Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SKKN KINH NGHIỆM TÍCH HỢP GIÁO DỤC MÔI TRƯỜNG TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1000.41 KB, 26 trang )

I.TÊN ĐỀ TÀI:
KINH NGHIỆM TÍCH HỢP GIÁO DỤC MÔI TRƯỜNG
TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ 9
II. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1.Tấm quan trọng của vấn đề:
Chúng ta biết môi trường là không gian sinh sống của con người và
sinh vật, là nơi chứa đựng các nguồn tài nguyên cần thiết cho đời sống
và sản xuất, là nơi chứa đựng và phân hủy các chất thải do con người
tạo ra trong cuộc sống và hoạt động sản xuất…Môi trường có vai trò
cực kì quan trọng đối với đời sống con người. Đó không chỉ là nơi tồn
tại, sinh trưởng và phát triển mà còn là nơi lao động, nghỉ ngơi, hưởng
thụ và trau dồi những nét đẹp văn hóa thẩm mĩ…Vậy nhưng chúng ta
thấy hiện nay vấn đề môi trường đang là vấn đề bức xúc mang tính
toàn cầu, nó đang là mối quan tâm hàng đầu của toàn nhân loại, và sự
sống của con người đang ngày càng bị đe dọa nghiêm trọng, bởi môi
trường bị suy thoái… Đặc biệt ở Việt nam, với sự phát triển nhanh
chóng về kinh tế – xã hội trong những năm qua đã làm đổi mới xã
hội, chỉ số tăng tưởng kinh tế không ngừng được nâng cao. Tuy vậy,
sự phát triển kinh tế chưa đảm bảo cân bằng với việc bảo vệ môi
trường. Vì thế môi trường Việt nam đã xuống cấp, nhiều nơi môi
trường bị ô nhiễm nghiêm trọng. Trước tình hình đó Đảng và Nhà
nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp nhằm giải quyết các vấn
đề môi trường. Hoạt động bảo vệ môi trường được các cấp các ngành
và đông đảo tầng lớp nhân dân quan tâm và bước đầu đã thu được một
số thành quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, việc bảo vệ môi trường ở
nước ta vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế
Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012
1
xã hội trong thời kì đổi mới. Nhìn chung môi trường của nước ta vẫn
tiếp tục bị xuống cấp nhanh, có lúc có nơi đã bị báo động. Chính vì
vậy, mà ngày 31/1/2005 Bộ trưởng bộ Giáo Dục và Đào Tạo đã chỉ thị


về việc tăng cường công tác giáo dục bảo vệ môi trường, xác định
trọng tâm đến năm 2020 cho giáo dục phổ thông là trang bị cho học
sinh kiến thức, kĩ năng về môi trường bằng nhiều hình thức phù hợp
trong các môn học. Riêng đối với bộ môn Vật lý thì việc giáo dục môi
trường là rất quan trọng, vì Vật lý là cơ sở của nhiều ngành kỹ thuật và
công nghệ quan trọng.Từ đó tôi nhận thấy cần phải nâng cao hơn nữa
việc giáo dục môi trường trong môn Vật lý. Tôi chọn Vật lý khối 9
cho việc đẩy mạnh tích hợp giáo dục môi trường nhằm nâng cao ý thức
bảo vệ môi trường sống dưới góc nhìn bộ môn.
2.Tóm tắt thực trạng liên quan đến vấn đề nghiên cứu:
Bảo vệ môi trường hiện nay đang là nhiệm vụ của toàn xã hội, trong
đó có học sinh. Tuy nhiên, rất nhiều học sinh không mấy quan tâm,
thậm chí thờ ơ đối với việc bảo vệ môi trường. Vì vậy, trong quá trình
dạy học giáo viên cần giáo dục học sinh biết cách bảo vệ môi trường,
trước hết là môi trường sống xung quanh các em.Trong quá trình dạy
học Vật lí, tôi chắc rằng các giáo viên đã đề cập đến các biện pháp
giáo dục bảo vệ môi trường. Tuy nhiên việc làm này còn chưa thường
xuyên, đôi khi còn mang tính sách vở, thiếu sự gần gũi với đời sống
thực tế học sinh. Trong khi đó,Vật lí là môn khoa học mang tính thực
tiễn cao, chúng ta hoàn toàn có thể vừa đưa ra các biện pháp giáo dục
bảo vệ môi trường liên quan đến từng nội dung trong các bài học cụ
thể lại vừa gần gũi với sự hiểu biết của học sinh. Chính điều này sẽ có
tác dụng kích thích óc tò mò, sáng tạo, hứng thú học tập, mở rộng sự
hiểu biết của học sinh, đặc biệt là hướng sự quan tâm của các em tới
môi trường để từ đó biết cách bảo vệ môi trường.
Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012
2
3. Lí do chọn đề tài:
Không ai có thể phủ nhận vai trò đặc biệt quan trọng của môi trường
đối với đời sống con người. Bởi môi trường không chỉ là nơi tồn tại,

sinh trưởng và phát triển mà còn là nơi chứa đựng các nguồn tài
nguyên, các chất thải của đời sống và sản xuất, đồng thời là nơi lưu trữ
và cung cấp thông tin cho con người. Nhưng môi trường hiện nay đang
xuống cấp, nhiều nơi bị ô nhiễm nghiêm trọng. Vì vậy, môi trường cần
được bảo vệ, bảo vệ môi trường hiện nay đang là vấn đề mang tính
toàn cầu. Ở nước ta, đó cũng là vấn đề được quan tâm sâu sắc của tất
cả các ngành, các cấp. Năm 2005, ngành giáo dục đã có Chỉ thị về việc
tăng cường giáo dục bảo vệ môi trường, trong đó nhiệm vụ trọng tâm
là trang bị cho học sinh kiến thức, kĩ năng về môi trường và bảo vệ
môi trường bằng nhiều hình thức phù hợp như thông qua các môn học
và hoạt động ngoại khoá
Vì vậy, để đáp ứng những yêu cầu đề ra, cùng với các môn học
khác, trong quá trình giảng dạy Vật lí việc lồng ghép, tích hợp nội
dung giáo dục bảo vệ môi trường là vấn đề không thể thiếu.Qua thực tế
mà tôi tạm gọi là “Vấn nạn môi trường” tại địa phương, cũng như sự
ảnh hưởng do ô nhiễm môi trường đến sức khỏe, cuộc sống của con
người. Qua đợt học tập về tích hợp giáo dục môi trường cho môn học
Vật lý theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, của ngành GD-ĐT về
công tác bảo vệ môi trường . Tôi nhận thấy việc giáo dục ý thức bảo vệ
môi trường đến với học sinh là cần thiết và rất quan trọng. Các em là
những người chủ của tương lai, những người sẽ trực tiếp quản lý, chịu
ảnh hưởng của môi trường sống. Vì thế các em hãy có ý thức bảo vệ
môi trường và phải có trách nhiệm với môi trường mình đang sống.
Đối với bộ môn Vật lý khối lớp 9 việc tích hợp để giáo dục môi trường
là vấn đề không đơn giản. Nếu giáo dục không phù hợp, thiếu lô gíc,
Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012
3
rất có thể gây phản tác dụng, ảnh hưởng không tốt đến tâm lý và nhận
thức về việc bảo vệ môi trường của các em. Hơn nữa với thực tại hầu
hết giáo viên chỉ chú trọng quan tâm truyền đạt kiến thức khoa học

trong tiết dạy là chủ yếu, giáo dục môi trường chỉ là vấn đề thứ yếu ,
không được xem trọng. Tôi đã nhiều lần trăn trở để tìm ra cách tích
hợp giáo dục môi trường vào môn Vật lý 9 sao cho nhẹ nhàng mà đem
lại hiệu quả cao nhất
Với tâm lý của các em thì dường như việc bảo vệ môi trường là của
người lớn. Làm thay đổi được suy nghĩ này đã khó, tạo nhận thức và
thói quen bảo vệ môi trường trong các em còn khó hơn nhiều.
Tôi lấy việc môi trường ở xung quanh em: Ở nhà, ở lớp học … để
hướng các em đến với việc bảo vệ môi trường là không của riêng ai.
Trực nhật, vệ sinh lớp học, vệ sinh cá nhân có tạo cho em cảm giác
thoải mái, tự tin trong các hoạt động.
Từ những bước cơ bản và tranh thủ giáo dục ý thức bảo vệ môi trường
từ cha mẹ, ông bà và từ những môn học khác. Tôi đưa các em vào giáo
dục môi trường lồng ghép trong các bài học Vật lý lớp 9 một cách nhẹ
nhàng, không gây nhàm chán, gò ép.
4.Phạm vi thực hiện đề tài:
Với mong muốn từng bước làm thay đổi nhận thức của học sinh góp
phần nhỏ vào việc cải thiện môi trường sống của con người trong đề
tài này tôi chỉ đề cập một khía cạnh nhỏ “ Kinh nghiệm tích hợp
giáo dục môi trường trong dạy học vật lí 9”
III. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Môi trường được hiểu là bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất
nhân tạo bao quanh con người có ảnh hưởng đến đời sống và sự tồn
tại, phát triển của con người và sinh vật. Vậy nhưng môi trường – lá
phổi xanh, nguồn máu-đó của con người đang ngày càng bị tổn thương
Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012
4
nghiêm trọng. Những hiểm họa suy thoái môi trường đang ngày càng
đe dọa cuộc sống của loài người, cụ thể như: trái đất đang ngày bị
nóng lên, tầng ô dôn bị thủng, các nguồn tài nguyên khác đang ngày bị

cạn kiệt, thu hẹp…Hậu quả là thiên tai, lũ lụt xảy ra khắp nơi; hạn hán
kéo dài, nhiều sinh vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng, băng tan
nước mặn tràn ngập khiến ngành nông nghiệp bị tổn thất nặng nề…
Mà một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là ý thức của
người dân về vấn đề môi trường còn kém. Họ nghĩ môi trường là của
chung, ai lo được thì lo còn đó không phải việc của họ, cho nên trái đất
đang lên tiếng kêu cứu… Nhận thấy tầm quan trọng của việc bảo vệ
môi trường trong công cuộc xây dựng và phát nước, Đảng và Nhà
nước chủ trương phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường và
phát triển xã hội, đảm bảo sự phát triển bền vững của quốc gia. Vì vậy,
nhiều văn bản được ban hành để thể chế hóa bảo vệ môi trường
(BVMT), trong đó có công tác giáo dục bảo vệ môi trường, cụ thể:
Ngày 17/10/2001 Thủ tướng kí quyết định 1363/QĐ-TTG về việc phê
duyệt đề án: “Đưa nội dung BVMT vào hệ thống giáo dục quốc dân”
với mục tiêu: “Giáo dục học sinh, sinh viên các cấp học, bậc học trình
độ đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân có hiểu biết về pháp luật
và chủ trương, chính sách của Đảng về BVMT”.
Ngày 15/11/2004 Bộ chính trị đã ra NQ 41/NQ /TƯ về: “Bảo vệ môi
trường trong thời kì xây dựng công nghiệp hóa –hiện đại hóa đất
nước” – nghị quyết đã coi tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức là
giải pháp số một trong bảy giải pháp BVMT của nước ta và chủ
trương: “Đưa nội dung giáo dục BVMT vào chương trình Sách Giáo
Khoa của hệ thống giáo dục quốc dân tăng dần thời lượng và tiến tới
hình thành môn học chính khóa đối với các cấp học phổ thông”…
Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012
5
Cụ thể hóa và triển khai các chủ trương của Đảng và Nhà nước, ngày
31 tháng 1 năm 2005, Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo ra chỉ thị “ về
việc tăng cường công tác giáo dục bảo vệ môi trường”. Chỉ thị đã xác
định nhiệm vụ trọng tâm từ nay đến năm 2010 cho giáo dục phổ thông

là “ trang bị cho học sinh kiến thức và kĩ năng về môi trường bằng
hình thức phù hợp trong các môn học …”
Trên tinh thần đó, Bộ giáo dục và Đào tạo đã chính thức đưa nội dung
tích hợp giáo dục BVMT vào các môn học thực hiện từ năm học 2008-
2009. Sở Giáo dục và Đào tạo sẽ lựa chọn một số trường áp dụng thí
điểm để tiến tới nhân rộng áp dụng đại trà cho những năm học sau. Và
Bộ Giáo dục cũng xác định rõ mục tiêu, nguyên tắc giáo dục môi
trường trong nhà trường THCS như sau:
- Về mục tiêu:
- Nhận thức:
+ Có ý thức cao trong việc bảo vệ sức khỏe, bảo vệ thiên nhiên, giữ
gìn cảnh quan sử dụng nguồn năng lượng.
+ Nhận thức được tầm quan trọng của môi trường và các tác động của
vấn đề môi trường và các tác động của vấn đề môi trường đối với bản
thân, gia đình và địa phương.
- Kỹ năng:
+ Có kỹ năng sống phát hiện vấn đề môi trường và xử lý kịp thời, dự
đoán và cảnh báo các vấn đề môi trường.
- Thái độ:
+ Bảo vệ, cải tạo và phát triển môi trường.
+ Tham gia, hành động vì môi trường vận động những người xung
quanh cùng hành động.
Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012
6
-Về nguyên tắc tích hợp:
+ Chỉ tích hợp những bài thực sự có liên quan đến môi trường, không
gượng ép, không tích hợp tràn lan, …, đảm bảo khai thác nội dung
giáo dục môi trường một cách tự nhiên, hợp lí đạt hiệu quả cao.
+ Đảm bảo được đặc trưng bộ môn, không biến giờ học thành giờ trình
bày về giáo dục môi trường. Giáo dục môi trường chỉ là nội dung tích

hợp một cách tự nhiên, hợp lí, hòa đồng với kiến thức bộ môn.
+ Không làm tăng nội dung học tập dẫn đến quá tải. Các phương tiện
về môi trường cần nghiên cứu kĩ, chọn lọc cẩn thận gia công về cách
thức dẫn dắt liên hệ, đảm bảo cho học sinh vừa nắm vững kiến thức
chuyên môn, vừa tăng thêm kiến thức về môi trường, có ý thức giữ
gìn, bảo vệ môi trường và tuyên truyền cho người khác.
+ Chia nhỏ rãi đều vấn đề môi trường vào bài một cách hợp lí.
+ Đảm bảo tính hấp dẫn các hoạt động thực tiễn về môi trường
Như vậy , giáo dục BVMT trong trường học có ý nghĩa vô cùng quan
trọng nhằm thực hiện chiến lược toàn cầu về bảo vệ Trái Đất
ddeerddamr bảo cho sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, đông
thời qua đó ta thấy tầm quan trọng của việc giáo dục BVMT nhằm
nâng cao nhận thức cho học sinh về môi trường và BVMT.
IV. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Bảo vệ môi trường hiện nay đang là nhiệm vụ của toàn xã hội, trong
đó có học sinh. Tuy nhiên, rất nhiều học sinh không mấy quan tâm,
thậm chí thờ ơ đối với việc bảo vệ môi trường. Vì vậy, trong quá trình
dạy học giáo viên cần giáo dục học sinh biết cách bảo vệ môi trường,
trước hết là môi trường sống xung quanh các em.
Trong quá trình dạy học Vật lí chắc rằng các giáo viên đã đề cập đến
các biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường. Tuy nhiên việc làm này còn
Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012
7
chưa thường xuyên, đôi khi còn mang tính sách vở, thiếu sự gần gũi
với đời sống thực tế học sinh. Trong khi đó, Vật lí là môn khoa học
mang tính thực tiễn cao, chúng ta hoàn toàn có thể vừa đưa ra các biện
pháp giáo dục bảo vệ môi trường liên quan đến từng nội dung trong
các bài học cụ thể lại vừa gần gũi với sự hiểu biết của học sinh. Chính
điều này sẽ có tác dụng kích thích óc tò mò, sáng tạo, hứng thú học
tập, mở rộng sự hiểu biết của học sinh, đặc biệt là hướng sự quan tâm

của các em tới môi trường để từ đó biết cách bảo vệ môi trường.
- Thời lượng của một tiết học còn hạn chế (45ph) do đó giáo viên
giảng dạy ngại đi sâu vào việc tích hợp nội dung bảo vệ môi trường.
- Do điều kiện phục vụ dạy học, cơ sở vật chất trang thiết bị còn thiếu,
tài liệu, sách báo cho GV và HS tham khảo chưa được phong phú,
chưa đáp ứng được nhu cầu và hấp dẫn học sinh.
- Kĩ năng sử dụng các phương tiện phục vụ việc dạy học hiện đại của
giáo viên còn hạn chế. Như việc sử dụng máy vi tính để chuẩn bị bài,
cập nhật lưu trữ thông tin; sử dụng máy chiếu projecter để giảng dạy,
sưu tầm các tư liệu điện tử, tranh ảnh, phim liên quan đến môi trường .
V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
1. Cơ sở đề xuất giải pháp:
Hiện nay chúng ta đang đứng trước tình trạng môi trường bị suy thoái
nghiêm trọng. Nguyên nhân do sự phát triển mạnh mẽ của các ngành
công nghiệp đã thải ra môi trường một lượng khí thải rất lớn, làm ô
nhiễm nghiêm trọng đến môi trường sống. Tuy nhiên việc tích hợp
giáo dục bảo vệ môi trường như trên sẽ không đem lại hiệu quả, học
sinh sẽ không hiểu biết về tác động của môi trường đối với loài người,
như thế sẽ làm môi trường ngày càng mất cân bằng về sinh thái, đe dọa
nghiêm trọng đến cuộc sống con người. Để cho nội dung tích hợp giáo
Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012
8
dục bảo vệ môi trường có hiệu quả tôi mạnh dạn trình bày một số
phương pháp tích hợp.
2. Các giải pháp chủ yếu:
2.1.Xác định mục tiêu giáo dục môi trường:
Nghiên cứu chương trình, SGK để xây dựng mục tiêu dạy học, trong đó có
các mục tiêu GDMT. Việc nghiên cứu chương trình, nội dung SGK cho phép
GV xây dựng kế họach dạy học phù hợp cho toàn bộ chương trình bộ môn,
cho từng phần của môn học, từng chương cũng như từng bài học. Nhờ việc

phân tích chương trình SGK, GV có được cái nhìn tổng thể về các đơn vị kiến
thức, kĩ năng, thấy được mối liên hệ giữa chúng và dễ phát hiện các cơ hội
tích hợp nội dung GDMT vào từng đơn vị kiến thức một cách hợp lí, từ đó lập
kế hoạch khai thác các nội dung GDMT trong suốt quá trình dạy học mà
không sa vào tình huống ngẫu nhiên, tuỳ tiện làm quá tải bài học, hoặc trùng
lặp, hoặc không đưa ra được các tình huống GDMT thực sự có ý nghĩa thuyết
phục. Kết thúc quá trình này GV có thể đưa ra một sơ đồ lôgic xây dựng kiến
thức một cách phù hợp. Việc làm này sẽ cho cái nhìn trực quan về mối liên hệ
giữa các kiến thức, cho phép xác định hợp lí các tình huống sử dụng phương
pháp và phương tiện dạy học thích hợp. Nó cũng cho phép xác định hợp lí các
cơ hội tích hợp nội dung GDMT vào bài học.
2.2.Xây dựng nội dung tích hợp phù hợp với nội dung bài học
:
Căn cứ vào mối liên hệ giữa kiến thức bộ môn và nội dung GDMT, GV cần
làm rõ sẽ tích hợp nội dung GDMT nào là hợp lí, thời lượng dành cho nó là
bao nhiêu. Theo các nguyên tắc chung về GDMT thì các nội dung môi trường
càng gần với kinh nghiệm sống của HS thì càng tốt, đặc biệt có ý nghĩa là các
nội dung đề cập tới vấn đề môi trường sinh thái của địa phương. Vì vậy, với
cùng một nội dung tri thức vật lí trong SGK, song khi dạy cho HS ở các vùng
miền khác nhau, GV cần có cách khai thác nội dung GDMT khác nhau. Nói
một cách khác, căn cứ vào đối tượng HS khác nhau, GV sẽ xây dựng các tình
Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012
9
huống tích hợp nội dung GDMT khác nhau.
Để học sinh nhận thức đúng về
vai trò của môi trường đối với cuộc sống, từ đó có những hành động cụ
thể phù hợp thì trước hết cần đưa học sinh đến những vấn đề gần gũi
hoặc phù hợp với nhận thức của các em. Đối với bộ môn Vật lí, việc
giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh cần thông qua các nội dung
của từng bài học cụ thể trong chương trình học.

Ví dụ: Bài 12: Công suất điện
- Số oát ghi trên một dụng cụ điện cho biết công suất định mức của
dụng cụ đó, nghĩa là công suất điện của dụng cụ này khi nó hoạt động
bình thường.
- Khi sử dụng các dụng điện trong gia đình cần thiết sử dụng đúng
công suất định mức.
Để sử dụng đúng công suất định mức cần đặt vào dụng cụ điện đó hiệu
điện thế đúng bằng hiệu điện thế định mức.
- Biện pháp GDBVMT:
+ Đối với một số dụng cụ điện thì việc sử dụng hiệu điện thế nhỏ hơn
hiệu điện thế định mức không gây ảnh hưởng nghiêm trọng, nhưng đối
với một số dụng cụ khác nếu sử dụng dưới hiệu điện thế định mức có
thể làm giảm tuổi thọ của chúng.
+ Nếu đặt vào dụng cụ hiệu điện thế lớn hơn hiệu điện thế định mức,
dụng cụ sẽ đạt công suất lớn hơn công suất định mức. Việc sử dụng
như vậy sẽ làm giảm tuổi thọ của dụng cụ hoặc gây ra cháy nổ rất
nguy hiểm.
+ Sử dụng máy ổn áp để bảo vệ các thiết bị điện.
Ví dụ: Bài 16: Định luật Jun-Len xơ
- Công thức tính nhiệt lượng tỏa ra trên dây dẫn:
Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012
10
Q = I
2
Rt.
Đối với các thiết bị đốt nóng như: bàn là, bếp điện, lò sưởi việc tỏa
nhiệt là có ích. Nhưng một số thiết bị khác như: động cơ điện, các thiết
bị điện tử gia dụng khác việc tỏa nhiệt là vô ích
- Biện pháp GDBVMT: Để tiết kiệm điện năng, cần giảm sự tỏa nhiệt
hao phí đó bằng cách giảm điện trở nội của chúng

Bài 19: Sử dụng an toàn và tiết kiệm điện
- Cần phải thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn khi sử dụng điện,
nhất là với mạng điện dân dụng, vì mạng điện này có hiệu điện thế
220V nên có thể gây nguy hiểm tới tính mạng.
Sống gần các đường dây cao thế rất nguy hiểm, người sống gần các
đường dây cao thế thường bị suy giảm trí nhớ, bị nhiễm điện do hưởng
ứng. Mặc dù ngày càng được nâng cấp nhưng đôi lúc sự cố lưới điện
vẫn xảy ra. Các sự cố có thể là: chập điện, rò điện, nổ sứ, đứt đường
dây, cháy nổ trạm biến áp, … Để lại hậu quả nghiêm trọng.
- Biện pháp an toàn: Di dời các hộ dân sống gần các đường điện cao
áp và tuân thủ các quy tắc an toàn khi sử dụng điện.
- Cần lựa chọn sử dụng các dụng cụ và thiết bị điện có công suất phù
hợp và chỉ sử dụng chúng trong thời gian cần thiết.
Các bóng đèn sợi đốt thông thường có hiệu suất phát sáng rất thấp:
3%, các bóng đèn neon có hiệu suất cao hơn: 7%. Để tiết kiệm điện,
cần nâng cao hiệu suất phát sáng của các bóng đèn điện.
Biện pháp GDBVMT: Thay các bóng đèn thông thường bằng các bóng
đèn tiết kiệm năng lượng.
Bài 22: Tác dụng từ của dòng điện-Từ trường
Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012
11
- Không gian xung quanh nam châm, xung quanh dòng điện tồn tại
một từ trường. Nam châm hoặc dòng điện có khả năng tác dụng lực từ
lên nam châm đặt gần nó.
- Các kiến thức về môi trường:
+ Trong không gian, từ trường và điện trường tồn tại trong một trường
thống nhất là điện từ trường. Sóng điện từ là sự lan truyền của điện từ
trường biến thiên trong không gian.
+ Các sóng radio, sóng vô tuyến, ánh sáng nhìn thấy, tia X, tia gamma
cũng là sóng điện từ. Các sóng điện từ truyền đi mang theo năng

lượng. Năng lượng sóng điện từ phụ thuộc vào tần số và cường độ
sóng.
- Biện pháp GDBVMT:
+ Xây dựng các trạm phát sóng điện từ xa khu dân cư.
+ Sử dụng điện thoại di động hợp lý, đúng cách, không sử dụng điện
thoại di động để đàm thoại quá lâu (hàng giờ) để giảm thiểu tác hại của
sóng điện từ đối với cơ thể, tắt điện thoại khi ngủ hoặc để xa người.
+ Giữ khoảng cách giữa các trạm phát sóng phát thanh truyền hình một
cách thích hợp.
+ Tăng cường sử dụng truyền hình cáp, điện thoại cố định, chỉ sử dụng
điện thoại di động khi thật cần thiết.
Bài 40: Hiện tượng khúc xạ ánh sáng
Hiện tượng tia sáng truyền từ môi trường trong suốt này sang môi
trường trong suốt khác bị gãy khúc tại mặt phân cách giữa hai môi
trường, được gọi là hiện tượng khúc xạ ánh sáng.
- Các chất khí NO, NO2, CO, CO2,… khi được tạo ra sẽ bao bọc Trái
Đất. các chất khí này ngăn cản sự khúc xạ của ánh sáng và phản xạ
Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012
12
phần lớn các tia nhiệt trở lại mặt đất. Do vậy chúng là những tác nhân
làm cho Trái Đất nóng lên.
- Tại các đô thị lớn việc sử dụng kính xây dựng đã trở thành phổ biến.
Kính xây dựng ảnh hưởng đối với con người thể hiện qua:
+ Bức xạ mặt trời qua kính: Bên cạnh hiệu ứng nhà kính, bức xạ mặt
trời còn nung nóng các bề mặt nội thất luôn trao đổi nhiệt bằng bức xạ
với con người.
+ Ánh sáng qua kính: Kính có ưu điểm hơn hẳn các vật liệu khác là lấy
được ánh sáng phù hợp với thị giác của con người. Chất lượng của ánh
sáng trong nhà được đánh giá qua độ rọi trên mặt phẳng làm việc, để
có thể nhìn rõ được chi tiết vật khi làm việc. Độ rọi không phải là càng

nhiều càng tốt. Ánh sáng dư thừa sẽ gây ra sáng chói dẫn đến sự căng
thẳng, mệt mỏi cho con người khi làm việc, đây là ô nhiễm ánh sáng.
- Các biện pháp giảm thiểu ảnh hưởng của kính xây dựng:
+ Mở cửa thông thoáng để có gió thổi trên bề mặt kết cấu do đó nhiệt
độ trên bề mặt sẽ giảm, dẫn đến nhiệt độ không khí giảm.
+ Có biện pháp che chắn nắng có hiệu quả khi trời nắng gắt.
2.3.Lựa chọn và vận dụng các phương pháp và phương tiện dạy học phù
hợp:
ở đây, trước hết phải vận dụng các phương pháp dạy học tích cực trong đó
cần thực hiện các công việc sau:
2.3.1. Thu thập tài liệu sinh động và có sức thuyết phục.
- Hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, việc
tìm kiếm bất cứ tư liệu nào trên mạng internet cũng trở nên dễ dàng.
Đây là một điều kiện thuận lợi cho việc đổi mới phương pháp dạy học
nói chung và việc tích hợp bảo vệ môi trường nói riêng.
Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012
13
- Sau khi xây dựng được nội dung tích hợp giáo viên tìm và lựa chọn
những hình ảnh sinh động, ấn tượng phù hợp với yêu cầu để đưa vào
bài giảng.
2.3.2. Sử dụng máy chiếu projecter để dạy nội dung tích hợp.
Việc sử dụng máy vi tính kết hợp với máy chiếu để dạy học sẽ
phát huy cao tính trực quan của bài dạy. Đặc biệt phần tích hợp bảo vệ
môi trường đòi hỏi không chỉ cung cấp kiến thức, kĩ năng mà quan
trọng là hình thành ở học sinh thái độ trước các vấn đề về môi trường,
điều này sẽ đạt được hiệu quả cao khi các em được chứng kiến những
hình ảnh về thực trạng cũng như hậu quả của ô nhiễm môi trường.
2.4.Tổ chức triển khai thực hiện:
: Xây dựng tiến trình dạy học dạy học cụ thể: ở hoạt động này GV thiết kế cụ
thể các yêu cầu đối với HS, các hoạt động trợ giúp của GV đối với HS và

phối hợp các hoạt động đó để đạt được mục đích dạy học.
2.4.1. Chuẩn bị nội dung trước mỗi bài dạy
Trước hết giáo viên tìm hiểu vấn đề cần tích hợp, chọn lựa chủ
đề thật gần gũi, thiết thực và sát với nội dung bài học.
VD1: Bài 19: Sử dụng an toàn và tiết kiệm điện
Trong SGK đưa ra một số lợi ích do tiết kiệm điện năng mang lại
nhưng không nhắc tới lợi ích bảo vệ môi trường do tiết kiệm điện
mang lại.
Ở đây tôi cho học sinh thấy rằng: Tiết kiệm điện thì việc khai thác tài
nguyên để sản xuất điện sẽ ít đi do đó tài nguyên nước, nhiên liệu được
bảo vệ phục vụ đời sống làm giảm thiểu thiệt hại về môi trường. Qua
đó học sinh thấy được rằng tiết kiệm điện không những giảm chi tiêu
cho gia đình các dụng cụ và thiết bị điện được sử dụng lâu bền hơn,
Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012
14
giảm bớt sự cố… thì tiết kiệm điện còn đóng vai trò to lớn trong việc
bảo vệ môi trường sống của chúng ta.
* Đối với mỗi nội dung cần tích hợp, giáo viên có thể yêu cầu học
sinh:
Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình trạng hao phí điện năng.
Học sinh tự đưa ra biện pháp bảo vệ môi trường thông qua đó góp
phần bảo vệ môi trường hoặc giáo viên đưa ra để học sinh tìm hiểu.
Nêu một số biện pháp tiết kiệm điện năng mà các em thường áp dụng?
3.2. Thu thập thông tin và hình ảnh trên mạng internet
Cách thông dụng nhất để tìm kiếm hình ảnh trên mạng là vào
trang web www.google.com.vn , gõ từ khoá liên quan đến chủ đề ta
đang cần tìm. Khi chọn được hình ảnh thích hợp nên lưu lại trong một
tập tin với định dạng cỡ ảnh to nhất (khi đưa vào giáo án điện tử hình
ảnh sẽ đạt chất lượng cao hơn)
3.3. Lựa chọn thời điểm thích hợp trong tiến trình giảng dạy để

tích hợp
Việc lựa chọn thời điểm và nội dung để tích hợp hết sức quan
trọng. Một mặt nó làm cho bài dạy trở nên sinh động và có ý nghĩa,
mặt khác nếu lựa chọn không phù hợp sẽ làm cho bài dạy bị đứt quãng
và xa rời trọng tâm kiến thức. Ý thức được điều này giáo viên cần phải
nghiên cứu kĩ lưỡng các phương án tích hợp để vừa đảm bảo dạy đúng,
dạy đủ vừa đạt được mục tiêu giáo dục bảo vệ môi trường.
VD1: Bài 25. Sự nhiễm từ của sắt, thép - nam châm điện.
Ở Việt Nam đã ngày một nhiều hơn những rác thải công nghiệp. Đặc
biệt rác thải là những kim loại, việc phân kim loại để tái chế là rất quan
trọng. Dựa vào đặc tính kim loại từ của nam châm điện thì việc phân
Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012
15
loại kim loại trong rác thải công nghiệp là rất quan trọng. Từ đó làm
giảm thiểu tác hại gây ô nhiễm môi trường từ rác thải công nghiệp gây
ra.
VD2: Bài 26. Ứng dụng của nam châm :
Sản phẩm ứng dụng độc đáo là tàu chạy trên đệm từ, giảm thiếu
tối đa tiếng ồn, hạn chế gây ô nhiễm tiếng ồn.
VD 3: Bài 28: Động cơ điện một chiều
Ứng dụng trong việc chế tạo: xe đạp điện, tàu điện… khi hoạt động ít
gây tiếng ồn, giảm tối đa lượng khí thải ra môi trường. Từ đó tránh
làm ô nhiễm tiếng ồn, không gây ô nhiễm khí quyển.
VD 4: Bài 53. Sự phân tích ánh sáng trắng.
Sống trong môi trường ánh sáng nhân tạo (ánh sáng màu) khiến
thị lực suy giảm, sức đề kháng của cơ thể bị giảm sút.
Tại các thành phố lớn, do sử dụng quá nhiều đèn màu trang trí đã
khiến cho môi trường bị ô nhiễm ánh sáng. Sự ô nhiễm này dẫn đến
giảm tầm nhìn ảnh hưởng đến khả năng quan sát thiên văn. Ngoài ra
chúng còn lãng phí điện năng.

VD 5: Bài 61. Sản xuất điện năng
Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012
16
Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012
17
Sản xuất điện .
- Với nhiệt điện thì để sản xuất điện người ta phải sử dụng đến
các nhiên liệu như: than đá, dầu mỏ, khí đốt… từ đó các nguồn tài
nguyên bị khai thác sẽ làm ảnh hưởng tới cấu trúc sinh thái.
- Thủy điện: Vì điều kiện công tác tại địa phương có thủy điện A
Vương nên việc giáo dục thủy điện đến môi trường là rất cụ thể. Khi
thủy điện An Điềm được xây dựng. Một đoạn sông dài trơ đáy chỉ thấy
Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012
18
là những tảng đá lớn. Rõ ràng thủy điện đã làm thay đổi sinh thái của
cả một vùng, làm ảnh hưởng rất lớn đến hệ sinh thái.
Từ những ví dụ thiết thực tại địa phương học sinh đã nhìn nhận chính
xác hơn về ý thức phải bảo vệ môi trường quan trọng như thế nào.
Trên đây là các biện pháp để tích hợp nội dung giáo dục BVMT.
Những ví dụ trên không phải là duy nhất . Nghã là phải lựa chọn và
vận dụng các phương pháp sao cho phù hợp với nội dung bài dạy và
đặc biệt là phù hợp với đối tượng học sinh, trong đó cần phải khai thác
kĩ thuật dạy học nhằm tích cực hóa hoạt động của học sinh thông qua
các phương tiện dạy học nhằm phát triển nhận thức và tư duy, hình
thành cho các em khả năng độc lập, năng động sáng tạo, trong việc
tiếp thu và sử lí thông tin. Qua đó các em tiếp thu bài học tốt hơn và có
cách ứng xử đúng đắn về môi trường
2.4. Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học giáo dục môi trường
trong Vật lí.
Hiện nay có nhiều phương pháp dạy học giáo dục môi trường, trong môn

Vật lí sử dụng một số phương pháp sau:
a. Nghiên cứu.
Đây là phương pháp hướng các em làm quen với quá trình tìm tòi, sáng tạo
dưới các dạng bài tập. Có nhiều dạng bài tập khác nhau đối với học sinh : Bài
tập giải quyết nhanh tại lớp, bài tập đòi hỏi có thời gian dài.
b.Làm việc nhóm.
Đây là phương pháp dạy học có nhiều khả năng tốt trong quá trình giáo dục
môi trường vì nó đề cao sự hợp tác trên cơ sở hoạt động tích cực của mỗi các
nhân.
c. Đóng vai.
Đây là phương pháp được đặc trưng bởi một hoạt động với các nhân vật giả
định, mà trong đó các tình thế trong thực tiễn cuộc sống được thể hiện tức
thời thành những hành động có tính kịch. Trong vở kịch này, các vai khác
Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012
19
nhau do chính học sinh đóng và trình diễn. Các hành động kịch được xuất
phát từ chính sự hiểu biết óc tưởng tượng và trí sáng tạo của học sinh.
d. Quan sát, phỏng vấn.
Là phương pháp thường dùng, có mục đích thu thập các thông tin về một
vấn đề nào đó, hoạt động cơ bản là quan sát phỏng vấn.
e. Thuyết trình.
Là phương pháp trong đó học sinh thu thập thông tin tư liệu qua báo chí và
tư liệu các phương tiện truyền thông khác, xây dựng một bản báo cáo và trình
bày
g. Giáo dục môi trường thông qua hoạt động ngoại khoá Vật lí.
Ngoại khoá là hình thức tổ chức dạy học ngoài giờ lên lớp, không quy định
bắt buộc trong chương trình hoạt động dựa trên sự tự nguyện tham gia của
một số đông học sinh có hứng thú, yêu thích bộ môn và ham muốn tìm tòi,
sáng tạo nôi dung học tập địa lí, dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Hoạt động ngoại khoá có tác dụng rất lớn trong việc nâng cao hiệu quả dạy

học địa lí ở nhà trường góp phần tích cực vào việc nâng cao, mở rộng vốn tri
thức của các em, rèn luyện kĩ năng địa lí, hình thành tăng cường hứng thú học
tập và giáo dục lòng yêu thiên nhiên quê hương, đất nước.
Nhờ vào hoạt động ngoại khoá, các em được mở rộng kiến thức, bổ sung
cập nhật các kiến thức vật lí, các kĩ năng vật lí của học sinh có được trong học
tập ở lớp học có điều kiện để củng cố và rèn luyện vững chắc
Các hoạt động ngoại khoá vật lí với nhiều hình thức phong phú, diễn ra ở
nhiều địa điểm khác nhau, đòi hỏi các cách thức hoạt động khác nhau sẽ rèn
luyện cho học sinh đức tính thích nghi , chủ động hứng thú học tập.
h. Đánh giá trong giáo dục môi trường.
Việc đánh giá không chỉ nhằm mục đích ghi nhận thực trạng mà còn làm cơ
sở cho những hoạt động giáo dục tiếp theo, đề xuất những quyết định làm
thay đổi thực trạng. Do vậy việc đánh giá phải khách quan, chính xác trên cơ
Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012
20
sở đó làm sáng tỏ thực trạng để điều chỉnh quá trình dạy học hợp lí, và cuối
cùng là thông tin kết quả này đến địa chỉ có nhu cầu.
Như vậy việc đánh giá người học phải đảm bảo các yêu cầu:
+ Khách quan chính xác, toàn diện, hệ thống, công khai kịp thời, vừa sức,
bám sát yêu cầu của chương trình.
+Việc đánh giá trong giáo dục nhằm cung cấp cho học sinh những phản hồi
thông tin giúp cho học sinh điều chỉnh hoạt động học của mình.
+Việc giáo dục đánh giá không chỉ đơn giản là công cụ mà có uốn nắn, tạo
dựng tính cách học sinh.
+Về mặt giáo dưỡng, đánh giá trong giáo dục môi trường giúp học sinh thấy
được
mình đã tiếp thu những điều vừa học vận dụng kiến thức đó vào môi trường
như thế nào.
VI. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Việc tích hợp giáo dục BVMT là rất cần thiết trong dạy học, đây

có thể xem là mục tiêu cần đạt tới nhiệm vụ GDMT. Từ khi có chỉ đạo
của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc tích hợp giáo dục môi trường
trong dạy học môn vật lí , bản thân cảm thấy lúng túng trong quá trình
tích hợp. Vì vậy bản thân luôn ý thức tìm tòi cách thức tích hợp phù
hợp mang lại hiệu quả cao. Trên cơ sở thực tế giảng dạy năm qua, dù
thời gian còn hạn chế nhưng đã có sự thay đổi nhận thức về môi
trường của học sinh. Các em có những hiểu biết sâu sắc hơn, có động
cơ tốt trong việc bảo vệ môi trường.
Nhận thức được hành động của mình các em góp phần tiết kiệm được
năng lượng, tránh xa những tác động không mong muốn, có những
hành vi đúng hơn về cách ứng xử với môi trường. Góp phần xây dựng
môi trường sống ngày càng tốt hơn.
Tuy không phải hầu hết các em đều có ý thức tốt về bảo vệ môi
trường, nhưng chắc chắn rằng với sự kiên trì trong việc vận dụng các
Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012
21
phương pháp tích hợp thì hiệu quả giáo dục môi trường sẽ được nâng
lên.
VII. KẾT LUẬN
Tích hợp giáo dục môi trường là vấn đề quan trọng, cấp bách và
rất cần thiết. Với bộ môn Vật lý chúng ta cần có sự kết hợp giáo dục
môi trường trong
các tiết dạy. Sự kết hợp giáo dục cần nhẹ nhàng tránh gò
ép gây nhàm chán phản tác dụng. Tạo nhận thức về ý thức bảo vệ môi trường,
có trách nhiệm trước môi trường sống cho mỗi học sinh. Cần cho học sinh có
cái nhìn chính xác về môi trường và sự ô nhiễm môi trường. Từ những suy
nghĩ tích cực đó có thể giúp các em có hành động cụ thể, thiết thực hơn với
môi trường, góp phần nhỏ bé vào công cuộc bảo vệ môi trường ngày càng tốt
hơn.
Tuy nhiên để thay đổi nhận thức của con người không phải một sớm

một chiều. Cho nên giáo viên phải luôn có ý thức liên hệ và có sự phối hợp
đồng bộ với các tổ chức trong nhà trường để việc GDMT có hiệu quả hơn,
góp phần cải thiện môi trường sống của con người.
Trên đây là đề tài mà tôi đã thực hiện, mong muốn góp phần vào việc
thực hiện đổi mới phương pháp dạy học môn vật lí THCS. Kính mong sự góp
ý chân thành của quí thầy cô để đề tài được hoàn thiện hơn. Xin chân thành
cảm ơn.
VIII. ĐỀ NGHỊ
Việc tích hợp GDMT là một yêu cầu bắt buộc. Tuy nhiên không phải bất kì
bài dạy nào cũng có kết hợp nội dung này mà phải tùy từng nội dung phù hợp
để tránh áp đặt, giáo viên có thể sử dụng nhiều hình thức lồng ghép một cách
linh hoạt, hợp lí, đúng mức, đúng lúc, tránh nhàm chán cho học sinh, nâng
cao hiệu quả giáo dục BVMT mà không xa rời mục tiêu dạy học.
Để đạt được kết quả như trên bản thận xin có một số kiến nghị như sau:
* Đối với giáo viên:
Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012
22
- Giáo viên khi giảng dạy phần BVMT chúng ta không nên coi là phần phụ
mà phải nghiêm túc chuẩn bị nội dung , phương pháp, phương tiện để thực
hiện tốt nhất công việc giáo dục.
- Giáo viên phải nắm bắt chương trình, mục tiêu từng bài học, mức độ tích
hợp phù hợp với từng bộ môn, đa dạng các hình thức tích hợp, đảm bảo tính
khả thi.
- Trang bị kiến thức về công nghệ thông tin để tìm các tư liệu hình ảnh liên
quan để vận dụng vào bài dạy nhằm nâng cao hiệu quả tích hợp.
* Đối với nhà trường:
- Cung cấp các tài liệu liên quan đến giáo dục môi trường thường xuyên
- Trang bị nhiêu hơn nữa cơ sở vật chất thiết bị phục vụ cho việc dạy của giáo
viên như máy chiếu, máy vi tính
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân trong việc tích hợp giáo dục môi

trường trong dạy học vật lí 9. Trong quá trình viết chắc chắn còn nhiều thiếu
sót mong quí thầy cô góp ý để đề tài được hoàn thiện hơn.
Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012
23
IX. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Những vấn đề chung về đổi mới giáo dụcTHCS môn vật lí
(Nhà xuất bản giáo dục )
2. Phát huy tính tích cực hoạt động của học sinh ( Nhà xuất bản giáo dục )
3. Phương pháp dạy học vật lí ( Nhà xuất bản giáo dục )
4. Sách giáo khoa vât lí 9THCS( Nhà xuất bản giáo dục )
5. Giáo dục bảo vệ môi trường trong môn Vật lí THCS ( Nhà xuất bản
giáo dục)

Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012
24
X. MỤC LỤC
I. Tên đề tài Trang 1
II. Đặt vấn đề Trang
1
1. Tầm quan trọng của vấn đề Trang 1
2. Tóm tắt thực trạng liên quan đến vấn đề nghiên cứu Trang 2
3. Lí do chọn đề tài Trang 2
4. Phạm vi đề tài Trang 3
III. Cơ sở lí luận Trang 3
Phan Thị Mỹ Dung - THCS VÕ THỊ SÁU -2012
25

×