Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

GIÁO DỤC TINH THẦN YÊU NƯỚC CHO HỌC SINH QUA TUYÊN NGÔN CỦA CÁC VĨ NHÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.64 KB, 27 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm
GIÁO DỤC TINH THẦN YÊU NƯỚC CHO HỌC SINH QUA
TUYÊN NGÔN CỦA CÁC VĨ NHÂN

PHẦN I: GIỚI THIỆU CHUNG
A/ Đặt vấn đề
Bất kì một giai đoạn lịch sử nào thì việc giáo dục tinh thần yêu nước,
lịch sử truyền thống dân tộc đều rất quan trọng và rất cần thiết .Ngày nay
khi đất nước đang tiến hành công nghiệp hoá, hiên đại hoá, khi chúng ta
đang từng bước tiếp cận với khoa học công nghệ cao của thế giới thì vấn
đề giáo dục truyền thống của dân tộc càng phải được coi trọng. Bởi
truyền thống lịch sử dân tộc chính là cái gốc, là nền tảng để chúng ta tiếp
thu cái hiện đại mà không xa rời bản sắc, đón nhận cái mới mà không
quên gốc gác,không xa rời truyền thống lịch sử của cha ông. Chúng ta
phải khắng định rằng, ngay từ bây giờ chúng ta phải quan tâm hơn, tích
cực hơn trong việc giáo dục lịch sử, truyền thống dân tộc cho học sinh
đúng như Bác Hồ đã nhắc nhở:
Dân ta phải biết sử ta
Cho tuờng gốc tích nước nhà Việt Nam
B/ Lý do chọn đề tài
Với tính đa dạng phong phú của bộ môn, nội dung các khoá trình lịch sủ
ở trường phổ thông có khả năng giáo dục nhiều mặt cho học sinh như:
Xây dựng niềm tin lí tuởng cách mạng trên cơ sở nhận thức đúng sự phát
triển khách quan, hợp quy luật của xã hội loài người . Giáo dục cho học
sinh truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam trong quá trình dựng
1
nước và giữ nước và bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động cho học sinh.
Tri thức lịch sử của nhiều môn học khác xây dựng niềm tin cơ sở cho học
sinh, cung cấp cho học sinh vốn hiểu biết phổ thông, cơ bản vững chắc về
xã hội loài người, làm cơ sở để rút ra những kết luận khoa học, giúp học


sinh nhận thức đúng con đường mà loài người và dân tộc đã trải qua,
đồng thời cung cấp các kiến tthức khoa học cho học sinh một cách cụ thể
như: sự ra đời , hựng thịnh suy vong của mỗi chế độ xã hội đã tồn tại
trong lịch sử Từ đó hình thành thế giới quan đạo đức làm cho việc định
hướng của học sinh trở nên đung đắn và tự giác .
Bộ môn lịch sử ở trường phổ thông có khả năng giáo dục cho học sinh
truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Nhân dân ta đã xây dựng những truyền
thống đẹp đẽ về lòng yêu nước.Vì vậy cần giáo dục cho thế hệ trẻ tinh
thần dân tộc, tinh hoa của nhân loại và từ đó xác định rõ trách nhiệm của
mình trong cuộc sống hiện tại
Học sinh cần nhận thấy rõ ngay từ thời mới ra đời dân tộc Việt Nam đã
tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ: dựng nước và giữ nước.
Trên cơ sở khai thác nội dung các sự kiện lịch sử, tiến hành giáo dục tư
tuởng tình cảm một cách tự nhiên, có hiệu quả, không áp đặt, công thức.
Ngoài ra còn giáo dục cho học sinh nhiều khía cạnh khác của đạo đức,
phẩm chất tư tưởng chính trị như giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng
trong lao động sản xuất, trong đấu tranh xã hội, giáo dục niềm tin và sự
trung thành với lí tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác - Lênin, với Đảng
và giáo dục tư tưởng nhân văn trong cuộc sống
C. Mục đích yêu cầu của đề tài.
Gắn liền việc học tập các khoá trình lịch sử với công tác thực hành bộ
môn để tiến hành việc giáo dục tư tưởng cho học sinh.Trong điều kiện xã
hội hiện nay,việc giáo dục tư tưởng nói chung,việc giáo dục tư tuởng qua
2
bộ môn Lịch Sử nói riêng rất khó,vì không phải lúc nào việc tiếp thu
kiến thức cũng phù hợp với thực tiễn cuộc sống,suy nghĩ mong ước cua
học sinh.Vì vậy giáo dục tư tưởng thông qua dạy học Lịch Sử phải nhằm
vào việc định hướng cho hoạt động của học sinh.Hưóng dẫn cho học sinh
biết nhận thức đúng đắn quá trình phát triển của xã hội,biết tự phân tích
sự kiện lịch sử theo quan điẻm khoa học,biết đánh giá các sự kiện trong

đời sống xã hội truớc kia cũng như hiện nay.
Giáo dục lòng biết ơn đối với tổ tiên,với những người có công với Tổ
quốc như chủ tịch Hồ chí Minh đã viết : Chúng ta có quyền tự hào vì
những trang sử vẻ vang đời Bà Trưng,Bà Triệu,Quang Trung Chúng
ta phải ghi nhớ công lao các vị anh hùng dân tộc,vì các vị ấy là tiêu biểu
của một dân tộc anh hùng.
D.CẤU TRÚC ĐỀ TÀI GỒM 3 PHẦN:
PHẦN I: GIỚI THIỆU CHUNG
- ĐẶT VẤN ĐỀ
- MỤC ĐÍCH YÊU CẦU
PHẦN II: NỘI DUNG
- NỘI DUNG CHÍNH CỦA CÁC TUYÊN NGÔN.
- NHỮNG TƯ TƯỞNG THÔNG QUA TUYÊN NGÔN
- KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
PHẦN III: KẾT LUẬN.
3
PHẦN II: NỘI DUNG
A.NỘI DUNG CỦA CÁC TUYÊN NGÔN TRONG LỊCH SỬ VIỆT
NAM VÀ TRÊN THẾ GIỚI.
(Được sử dụng trong dạy học lịch sử lớp 10,11 thuộc 2 ban, đặc biệt Lớp
10,11 Ban xã hội )
*****
I.Bản tuyên ngôn của các nước Tư bản.
1.Bản Tuyên ngôn về quyền hành của nước Anh.
Bản tuyên ngôn này được quốc hội Anh thông qua ngày 22-2-1689 khi
Quốc trưởng Hà lan Ô-gian-giơ được mời sang làm vua nước Anh.Tuyên
ngôn gồm 13 điều, điều nổi bật của bản tuyên ngôn này là qui định quyền
lực của Quốc hội.
Trước hết qui định quyền của các Nghị sĩ trong Quốc hội,điều thứ 9 viết:
" Tất cả những cuộc tranh luận và tất cả mọi văn kiện của nghị viện

không đưa đến bất cứ một sự truy nã nào, hay một sự truy tố nào trước
bất kì một toà án nào, ở bất cứ nơi nào ngoài nghị viện.
Song song với sự qui định quyền hành của các nghị sĩ, tuyên ngôn đã
khẳng định quyền lập pháp của Quốc hội.
Điều 1 viết: Cái gọi là, quyền gác lại các đạo luật, hay thực thi các đạo
luật theo ý chí của vương triều không có sự tán đồng của nghị viện là
bất hợp pháp.
Điều 2 viết: Quyền phổ biến các đạo luật hay thực thi các đạo do lệnh
của triều đình là sự vi phạm luật và thực thi như truớc đây là bất hợp
pháp.
Tóm lại bản tuyên ngôn về quyền hành là bản tuyên ngôn đầu tiên trên
thế giới, tước bỏ quyền lập pháp của nhà vua và trao quyền đó vào tay
nghị viện, cơ quan đại diện cho nhân dân.
4
Tuy vậy nhân dân ở đây chỉ là những ngưòi giàu có bởi vì hiến pháp
Anh quy định chỉ những người có tài sản cao mới có quyền bầu cử
Quốc hội.
2.Bản tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ.
Bản tuyên ngôn được công bố ngày 4-7-1776 Tuyên ngôn do Giep-phéc
sơn(1743-1826) con một chủ đất lớn ở bang Viếc-gi-nia, Giep - phéc
-sơn tốt nghiêp luật học, lam luật sư ở toà án bang này, ông rất am hiểu
nền luật pháp ở nước Anh, ông cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của trào lưu
tư tưởng dân chủ tư sản châu Âu.
Ông viết bản tuyên ngôn độc lập chính là dưới ánh sáng của nền luật
pháp nước Anh và tư tưởng các nhà khai sáng Pháp thế kỉ 18 như Vôn te,
Rút xô, Môngtexkiơ Nội dung của bản tuyên ngôn, ngoài việc chỉ trích
tội ác của Anh, tuyên bố độc lập còn đề xướng nguyên tắc sống của giai
cấp tư sản trong thời đại mới: Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền
bình đẳng, tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được,
trong những quyền ấy có quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc. Quyền tự

do đó chính là quyền tự do ngôn luận , lập hội và chống áp bức và quyền
tự do kinh doanh tư hữu tài sản của mình.
Quyền bình đẳng đó là bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt giàu
nghèo sang hèn
Tuy vậy Con người được hưởng quyền tự do bỉnh đẳng ở đây không bao
gồm nô lệ da đen. Để đảm bảo quyền tự do và bình đẳng, nhân dân thành
lập chính phủ, quyền lực của chính phủ là từ nhân dân,nếu chính phủ làm
tổn hại đến lợi ích của nhân dân, nhân dân có quyền thay đổi hoặc phế
truất chính phủ,lập nên chính phủ mới.
Bản tuyên ngôn độc lập của nước Hoa Kì được công bố đã tích cực động
viên Hoa Kì tham gia chiến tranh giành độc lập, đồng thời ảnh hưởng
lớn tới bản tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789
5
và sự ra đời của tư tưởng lập pháp của giai cấp tư sản ở Châu Âu. Nó
được liệt vào bộ luật quan trọng trong lịch sử pháp chế nhân loại.
Sau bản tuyên ngôn độc lập, Mĩ còn công bố một văn bản nữa với tên gọi
Các điều khoản của liên bang . Trong đó cụ thể hoá quyền lực của quốc
hội Mĩ
Điều 7 quy định Nghị viện hợp chủng quốc có quyền kí kết các hiệp ước
và hợp đồng quy định giá trị về số lượng tiền tệ đúc ra, thiết lập các
định mức về trọng lượng và kích thước tiền trong tất cả các bang.
Điều 13 quy định: Tất cả các bang phải có quy định, nghĩa vụ phục tùng
nghị quyết của nghị viện hợp chúng quốc.
Các điều khoản của liên bang là hiến pháp đầu tiên của hợp chúng quốc
Hoa Kì.
3.Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp.
Tuyên ngôn được Quốc hội lập hiến thông qua ngày 27- 8-1789. Do
Xiâyét khởi thảo, dưới sự giúp đỡ của Giép - phéc- sơn(1789
Giépphécsơn đang làm công sứ Hoa Kì tại Pháp) Xiâyét ( 1748-1836),
vốn là viện trưởng một tu viện Thiên chúa giáo. Tuy là cha cố nhưng

ông rất tích cực tham gia phong trào chính trị. Trước cách mạng Pháp
ông đã xuất hiện một cuốn sách nhỏ Thế nào đẳng cấp 3 đả kích chế độ
phong kiến chuyên chế, biện hộ nguyện vọng giành chính quyền của giai
cấp tư sản. Năm 1789 ông tham gia hội nghị 3 cấp với tư cách đại biểu
đắng cấp thứ 3 và được hội nghị uỷ thác thảo bản tuyên ngôn.Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền gồm 17 điều đề cập đến các vấn đề cơ bản
sau:
Xác lập quyền tự do cá nhân của công dân
Điều 11 quy định : Việc tự do trao đổi về tư tưởng và ý kiến là một
trong những quyền quý nhất của con người. Mọi công dân có thể phát
ngôn, viết hay tiến hành in ấn một cách tự do.
6
Xác lập quyền bình đẳng giữa các công dân .
Điều 6 quy định Luật pháp phải như nhất đối với tất cả mọi người khi
bảo hộ cũng như khi trừng phạt . Mọi công dân đều bình đẳng trước luật
pháp '
Điều 7 quy định Bất cứ ai cũng có thể bị luận tội,bị bắt giam giữ trong
những trường hợp được luật pháp quy định. Những kẻ yêu cầu thúc đẩy
thi hành hoặc cho thi hành những mệnh lệnh độc đoán đều bị trừng phạt.
Tự do và bình đẳng là cơ sở của tình bác ái . Tư tuởng tự do bình đẳng
bác ái của cách mạng Pháp được thể hiện trên lá cờ tam tài của nước
công hoà Pháp. Tự do ứng với màu đỏ bởi vì nền tự do mà con người
đạt được phải thông qua những cuộc cách mạng bạo lực .Tomátgiép
phéc sơn đã từng nói " Tự do được tưới bằng máu của cấc chí sĩ và cả
máu của bọn bạo quân "
Bình đẳng ứng với màu trắng và bác ái ứng với màu xanh.
Tuyên ngôn tuyên bố Quyền tư hữu tài sản là quyền thiêng liêng bất khả
xâm phạm
Điều 11 viết: Quyền tư hữu là quyền bất khả xâm phạm và thiêng liêng
không ai có thể tước bỏ .".Quyền tư hữu của tuyên ngôn thấm nhuần tư

tuởng của Rút xô . Rút xô là người đầu tiên đề xướng tư tưởng quyền tài
sản của công dân ông nói : quyền tài sản về phương diện nào đó còn
quan trọng hơn cả quyền tự do. Quyền tư hữu được xác lập trong tuyên
ngôn có ý nghĩa vô cùng quan trọng , nó bảo đảm quyền phát triển xã
hội . Bởi vì con người được quyền tư hữu của cải và cả sức lao động mới
đuợc nâng cao.Ngoài ra quyền tư hữu được bảo vệ còn bảo đảm an ninh
xã hội
II. Tuyên ngôn trong lịch sử Việt Nam.
1. Bài thơ " Nam quốc sơn hà " của Lí Thường Kiệt.
7
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Dịch thơ
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời
2." Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn.
Huống chi ta cùng các ngươi sinh phải thời loạn lạc, lớn gặp
buổi gian nan. Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường.Uốn
lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ,
thác mệnh Hốt Tất Liệt, mà đòi ngọc lụa để thoả lòng tham không cùng ,
giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vơ vét của kho có
hạn.Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai vạ
về sau Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt,
nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu
quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói
trong da ngựa, ta cũng vui lòng.

Các nguơi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày,không có mặc thì ta
cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta tăng chức, lương ít
thì ta cấp bổng, đi thuỷ thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc trận
mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhàn hạ thì cùng nhau vui
cười. Cách đối đãi so với Vương Công Kiên, cốt đãi Ngột Lang ngày
trước cũng chẳng kém gì
8
Nay các ngươi nhìn chủ nhục mà không thấy lo, thấy nước nhục mà
không biết thẹn , nghe nhạc Thái thường để đãi yến Nguỵ mà không biết
căm. Họ lấy việc chọi gà mà vui đùa , hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu
khiển hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ con, hoặc lo làm
giàu mà quên việc nước , hoặc ham săn bắn mà quên việc binh , hoặc
thích rượu ngon hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc Mông, Thát tràn sang ,
thì cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc mẹo cờ bạc
không thể làm mưu lược nhà binh , dẫu rằng ruộng lăm vườn nhiều tấm
thân quý nghìn vàng khôn chuộc, vả lại vợ bìu con ríu, việc quân cơ trăm
sự ích chi, tiền của chi nhiều không mua được đầu giặc, chó săn tuy khoẻ
không đuổi được quân thù, chén rượu ngon không thể làm cho giặc say
chết , tiếng hát hay không thể làm giặc điếc tai. Lúc bấy giờ ta cùng các
ngươi sẽ bị bắt , đau xót biết chừng nào? Chẳng những thái ấp của ta
không còn mà bổng lộc cac ngươi cũng mất, chẵng những gia quyến của
ta bị tan, mà vợ con các ngươi cũng khốn, chẳng những xã tắc tổ tông ta
bị dày xéo, mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên , chẳng
những thân ta kiếp này chịu nhục rồi đến trăm năm sau,tiếng dơ không
rửa, tên xấu còn lưu mà đến thanh danh các ngưoi cũng không khỏi
mang tiếng là tuớng bại trận . Lúc bấy giờ dẫu các ngươi muốn vui vẻ
phỏng có được không ? Vì sao vậy ? Giặc với ta là kẻ thù không
đợi trời chung , các ngưoi cứ điềm nhiên không biết rửa nhục, không lo
trừ hung không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay giáo mà chịu đầu
hàng , giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy rồi đây sau khi dẹp yên

quân giặc , muôn đời để thẹn há còn mạt mũi nào đứng trong trời đất
nữa.Ta viết bài hịch này để các ngươi biết bụng ta.
3 Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
9
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông, bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu , Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào chẳng có


Họ đã tham sống sợ chết , mà hoà hiếu một lòng
Ta lấy toàn quân là hơn , để nhân dân nghỉ sức
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Kiền khôn bĩ mà lại thái
Nhật nguyệt hối mà lại minh
Muôn thủa, nền thái bình vững chắc
Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng , ngầm giúp đỡ mới được như
vậy


4.Tuyên ngôn độc lập của chủ tịch Hồ Chí Minh.
10
"Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng.Tạo hoá cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy,có quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Lời bất hủ ấy trong bản tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mĩ. Suy
rộng ra câu ấycó ý nghĩa là : Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra
bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,quyền sung sướng và quyền
tự do


Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 nâm nay, một
dân tộc đã gan góc đứng về phía đồng minh chống phát xít mấy năm
nay, dân tộc đó phải dược tự do, dân tộc đó phaỉ được độc lập. Vì những
lẽ trên, chúng tôi chính phủ lâm thời của nước Việt nam dân chủ công
hoà, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập
.Toàn thể dân tộc Việt nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ vững quyền tự do,độc lập ấy .
III/ Ảnh hưởng của các tuyên ngôn ở các nước Tư bản và Việt Nam
1.Tuyên ngôn độc lập của Hoa kì 1776.
Bản tuyên ngôn này tiêu biểu cho nguyện vọng các dân tộc thuộc địa ở
Bắc mĩ đấu tranh để giành lại độc lập tự do cho nhân dân Mĩ lúc bấy giờ.
Sau khi giành được độc lập, giai cấp tư sản Mĩ lên nắm chính quyền đã
phản bội lại quyền lợi của nhân dân, thi hành chính sách phân biệt chủng
tộc , áp bức bóc lột nhân trong nước đồng thời xâm lược các nước
khác .Chúng đã thực hiện những thủ đoạn tàn bạo của chủ nghĩa Thực
dân, áp dụng chính sách thâm độc và nham hiểm của chủ nghĩa thực dân
mới thống trị về kinh tế và chính trị thực hiện mưu đồ bá chủ thế giới,
11

chà đạp trắng trợn lên những nguyên tắc tự do bình đẳng đã ghi trong
Tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ.
Vận dụng tinh thần tự do, bình đẳng tiêu biểu cho nguyện vọng độc lập
tự do của nhân Mĩ , khi soạn tuyên Ngôn độc lập của nước Việt Nam dân
chủ Cộng hoà , Chủ tịch Hồ chí Minh đã trích một khẳng định quyền tự
do và độc lập của nhân dân Vệt Nam.
2.Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp
Bản tuyên ngôn này đã công khai ghi rõ các quyền tự do dân chủ : tự do
thân thể , tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, quyền bình đẳng của mọi
người trước pháp luật, quyền chống áp bức
Bản tuyên ngôn đã ảnh hưởng lớn đến phong trào của nhân dân các nước
đang đấu tranh chống chế độ phong kiến lúc bấy giờ.
Tuyên ngôn
độc lập của
nước Việt
Nam Dân Chủ
Cộng Hoà
của Chủ tịch
Hồ Chí Minh
Tuyên ngôn độc lập của
Hoa kì do Giécphecson
thảo ra.
Hịch tướng sĩ của
Trần Quốc Tuấn
Tuyên
ngôn
Nhân
quyền và
Dân
quyền

của Pháp
-Thời gian:
trong 1 đêm
cuối tháng
Tám/ 1945
-Địa điểm: 1
Căn nhà ở phố
Hàng Ngang
Hà Nội
-Thời gian: 4/7/1776
-Địa điểm: Tại Đại họi lần
thứ 2 ở Phila đenphia( Bắc
Mĩ)
-Thời gian: Thế kỉ
XIII
-Thời
gian:27/
8/1789
-Tại
Pháp do
Xi ây et
khởi
thảo
12
-Người đã viết
trong 1 đêm
nhưng dựa
trên cơ sở mà
chính Người
đã tổng kết

gần 100 năm
đấu tranh
chống đế quốc
thực dân Pháp
giành độc lập
của toàn dân
tộc ta và tổng
kết cả một đời
hoạt động
cách mạng của
bản thân.
-TRong chiến tranh giải
phóng của nhân dân Bắc
Mĩ chống chủ nghĩa thực
dân Anh, Các xứ thuộc địa
Anh ở Bắc Mĩ đã tổ chức
các cuộc đại hội đaị biểu
đeer thoả luận những biện
pháp chống bọn Thực dân
Anh .Nghị quyết tuyên bố
các xứ thuộc địa là những
nước tự do độc lập tách
khởi phạm vi, quyền lực
của Anh.Bản dự án nghị
quyết này đựoc đại biểu
13 bang thông qua và trở
thành tuyên ngôn độc lập
của nước Mĩ
-Khi quân Nguyên
ráo riết chuẩn bi

tiến , thế không hoà
hoãn được nữa, vua
Trần triệu tập hội
nghị Bình Than
1282 họp các
vương hầu , tướng
lĩnh , quan chức
cao cấp bàn kế
hoạch kháng
chiến . Từ đó chủ
chương đánh giặc
cứu nước của triều
đình đã trở thành ý
chí chung của các
tầng lớp quý tộc ,
quan chức binh sĩ
và nhân dân . Nơi
nơi chiêu mộ quân
lính tích luỹ lương
thực sắm sửa vũ
khí và các phương
tiện chiến tranh
khác , quân và dân
sẵn sàng luyện tập
và ngày đêm chiến
đấu.
Năm
1789
ông tham
gia hội

nghị 3
đẳng cấp
và được
hội nghị
uỷ thác
thảo bản
tuyên
ngôn
13
3.Hịch tướng sĩ.
Đây là một bài văn nhằm kêu gọi tướng lĩnh chỉ huy quân đội, đánh vào
công tác tư tưởng. Hịch tướng sĩ không phải là bản tổng kết chiến tranh
cũng không phải là bản tóm tắt lịch sử chiến tranh mà chỉ nhằm đánh đổ
một số tư tưởng không đúng đang lưu hành trong hàng ngũ tướng sĩ ,
nhằm xây dựng tư tưởng đúng đắn cần phải có trước tình hình cuộc xâm
lược sắp nổ ra. Nội dung tư tưởng của Hịch tướng sĩ rất phong phú, đặc
sắc đó là:
a.Không có tư tưởng sợ địch.
Đọc xong bài Hịch tướng sĩ , tất cả những ai thông hiểu lực lượng so
sánhViệt - Nguyên đều lấy làm lạ không thấy trong bài Hịch đoạn, một
câu, một chữ ,một ý ngắn nào nói rằng tướng sĩ Đại việt sợ quân
Nguyên, phục quân Nguyên. Không có, lạ thật mà quả là như vậy.
Chẳng lẽ các tướng sĩ Đại Việt lại không hay biết rằng quân Mông rất
háo sát , từng giết toàn dân của cả một thành phố có gan chống lại , giết
hết chỉ trừ có 400 thợ thủ công ? Chẳng lẽ họ không biết rằng bên Tây,
Giáo Hoàng La mã truyền thông điệp nói ông ta sợ người Tác Ta cho
đến "Xương nát tuỷ khô , thân gầy sức kiệt " còn bên Đông nước Tống
rộng lớn như thế , đông dân như thế , văn hoá thịnh đạt như thế cuối cùng
vua Tống và triều thần không còn chỗ dung thân phải ôm nhau nhảy
xuống biển. Chẳng lẽ Trần Quốc Tuấn nắm chắc tinh thần quân đội mà

"quên " đả phá tâm lí sợ địch nếu tâm lí ấy có thật. Chẳng lẽ các tướng
lĩnh nhà Trần chưa đọc "Hóc sát sử lược" của người Tống là Bình Đại
Nhã mô tả kĩ thuật và sách lược chiến tranh kì ảo của người Mông
:"Trăm quân kị, quay vòng có thể bao vây được vạn người, nghìn quân kị
toả ra có thể có thể thành một tuyến dài đến trăm dặm, địch phân tất
phân,địch hợp tất hợp, cho nên kị đội là ưu thế của họ , hoặc xa hoặc
14
gần , hoặc nhiều hoặc ít, hoặc tụ hoặc tán , hoặc ẩn hoặc hiện , đến như
trên trời rơi xuống, đi như chớp giật"
So với đế quốc Mông Nguyên thì Đại Việt "nhỏ như cái đấu"
Vậy mà tướng sĩ nhà Trần khôg mang tâm lí sợ Nguyên .Tập đoàn lãnh
đạo nhàTrần không ngán , không phục quân Nguyên.Vua Trần tiếp sứ
Nguyên mà không đứng dậy, nhận chiếu chỉ Nguyên hoàng mà không
quỳ lạy, thỉnh thoảng lại tống giam sứ thiên triều nữa là khác.Đại Việt rất
tự tin và mãnh liệt. Lòng tự tin ấy truyền mãi đến sau này khi quân và
dân ta phải đương đầu với Mĩ - bọn Mông Thát hiện đại . Ta nay đã thật
sự không sợ Mĩ, ngán Mĩ, phục Mĩ, thì tổ tiên chúng ta đã không sợ
Mông Nguyên , điều đó có lạ gì ?
Cho nên trong bài Hịch, Trần Quốc Tuấn đánh vào những nét tâm lí
khác của tướng sĩ mà không dành một câu nào để đánh tâm lí sợ
Nguyên. Không sợ địch , tất nhiên không phải là chủ quan khinh địch
b.Phải biết thẹn vì nước bị nhục
Trần Quốc Tuấn khéo gợi lên cái nỗi bực tức của mỗi người dân , trước
hết là của mỗi người tướng trước việc sứ địch "nghêng ngang ngoài
đường ","Xỉ mắng triều đình" Trần Quốc Tuấn muốn cho mỗi người dân
khinh bỉ bọn Nguyên, gọi chúng là cú diều , là dê chó , cái bọn khinh bỉ
ta là cái bọn đáng khinh bỉ nhất .Lòng tham của chúng là vô cùng , không
thể có kho tàng nào thoả mãn được .Danh dự ta bị tổn thương ,an ninh ta
bị đe doạ, chiến tranh khong thể tránh được, làm tướng sao có thể ngồi
nhìn mà không biét ức biết nhục, không tìm cách cứu vong hay sao ?

Thời này là thời nhiễu nhương , buổi này là buổi gian nan , nào phải là
buổi hoà bình an lạc, đừng nhận định sai lầm.Làm tướng trong tình thế
khách quan đó , phải làm gì?
Chủ tướng thì đau lòng , âu lo căm thù , ngày đêm tính kế rửa nhục nước
, không quản hi sinh , còn tuớng sĩ thế nào ? Trần Quốc Tuấn nghiêm
15
khắc vạch ra những điều hư hỏng , cái hư lớn nhất, nguy nhât là không
biết thẹn với cái nhục chung của nước, Là thái độ thờ ơ với vận mệnh
nước nhà. Biết thẹn, biết nhục là một điều lớn trong đạo làm người nói
chung. "Mặt dày mày dạn" là lời nhân dân thường dùng để chê kẻ không
biết thẹn, không biết nhục. Không biết thẹn biết nhục là kẻ bỏ đi. Người
ta can đảm chiến đấu bảo vệ quê hương , mình nhát sợ co rúm ở xó bếp
mà không biết thẹn, thì còn nói gì đến chí trai? Uốn lưng chống gối
trước kẻ xâm lược dã không biết đó là nhục lại còn lấy đó làm vinh, làm
kế sinh nhai, thì còn đâu xứng đáng đứng trong trời đất. Như vậy bài
Hịch của Trần Quốc Tuấn lấy cái tâm lí biết thẹn biết nhục làm đòn bẩy
tinh thần , đả phá tư tưởng thờ ơ, hưởng lạc , kích động vinh dự quân
nhân.
c.Đả phá tư tưởng thờ ơ hưởng lạc , xây dựng tư tưởng quyết
chiến,quyết thắng.
Trần Quốc Tuán liệt kê những hiện tượng cụ thể của căn bệnh thờ ơ
trầm trọng, căn bệnh hưởng lạc nguy hiểm chắc là khá phổ biến trong
hàng ngũ tướng sĩ lúc bấy giờ:"Nay các người nhìn chủ nhục mà không
biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn Lấy việc chọi gà làm vui
đùa, lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển "Tư tuởng thờ ơ hưởng lạc nếu
không bị đánh đổ sẽ dẫn đến chỗ bi thảm ấy.Không chỉ có những người
lãnh đạo quốc gia, bị thiệt và mang nhục mà cả tướng sĩ và mọi người
đều mang nhục. Giống như dưới đống mồi khô có ngọn lửa, khi củi chưa
cháy,đừng tuởng nằm bên trên đống lửa là yên ổn, kì thật sắp chết đến
nơi và phải nhận rõ nguy cơ cấp bách là giặc Sát Thát sắp tràn vào,hãy

bỏ con đường sống nhục.
Có thể tưởng tuợng được một Hưng Đạo Vương long trọng tuyên đọc bài
"Hịch", đến đây các tướng sĩ tay nắm chân dậm đồng thanh hô vang:Giết,
16
Ghết giặc Thát". Hai chữ "Sát Thát "xâm trên cánh tay của mỗi chiến sĩ
đã nói lên quyết tâm sắt đá của toàn thể nhân dân nước Việt anh hùng
*Đánh giá về Trần Quốc Tuấn
Qua Hịch tướng Sĩ chúng ta biết được tấm lòng yêu nước nông nhiệt
của vị anh hùng Sát Thát .Câu nói tràn đầy sức cảm hoá.
"Ta thường tới bữa quên ăn , nửa đêm vỗ gối , ruột đau như cắt,nước
mắt đầm đìa, chỉ giận không được lột da nuốt gan uống máu quân thù ,
dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ , nghìn xác này gói trong da
ngựa ta cũng cam lòng"
Bài Hịch là một lời thiết tha kêu gọi binh sĩ , khơi sâu lòng căm thù địch
kích động ý chí chiến đấu thổi bùng ngọn lửa yêu nước.
Bài Hịch mở đầu một truyền thống rèn luyện tư tưởng trong quân đội
thành một yếu tố lớn của mọi cuộc chiến thắng.Họ dân đông , quân
nhiều , của lắm .Ta dân , quân , của đều ít tất phải cậy ở sức mạnh tinh
thần , ở lòng yêu nước của nhân dân ở tài thao lược của tướng sĩ .ở sự
đoàn kết nhất trí và đàu óc sáng tạo của tập đoàn lãnh đạo quốc gia và
Trần Quốc Tuấn là bậc vĩ nhân tiêu biểu cho các giá trị ấy của dân tộc,
ông đặt lợi ích của nước lên trên hết và thực hiện yêu cầu lịch sử "vua tôi
đồng lòng, anh em hoà thuận"
Trần Quốc Tuấn xem trọng tình thương yêu khăng khít khiến trên dưới
một lòng như cha con như ruột thịt .Với tinh thần đó khiến cho Mông
Nguyên liên tiếp ba phen đại bại không còn có thể đổ rằng vì rủi mà
thua.
Đại Việt liên tiếp ba lần tiêu diệt Mông Nguyên.Trong cuộc chiến thắng
lẫm liệt có tầm quan trọng quốc gia và quốc tế này thì Trần Quốc Tuấn
là vị anh hùng của các bậc anh hùng, còn bài Hịch tướng sĩ là cái mốc

đánh dấu cuộc chuyển biến tư tưởng tiền đề của chiến thắng lẫm liệt đó.
2.Bình Ngô đại cáo.
17
Là bản lịch sử tóm tắt 10 năm kháng chiến để toàn dân ghi nhớ chặng
đường và những thành tích của khởi nghĩa Lam Sơn hiểu rõ ý nghĩa và
tầm quan trọng của cuộc chiến thắng, thấm nhuần công đức và tư tưởng
chính trị của vua Lê và đây thực sự là bảng tổng kết kinh nghiệm cuộc
chiến đấu chống Minh, rút từ đó một số bài học về đường lối đánh giặc
cứu nước có giá trị lâu dài cho sự nghiệp bản vệ nền độc lập dân tộc.
Trong hiện đại trải qua kháng chiến chống Pháp chống Mĩ , cái áng cổ
văn được trích dẫn thường nhất là "Bình ngô đại cáo" và bao giờ cũng có
tác dung tích cực , động viên soi sáng . 550 năm đã trôi qua mà bài "Cáo
bình Ngô " vẫn có ý nghĩa hiện đại , hợp thời .Thực ra thì cũng phải đến
hiện đại , nhờ ánh sáng chủ nghĩa Mác Lê nin , người mình mới phát hiện
Nguyễn Trãi một cách đầy đủ và cơ bản.
a.Ý thức dân tộc và tự hào dân tộc phát triển đến mức cao.
"Như nước Đại Việt ta từ trước

Song hào kiệt đời nào cũng có"
Nguyễn Trãi như muốn đánh đổ định kiến sai lầm của các triều đại
phương Bắc là nhân dân nước Nam là mọi rợ và định kiến nước ta là một
bộ phận của Trung Quốc .Chúng ta có lãnh thổ riêng, văn hoá riêng và có
yếu tố chủ quyền,Đại Việt đã từng đương đầu với Hán, Đường, Tống
Nguyên , mỗi bên làm đế một phương hàng trăm hàng ngàn năm như vậy
thì Trung Quốc có thể nào phủ nhận sự tồn tại của Đại Việt.
Nguyễn Trãi cũng đề cao lòng tự hào dân tộc chính dáng, đó là nguồn
sức mạnh không bao giờ thừa nhất là trong lúc chiến đấu chống ngoại
xâm.
b.Ngọn cờ nhân nghĩa cứu nước cứu dân dựa vào dân mà cứu nước
Ý thức dân tộc của ta như thế nào . Tự hào của dân tộc ta như thế ấy . Ở

"Bình Ngô Đại Cáo" nói riêng và ở các tác phẩm yêu nước của Nguyễn
18
Trãi nói chung ,khái niệm nhân nghĩa trước hết là một đường lối chính
trị cứu nước cứu dân. Bài học thất bại của nhà Hồ là:bởi làm mất lòng
dân nên mất nước .Bây giờ, muốn lấy lại nước thì phải biết dựa vào dân ,
biết lấy sức dân mà kháng chiến.
Dân là ai? Dân chủ yếu là ai? Có thể tìm
" Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước la trừ bạo"
c. Đánh vào quân địch và lòng người
" Giặc đã sợ hãi mà hoà hiếu thực lòng, ta lấy toàn quân là hơn để nhân
dân nghỉ sức "
d.Kiên trì chiến đấu , vượt mọi gian khổ để thắng lợi cuối cùng
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần
Khi Khôi huyện quân không một đội

Đánh một trận sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông"
3.Tuyên ngôn độc lập- Một bản hùng văn.
a.Khẳng định nguyên lí về quyền bình đẳng giữa các dân tộc
Chúng ta đều biết , Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết "Tuyên Ngôn độc lập"
trong một đêm vào cuối tháng Tám năm 1945, tại căn nhà phố Hàng
Ngang , Hà Nội. Viết trong một đêm nhưng dựa trên cơ sở chính Người
đã tổng kết gần 100 năm đấu tranh chống đế quốc, Thực dân Pháp , giành
độc lập của toàn thể dân tộc ta và tổng kết cả một đời hoạt động cách
mạng của bản thân Chủ tịch. Mở đầu bản tuyên ngôn độc lập Chủ tịch
trích dẫn câu của "Tuyên ngôn độc lập" 1776 của nước Mĩ và nhắc đến
bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền" Của cách mạng Pháp 1791.
Chủ tịch trích dẫn và nhắc đến hai bản tuyên ngôn nổi tiếng, nhưng
không dừng lại ở đó , mà chính Người đã phát triển , có thể nói là nâng

19
lên, cái ý cốt lõi , cái nguyên tắc cơ bản của 2 bản tuyên ngôn của Mĩ và
Pháp.
Bản tuyên ngôn 1776 của Mĩ nói: Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền
bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm
đựoc, trong những quyền ấy,có quyền được sống , quyền tự do và quyền
mưu cầu hạnh phúc ". Từ quyền cá nhân con người , mỗi công dân, nhà
cách mạng Hồ Chí Minh đã mở rộng, nêu quyền dân tộc: Tất cả các dân
tọc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng , dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do ". Và Người đã nắm chắc mối quan hệ
biện chứng giữa quyền con người và quyền dân tộc .Dân tộc không được
độc lập thì cũng chẳng có quyền con người .Trong những nước thuộc địa
thì tình trạng này đã quá rõ .Và nguyên tắc mà Hồ Chí Minh nêu lên thì
đã được xác nhận trong hiến chương Liên Hợp Quốc và trong tuyên
ngôn về các quyền con người được liên Hợp Quốc thông qua năm
1948.Sự đóng góp của bản tuyên ngôn độc lập 2-9-45 của Việt Nam vào
lí luận quyên con người gắn với quyền dân tộc là rất quan trọng.
Ta cũng có thể suy nghĩ thêm:Tại sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại mở đầu
"Tuyên ngôn độc lập" bằng cách trích dẫn hai bản tuyên Ngôn của Pháp,
Mĩ?
Lúc ấy (tháng 9/450, rất ít nước , ít chính phủ biết đến Việt Nam.Cho
nên nếu ta đưa một bản Tuyên ngôn độc lập hoàn toàn với lập trường của
ta (dù với quan điểm đanh thép chăng nữa ) thì tác dụng thông điệp với
cộng đồng quốc tế chắc là có phần bị hạn chế .Còn Chủ tịch Hồ Chí
Minh sau khi trích dẫn hai bản tuyên ngôn của Mĩ, Pháp thì đã khoá lại
bằng một câu :"Đó là những lẽ không ai chối cãi được"
Sau phần mở đầu về nguyên lí độc lập,đến phần kể tội chủ nghĩa thực dân
Pháp. Rõ ràng đây là sự tiếp tục cuộc đấu tranh kiên trì , dai dẳng từ bản
"Yêu sách của nhân dân việt Nam "gửi hội nghị Véc sai 1919, đòi tự do
20

độc lập cho dân tộc, tiếp tục những bài viết nảy lửa trên báo Người cùng
Khổ , báo Nhân Đạo và nhiều báo khác của NAQ. Rõ ràng là bản án chế
độ thực dân Pháp đã từ lâu chuẩn bị đầy đủ cho phần quan trọng này
của bản tuyên ngôn Độc lập.Tuyên ngôn độc lập lên án bọn thực dân đô
hộ về phương diện chính trị kinh tế văn hoá.Trong bản án thực dân dã
nói đầy đủ, tỉ mỉ các tội ác ấy.
Những điều buộc tội ác thực dân cướp nước đều đã được mô tả , phân
tích kĩ càng , đanh thép trong bản án, có điều trong tuyên ngôn những tội
danh ấy được viết cô đúc như những nhát búa của một quan toà tối cao
xử chung thẩm vụ án tày đình này.
Phần thứ ba của " Tuyên ngôn độc lập" chứng minh tính hoàn toàn hợp
pháp củâ việc nhân dân ta nắm chính quyền. Pháp đã đầu hàng Nhật 2
lần (Mùa thu 1940 và ngày 9.3.45), trong 5 năm,chúng đã bán nước ta 2
lần cho Nhật.Trong lúc đó nhân dân Việt Nam đã dũng cảm đứng về
phía đồng Minh đấu tranh chống phát xít.
"Sự thực là mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật -
Khi Nhật đầu hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta nổi dậy giành
chính quyền , lập nên nước Việt Nam Cộng Hoà.
"Sự thực là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật , Chứ không từ
tay Pháp "
Lập luận thật là chật chẽ , văn mạch khúc chiết .Và tiếp đó là lời tuyên bố
độc lập :
"Bởi thế cho nên, chúng tôi - Lâm thời chính phủ của nước Việt Nam
mới -đại biểu cho toàn dân Viẹt Nam, tuyên bố thoát li hẳn với Pháp,xoá
bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí với ước Việt Nam , xoá bỏ tất cả
mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
Và sau cùng là lời trịnh trọng tuyên bố với thế giới "Nuớc Việt Nam có
quyền hưởng tự do và độc lập và sự thực đã trở thành một nước tự do
21
độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đêm tất cả tinh thần và lực

lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyên tự do độc lập ấy .
Chứng minh một chân lí mà ai cũng phải thừa nhận. Dân tộc Việt nam ta
dù nhỏ bé nưng vẫn là một dân tộc. Chúng ta cũng có quyền sống , quyền
bình đẳng với các dân tộc khác trên thế giới không kẻ nào có quyền
tước bỏ quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm đó.
b.Tố cáo tội ác của bọn đế quốc
Người tố cáo tội ác của Pháp nhiều hơn Nhật điều này không có ý nghĩa
là tội ác của Nhật ít hơn của Pháp .Thực tế phát xít Nhật còn dã man hơn
cả thực dân Pháp. Sở dĩ như vậy vì Pháp là kẻ thông trị Đông dương ,
gây bao tội ác cho nhân dân Đông dương .Nhưng Pháp đã không bảo hộ
được Đông dương.Trên thực tế nhân dân ta đã giành được chính quyền
từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Dụng ý tuyên ngôn muốn chỉ
cho đồng bào thấy chính Pháp là kẻ đang muốn trở lại xâm lược Đông
Dương, giặc Nhật không còn thực lực nữa.Mặt khác tuyên ngôn muốn
nhắc nhở đồng bào ta nhớ lại tội ác của Pháp mà căm thù chúng , đề cao
cảnh giác và sẵn sàng đánh trả chúng một khi chúng trở lại Đông Dương.
c.Khẳng định chủ quyền của dân tộc.
Tuyên ngôn viết "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập và thực
sự đã thành một nước tự do, độc lập "Như vậy tuyên ngôn đã khẳng định
cả hai phương diện:Trên pháp lí cũng như trên thực tế chủ quyên của dân
tộc ta.
d.Khẳng định ý chí quyết tâm giữ gìn độc lập dân tộc.
"Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần, lực lượng, tính
mạng của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy "Bản tuyên ngôn là
một văn kiện vô giá vì đã tổng kết được tất cả những thành tựu đấu tranh
ngót 100 năm chống Đế quốc,hàng nghìn năm chống phong kiến của
nhân dân ta được viết nên bằng xương máu đồng thời đã khai sinh ra
22
nước Việt Nam dân Chủ Cộng Hoà- mở ra một kỉ nguyên mới cho dân
tộc - kỉ nguyên độc lập tự do tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Từ đó về sau nhân dân ta đã không từ chối một sự hi sinh nào kể cả phải
trải qua hai cuộc chiến tranh 30 năm tàn khốc để giữ vững tinh thần cơ
bản của bản tuyên ngôn.
Đã 53 năm từ ngày bản "Tuyên ngôn độc lập" lịch sử được chủ tịch Hồ
Chí Minh đọc tại quảng trường Ba Đình trước gần một triệu đồng bào
nội ngoại thành Hà Nội.Tiếp sau "Hịch tướng sĩ","Bình Ngô Đại Cáo",
"Tuyên ngôn Độc lập"1945 là một bản hùng văn của dân tộc,vừa hào khí
bừng bừng , vừa lập luận chặt chẽ , vừa đanh thép về pháp lí quốc tế, vừa
nung nấu tình cảm nồng nàn của dân tộc, vừa kế khí phách của cha
ông,thâu tóm được tinh thần thời đại.
"Tuyên ngôn độc lập" thể hiện tư tưởng cao độ :"Không có gì quý hơn
độc lập tự do", một tư tưởng khái quát được cả phong trào giải phóng
dân tộc của thế kỉ XX trên toàn thế giới.Chúng ta tự hào được sống trong
thế kỉ hào hùng của dân tộc, với vũ khí vô song của nhân dân được đúc
kết trong bản hùng văn bất hủ.
Sức mạnh của dân tộc bắt nguồn từ sức mạnh của truyên thống nghìn
năm quyết tâm " Thà hi sinh tất cả chứ không chịu làm nô lệ ". Bóc đi cái
vỏ thần bí thích ứng với tâm hồn nhân dân thòi ấy,thì còn lại cái hạt nhân
chủ nghĩa yêu nước vốn là tư tưởng chủ yếu của người từ thời thượng cổ
350 năm sau bài "Nam quốc sơn Hà" là bài "bình Ngô dại cáo". Chữ"đế
cư" trong "Nam quốc sơn hà" được tiếp nối bằng "các đế" trong "bình
ngô đại cáo"
"Bình ngô đại cáo" cũng là lời khẳng định độc lập của dân tộc ta , quyền
ấy không được ghi ở sách trời mà được cấu tạo bởi các diều kiện địa lí ,
lịch sử phong tục đặc biệt được thể hiện ở ý thức dân tộc , tự hào dân
23
tộc ở khả năng tự chủ tự cường mà bằng chứng độc lập lâu dại và vang
dội trên các chiến trường.
Lời cảnh báo trong "Nam quốc sơn Hà" thì vắn tắt nhưng mà đanh thép ,
lời cảnh cáo trong ""Bình ngô đại cáo" là cả lịch sử của cuộc khởi nghĩa

Lam Sơn toàn thắng . "Nam quốc sơn Hà" ra đời dưới dạng 1 bài cổ
động không chính thức còn ""Bình ngô đại cáo"là tiếng nói trịnh trọng
của của vua nước ta , trực tiếp cho dân nước ta,gián tiếp cho triều đình
Bắc quốc , cho nên trên thực tế lịch sử ""Bình ngô đại cáo" mang đầy đủ
nội dung của 1 bản tuyên ngôn độc lập sau "Nam quốc sơn Hà
Hơn 500 năm sau ""Bình ngô đại cáo", Chủ tịch Hồ chí Minh đọc
bản "Tuyên ngôn Độc lập" tại Ba Đình -Hà nội Ngày 2/9/1945.Cụ Hồ chí
Minh khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam và cảnh cáo
thực dân chớ liều lĩnh xâm phạm quyền độc lập tự do ấy.
Lịch sử kháng chiến dài 30 năm tù 1945-1975 chứng tỏ rằng lời khẳng
định , lời cảnh cáo trong tuyên ngôn độc lập không phải chỉ là lời nói của
một chính phủ lâm thời đó chính là quyết tâm của cả dân tộc .
"Nam quốc sơn Hà, ""Bình ngô đại cáo""Tuyên ngôn Độc lập"là
những giai đoạn phát triển của một lí tưởng "Không có gì quý hơn độc
lập tự do"
B/ TRẮC NGHIỆM KIỂM CHỨNG ĐỀ TÀI.
Thông qua các bản tuyên ngôn của thế giới và Việt Nam, qua việc dạy
các bài học trên lớp tôi đã lồng ghép giáo dục về tinh thần yêu nước, tính
tự tôn, từ hào dân tộc tới các em học sinh và thấy các em rất say mê trong
các bài học và tự ý thức được trách nhiệm của mình với dân tộc.
Kết quả thực nghiệm ở các khối như sau.
KHỐI HỨNG THÚ HIỂU BÀI KẾT QUẢ
24
HC KIM TRA
VIT
10

100% 90%
90%
- Giỏi: 30%

- Khá: 40%
- TB: 30%
11 100% 90% 90%
Tổng 100% 90% 90%
Nh vậy ta thấy bớc đầu hiệu quả của sáng kiến đã đợc phát huy. Chứng tỏ
giáo dục tinh thần yêu nớc cho học sinh có rất nhiều cách khác nhau và
đây là một hớng đi thiết thực và hiệu quả.
PHN BA:KT LUN
B mụn Lch S cú vai trũ quan trng i vi vic giỏo dc nim tin lớ
tng ca th h tr . Cựng vi mụn hc trong trng ph thụng thỡ vic
dy hc lch s gúp phn giỏo dc hc sinh theo mc tiờu o to ó
c xỏc nh.
Vic giỏo dc truyờn thng yờu nc cho hc sinh thụng qua cỏc tuyờn
ngụn nhm trang b nhng kin thc sõu rng ca lch s phc v
25

×