc tái đầu tư sẽ được thực hiện ở mức lãi suất thấp hơn).
Tương tự như vậy, một khách hàng đi vay với lãi suất cố định sẽ không được
hưởng lợi ích khi lãi suất thị trường giảm trừ khi họ có những biện pháp
phòng ngừa hữu hiệu.
Triệu Mai Anh-Lớp Ngân hàng 45B
24
Trường ĐH Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
• Dịch vụ hỗ trợ về kỹ thuật – công nghệ:
Dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật – công nghệ có thể bao gồm việc tiến hành kiểm
kê khối lường, tiến độ máy móc hoạt động; lắp đặt, sửa chữa, kiểm tra về mặt
kỹ thuật khi tiến hành sản xuất; xem xét,dự toán quá trình chạy thử và chỉnh
lý trong quá trình vận dụng; giúp đỡ việc sắp xếp các đơn đặt hàng; thực hiện
các công việc thiết kế thăm dò, xây dựng và lắp đặt, chạy thử, chỉnh lý; thẩm
định các tài liệu dự toán của dự án đối với các đối tượng kỹ thuật phức tạp
hay một phần đối với các công trình và đối tượng khác… Ngoài ra, các ngân
hàng có thể theo yêu cầu của khách hàng đưa ra nhiệm vụ về thiết kế, giúp đỡ
về thu thập các số liệu gốc cho thiết kế, lập dự toán thực hiện sản xuất, xây
dựng, cung cấp các dịch vụ chuyên môn về kỹ thuật, dịch vụ kiểm toán…
Dịch vụ kiểm toán cho doanh nghiệp:

Ở các ngân hàng thường có các chuyên gia với trình độ chuyên môn cao
rất thuận lợi trong việc phát triển tổng hợp các dịch vụ kiểm toán đối với các
khách hàng của mình. Ở phương tây, các công ty thường sẵn sàng yêu cầu
ngân hàng về các dịch vụ này. Ngay trong điều kiện của chúng ta, khi kiểm
toán trong thực tế còn chưa phát triển thì các ngân hàng cũng đã có thể cạnh
tranh gay gắt với các công ty kiểm toán vừa mới thành lập.
Việc ngân hàng thực hiện chức năng kiểm toán còn có một mặt tốt nữa:
khi kiểm tra hoạt động của khách hàng thường xuyên của mình (theo yêu cầu
của khách hàng), ngân hàng có khả năng hiểu sâu sắc hơn về các đặc điểm
hoạt động của khách hàng, rút ra kết luận về độ tin cậy của khách hàng đó
như là một người vay vốn..
• Các loại hình dịch vụ hỗ trợ khác:
Ngoài các dịch vụ kể trên, các ngân hàng có thể thực hiện các nghiệp vụ
trung gian liên quan tới dự trữ vật tư, hàng hóa và thiết bị, việc ký kết hợp
đồng buôn bán và các hợp đồng khác giữa các khách hàng của Ngân hàng.
Triệu Mai Anh-Lớp Ngân hàng 45B
25

×