Tải bản đầy đủ (.docx) (74 trang)

Nâng cao chất lượng lao động trong tiến trình CNH, HĐH ở huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.27 KB, 74 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện đường lối “Đổi mới” nhằm mục tiêu phát triển kinh tế xã hội,
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển
nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng. Ngày nay, trong giai đoạn hội nhập
kinh tế thế giới, thì vấn đề chất lượng lao động ngày càng được quan tâm nhiều hơn
và trở thành vấn đề chủ yếu trong cạnh tranh với các nước khác. Nước ta đang thực
hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông nghiệp nông thôn
(NNNT), chủ trương xây dựng nông thôn Việt Nam phát triển bền vững và thu hẹp
khoảng cách khác biệt giữa nông thôn và thành thị. Vì vậy, phát triển và sử dụng hiệu
quả nguồn lao động NNNT, tạo cơ hội để lao động tiếp cận được thị trường và có
việc làm ổn định, tăng thu nhập là một trong các cách làm cho nông thôn ngày càng
đổi mới và phát triển.
Tuy nhiên, “Nguồn nhân lực khoa học và công nghệ còn ít về số lượng và còn
nhiều hạn chế về kiến thức, trình độ chuyên môn, kỹ năng, phương pháp làm việc
hiện đại. Cơ cấu trình độ, ngành nghề của nhân lực khoa học và công nghệ không
đồng bộ, bất hợp lý, chưa tiếp cận được với mặt bằng trí thức chung của thế giới,
năng lực sáng tạo hạn chế và hầu như chưa được thế giới công nhận (Việt Nam có
rất ít đơn đăng ký phát minh sáng chế được tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới cấp và rất
ít nhà khoa học Việt Nam có bài viết được công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế
có uy tín được thế giới công nhận)”
Lao động chất lượng cao đang thiếu hụt nhưng lại có xu hướng rời khu vực
NNNT, tìm đến thành thị để mang lại thu nhập cao hơn. Chính vì vậy, nâng cao chất
lượng lao động NNNT nhằm bổ sung lượng nhân lực mất đi do di chuyển qua các
ngành kinh tế khác đồng thời đưa mặt bằng chất lượng lao động của khu vực này lên
Như vậy, có thể thấy rằng, chất lượng nguồn lao động NNNT còn ở mức thấp
là vấn đề chung ở nhiều tỉnh thành của nước ta. Làm thế nào để nâng cao chất lượng
nguồn lao động NNNT đã trở thành mối quan tâm của nhiều địa phương, nhất là
trong bối cảnh hội nhập hiện nay.
1 1
Huyện A Lưới là một huyện miền núi của tỉnh Thừa Thiên Huế. Trong thời


gian qua, huyện đang nổ lực phấn đấu, tiến hành CNH, HĐH nền kinh tế để sớm trở
thành thị xã vùng cao miền Tây Trường Sơn. Do những đặc thù kinh tế xã hội riêng
của mình, nên chính sách phát triển kinh tế - xã hội của huyện có nhiều điểm khác
biệt so với tỉnh Thừa Thiên Huế và nhiều địa phương khác. Nhận thấy tầm quan trọng
của việc phát triển nguồn lao động, huyện đã có những chiến lược nhất định để phát
triển nguồn lao động trong những năm qua.
Tuy vậy, thực tế đã và đang nảy sinh nhiều vấn đề đáng quan tâm, đó là tỷ lệ
lao động qua đào tạo nghề thấp, lao động chất lượng cao chưa nhiều và lao động này
thường không muốn ở lại địa bàn để làm việc. Lao động phần lớn là lao động chân
tay phục vụ cho các ngành nông lâm nghiệp và xây dựng. Bên cạnh đó chính sách về
nâng cao chất lượng nguồn lao động chưa cụ thể, chưa có những cuộc điều tra thống
kê thực trạng nguồn lao động trên địa bàn huyện một cách sâu sắc.
Chính vì những lý do trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài:
“Nâng cao chất lượng lao động trong tiến trình CNH, HĐH ở huyện A
Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế”.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Chính sách phát triển nhân lực là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước,
chính vì vậy đã có rất nhiều nghiên cứu ở các cấp độ từ trung ương đến địa phương
về vấn đề trên. Nổi bật có “Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam đến năm 2020,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 4/2007. Sách "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực dân tộc
thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên hiện nay", PGS.TS Nguyễn
Đình Hoè chủ biên, nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2009.
Ngoài ra còn nhiều bài báo đăng trên nhiều tạp chí khác nhau, đáng chú ý có,
Bài báo: “Về nguồn nhân lực của Việt Nam trong năm 2010 và những năm sau” của
PGS,TS Đức Vượng, đăng ngày 24/02/2010 trên báo điện tử
“”. Bài báo: “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế”, của tác giả Phạm Công Nhất, đăng
2 2
ngày 15/4/2008, trên báo điện tử đảng Cộng sản Việt Nam
“”

Nhận thấy, chưa có đề tài nào chọn nghiên cứu chất lượng lao động NNNT
trên địa bàn huyện A Lưới nên tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Nâng cao chất lượng lao
động NNNT trong tiến trình CNH, HĐH ở huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế”
làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích của đề tài là đánh giá chất lượng lao động NNNT ở huyện A Lưới,
tỉnh Thừa Thiên Huế, từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao chất lượng lao động NNNT trên địa bàn huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Nhiệm vụ của đề tài:
+ Hệ thống hóa các vấn đề lý luận và thực tiển về chất lượng lao động, nâng
cao chất lượng lao động NNNT nói chung và kinh nghiệm nâng cao chất lượng lao
động ở một số địa phương trong nước.
+ Đánh giá thực trạng chất lượng lao động NNNT ở huyện A Lưới trong tiến
trình CNH, HĐH, ưu nhược điểm, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra.
+ Xây dựng phương hướng, giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao chất
lượng lao động ở huyện A Lưới trong những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: đề tài nghiên cứu nguồn lao động trong NNNT giai
đoạn CNH, HĐH ở huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Phạm vi nghiên cứu: địa bàn huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế trong thời
gian 2005- 2010 và đề xuất giải pháp đến 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác_Lênin. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp thống kê kinh tế
- Phương pháp thu thập số liệu
- Phương pháp chuyên gia
3 3
- Phương pháp phỏng vấn, dùng bảng hỏi
- Phương pháp tổng hợp và xử lý số liệu

5.1. Phương pháp duy vật biện chứng
Đây là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng và quá trình kinh tế xã hội
trong mối liên hệ chung và sự tác động qua lại lẫn nhau trong trạng thái phát triển
không ngừng, trong tiến trình đó sự tích lũy về lượng sẽ dẫn đến những biến đổi về
chất. Phép biện chứng duy vật coi nguồn gốc của sự phát triển là sự thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập. Phương pháp này cho phép phân tích đánh giá một
cách khách quan các vấn đề nâng cao chất lượng lao động NNNT dưới sự ảnh hưởng
của các nhân tố kinh tế -xã hội.
5.2. Phương pháp duy vật lịch sử
Là phương pháp nghiên cứu sự vật và hiện tượng trong quá trình phát sinh,
phát triển của nó. Đòi hỏi đặt vấn đề nghiên cứu trong một tiến trình lịch sử nhất
định. Phương pháp này yêu cầu nghiên cứu quá trình nâng cao chất lượng lao động
NNNT trong giai đoạn CNH, HĐH với những đặc điểm khách quan và chủ quan
khác nhau.
5.3. Phương pháp thống kê kinh tế
Phương pháp này giúp cho việc tổng hợp và phân tích thống kê các tài liệu
điều tra về thực trạng nâng cao chất lượng lao động ở huyện A Lưới. Trên cơ sở các
số liệu thu thập được, chúng ta có nhận thức đầy đủ, chính xác về sự thay đổi và biến
động của các yếu tố liên quan đến vấn đề nghiên cứu cũng như sự ảnh hưởng của các
yếu tố cấu thành nền kinh tế. Đây là phương pháp cho phép lượng hóa các kết luận và
kết quả nghiên cứu có tính thuyết phục cao.
5.4. Phương pháp thu thập số liệu
Đề tài chủ yếu sử dụng các số liệu thứ cấp từ niên giám thống kê của Tổng
cục thống kê, cục thống kê thỉnh Thừa Thiên Huế và phòng Thống kê huyện A Lưới;
các số liệu kế hoạch và các báo cáo tổng kết tình hình kinh tế xã hội của huyện từ
năm 2005-2010; các số liệu từ các chương trình dự án đầu tư trên địa bàn, các kết quả
nghiên cứu, điều tra, quy hoạch của các ngành chuyên môn đã thực hiện trên địa bàn
4 4
huyện và các tài liệu đã được đăng tải trên báo chí, tạp san, các đề tài khoa học trung
ương và địa phương.

Tôi dự kiến thu thập số liệu thực tế thông qua các bảng hỏi ở năm địa ngẫu
nhiên trên địa bàn A Lưới: ở khu vực trung tâm có xã A Ngo, phía tây có xã Hồng
Bắc, phía đông có xã Hồng Hạ, phía bắc có xã Hồng Trung, phía Nam có xã Hương
Phong. Mẫu đảm bảo tính điển hình khi chọn ra các địa bàn theo các trục phát triển
kinh tế của huyện, đồng thời có cả địa bàn có kinh tế phát triển và địa bàn có trình độ
phát triển thấp hơn, các xã có khoảng cách xa trung tâm huyện và gần trung tâm
huyện. Các xã được chọn trên đều là những xã được xếp trong tiêu chí là các xã nông
thôn. Trong phương pháp này gặp khó khăn nhất là địa bàn nằm rãi rác trên diện tích
rộng, đồng thời quá trình điều tra lại vào đúng mùa mưa của phía Tây Trường Sơn
nên khá khó khăn đi lại và bảo quản tài liệu. Bên cạnh đó, nhiều lao động không biết
chữ, tự mình phải đặt các câu hỏi phù hợp để khai thác thông tin.
5.5. Phương pháp chuyên gia
Là phương pháp thu thập ý kiến đóng góp của những người có kiến thức
chuyên sâu về vấn đề nghiên cứu như lãnh đạo các ban ngành trên địa bàn, các nhà
khoa học có kiến thức liên quan. Trong phương pháp này sử dụng phỏng vấn những
người đứng đầu cơ quan huyện ở những bộ phận quan trọng như Ban dân vận, phó
chủ tịch ủy ban. Mục đích là khai thác những nhận định để đưa vào bài biết nhằm
tăng tính sát thực với điều kiện địa phương.
5.6. Phương pháp phỏng vấn, dùng bảng hỏi
Phương pháp này dùng để xác định lại thực tế đúng đắn của các số liệu, nhân
định đã có, bên cạnh đó cũng nhằm thu thập thêm các thông tin mang tính cảm tính,
các nhận định cá nhân của người dân.
5.7. Phương pháp tổng hợp và xử lý số liệu
Đề tài sử dụng các phần mềm vi tính như SPSS, Excel để tổng hợp và tính
toán các chỉ tiêu kinh tế xã hội, lao động. Các chỉ tiêu nghiên cứu chủ yếu được sử
dụng chủ yếu trong đề tài là:
* Các chỉ tiêu phản ánh kết cấu và năng suất
5 5
- Chỉ tiêu kết cấu
- Chỉ tiêu về năng suất

* Các chỉ tiêu phản ánh mức độ tăng trưởng và biến động của các hiện tượng
- Chỉ tiêu tốc độ phát triển
+ Tốc độ phát triển liên hoàn
+ Tốc độ phát triển định gốc
+ Tốc độ phát triển bình quân
- Chỉ tiêu tốc độ tăng giảm
+ Tốc độ tăng giảm liên hoàn
+ Tốc độ tăng giảm định gốc
+ Tốc độ tăng giảm bình quân
Chỉ số phát triển con người (Human Development Index - HDI) là chỉ số so
sánh, định lượng về mức thu nhập, tỷ lệ biết chữ, tuổi thọ và một số nhân tố khác của
các quốc gia trên thế giới. HDI giúp tạo ra một cái nhìn tổng quát về sự phát triển của
một quốc gia. Chỉ số này được phát triển bởi một kinh tế gia người
Pakistan là Mahbub ul Haq vào năm 1990
6. Kết quả dự kiến
- Phân tích được thực trạng chất lượng lao động NNNT ở huyện A Lưới.
- Đưa ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động NNNT ở huyện A
Lưới.
7. Kết cấu đề tài
Gồm 3 phần phần mở đầu, phần nội dung với 3 chương và phần kết luận
Cụ thể như sau:
Phần 1- Mở đầu
Phần 2- Nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiển của chất lượng lao động trong tiến trình
CNH, HĐH
Chương 2: Thực trạng chất lượng lao động NNNT ở huyện A Lưới, tỉnh Thừa
Thiên Huế
6 6
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng lao động NNNT ở
huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế

Phần 3- Kết luận
NỘI DUNG
Chương 1- Cơ sở lý luận và thực tiển của chất lượng lao động trong
tiến trình CNH, HĐH
1.1. Nguồn lao động, chất lượng lao động NNNT
7 7
1.1.1. Khái niệm lao động, nguồn lao động, lao động NNNT, chất lượng lao
động
1.1.1.1. Lao động và nguồn lao động
Lao động và nguồn lao động là một khái niệm khá rộng. Vì thế ở mỗi ngành,
mỗi lĩnh vực và tùy mỗi góc độ tiếp cận khác nhau thì có những quan điểm khác
nhau. Có nhiều từ ngữ được sử dụng đẻ hàm ý nói đến nguồn lao động đó là nhân
lực, nguồn nhân lực, lao động. Những từ ngữ này có khác nhau về các gọi, nhưng
được sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu từ trước đến nay với cùng một ngữ
nghĩa như nhau.
Thuật ngữ nguồn nhân lực xuất hiện vào thập niên 80 của thế kỷ XX khi
mới có sự thay đổi căn bản về phương thức quản lý, sử dụng con người trong
kinh tế lao động. Nếu như trước đây phương thức quản trị nhân viên với các
đặc trưng coi nhân viên là lực lượng thừa hành, phụ thuộc, cần khai thác tối đa
sức lao động của họ với chi phí tối thiểu thiểu từ những năm 80 đến nay với
phương thức mới, quản lý nguồn nhân lực với tính chất mềm dẻo hơn, linh hoạt
hơn, tạo điều kiện tốt hơn để người lao động có thể phát huy ở mức cao nhất các
khả năng tiềm tàng, vốn có của họ thông qua tích lũy tự nhiên trong quá trình lao
động phát triển. Có thể nói sự xuất hiện của thuật ngữ "nguồn nhân lực" là một
trong những biểu hiện cụ thể cho sự thắng thế của phương thức quản lý mới đối
với phương thức quản lý cũ trong việc sử dụng nguồn lực con người.
Có khá nhiều những định nghĩa khác nhau về “nguồn nhân lực" chẳng hạn
như:
Theo từ điển kinh tế chính trị: “Nguồn nhân lực là bộ phân dân cư của đất
nước, có toàn bộ những khả năng thể chất, tinh thần có thể được sử dụng trong

quá trình lao động”. [10]
Nguồn nhân lực là nguồn lực con người của những tổ chức (với quy mô,
loại hình, chức năng khác nhau) có khả năng và tiềm năng tham gia vào quá
trình phát triển của tổ chức cùng với sự phát triển kinh tế -xã hội của quốc gia,
khu vực, thế giới . Cách hiểu này về nguồn nhân lực xuất phát từ quan niệm coi
8 8
nguồn nhân lực là nguồn lực với các yếu tố vật chất, tinh thần tạo nên năng lực,
sức mạnh phục vụ cho sự phát triển nói chung của các tổ chức;
Theo các tiếp cận của WB (Ngân hàng thế giới): “ Nguồn nhân lực là toàn
bộ vốn, thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… mà mỗi cá nhân sở hữu. Đây cũng là
hướng tiếp cận của bộ môn khoa học kinh tế hiện đại, xem nguồn nhân lực là một
loại nguồn lực bên cạnh các nguồn lực khác của quá trình sản xuất như vốn, công
nghệ, cơ sở vật chất, tài nguyên thiên nhiên,…
Trong báo cáo của Liên hợp quốc đánh giá về những tác động của toàn cầu
hóa đối với nguồn nhân lực đã đưa ra định nghĩa nguồn nhân lực là trình độ
lành nghề, kiến thức và năng lực thực có thực tế cùng với những năng lực tồn
tại dưới dạng tiềm năng của con người. Quan niệm về nguồn nhân lực theo
hướng tiếp cận này có phần thiên về chất lượng của nguồn nhân lực. Trong
quan niệm này, điểm được đánh giá cao là coi các tiềm năng của con người cũng
là năng lực khả năng để từ đó có những cơ chế thích hợp trong quản lý, sử dụng.
Ở mỗi nước khác nhau trên thế giới cũng có những quan niệm khác nhau về
nguồn nhân lực, mỗi quan niệm thể hiện được những đặc trưng riêng, quan điểm
riêng của từng nước.
Ở Autralia, quan niệm về nguồn nhân lực là toàn bộ những người bước vào
tuổi lao động, có khả năng lao động, và quan niệm này không giới hạn về tuổi của
nguồn nhân lực.
Ở Pháp, nguồn nhân lực là những người ở trong độ tuổi lao động có khả
năng lao động và mong muốn có việc làm.
Tuy có những định nghĩa khác nhau tuỳ theo giác độ tiếp cận nghiên
cứu nhưng điểm chung mà ta có thể dễ dàng nhận thấy qua các định nghĩa trên về

nguồn nhân lực là:
Số lượng nhân lực. Nói đến nguồn nhân lực của bất kỳ một tổ chức, một địa
phương hay một quốc gia nào câu hỏi đầu tiên đặt ra là có bao nhiêu người và sẽ
có thêm bao nhiêu nữa trong tương lai. Đấy là những câu hỏi cho việc xác định
số lượng nguồn nhân lực. Sự phát triển về số lượngg nguồn nhân lực dựa trên hai
9 9
nhóm yếu tố bên trong (ví dụ: nhu cầu thực tế công việc đòi hỏi phải tăng số
lượng lao động) và những yếu tố bên ngoài của tổ chức như sự gia tăng về dân số
hay lực lượng lao động do di dân;
Chất lượng nhân lực. Chất lượng nhân lực là mặt tổng hợp của nhiều yếu tố
bộ phận như trí tuệ, trình độ, sự hiểu biết, đạo đức, kỹ năng, sức khoẻ, thẩm
mỹ.v.v... của người lao động. Trong các yếu tố trên thì trí lực và thể lực là hai yếu tố
quan trọng trong việc xem xét đánh giá chất lượng nguồn nhân lực;
Như vậy, chất lượng lao động là một phần nội dung của nguồn lao động
phản ánh mặt chất của lực lượng lao động trong nền kinh tế quốc dân.
Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng con người là chủ thể, vừa là sản phẩm của
lịch sử. Với tư cách là thực thể xã hội, thông qua hoạt động thực tiển con người tác
động vào giới tự nhiên, cải biến giới tự nhiên và thúc đẩy sự vận động phát triển
của lịch sử xã hội. Hoạt động lao động sản xuất không chỉ là điều kiện tồn tại mà
còn là phương thức để biến đổi đời sống và thay đổi bộ mặt xã hội. Do vậy, mỗi
bước tiến của lịch sử, của xã hội luôn là kết quả hoạt động thực tiển của con
người.
Trên cơ sở nắm bắt quy luật, thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, con
người thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục đích và nhu cầu
đặt ra. Từ đó khẳng định: “Không có hoạt động của con người thì không có quy
luật xã hội và cũng không có xã hội loài người”.
Ngoài ra Ph. Ăngghen khi nói về vai trò con người đối với sự phát triển kinh
tế xã hội đã nhấn mạnh: …chỉ có phương tiện cơ giới và hóa học phù hợp thì không
đủ. Còn cần phải phát triển một cách tương xứng năng lực của con người sử dụng
những phương tiện đó nữa”.

Quan điểm phát triển nguồn nhân lực được khái quát trong tư tưởng của
chủ tịch Hồ Chí Minh, “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”.
Ở Việt Nam, trong các kì đại hội, từ kì đại hội I đến đại hội V, Bắt đầu từ kì
đại hội VI khi thực hiện đường lối đổi mới thì những hệ thống quan điểm về nguồn
10 10
nhân lực được hình thành và được đặt trong mối quan hệ với quá trình CNH của
đất nước.
Đại hội VI, xác định nhiệm vụ bao trùm tổng quát ổn định tình hình kinh tế
xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh CNH, HĐH
trong những chặng đường tiếp theo. Khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là về phát triển nguồn lực, phát huy nhân tố
con người.
Đại hội VII, khẳng định tiếp tục hoàn thiện và phát triển đường lối đổi mới
do đại hội VI khởi xướng.
Đại hội VIII, chủ trương xây dựng nền kinh tế mở; lấy việc phát huy con
người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. “Phát huy nguồn
lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Đại hội
cũng khẳng định rằng: “ Phải đào tạo những người công dân dưới chế độ Chủ
nghĩa xã hội phải vừa “hồng” vừa “chuyên”. “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát
huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của
công cuộc HĐH”.
Đại hội IX, phát huy những lợi thế của đất nước, gắn CNH với HĐH, từng
bước phát triển kinh tế tri thức; phát huy nguồn trí tuệ và sức mạnh tinh thần của
con người Việt Nam, đặc biệt coi trọng phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ, xem đây là nền tảng và động lực cho CNH, HĐH. “Con người và nguồn
nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH cần
tạo chuyển biến cơ bản toàn diện về giáo dục đào tạo….Đào tạo lớp người lao
động có kiến thức cơ bản làm chủ kỹ năng, nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết
thực, nhạy cảm với cái mới có ý thức vươn lên về khoa học và công nghệ. Xây dựng
đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia và nhà khoa học, nhà văn hoá, nhà

kinh doanh, nhà quản lý. Chính sách sử dụng lao động và nhân tài phải tận dụng
mọi năng lực phát huy, mọi tiềm năng của các tập thể và cá nhân phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. ”
11 11
Đại hội X, “Xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta xây dựng là một xã
hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh ; do nhân dân lao động
làm chủ ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất...”. Đại hội
X còn chỉ rõ phải phát huy kinh tế tri thức, nghĩa là phải phát huy yếu tố con người
đây là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và của CNH, HĐH. Đại hội xác định rõ mục
tiêu của chiến lược phát triển kinh tế -xã hội 10 năm (2001-2010 ) là : “Đưa nước
ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá,
tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học
và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế quốc phòng an ninh được tăng
cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về
cơ bản, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”.
Đại hội 11 xác định, Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo,
chất lượng nguồn nhân lực; phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức. Tập
trung giải quyết vấn đề việc làm và thu nhập cho người lao động, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỉ lệ hộ nghèo; cải thiện điều
kiện chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Tiếp tục xây dựng nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá tốt đẹp
của dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
1.1.1.2. Lao động NNNT, các đặc điểm của lao động NNNT
Việc nghiên cứu nguồn nhân lực trong nông nghiệp có ý nghĩa rất to lớn đối
với sự phát triển nông nghiệp cũng như đối với sự phát triển của toàn bộ nền kinh
tế quốc dân nói chung. Nguồn nhân lực trong nông nghiệp là tổng thể sức lao động
tham gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, bao gồm số lượng và chất lượng

của người lao động. Lao động trong nông nghiệp không chỉ bao gồm những người
trong độ tuổi lao động như khái niệm thông thường mà gồm cả những người trên
và dưới độ tuổi có khả năng và thực tế tham gia lao động. Lao động NNNT là lực
12 12
lượng lao động sống trong khu vực nông thôn và lao động trong các ngành kinh tế
nông nghiệp. Để hiểu làm rõ khái niệm lao động NNNT, cần xem xét các khái niệm
liên quan, như kinh tế nông nghiệp, kinh tế nông thôn. Khu vực nông thôn là khái
niệm phân biệt với khu vực thành thị trong phân chia khu vực kinh tế, nó “là một
phức hợp những nhân tố cấu thành của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
trong nông- lâm- ngư nghiệp, cùng với các ngành tiểu- thủ công nghiệp, công
nghiệp chế biến và phục vụ nông nghiệp, các ngành thương nghiệp và dịch vụ... tất
cả có quan hệ hữu cơ với nhau trong kinh tế vùng và lãnh thổ trong toàn bộ nền
kinh tế quốc dân”. Kinh tế nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm các ngành nông
nghiệp nghĩa hẹp (trồng trọt, chăn nuôi) và các ngành lâm nghiệp, ngư nghiệp. Ở
Việt Nam, trong kinh tế nông thôn thì kinh tế nông nghiệp là chủ yếu và nhiều khi
gây nhầm lẫn giữa kinh tế nông thôn và kinh tế nông nghiệp. Bên cạnh đó, lao
động trong khu vực nông thôn nhiều khi tham gia cả vào quá trình sản xuất nông
nghiệp và cũng tham gia vào các ngành kinh tế khác trong khu vực nông thôn, làm
cho việc phân chia lao động nông nghiệp, nông thôn và lao động nông thôn trở nên
thiếu chính xác. Tuy nhiên, tựu chung lại, điều kiện để xác định lao động đó là lao
động nông nghiệp, nông thôn cần xem xét nơi lưu trú có phải ở nông thôn hay
không và ngành nghề của lao động đúng là nông nghiệp theo nghĩa rộng.
Lao động NNNT là bộ phận quan trọng trong cơ cấu lao động của nền kinh
tế quốc dân. Vì đây là bộ phận lao động đáp ứng các nhu cầu về lương thực, thực
phẩm và các nhu cầu cơ bản khác của xã hội. Do tính chất đặc biệt của nền sản
xuất nông nghiệp nên, lao động NNNT có một số đặc trưng cơ bản sau.
Thứ nhất, lao động mang tính chất thời vụ cao, là một đặc trưng điển hình
tuyệt đối không thể xóa bỏ, điều này làm gia tăng tính phức tạp trong sử dụng lao
động. Điều này do đặc điểm tự nhiên, khí hậu và đặc tính của cây trồng vật nuôi
quy định.

Thứ hai, lao động nông nghiệp là thứ lao động tất yếu, xu hướng có tính
quy luật là không ngừng thu hẹp về số lượng và được chuyển một bộ phận sang
13 13
các ngành khác. Vì thế số lao động ở lại trong khu vực nông nghiệp là thường là
những người có đọ tuổi trung bình cao và tỷ lệ này có xu hướng tăng lên.
Thứ ba, sống ở nông thôn, để được xem là lao động nông nghiệp, nông
thôn thì điều đầu tiên đó là phải sinh sống trong khu vực nông thôn.
Thứ tư, lực lượng lao động sử dụng phương thức lao động thủ công là
chính. Do đặc điểm lịch sử phát triển sản xuất nên ở các nước đang phát triển, dù
đã có đưa vào những thiết bị cơ giới hiện đại, nhưng lao động thủ công vẫn là
chính. Điều này cũng xuất phát từ việc sử dụng các thiết bị thì cần vốn lớn và trình
độ nắm bắt kỹ thuật, bên cạnh đó, do điều kiện tự nhiên như địa hình, thời tiết
không cho phép áp dụng rộng rãi các thiết bị hiện có, cũng như hiệu quả áp dụng
chưa cao.
Bên cạnh những đặc điểm chung của lao động nông nghiệp đó, thì ở Việt
Nam, xuất phát từ tình hình cụ thể của một nước nông nghiệp lâu đời và những
đặc điểm về xã hội, kinh tế,.. riêng nên có những đặc trưng riêng:
Thứ nhất, trình độ văn hóa, kỹ thuật của đa phần lao động đang ở mức
thấp so với thế giới. Có khoảng 63% lao động NNNT chưa được qua đào tạo. Hiện
nay nước ta có 13 triệu hộ nông dân với hơn 30 triệu lao động trong độ tuổi,
nhưng mới có 17% trong số đó được đào tạo chủ yếu thông qua các lớp tập huấn
khuyến nông sơ sài. Trong số 16,5 triệu thanh niên nông thôn đang cần có việc làm
ổn định thì chỉ có 12% tốt nghiệp phổ thông trung học; 3,11% có trình độ chuyên
môn kỹ thuật từ trung cấp trở lên (thấp hơn 4 lần so với thanh niên đô thị). Với
trình độ như vậy họ khó có thể áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông
nghiệp có ứng dụng công nghệ cao, đủ sức cạnh tranh với sản phẩm hàng hóa
nông sản trong khu vực và cũng khó có thể tìm được việc làm ở các doanh nghiệp
đòi hỏi lao động phải qua đào tạo và đạt trình độ tay nghề cao.
Thứ hai, sức khỏe của lao động chưa cao. Mặc dù chiều cao của thanh niên
Việt Nam 18 tuổi đã được cải thiện (năm 2003: nam 163,7 cm, nữ 153 cm) nhưng

so với Chuẩn quốc tế (nam 176,8 cm, nữ 163,7 cm) thì chiều cao của thanh niên
Việt Nam còn thấp hơn rất nhiều (13,1 cm đối với nam và 10,7 cm đối với nữ). Một
14 14
số chỉ tiêu phản ánh về sức khoẻ bà mẹ, trẻ em còn yếu kém: Tỷ suất tử vong mẹ
còn cao, gấp 2 lần so với một số nước trong khu vực như Thái Lan, Singapore,
Malayxia, gấp 4 lần so với Hàn Quốc. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân và thể thấp
còi của trẻ em dưới 5 tuổi của cả nước còn 21,2% và 33,9% (2007) nhưng ở một
số vùng như Bắc Trung bộ, Tây Nguyên, Tây Bắc tỷ lệ này vẫn còn cao, trên 25% và
trên 40%. “Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, tính đến
đầu những năm 2000, nước ta có khoảng 5,3 triệu người khuyết tật, chiếm 6,3%
tổng dân số. Trong đó 1,5 triệu người được xếp vào loại khuyết tật nặng. Nguyên
nhân khuyết tật trên 1/3 là do bẩm sinh, 1/3 là do bệnh tật, 1/4 là do hậu quả
chiến tranh. Dự báo trong những năm tới tỷ lệ người khuyết tật trên tổng số dân
sẽ tăng do tai nạn giao thông hoặc do tai nạn nghề nghiệp và do ô nhiễm môi
trường trong quá trình CNH, HĐH”. Mặc dù tuổi thọ bình quân của nước ta khá
cao (73,7 tuổi) nhưng theo đánh giá của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tuổi thọ
bình quân khỏe mạnh của Việt Nam rất thấp, chỉ đạt 58,2 tuổi, xếp thứ 116/174
nước (năm 2002). Điều này xuất phát từ điều kiện kinh tế chưa cao nên hạn chế
trong việc bảo vệ sức khỏe lao động.
Ba là, lao động NNNT của nước ta có kỹ năng và kinh nghiệm trong sản
xuất tốt nhờ quá trình tích lũy dài lâu của lịch sử nông nghiệp nước ta. Đồng thời,
thông minh và cần cù là những phẩm chất sẵn có của người lao động.
1.1.2. Sự cần thiết nâng cao chất lượng lao động nông nghiệp, nông thôn
trong quá trình CNH, HĐH
Bước vào thời đại toàn cầu hóa triệt để, quá trình hội nhập kinh tế đã trở
nên sâu rộng hơn bao giờ hết, mọi quốc gia đều phải nổ lực để tránh khỏi tụt hậu
và Việt Nam cũng không thể nằm ngoài sự phát triển chung đó. CNH, HĐH là sự
lựa chọn bắt buộc để đưa một nước từ nền nông nghiệp lạc hậu lên một nền kinh
tế tiên tiến hiện đại và không bị tụt hậu so với thế giới. Đó cũng là con đường rút
ngắn nhằm chuẩn bị những điều kiện cơ bản về cơ sở vật chất kỹ thuật cho quá

trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một quá trình lâu dài, có lộ trình riêng và
15 15
cần những bước đi hợp lý và sự huy động một cách tối đa các nguồn lực, đặc biệt
là nguồn lực con người.
Hội nghị lần thứ năm khóa IX (tháng 3 năm 2002) của Đảng nêu quan điểm
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu của CNH, HĐH đất nước. Trong đó, vấn đề con người là vấn đề quan trọng
hàng đầu và trở thành động lực chính cho quá trình CNH, HĐH.
Hiện tại, nước ta có lực lượng lao động nông nghiệp trong độ tuổi trên 24
triệu người, chiếm 55,7% tổng số lao động xã hội. Tuy vậy, chất lượng lao động thì
vẫn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Theo điều tra của Diễn
đàn kinh tế thế giới (WEF) năm 2005: nguồn nhân lực Việt Nam về chất lượng
được xếp hạng 53/59 quốc gia được khảo sát. Trong nền kinh tế cạnh tranh mạnh
mẽ hiện nay, nâng cao chất lượng lao động đã trở thành yêu cầu bức thiết nếu
không muốn nói là bắt buộc. Nhân lực chất lượng cao trở thành lợi thế cạnh tranh
hàng đầu.
1.1.3. Nội dung của chất lượng lao động NNNT
Tùy theo các tiếp cận khái niệm về chất lượng lao động thì có những nội
dung khác nhau của chất lượng nguồn lao động. Tuy nhiên, theo khái niệm chung
nhất về chất lượng lao động thì có 4 nội dung quan trọng cần xem xét. Đó là sức
khỏe; văn hóa, giáo dục-đào tạo; cơ cấu lao động trong nền kinh tế; và năng suất
lao động.
1.1.3.1. Sức khỏe
Để đánh giá chất lượng lao động thì yếu tố đầu tiên không thể thiếu đó là
yếu tố về sức khỏe, bởi sức khỏe là yếu tố cốt lõi trong việc thực hiện quá trình lao
động của người lao động. Không có sức khỏe tốt thì không thể tham gia tốt vào
quá trình lao động đó là điều chắc chắn. Để đánh giá mặt sức khỏe của chất lượng
nguồn lao động, thông thường sử dụng các chỉ số sau:
Đầu tiên là, chiều cao cân nặng trung bình. Đây là chỉ số phản ánh những
chỉ tiêu sức khỏe cơ bản của nguồn lao động. Mối quan hệ giữa thể hình và thể

16 16
trạng chỉ ra rằng, hầu hết những lao động có thể hình không tốt thì sức khỏe cũng
không thể bằng những lao động khác.
Tiếp theo là, giới tính, độ tuổi. Giới tính trong sản xuất nông nghiệp có ý
nghĩa khá lớn. Thông thường lao động nông nghiệp yêu cầu sức khỏe và sự chịu
đựng tốt trong những điều kiện khá khắc nghiệt, chính vì thế lao động nữ sẽ không
đáp ứng được nhiều yêu cầu. Tuổi tác cũng vậy, những độ tuổi lớn quá hay nhỏ
quá thì tạo ra hiệu quả kém hơn hẳn so với những người trong độ tuổi lao động.
Đặc điểm của lao động NNNT là hầu hết những người trong gia đình, không kể
tuổi tác và giới tính đều tham gia vào hầu hết các khâu lao động. mặt khác, trên
thực tế ở các địa phương nước ta, tình trạng lao động trong độ tuổi sung mãn và
nhất là lao động nam ra thành thị kiếm sống rất nhiều, tạo nên tình trạng hụt lao
động chính ở nông thôn. Chính vì thế, đây là một trong những tiêu chí quan trọng
đánh giá chất lượng lao động nông nghiệp, nông thôn ở một khu vực.
1.1.3.2. Văn hóa, Giáo dục- đào tạo
Bên cạnh yếu tố thể lực, thì yếu tố trí lực cũng là một nội dung quan trọng
phản ánh chất lượng lao động. Yếu tố này tác động cả trực tiếp và gián tiếp đến
quá trình lao động.
Khi đánh giá yếu tố trí lực của lực lượng lao động cần quan tâm đầu tiên đó
là trình độ văn hóa. Trình độ văn hóa là tiêu chí về mức độ hoàn thành các cấp học
cơ bản của một nền giáo dục, ở Việt Nam đó là 12 cấp học từ lớp 1 đến lớp 12.
Trong nội dung này, để đánh giá được sâu hơn về trình độ văn hóa, cần đánh giá
them về mức độ đào tạo. Mức độ đào tạo phản ánh mức độ học tập của người dân,
ngoài việc đánh giá trình độ văn hóa thì đánh gia thêm về quá trình học theo học
các chương trình cao hơn như trung cấp, đại học và trên đại học. Điều này phản
ánh chất lượng ở mức cao của lao động.
Tiếp theo là trình độ chuyên môn kỹ thuật, nội dung này cho thấy kiến thức
và kỹ năng của lao động trong những nghành nghề cụ thể, đây là nội dung quan
trong phản ánh năng lực hoạt động thực tiển của lao động.
17 17

Một nội dung không kém phần quan trọng đó là, đạo đức, nhận thức chính
trị. Một lao động có chất lượng cao thì cũng phải phù hợp với các yếu tố về văn
hóa xã hội và chính trị của quốc gia.
Khả năng sáng tạo và tự giác lao động thể hiện tinh thần tự nguyện, tự giác
tham gia và quá trình lao động xã hội như một nhu cầu tất yếu, điều này thể hiện
trong nguyện vọng làm việc và tính thần đam mê công việc.
1.1.3.3. Năng suất lao động
Đây là chỉ tiêu cực kỳ quan trọng trong đánh giá chất lượng lao động , nó
phản ánh trình độ sử dụng lao động. Là nội dung phản ánh hiệu quả của quá trình
lao động. Lao động trong nghành nông nghiệp có giá trị thấp hơn so vơi các ngành
khác trong nền kinh tế bởi chịu sự chi phối của điều kiện tự nhiên.
Mức độ gia tăng năng suất lao động qua các thời kỳ chỉ ra sự tiến bộ trong
sử dụng lao động. Tuy vậy, sự gia tăng này có ổn định không và nguyên nhân của
quá trình gia tăng do đâu thì quyết định mặt chất của sự gia tăng này.
Việc áp dụng các thành tựu khoa học vào sản xuất thường mang lại sự năng
suất chất lượng cao, trình độ kỹ năng của người lao động cũng ảnh hưởng lớn đến
năng suất lao động về mặt chất.
Như vậy, cả ba nội dung trên phản ảnh một các trực tiếp và gián tiếp về
mặt chất lượng của lao động. Nghiên cứu chất lượng lao động của một địa
phương cần nghiên cứu đi sâu và ba nội dung này để làm sáng tỏ chất lượng thực
sự của lao động tại đó. Ngoài ba nội dung này cũng còn nhiều nội dung khác để
đánh giá chất lượng lao động, tuy nhiên đây là ba nội dung quan trọng nhất cần
được làm rõ.
1.1.4. Nâng cao chất lượng lao động, mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng
lao động với quá trình CNH HĐH NNNT
Nâng cao chất lượng lao động là quá trình tác động đến các nhân tố ảnh
hưởng đến chất lượng lao động, từ đó tạo ra sự chuyển biến trong chất lượng lao
động theo hướng nâng cao, gia tăng các chỉ số đánh giá chất lượng như sức khỏe,
18 18
chiều cao, cân nặng, tinh thần thái độ công tác, trình độ văn hóa, kỹ năng tay nghề,


Quá trình CNH, HĐH NNNT và quá trình nâng cao chất lượng lao động có
mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau.
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là động lực cho quá trình CNH, HĐH
NNNT. Điều này thể hiện ở vai trò của con người trong quá trình CNH, HĐH. Con
người là chủ thể sáng tạo, lực lượng chủ chốt tham gia vào tất cả quá trình từ
khởi đầu cho đến kết thuc, đưa ra mục tiêu, phương pháp và trực tiếp tham gia
vào quá trình CNH, HĐH. Con người là nguồn lực không thể cạn kiệt của quá trình
này, chính vì thế nó đóng vai trò quyết định. Chất lượng nhân lực là nội dung
không thể thiếu trong nguồn nhân lực, phản ánh mặt bản chất của nguồn nhân
lực. Chất lượng nhân lực tác động đến quá trình CNH, HĐH theo hai hướng.
+ Nếu nguồn nhân lực có chất lượng ngày càng cao, đáp ứng kịp thời nhu
cầu của quá trình CNH, HĐH thì nó có tác dụng thúc đẩy quá trình CNH, HĐH
NNNT. Lực lượng lao động chất lượng cao góp phần làm nhanh hơn tiến trình này
thông qua việc cải tiến, sáng tạo các công nghệ khoa học, kỹ thuật mới
+ Ngược lại nó sẽ là nhân tố kìm hãm quá trình CNH, HĐH nếu chất lượng
chung của nguồn lao động chỉ ở mức thấp. Nó gây ra sự lãng phí các tài nguyên
khác một các không cần thiết. Đồng thời nó sẽ tiêu thụ một lượng lớn các nguồn
lực của CNH HĐH để phục vụ cho quá trình hoạt động chung.
Bên cạnh đó, quá trình CNH, HĐH cũng có sự tác động trở lai đối với chất
lượng nguồn nhân lực. Đó là tạo ra môi trường ngày càng hoàn thiện và thuận lợi
cho sự nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo ra điều kiện cho việc phát triển
toàn diện con người. Quá trình CNH, HĐH làm thay đổi toàn bộ bộ mặt của nền
kinh tế, đổi mới toàn bộ các quy trình công nghệ, và nền tảng kỹ thuật, góp phần
nâng chất lượng lao động trong toàn xã hội lên những bước mới.
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng lao động NNNT
Chất lượng lao động chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, sau đây là
những yếu tố có ảnh hưởng chủ yếu.
19 19
1.2.1. Phát triển dân số và lao động

Sự phát triển dân số và lao động là sự biến đổi về mặt lượng của lao động
và nguồn cung của lao động. Điều này mang lại sự ảnh hưởng hai mặt tới chất
lượng lao động. Một mặt, tạo ra lực lượng lao động với với chất lượng tiến bộ nhờ
sự hiệu quả trong các biện pháp nâng cao chất lượng của địa phương. Mặt khác,
nó tạo ra những thách thức và áp lực lên nền kinh tế quốc dân trong việc đảm bảo
giữ ổn định và nâng cao chất lượng lao động. Cơ sở hạ tầng về trường học, y tế,…
nếu không đáp ứng kịp thời sự gia tăng này thì dẫn đến sự quá mức thì điều chắc
chắn là sẽ giảm chất lượng sống của dân cư. Trên thực tế ở các nước trên thế giới
thì ở các nước nghèo và đang phát triển có tốc độ gia tăng dân số và lao động cao
hơn hẳn so với các nước phát triển, đó là minh chứng của sự ảnh hưởng của yếu
tố phát triển dân số và lao động đến nâng cao chất lượng lao động.
1.2.2. Giáo dục và đào tạo
Giáo dục đào tạo ảnh hưởng đến chất lượng lao động thông qua việc nâng
cao trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng tay nghề của người
lao động. Sự ảnh hưởng của giáo dục đào tạo đến chất lượng lao động thể hiện ở
hai khía cạnh.
Nền giáo dục càng hoàn chỉnh và càng tiến bộ thì khả năng đào tạo ra
nguồn nhân lực cao càng tốt. Thông thường, ở các nước đang phát triển, có nền
giáo dục thuộc mức trung bình so với thế giới, họ định hướng theo xu thế “nâng
cao dân trí” làm chủ đạo rồi dần dần mới chú trọng đến những chương trình đào
tạo cao hơn. Hệ thống đào tạo đầu tiên là hệ thống đào tạo văn hóa, đây là hệ
thống đào tạo cơ bản của một nền giáo dục. Sau đó là đến hệ thống đào tạo nghề
nghiệp nhằm đào tạo ra những con người có hiểu biết cụ thể trong một ngành
nghề của nền kinh tế quốc dân.
Nền sự chú trọng của Nhà nước ít hơn và không có hệ thống thì sẽ làm cho
nền đào tạo kém phát triển. Điều này thể hiện ở nền giáo dục ít cải tiến, chậm tiến
so với các nền đào tạo khác trên thế giới và ít cập nhật những phương pháp đào
tạo tiến bộ, những tư tưởng mới về đào tạo. Điều này làm cho chuẩn nhân lực
20 20
được đào tạo ra không phù hợp với nền sản xuất trong nước và thế giới, làm hạn

chế khả năng tiếp cận công việc.
1.2.3. Hoạt động bảo vệ chăm sóc sức khỏe và nâng cao đời sống tinh thần
Những hoạt động này tác động đến sức khỏe về cả thể chất và tinh thần của
lao động. Hệ thống bảo vệ chăm sóc sức khỏe ảnh hưởng đến chất lượng dân cư
thông qua việc ảnh hưởng đến vòng đời. Theo cách tiếp cận vòng đời, cộng đồng
dân cư là tập hợp các gia đình với các thế hệ nối tiếp nhau, trong đó vòng đời là
một chu kỳ sinh học của mỗi cá nhân trong từng giai đoạn trưởng thành, là cơ sở
cho việc duy trì và phát triển loài người. Nhìn chung, vòng đời bao gồm các giai
đoạn: bào thai, sơ sinh, trải qua tuổi mầm non phát triển lên tuổi vị thành niên,
thanh niên, trưởng thành, già và chết. Như vậy, chất lượng từng giai đoạn của
vòng đời con người quyết định chất lượng của con người cả về thể chất, trí tuệ,
tinh thần, sự năng động xã hội và trước hết phụ thuộc vào sự phát triển bào thai,
khi sinh ra, trưởng thành và phát triển. Vì thế, nâng cao chất lượng lao động gắn
với việc nâng cao từng giai đoạn trong vòng đời của một con người. Hiệu quả của
các hoạt động chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần càng cao thì chất lượng
nhân lực sẽ ổn định hơn và ngược lại, sẽ giảm thiểu chất lượng lao động.
Để thực hiện quá trình này thì cần có chiến lược đầu tư tổng thể vào hệ
thống cơ sở hạ tầng của nền kinh tế, đầu tiên là hệ thống bệnh viện và các dịch vụ
chăm sóc liên quan kèm theo hệ thống đào tạo ra những đội ngũ y bác sĩ phục vụ.
Bên cạnh đó, phải nâng cao đời sống tinh thần thông qua việc tăng cường hệ
thống thông tin truyền thông xã hội, tăng cường các hoạt động văn hóa xã hội,
bảo tồn văn hóa dân tộc, và các hoạt động văn hóa giao lưu quốc tế khác.
1.2.4. Mức sống dân cư
Mức sống dân cư phản ánh mức sống, mức thu nhập của của mỗi người
dân. Mức sống dân cư càng cao thì có điều kiện dễ dàng hơn trong việc tiếp cận các
dịch vụ hỗ trợ liên quan đến nâng cao chất lượng sống. Nhiều số liệu cho thấy, mức
sống của các tầng lớp dân cư càng cao thì họ có điều kiện cho con em đi học và sức
khỏe của họ tốt hơn những tầng lớp dân cư có mức sống thấp.
21 21
1.2.5. Tăng trưởng kinh tế

Tăng trưởng kinh tế của một địa phương, một đất nước cũng ảnh hưởng
đến chất lượng lao động. Những nước có tăng trưởng kinh tế cao và ổn đinh thì có
điều kiện tốt hơn để đầu tư vào hệ thống giáo dục, chăm sóc sức khỏe của người
dân và mức sống của dân cư cao hơn tạo điều kiện mỗi người dân nâng ca đời
sống. Ở các nước nghèo, vòng luẫn quẫn, nghèo đói, thất học, bệnh tật lại nghèo
đói cứ nối tiếp nhau làm cho nền kinh tế lao đao hàng thập niên. Chính vì thế, tăng
trưởng kinh tế tốt và ổn định của một địa phương, một đất nước ảnh hưởng rất
lớn đến nâng cao chất lượng sống của dân cư.
1.2.6. Hoạt động đánh giá, tuyển chọn, bố trí và sử dụng lao động
Mặc dù có trong tay những nguồn nhân lực tốt nhất nhưng việc sử dụng
không hiệu quả thì cũng khó mang lại kết quả cao. Hoạt động đánh giá, tuyển
chọn, bố trí và sử dụng lao động là một phần của việc quản lý trong một cơ cấu
kinh tế. Ngày nay, người ta xem đó là một công nghệ, một công nghệ về quản lý con
người, công nghệ sử dụng hiệu quả nguồn lực con người. Hoạt động này chịu ảnh
hưởng của nền văn hóa và tư tưởng của hệ thống quản lý. Ở cấp độ vi mô, mỗi
người lao động với những kỹ năng và kiến thức nhất định thì chỉ phù hợp với một
vị trí làm việc nhất định, chỉ có đưa vào đúng vị trí đó, năng lực của họ mới được
phát huy. Ở cấp độ vĩ mô của một địa phương, một đất nước, thì đó chính là hoạt
động quy hoạch cơ cấu lao động, cơ cấu ngành kinh tế, phân bố dân cư. Hoạt động
quy hoạch sẽ quyết định việc sử dụng hiệu quả nguồn lực lao động của địa
phương, của đất nước đó theo hướng phù hợp hay không phù hợp và làm tăng
hiệu quả sử dụng lao động.
1.3. Kinh nghiệm nâng cao chất lượng lao động NNNT trong tiến
trình CNH, HĐH
1.3.1. Kinh nghiệm ở một số nước trên thế giới
a) Kinh nghiệm Trung Quốc
Trung Quốc là một nước có nền kinh tế lớn mạnh nhưng có những đặc điểm
kinh tế- xã hội- chính trị tương đồng với Việt Nam. Qua quá trình phát triển xấp xỉ
22 22
30 năm theo con đường kinh tế thị trường mang màu sắc Trung Quốc, chính sách

nhân lực của họ ngày càng rõ ràng và chuẩn mực cho những ứng dụng vào điều
kiện Việt Nam.
Trung Quốc đi theo những quan điểm riêng của mình, quan điểm về chức
năng và giá trị của phát triển nguồn nhân lực là: Làm cho các nguồn lực tiềm năng
của con người trở nên có ích; Biến đổi năng lượng của con người trở nên có hiệu
suất cao; Nâng cao hiệu quả làm việc; Tạo ra những tài năng thật sự; Tăng cường
trình độ năng lực của họ; và cuối cùng đưa nước Trung Quốc từ một nước đông
dân thành một nước có nguồn nhân lực tốt, có năng lực, khả năng.
Cụ thể, những giá trị để phát triển nguồn nhân lực của Chính phủ Trung
Quốc biểu hiện ở các mặt sau:
- Phát triển nguồn nhân lực là vấn đề cốt yếu của Chiến lược “Khoa
học và Giáo dục tiếp sức cho Trung Quốc”:
“Khoa học và Giáo dục tiếp sức cho Trung Quốc” là một chính sách quốc gia
cơ bản. Nếu như khoa học và giáo dục là hai bánh xe cho sự tiến vào thế kỷ mới
của Trung Quốc thì nhân tài là trục của bánh xe và phát triển nguồn nhân lực sẽ
quyết định tốc độ của những bánh xe đó. Vì thế, việc thực hiện chiến lược này tạo
ra nhiều không gian cho phát triển nguồn nhân lực.
- Phát triển nguồn nhân lực là vấn đề thiết yếu cho Chiến lược “Phát
triển không ngừng”
Điều cốt lõi của Chiến lược “Phát triển không ngừng” là sự thống nhất lâu
dài của ba yếu tố: môi trường, kinh tế và xã hội. Sự thống nhất lâu dài đó lại phụ
thuộc vào nhân tố chính của các hoạt động xã hội - đó chính là con người, là thái
độ của con người đối với sự phát triển không ngừng. Trung Quốc đang thiếu các
nguồn lực ở mức trung bình và tình trạng căng thẳng về các nguồn lực sẽ còn kéo
dài, vì vậy nên theo phương thức tiết kiệm để sử dụng, phát triển các nguồn lực đó.
Một mặt, ta nâng cao mức sử dụng để tiết kiệm các nguồn lực, mặt khác, thay đổi
từ phương thức rộng tới hẹp để tăng cường hiệu quả của các nguồn lực. Trên thực
tế, sự hủy hoại, lãng phí các nguồn lực là khá nghiêm trọng và phổ biến. Một lý do
23 23
quan trọng nữa, đó là chất lượng của lực lượng lao động không tương ứng với sự

phát triển của các nguồn lực tự nhiên. Theo đó, củng cố việc phát triển nguồn nhân
lực và nâng cao chất lượng của người lao động là vấn đề quan trọng.
- Phát triển nguồn nhân lực dựa trên những điều kiện của đất
nước Trung Quốc
Trung Quốc có nguồn lực con người lớn và giàu có, nhưng chính điều này lại
làm cho sự thiếu hụt các nguồn lực khác trầm trọng hơn. Trung Quốc có nhiều sản
phẩm, rừng, mỏ và nguồn nước, nhưng nếu những nguồn lực này được phân chia
cho con số 1,3 tỷ người thì cũng chỉ còn lại rất ít cho mỗi người. Những nguồn lực
tự nhiên chủ yếu, hàng hóa và Tổng sản phẩm quốc nội của Trung Quốc là rất đáng
kể, song tính riêng cho mỗi thành phố thì Trung Quốc đứng cuối bảng xếp hạng
của thế giới. Ở chừng mực nào đó, vì không còn lựa chọn nào khác, nguồn nhân
lực trở thành nguồn lực cần thiết và đảm bảo chắc chắn cho sự phát triển hiện tại
của Trung Quốc.
- Phát triển nguồn nhân lực là nền tảng cho sự phát triển của miền
Tây Trung Quốc và tạo dựng xã hội thịnh vượng.
Miền Tây Trung Quốc có những nguồn nguyên vật liệu giàu có, nhưng thiếu
nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Nguồn nhân lực có
tính quyết định cho sự cải thiện các điều kiện môi trường, vì vậy, phát triển nguồn
nhân lực là cần thiết để phát triển miền Tây Trung Quốc và điều đó có mối quan hệ
mật thiết với việc tạo dựng xã hội thịnh vượng hiện tại.
- Phát triển nguồn nhân lực là cơ sở để giải quyết vấn đề “tam nông”
(nông dân, nông thôn và nông nghiệp):
Ở nông thôn Trung Quốc, những nguồn lực tự nhiên như đất nông nghiệp là
tương đối khan hiếm. Các vùng nông thôn có số dân đông nhưng chất lượng thấp,
có nguồn nhân lực tiềm năng thực sự dồi dào, chứa đựng sức sản xuất tiềm năng
rất lớn.
Phát triển nguồn nhân lực nông thôn có thể giải quyết hiệu quả vấn đề “tam
nông” tại Trung Quốc. Nông dân là vấn đề cốt lõi của “tam nông” và giải pháp là
24 24
việc làm của họ. Theo thống kê, dân số nông thôn cần việc làm vào khoảng nửa tỷ.

Tuy nhiên, ở nông thôn, toàn bộ gia đình sống dựa vào nông nghiệp và họ làm việc
tới già, không nghĩ tới nghỉ hưu. Những người này cộng với lực lượng lao động, kể
cả dưới 18 và trên 60 tuổi đều vẫn đang làm việc. Thêm một nửa lực lượng lao
động này thì số người ở nông thôn có khả năng lao động đạt tới con số 600 triệu
người. Với tỷ lệ tự nhiên giữa lực lượng lao động và đất nông nghiệp thì chỉ 100
triệu người là đủ cho nông nghiệp và vì thế, gần 500 triệu người trong lực lượng
lao động nông thôn chuyển sang làm việc phi nông nghiệp. Những năm gần đây,
gần 150 triệu người đã làm việc trong các doanh nghiệp thị trấn, làng, xã hoặc làm
việc ở thành phố, nhưng vẫn còn hơn 300 triệu người (gần bằng dân số Mỹ) đang
xếp hàng chờ việc. Vì rất nhiều lý do, chủ yếu là vì khả năng làm việc kém và ít
được giáo dục. Do đó, phát triển nguồn nhân lực nông thôn là giải pháp cuối cùng,
quyết định để giải quyết vấn đề “tam nông” tại Trung Quốc.
- Kinh nghiệm Nhật Bản
Nhật Bản là một nước có diện tích nhỏ hẹp, điều kiện tự nhiên còn nhiều
hạn chế và thường xuyên gánh chịu những hậu quả của thiên tai. Thế nhưng, Nhật
Bản lại là một trong những cường quốc đứng hàng đầu thế giới.
Nhận thức được mình là một nước nghèo tài nguyên, điều kiện tự nhiên khắc
nghiêt, vì vậy mục tiêu đầu tư hàng đầu của quốc gia này trong quá trình CNH là
khai thác tiềm năng và phát huy năng lực con người một cách tích cực và có hiện
quả, luôn đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Kinh nghiệm này đã
được nhiều quốc gia trên thế giới học hỏi. Chính sách phát triển nguồn nhân lực ở
Nhật Bản có những nét riêng không lẫn với bất kỳ quốc gia nào, đông thời nó phù
hợp với xu thế phát triển của thời đại hội nhập và phát triển. Điều này thể hiện ở
những điểm sau:
- Chính phủ Nhật Bản luôn khuyến khích hình thành một xã hội học tập và
chế độ học tập suốt đời, rèn luyện cho mỗi người lao động tinh thần học hỏi cao,
linh động và thích nghi với mọi điều kiện làm việc.
25 25

×