Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Bước đầu xây dựng câu hỏi Trắc nghiệm khách quan chương I và chương II phần “ Sinh học tế bào”, sinh học 10 nâng cao - THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.42 KB, 50 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ IV, khoá VIII bàn về công tác văn
hoá giáo dục đã nêu rõ: “ đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học,
bậc học ; đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối
truyền thụ độc thoại một chiều , từng bước áp dụng các phương pháp tiên
tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học ”
Để hình thành con người năng động, sáng tạo, thích ứng và tự chủ, biết
giải quyết những vấn đề nảy sinh, đáp ứng mục tiêu xã hội đặt ra cho dạy học
thì dạy học ngày nay không đơn thuần là việc truyền thụ những kiến thức có
sẵn, rập khuôn, máy móc mà phải biết tổ chức cho người học tự khám phá, tìm
tòi, phát hiện kiến thức.
Trong những năm gần đây đã có sự đổi mới về mục tiêu, nội dung, phương
pháp, phương tiện hình thức tổ chức dạy học, kiểm tra đánh giá (KTĐG).
Song mức độ đổi mới và hoàn thiện chưa đáp ứng được mục tiêu đề ra, đặc
biệt là ở khâu KTĐG.
Kiểm tra đánh giá là một khâu quan trọng của quá trình dạy học không
những cung cấp thông tin phản hồi ngược ngoài và ngược trong cho quá trình
dạy học mà điều quan trọng thông qua KTĐG nhằm phát hiện ra những lệch
lạc, khiếm khuyết từ quá trình dạy và học trên cơ sở đó có kế hoạch điều chỉnh
uốn nắn kịp thời.
Có rất nhiều hình thức KTĐG khác nhau: quan sát, vấn đáp, TNTL,
TNKQ Mỗi phương pháp có ưu nhược điểm riêng. Để nâng cao chất lượng
KT ĐG cũng như chất lượng dạy - học trên thế giới người ta đã kết hợp tất cả
các phương pháp KTĐG này.
Ở Việt Nam, việc KTĐG thành quả học tập của học sinh chủ yếu bằng
TNTL, rất ít bằng TNKQ.
Trong mỗi hình thức trắc nghiệm điều có ưu nhược điểm riêng. Trắc
nghiệm tự luận có ưu điểm là: đo được khả năng diễn đạt câu từ, hành văn, lập
luận Song nó bộc lộ nhiều nhược điểm đó là: làm bài mất nhiều thời gian
dẫn đến không KTĐG được nhiều nội dung và mục tiêu dạy học, đánh giá còn


lệ thuộc vào quan điểm cá nhân nên không đảm bảo tính khách quan công
bằng.
Trắc nghiệm khách quan có nhược điểm là khó đo được khả năng suy luận,
diễn đạt của học sinh. Song nó có nhiều ưu điểm đó là: kiểm tra được nhiều nội
dung và mục tiêu dạy học, tránh học tủ, học lệch; có thể áp dụng phương pháp
chấm điểm nhanh chóng, tiện lợi (đục lỗ đáp án, sử dụng vi tính) đảm bảo tính
khách quan độ chính xác cao.
Hiện nay, Bộ GD&ĐT đang khuyến khích sử dụng TNKQ trong KTĐG,
kỳ thi tuyển sinh 2006 - 2007 đã sử dụng TNKQ đối với môn tiếng Anh, năm
2007-2008 áp dụng thêm đối với môn Lý, Hoá, Sinh và sau đó sẽ lần lượt áp
dụng đối với môn học còn lại.
Để có thể KTĐG thành quả học tập bằng TNKQ đạt hiệu quả, mỗi môn
học, phần học cần xây dựng bộ ngân hàng câu hỏi dựa trên nội dung kiến thức
và các mục tiêu cụ thể cần đạt được khi giảng dạy. Các câu hỏi phải đảm bảo đo
được nhiều mức độ nhận thức khác nhau như: nhớ, hiểu, vận dụng, sáng tạo.
Câu hỏi TNKQ không chỉ được dùng ở khâu KTĐG mà còn được dùng ở
các khâu: dạy bài mới, củng cố, hoàn thiện, nâng cao. Dùng loại câu hỏi này
không chỉ truyền tải nội dung dạy học mà còn phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của người học. Câu hỏi TNKQ còn có thể dùng làm tài liệu để tự học,
tự nghiên cứu, tự kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy học.
Kiến thức tế bào học SH10 - THPT là phần khá trừu tượng đối với học
sinh, nên giáo viên cần phải khai thác kĩ nội dung từng khía cạnh để học sinh
nắm vững kiến thức. Vì thế việc xây dựng bộ câu hỏi TNKQ trong dạy học là
một việc làm hết sức cần thiết để tích cực hoá quá trình học tập phần “ Sinh
học tế bào” SH 10 nâng cao –THPT. Cho đến đã có nhiều đề tài về xây dựng
và sử dụng câu hỏi TNKQ, song về xây dựng câu hỏi TNKQ cho SH10 –
THPT thì chưa có đề tài nào đề cập. Để góp phần nâng cao chất lượng dạy học
SH 10 và chất lượng kiểm tra đánh giá chúng tôi chọn đề tài:
“ Bước đầu xây dựng câu hỏi Trắc nghiệm khách quan chương I và
chương II phần “ Sinh học tế bào”, sinh học 10 nâng cao - THPT” làm đề

tài nghiên cứu.
2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI:
Xây dựng được bộ câu hỏi TNKQ chương I và chương II phần II “Sinh
học tế bào”, SH10 nâng cao, nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học kiến
thức sinh học tế bào ở trường THPT.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Bộ câu hỏi TNKQ chương I “ Thành phần hoá học của tế bào” và
chương II “Cấu trúc tế bào” phần II “Sinh học tế bào” SH10 nâng cao - THPT.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC:
Nếu áp dụng đúng quy trình xây dựng câu hỏi TNKQ sẽ xây dựng được
bộ câu hỏi TNKQ có giá trị góp phần nâng cao chất lượng dạy học chương I và
chương II phần II “ Sinh học tế bào” SH10 nâng cao - THPT.
5. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI:
5.1. Tìm hiểu cơ sở lý luận về xây dựng câu hỏi TNKQ nói chung và
phần “ Sinh học tế bào ", SH10 nâng cao nói riêng.
5.2. Phân tích cấu trúc nội dung phần “ Sinh học tế bào”, SH10 nâng
cao – THPT. Cấu trúc nội dung cơ bản của chương I và chương II, để xác định
tổ hợp các câu hỏi TNKQ ở từng kiến thức, từng bài, từng chương.
5.3. Xây dựng bộ câu hỏi TNKQ chương I và chương II phần II “Sinh
học tế bào”, SH10 nâng cao-THPT.
5.4. Thực nghiệm, xác định giá trị của bộ câu hỏi và giá trị của bài trắc
nghiệm tổng thể trên cơ sở đó có kế hoạch điều chỉnh, nâng cao chất lượng câu hỏi.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
- Nghiên cứu các tài liệu về chủ trương, đường lối của Đảng và nhà nước
trong công tác giáo dục và các tài liệu, sách báo có liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa lớp 10- THPT phần
“ Sinh học tế bào”.
- Nghiên cứu tài liệu lý luận về câu hỏi TNKQ, quy trình, nguyên tắc, kỹ
thuật thiết kế và sử dụng câu hỏi TNKQ nói chung.

6.2. Phương pháp điều tra, quan sát sư phạm:
Trao đổi với giáo viên, học sinh về bộ câu hỏi đã soạn thảo làm cơ sở
hoàn chỉnh câu hỏi đưa vào thực nghiệm.
6.3. Phương pháp thực nghiệm:
Thực nghiệm chính thức: Thu thập số liệu và phân tích bằng xác suất
thống kê, xác định các chỉ tiêu đo lường, và đánh giá chất lượng câu hỏi.
6.4. Phương pháp xử lý số liệu:
Sử dụng các chỉ tiêu và công thức sau:
6.4.1. Xác định độ khó của mỗi câu hỏi(FV):
Áp dụng công thức:
Số thí sinh trả lời đúng
FV= x 100% (1)
Tổng số thí sinh dự thi
Thang phân loại được quy ước như sau:
- Câu dễ có: 76%-100% số thí sinh trả lời đúng
- Câu trung bình có: 30% - 75% số thí sinh trả lời đúng.
- Câu khó có : 0%- 29% số thí sinh trả lời đúng.
Câu hỏi dùng trong dạy học có: 20%

FV

80% là đạt yêu cầu sử dụng.
6.4.2. Xác định độ phân biệt của mỗi câu hỏi(DI):
Áp dụng công thức: (2)
Số thí sinh trả lời đúng nhóm khá, giỏi (27%)- Số thí sinh trả lời đúng nhóm yếu, kém
(27%) DI =
27% tổng số
Độ phân biệt DI > 0,2 là đạt yêu cầu sử dụng.
Thang phân loại được quy ước như sau:
- DI < 0: Độ phân biệt rất thấp.

- 0 < DI

0,2 : Độ phân biệt thấp.
- 0,21

DI

0,49 : Độ phân biệt trung bình.
- 0,5

DI

1 : Độ phân biệt cao.
6.4.3. Xác định độ tin cậy của tổng thể câu hỏi trắc nghiệm:
R
2,1
=
1−K
K
1-
2
.
)(
δ
K
XKX −
(3)
Trong đó:
K: Số lượng câu hỏi của bài trắc nghiệm của bài trắc nghiệm tổng
thể.


X
: Điểm trung bình của bài trắc nghiệm tổng thể.

δ
: Phương sai của bài trắc nghiệm tổng thể.
Thang phân loại độ tin cậy được quy ước như sau:
0

R
2,1
< 0,6: Độ tin cậy thấp.
0,6

R
2,1
< 0,9: Độ tin cậy trung bình.
0,9

R
2,1


1: Độ tin cậy cao.
7. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI:
7.1. Áp dụng quy trình xây dựng câu hỏi TNKQ đã xây dựng được bộ
câu hỏi TNKQ chương I và chương II phần “Sinh học tế bào”, sinh học 10
nâng cao-THPT.
7.2. Qua thực nghiệm đã xác định giá trị của bộ câu hỏi TNKQ đã soạn thảo.
8. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN:

Phần I: Mở đầu
Phần II: Tổng quan tài liệu
Phần III: Kết quả nghiên cứu
Chương I: Cở sở lý luận của đề tài.
Chương II: Kết quả xây dựng câu hỏi TNKQ.
Chương III: Kết quả thực nghiệm.
Phần IV: Kết luận và kiến nghị
Phần phụ lục:
Phụ lục I: Bộ câu hỏi TNKQ chương I và chương II Phần “Sinh học tế
bào”, SH 10 nâng cao - THPT.
Phụ lục II: Đáp án của bộ câu hỏi TNKQ.
Phụ lục III: Mẫu phiếu hướng dẫn làm bài.
Phụ lục IV: Độ khó và độ phân biệt của từng câu hỏi.
PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. TRÊN THẾ GIỚI :
Ở Mỹ, từ đầu thế kỉ XIX người ta đã dùng phương pháp T chủ yếu để
phát hiện năng khiếu, xu hướng nghề nghiệp của học sinh. Sang đầu thế kỉ XX
E.Thođaicơ là người đầu tiên đã dùng T như một phương pháp “khách quan và
nhanh chóng” để đo trình độ kiến thức học sinh, bắt đầu dùng với môn số học
và sau đó là đối với một số loại kiến thức khác.
Đến năm 1940 ở Hoa Kỳ đã xuất bản nhiều hệ thống T dùng để đánh giá
thành tích học tập của học sinh.
Năm 1961 Hoa Kỳ đã có hơn 2000 chương trình T chuẩn.
Năm 1963 đã xuất hiện công trình của Ghecberich dùng máy tính điện tử
xử lí các kết quả T trên diện rộng.
Vào thời điểm đó ở Anh đã có Hội đồng quốc gia hàng năm quyết định
các T chuẩn cho trường trung học.
Trong thời kì đầu việc sử dụng phương pháp T ở các nước phương Tây
đã có một số sai lầm như đã sa vào quan điểm hình thức, máy móc trong việc
đánh giá năng lực trí tuệ, chất lượng kiến thức của học sinh hoặc quan điểm

phân biệt giai cấp, phủ nhận năng lực học tập của con em nhân dân lao động.
Ở Liên Xô từ năm 1926 - 1931 đã có một số nhà sư phạm tại Matxcơva,
Lêningrat, Kiép thí nghiệm dùng T để chẩn đoán đặc điểm tâm lý cá nhân và
kiểm tra kiến thức học sinh. Nhưng do ảnh hưởng các sai lầm nói trên, sử dụng
mà chưa thấy hết những nhược điểm của T nên ở thời kì này tại Liên Xô có
nhiều người phản đối dùng T. Ban chấp hành TW Đảng Cộng sản Liên Xô
cũng đã chính thức phê phán dùng T (4/9/1936).
Chỉ từ năm 1963 tại Liên Xô mới phục hồi việc sử dụng T để kiểm tra
kiến thức học sinh. Đã xuất hiện những công trình nghiên cứu dùng T trong
các môn học khác nhau như E.E.Solovieva (1963), V.A.Korinskaia và
L.M.Pansetnicova (1964) K.A.Craxmianscaia (1963)…Người ta vẫn tiếp tục
thảo luận về những ưu, nhược điểm của T.
Mới đây, ở nhiều nước trên thế giới (Anh, Mỹ, Úc, Hà lan, Bỉ, Pháp…)
với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin họ đã cải tiến việc thực
hiện T như: cài đặt chương trình chấm điểm, xử lí kết quả trên máy tính. Khiến
cho T trở thành công cụ hữu ích, nhất là đối với chương trình tự học, tự đào
tạo.
Vì vậy việc soạn thảo các câu hỏi T có chất lượng ngày càng được
khuyến khích trên nhiều lĩnh vực thuộc nhiều ngành khác nhau.
2. Ở VIỆT NAM
Ở nước ta, trong thập kỷ 70 đã có những công trình vận dụng T vào kiểm
tra kiến thức của học sinh. Những nghiên cứu sớm nhất thuộc lĩnh vực này là
của Gs.Trần Bá Hoành (1971).
Tại các tỉnh phía Nam trước ngày giải phóng, T đã được sử dụng khá
phổ biến trong kiểm tra và thi ở bậc trung học.
Gần đây, theo hướng đổi mới việc kiểm tra, đánh giá Bộ GD-ĐT đã quy
định việc thi đại học bằng phương pháp T đối với môn Anh văn (2006) và đối
với các môn Lí, Hoá, Sinh, Anh (2007), cũng như việc thi tốt nghiệp bằng
phương pháp T (2007).
Hiện nay do nhu cầu nâng cao chấtlượng dạy học, việc sử dụng hệ

thống câu hỏi TN trong mỗi môn học và tìm cách sử dụng hợp lý trong quá
trình dạy học ở từng bộ môn là con đường có nhiều triển vọng.
PHẦN III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

1 . CÂU HỎI VÀ CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM TRONG DẠY HỌC:
1.1. Khái niệm về câu hỏi trong dạy học:
Aristotle là người đầu tiên đã phân tích câu hỏi dưới góc độ logic ông
cho rằng: “Câu hỏi là một mệnh đề trong đó chứa đựng cả cái đã biết và cái
chưa biết “ [6.Tr 23]
Khái niệm câu hỏi cũng được diễn đạt dưới dạng khác như: Câu hỏi là
dạng cấu trúc ngôn ngữ, diễn đạt một yêu cầu, một đòi hỏi, một mệnh lệnh
cần được giải quyết. [6.Tr 23]
Trong dạy học, câu hỏi được sử dụng như là một công cụ dùng để tổ
chức hướng dẫn quá trình nhận thức, quá trình kiểm tra, tự kiểm tra và tự học.
Đó là những yêu cầu được đặt ra (trong câu hỏi) mà người học cần phải giải
quyết.
1.2 . Các loại câu hỏi trong dạy học:
Tuỳ theo bản chất, mục đích, cách sử dụng mà người ta chia câu hỏi
thành nhiều loại khác nhau: [4] ,[6]
1.2.1. Dựa vào mức độ nhận thức của học sinh:
- Câu hỏi yêu cầu tái hiện sự kiện, hiện tượng, quá trình…
-Câu hỏi yêu cầu mức hiểu khái niệm.
- Câu hỏi yêu cầu mức vận dụng khái niệm.
- Câu hỏi yêu cầu mức sáng tạo.
1.2.2. Dựa vào sự phát triển năng lực nhận thức của học sinh:
- Câu hỏi rèn luyện kỹ năng quan sát
- Câu hỏi rèn luyện kỹ năng phân tích
- Câu hỏi rèn luyện kỹ năng tổng hợp

- Câu hỏi rèn luyện kỹ năng so sánh
- Câu hỏi rèn luyện kỹ năng sử dụng con đường quy nạp
- Câu hỏi rèn luyện kỹ năng sử dụng con đường diễn dịch
1.2.3. Dựa vào các khâu của quá trình dạy học:
- Câu hỏi sử dụng trong khâu nghiên cứu tài liệu mới.
- Câu hỏi sử dụng trong khâu ôn tập, củng cố, hoàn thiện, nâng cao.
- Câu hỏi sử dụng trong khâu kiểm tra, đánh giá.
1.2.4. Dựa vào mức độ tích cực:
- Câu hỏi tái hiện thông báo
- Câu hỏi tìm tòi bộ phận
- Câu hỏi kích thích tư duy, tích cực.
1.2.5. Dựa vào mối quan hệ của câu hỏi cần xác định:
- Câu hỏi định tính
- Câu hỏi định lượng
1.2.6. Dựa vào hình thức câu hỏi:
- Câu hỏi TNTL
- Câu hỏi TNKQ
1.2.7. Dựa vào nội dung mà câu hỏi phản ánh:
- Câu hỏi nêu ra các sự kiện
- Câu hỏi xác định các dấu hiệu bản chất
- Câu hỏi xác định mối quan hệ
- Câu hỏi xác định cơ chế
- Câu hỏi xác định phương pháp khoa học
- Câu hỏi xác định ý nghĩa lý luận hay thực tiễn của kiến thức.
1.2.8. Dựa vào yêu cầu phải hoàn thành là viết hay vấn đáp:
- Câu hỏi yêu cầu trả lời bằng lời nói (vấn đáp)
- Câu hỏi yêu cầu trả lời bằng chữ viết
Do thời lượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chỉ tập trung
nghiên cứu câu hỏi TNKQ.
1.3 . Các loại câu hỏi trắc nghiệm trong dạy học:

Chúng tôi có thể tóm tắt theo sơ đồ sau:
Trắc nghiệm
Trắc nghiệm tự luận Trắc nghiệm khách quan

Diễn giải Tiểu luận Luận văn Đúng- Sai MCQ Ghép nối
Điềnkhuyết

1.3.1. Trắc nghiệm tự luận ( TNTL )
* Khái niệm:
Là dạng T dùng những câu hỏi mở đòi hỏi học sinh tự xây dựng câu trả
lời. Câu trả lời có thể là một đoạn văn ngắn, một bài tóm tắt, một bài diễn giải
hoặc một tiểu luận [2]
* Ưu điểm:
TNTL có những ưu điểm sau: Đòi hỏi thí sinh tự trả lời và diễn đạt bằng
ngôn ngữ của chính mình, giáo viên ít tốn thời gian cho việc soạn thảo câu hỏi,
thí sinh có thể tự do diễn đạt ý tưởng phát huy khả năng sáng tạo, cách thức
giải quyết vấn đề, rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh.
* Nhược điểm:
TNTL có số lượng câu hỏi ít, giá trị nội dung không cao, chấm bài tốn
thời gian, cho điểm gặp khó khăn, tính khách quan không cao nên độ tin cậy
thấp.
1.3.2. Trắc nghiệm khách quan ( TNKQ )
* Khái niệm về TEST – TNKQ:
Trên thế giới người ta đã sử dụng câu hỏi TEST vào quá trình dạy học từ
những năm 1930 của thế kỷ XX. Đã có nhiều nhà lý luận đi sâu vào nghiên
cứu về Test và đưa ra định nghĩa “Test là bài tập làm trong một thời gian ngắn
nhất, mà thực hiện bài tập đó nhờ có sự đánh giá về số lượng và chất lượng, có
thể coi là dấu hiệu về sự hoàn thiện một số chức năng tâm lý.”
A.V.PETROPSKI. 1970 hoặc “Test là thử nghiệm mang tính tích cực”.
Theo Trần Bá Hoành 1990: “Test có thể tạm dịch là trắc nghiệm, là một

phương pháp đo để thăm dò một số đặc điểm năng lực trí tuệ của học sinh (chú
ý, tưởng tượng, ghi nhớ, thông minh, năng khiếu …) hoặc để kiểm tra đánh giá
một số kiến thức kỹ năng, kỹ xảo, thái độ của học sinh [2]
* Test có thể phân chia thành những loại sau:
- Loại câu hỏi lựa chọn TNKQ (chọn phương án trả lời đã có sẵn) thuộc
nhóm 1.
- Loại câu hỏi bổ sung (bổ sung vào câu trả lời ) thuộc nhóm 2
* Nhóm 1: Loại câu lựa chọn được chia làm 4 loại:
- Loại câu đúng – sai ký hiệu ( Đ-S)
- Loại câu lựa chọn đa phương án (MCQ)
- Loại câu ghép nối
- Loại câu điền khuyết
* Nhóm 2: Loại câu bổ sung được chia làm 4 loại:
- Loại câu hỏi điền vào ô trống
- Loại câu trả lời ngắn
- Loại câu có giới hạn
- Loại câu trả lời mở rộng
* Các dạng TNKQ
•Loại Đúng – Sai (Đ-S)
- Khái niệm: là 1 dạng T được trình bày dưới dạng 1 câu phát biểu và thí
sinh phải trả lời bằng cách lựa chọn đúng (Đ) hoặc sai (S)
- Ưu điểm:
+ Loại câu hỏi này rất thông dụng vì nó thích hợp với những kiến thức
sự kiện, các định nghĩa, khái niệm, công thức.
+ Có thể đưa ra rất nhiều câu hỏi trong cùng 1 bài kiểm tra
+ Dễ chấm điểm
- Nhược điểm:
+ Rất khó để đưa ra những câu hỏi khách quan
+ Những thuật ngữ mơ hồ có thể khiến học sinh khó khăn trong việc
lựa chọn đáp án.

+ Có ít phương án để lựa chọn ( Đúng–Sai ) vì thế khó xác định được
điểm yếu của học sinh do yếu tố đoán mò, xác suất đúng / sai là 50%, có độ tin
cậy thấp.
Loại T này thường chỉ đòi hỏi trí nhớ, ít kích thích suy nghĩ, khả năng
phân biệt học sinh giỏi và học sinh kém rất thấp.
• Loại câu trắc nghiệm ghép- nối:
- Khái niệm: Là dạng câu hỏi T mà trong đó gồm những câu hỏi có 2
dãy thông tin, một bên là câu hỏi, bên kia là câu trả lời, học sinh phải ghép với
nhau trở thành thông tin hoàn chỉnh.
- Ưu điểm: Loại này thích hợp với các câu hỏi sự kiện, khả năng nhận
biết kiến thức hay tìm những mối tương quan (giữa cấu tạo và chức năng, đặc
điểm với cấu trúc…)
- Nhược điểm: Khó có thể đánh giá học sinh ở mức độ tư duy cao do học
sinh có thể đạt điểm bằng cách loại suy chứ không phải bằng kiến thức.
• Loại câu trắc nghiệm dạng điền khuyết:
- Khái niệm: Là loại câu T trong đó câu dẫn có để một vài chỗ trống học
sinh phải điền vào chỗ trống những từ thích hợp.
Có 2 dạng: Có thể là những câu hỏi với giải đáp ngắn, hay là những câu
phát biểu với một hay nhiều chỗ trống, thí sinh phải điền vào bằng một từ hay
một nhóm từ thích hợp.
- Ưu điểm:
+ Làm mất khả năng đoán mò cuả học sinh và có cơ hội trình bày những
câu trả lời phát huy óc sáng tạo.
+ Giáo viên dễ soạn câu hỏi, thích hợp với các môn tự nhiên.
- Nhược điểm:
+ Nhược điểm lớn nhất của loại trắc nghiệm này việc chấm bài mất
nhiều thời gian.
+ Hơn nữa giáo viên sẽ khó cho điểm và tính khách quan không cao, đối
với những câu trả lời của học sinh không đúng với đáp án mà vẫn có lý
* Trắc nghiệm nhiều lựa chọn ( MCQ ).

- Khái niệm: Là dạng T trong đó trước 1 câu dẫn hay 1 câu hỏi có từ 3-5
câu trả lời sẵn, trong đó chỉ có 1 phương án là đúng hoặc đúng nhất, còn những
phương án khác là phương án “gây nhiễu”.
- Ưu điểm:
+ Có nhiều phương án để học sinh lựa chọn (3-5 phương án ) giảm khả
năng học sinh có thể suy đoán được đáp án đúng.
+ Nhiều câu hỏi sẽ giúp học sinh trong việc so sánh và giảm đi sự mơ hồ
của nội dung câu hỏi.
+ Rất linh hoạt trong đánh giá các cấp độ tư duy của học sinh: ghi nhớ,
thông hiểu, vận dụng mức độ thấp, vận dụng, mức độ cao.
- Nhược điểm:
+ Thời gian đọc đề bài tăng lên theo số lượng phương án đưa ra cho mỗi
câu hỏi.
+ Mất nhiều thời gian để biên soạn câu hỏi.
1.4. Tầm quan trọng của câu hỏi TNKQ trong việc nâng cao chất
lượng dạy học:
- Trước đây TNKQ chỉ dùng với mục đích KTĐG và đã mang lại hiệu
quả cao trong KTĐG mà câu hỏi TNTL không đạt được đó là:
+ T cho phép trong một thời gian ngắn kiểm tra được nhiều kiến thức cụ
thể, nhiều khía cạnh khác nhau của một kiến thức, giảm thiểu việc “học tủ” học
lệch” của học sinh.
+ T tốn ít thời gian thực hiện, đặc biệt là khâu chấm bài.
+ T đảm bảo tính khách quan khi chấm bài, nhất là chấm bằng máy tính.
+ Có thể áp dụng toán thống kê trong việc xác định giá trị câu hỏi.
+ T gây hứng thú và tính tích cực học tập cho học sinh.
- Ngày nay, do đổi mới phương pháp dạy học, tích cực hoá hoạt động
học tập, TNKQ còn có thể sử dụng trong việc hình thành kiến thức cho học
sinh ở các khâu của quá trình dạy học như:
+ Sử dụng trong khâu nghiên cứu tài liệu mới:
Bộ câu hỏi TNKQ được xây dựng dựa trên các mục tiêu dạy học cụ thể.

Do đó bộ câu hỏi như là một mẫu hình tiêu biểu mà qua đó có thể thực hiện
được các mục tiêu dạy học. Khi học sinh được trắc nghiệm tiếp cận với những
yêu cầu có trong nội dung câu hỏi T, họ phải sử dụng các thao tác tư duy, phân
tích, so sánh, tổng hợp…cùng với những kiến thức đã có để tìm ra phương án
đúng. Để tìm được câu trả lời đúng học sinh không chỉ nắm vững kiến thức mà
cần phải hiểu rõ vấn đề. Nhất là đối với câu hỏi TNKQ-MCQ có khả năng gây
nên những thắc mắc, những khó khăn trong tư duy, kích thích học sinh có nhu
cầu hiểu biết để giải quyết yêu cầu của câu hỏi.Từ đó, không chỉ hình thành
được kiến thức mới cho người học mà còn rèn luyện cho họ năng lực tư duy,
óc suy đoán nhanh nhậy.
+ Sử dụng ở khâu ôn tập, củng cố, hoàn thiện, nâng cao:
Hình thành kiến thức cho học sinh ở khâu nghiên cứu tài liệu mới có vai trò
quan trọng trong quá trình dạy học, song kiến thức của học sinh có trở nên
vững chắc hay không, lại nhờ vào khâu ôn tập, củng cố và hoàn thiện, nâng
cao. Sử dụng câu hỏi TNKQ là biện pháp có hiệu quả để nâng cao trình độ
trước khi bước vào kì thi.
Bộ câu hỏi được soạn thảo dựa vào các mục tiêu dạy học, phủ kín và
phân bố số lượng câu hỏi theo mức độ quan trọng của từng mục tiêu, nên
người ôn tập có thể coi việc trả lời bộ câu hỏi như là kế hoạch chi tiết cho quá
trình ôn tập.
Việc giải quyết các câu hỏi theo hệ thống các câu hỏi là điều kiện để cho
người đọc rà soát, ôn lại kiến thức mà mình đã học. Như vậy sẽ củng cố lại
những kiến thức cơ bản trong 1 thời gian ngắn. Mặt khác khi gặp những câu
hỏi T khó họ phải huy động tìm lời giải đáp, giúp cho người học vừa ôn lại
kiến thức, vừa nâng cao được trình độ .
+ Sử dụng TNKQ trong khâu tự học:
Vấn đề tự học là rất cần thiết đối với mỗi học sinh do sự phát triển ngày
càng mạnh mẽ của KHKT, đòi hỏi sự hiểu biết sâu rộng, mà những kiến thức
trên lớp do thầy cô cung cấp không thể đáp ứng được. Trong quá trình tự học
thì câu hỏi TNKQ là bộ công cụ rất có hiệu quả. Học sinh có thể tự đọc sách,

nghiên cứu tài liệu và tự đánh giá bằng câu hỏi TNKQ sau đó đối chiếu với đáp
án. Điều này rất hữu ích giúp học sinh tự hình thành kiến thức cho mình.
2. QUY TẮC XÂY DỰNG CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN:
Để xây dựng được bộ câu hỏi TNKQ có chất lượng trước hết chúng ta
cần phải tuân thủ đúng những quy tắc xây dựng câu hỏi TNKQ.Tuỳ từng loại
câu hỏi TNKQ mà cần có những quy tắc xây dựng sao cho phù hợp.
2.1. Quy tắc xây dựng câu hỏi T đúng - sai:
- Chọn câu dẫn nào mà một học sinh trung bình khó nhận ra ngay là đúng hay
sai
- Không nên trích nguyên văn những câu trong sách giáo khoa.
- Cần đảm bảo tính đúng hay sai của câu là chắc chắn.
- Không dùng dạng câu phủ định vì sẽ khiến học sinh dễ nhầm ý của câu hỏi
- Tránh dùng những cụm từ như “chỉ có”, “không có”, “luôn luôn”,
“thường”, “đôi khi”.
- Học sinh có khuynh hướng chọn câu trả lời là “đúng” vì vậy đưa ra ít
nhất là 60% câu hỏi trong tổng số các câu hỏi là đúng/sai. Trong đề kiểm tra có
đáp án “sai” để hạn chế tối đa khả năng đoán mò theo khuynh hướng.
- Sử dụng từ ngữ chính xác, tránh sử dụng từ ngữ mơ hồ, mang tính chất
lượng (trẻ , nhỏ , nhiều)
- Trong 1 bài trắc nghiệm không nên bố trí số câu sai bằng số câu đúng,
không nên sắp đặt các câu đúng theo 1 trật tự có tính chất chu kì [2],[3]
2.2. Quy tắc xây dựng câu hỏi T điền khuyết:
- Bảo đảm sao cho mỗi chỗ để trống chỉ có thể điền 1 từ hay một cụm từ
thích hợp.
- Từ phải điền nên là danh từ và là từ có ý nghĩa nhất trong câu.
- Mỗi câu nên chỉ có một hoặc hai chỗ trống, các khoảng trống nên có độ
dài bằng nhau để học sinh không đoán được từ phải điền là dài hay ngắn [2].
2.3. Quy tắc xây dựng câu hỏi T ghép nối: [2]
- Dãy thông tin nêu ra không nên quá dài, nên thuộc cùng một loại, có
liên quan với nhau.

Cột câu hỏi và cột trả lời không nên bằng nhau, nên có những câu trả lời
dư ra để tăng sự cân nhắc khi lựa chọn.
- Thứ tự các câu trả lời không ăn khớp với thứ tự các câu hỏi để gây
thêm khó khăn cho sự lựa chọn.
2.4. Quy tắc xây dựng câu hỏi T nhiều lựa chọn ( MCQ ): [4. Tr. 27]
- Quy tắc lập câu dẫn:
+ Diễn đạt trong câu dẫn cần thể hiện rõ những nhiệm vụ mà các thí sinh
phải làm, phải đưa ra đầy đủ các thông tin cần thiết cho thí sinh để họ xác định
được yêu cầu trong câu hỏi.
+ Thường dùng một câu hỏi, hay câu nhận định không đầy đủ hoặc chưa
hoàn chỉnh để lập câu dẫn, đôi khi người ta có thể viết câu dẫn dưới dạng đưa
ra nhiều tổ rồi sau đó tổ hợp lại thành các phương án chọn.
+ Trường hợp nhiều câu hỏi trắc nghiệm được xây dựng dựa trên cùng
một lượng thông tin như: một đoạn văn, một đồ thị, một sơ đồ, một số các câu
trả lời sẵn… thì cần phải chọn câu dẫn sao cho có thể đảm bảo chắc chắn có sự
liên quan với những thông tin đã đưa ra đó. Câu nọ phải độc lập với câu kia,
chứ không có sự phụ thuộc vào nhau.
+ Khi lập câu dẫn càng cần phải tránh những từ có tính chất gợi ý hoặc
tạo đầu mối dẫn đến câu trả lời như “Những câu nào sau đây” trong khi một
trong các phương án lựa chọn là tổ hợp của hai hay nhiều câu.
+ Những từ chung cho các câu lựa chọn nên chuyển lên phần cấu trúc
của câu dẫn.
+ Nên ít dùng hoặc tránh dùng thể phủ định trong câu hỏi, nếu cần thiết
phải dùng thì nhấn mạnh bằng cách gạch chân, in nghiêng hoặc in đậm thể phủ
định, nhằm thu hút sự chú ý của thí sinh, tránh hiểu nhầm yêu cầu của câu hỏi.
+ Nội dung của câu dẫn phải nằm trong nội dung và mục tiêu cần đánh giá
- Quy tắc lập phương án chọn: [3]
Đó là những phương án đưa ra để giải quyết nhiệm vụ đặt ra ở câu dẫn
thông thường có từ 3-5 phương án lựa chọn, trong đó có một câu chọn là đúng
và chính xác nhất, còn những câu kia là câu gây nhiễu.

Khi lập các phương án chọn cần phải chú ý các quy tắc sau:
+ Đảm bảo câu dẫn và câu trả lời khi gắn vào nhau phải phù hợp về mặt
cấu trúc (câu cú ,ngữ pháp …) thành một nội dung hoàn chỉnh.
+ Cần tránh xu hướng làm cho câu trả lời đúng luôn dài hơn các câu
nhiễu, tạo cơ sở cho sự đoán mò.
+ Cần làm cho tất cả các câu nhiễu có vẻ hợp lí và có sức hợp dẫn như
nhau đối với các thí sinh nắm vấn đề đề chưa chắc.
+ Thông thường người ta lập câu nhiễu dựa trên những khái niệm chung,
những quan niệm sai lầm hay gặp trong thực tế, hoặc những nội dung mà bản
thân nó là đúng nhưng không thoả mãn yêu cầu của câu hỏi.
Việc lập một câu nhiễu sai hiển nhiên thí sinh sẽ loại dễ dàng coi như
không có tác dụng gì.
+ Cần tránh soạn ra những câu đúng mà ở trình độ cao hơn thí sinh mới
chọn được nó.
+ Các phương án chọn cần phải có cấu trúc tương tự nhau, điều này có ý
nghĩa trong việc làm tăng độ phân biệt của câu hỏi.
+ Phải đảm bảo sao cho chỉ có 1 câu duy nhất đúng, câu chọn đúng nhất
hay hợp lí nhất, cần đặt ở những vị trí khác nhau, không theo một quy luật nào,
tránh sự đoán mò của thí sinh.
+ Cần tránh những câu rập khuôn theo SGK, dễ khuyến khích học sinh học
vẹt để tìm câu trả lời đúng.
3. QUY TRÌNH XÂY DỰNG CÂU HỎI TNKQ:
Bước 1 : Xác định mục đích yêu cầu:
Xác định xem bộ câu hỏi xây dựng với mục đích gì? Đo được cái gì?
Đánh giá được ai? ở mức độ nào? Những kiến thức nào được trắc nghiệm.
Nghĩa là chúng ta cần xác định rõ phạm vi kiến thức, đối tượng trắc
nghiệm.
Bước này có giá trị trong việc lập kế hoạch xây dựng và kế hoạch thử
nghiệm kiểm định giá trị các câu hỏi.
Bước 2 : Xây dựng kế hoạch cho nội dung cần trắc nghiệm:

Mục đích của việc xây dựng kế hoạch cho nội dung cần trắc nghiệm là:
- Nhằm đạt cao nhất về nội dung (đo được cái cần đo)
- Hệ thống câu hỏi tương xứng với thời gian phân bố và tầm quan trọng
của từng đơn vị kiến thức.
Do vậy, cần phải có kế hoạch chung, kế hoạch chi tiết phân bố cụ thể
trên từng nội dung tương ứng với các mức độ mục tiêu dạy học cụ thể.
Để đạt được mục tiêu cần có sự phân tích cấu trúc nội dung toàn bộ
chương trình tìm ra mục tiêu cụ thể cần đạt được trong giảng dạy và học tập.
Sau đó xác định tầm quan trọng và thời gian phân bố cho từng nội dung đó,
xác định các trọng số cụ thể theo thứ tự nội dung tổng quát, chi tiết.Từ việc
phân tích ở trên chúng ta có thể lập ra một kế hoạch chi tiết cho toàn bộ câu
hỏi.
Bước 3 : Soạn thảo câu hỏi.
- Căn cứ vào các quy tắc nêu ở trên về xây dựng các câu hỏi TNKQ cho
từng loại (Đúng sai, ghép nối, điền khuyết, MCQ) và dựa vào kế hoạch đã vạch
ra, xây dựng từng câu hỏi theo mục tiêu dạy học.Tuy nhiên để có được lượng
câu hỏi theo đúng kế hoạch đặt ra, khi soạn thảo cần xây dựng lượng câu hỏi
nhiều hơn thế. Để đến khi kiểm định câu hỏi qua thực nghiệm sẽ giúp ta loại
được những câu không đạt yêu cầu mà vẫn đảm bảo tính hệ thống của bộ câu
hỏi
- Khi soạn thảo câu hỏi, người soạn luôn tự hỏi: soạn câu ấy để làm gì?
Đánh giá được ai? Mức trí lực nào? Độ khó áng chừng khoảng bao nhiêu? Học
sinh phải mất bao nhiêu thời gian để trả lời câu hỏi ấy?
- Khi soạn xong cần có sự rà soát nhiều lần để tránh những sơ suất do chủ
quan
Bước 4 : Thực nghiệm kiểm định các câu hỏi:
- Các câu hỏi dù có soạn thảo cẩn thận, công phu đến đâu cũng chỉ là ý
tưởng chủ quan của người soạn. Muốn biết được các chỉ tiêu của từng loại câu
hỏi đạt đến đâu? Có khiếm khuyết đó như thế nào? Chất lượng câu hỏi so với
yêu cầu đặt ra có đạt không?

Điều đó sẽ được giải đáp qua thực nghiệm và xử lí các thông số, theo
các chỉ tiêu đặt ra .
* Để xác định giá trị của bài trắc nghiệm .
Phân tích câu hỏi theo các chỉ tiêu độ khó, độ phân biệt, độ tin cậy, độ
giá trị (chúng tôi trình bày chi tiết ở chương III)
* Có thể tóm tắt các bước xây dựng câu hỏi T theo sơ đồ:
Bước 1 : Xác định mục đích yêu cầu.
Bước 2 : Xây dựng kế hoạch cho nội dùng cần T.
Bước 3 : Soạn thảo câu hỏi.
Bước 4 : Thực nghiệm kiểm định câu hỏi.
CHƯƠNG II: KẾT QUẢ XÂY DỰNG CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
2.1. MỤC ĐÍCH CỦA XÂY DỰNG CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM:
Chúng tôi xây dựng bộ câu hỏi T với những mục đích sau:
Đối với giáo viên: Bộ câu hỏi như là một công cụ sử dụng trong các
khâu của quá trình dạy học: Dạy bài mới, ôn tập, củng cố hoàn thiện, nâng cao,
kiểm tra và tự kiểm tra.
Đối với học sinh: Sử dụng bộ câu hỏi T trong ôn tập, củng cố tự học và
tự kiểm tra. Nhất là ôn thi đại học, do bộ giáo dục đổi mới hình thức thi đại học
bằng trắc nghiệm nên bộ câu hỏi T này rất có ý nghĩa trong quá trình tự học, tự
kiểm tra của học sinh.
Chương trình tế bào học là bộ môn khoa học tương đối khó với học sinh
và khá trừu tượng, bộ câu hỏi T góp phần giúp học sinh nắm vững và thông
hiểu những kiến thức ấy, từ đó lĩnh hội được các kiến thức SGK.
2.2. PHÂN TÍCH CẤU TRÚC NỘI DUNG PHẦN II “SINH HỌC TẾ BÀO”
LỚP 10 NÂNG CAO THPT
2.2.1 : Cấu trúc: Phần “Sinh học tế bào” bao gồm:
Chương
Số
bài
Tên bài

Số tiết
I. Thành phần
hoá học của tế
bào


6
Bài 7: Các nguyên tố hoá học và nước của tế
bào
Bài 8: Các bon hiđrat và lipit
Bài 9: Prôtêin
Bài 10: Axít nuclêic
Bài 11: Axít nuclêic (tiếp theo)
Bài 12 :Thực hành:Thí nghiệm nhận biết một số
thành phần hoá học của tế bào
Tiết 7
Tiết 8
Tiết 9
Tiết 10
Tiết 11
Tiết 12
II. Cấu trúc của
tế bào 8
Bài 13:Tế bào nhân sơ
Bài 14:Tế bào nhân thực
Bài 15: Tế bào nhân thực (tiếp theo)
Bài 16: Tế bào nhân thực (tiếp theo)
Bài 17: Tế bào nhân thực (tiếp theo)
Bài 18:Vận chuyển các chất qua màng sinh chất
Bài 19:Thực hành: Quan sát tế bào dưới kính

hiển vi thí nghiệm co và phản co nguyên sinh
Bài 20: Thực hành:Thí nghiệm sự thẩm thấu và
tính thấm của tế bào
Tiết 13
Tiết14
Tiết 15
Tiết 16
Tiết 17
Tiết 18
Tiết 19
Tiết 20
III:Chuyển hoá
vật chất và
chuyển hoá
năng lượng
của tế bào
7
Bài 21: Chuyển hoá năng lượng
Bài 22: Enzim và vai trò của enzim trong quá
trình chuyển hoá vật chất
Bài 23: Hô hấp tế bào
Bài 24: Hô hấp tế bào (tiếp theo)
Bài 25: Hoá tổng hợp và quang tổng hợp
Bài 26: Hoá tổng hợp và quang tổng hợp (tiếp
theo)
Bài 27:Thực hành: Một số thí nghiệm về enzim
Tiết 21
Tiết 22
Tiết 23
Tiết 24

Tiết 25
Tiết 26
Tiết 27
IV. Phân bào 5
Bài 28: Chu kỳ tế bàovà các hình thức phân bào
Bài 29: Nguyên phân
Bài 30: Giảm phân
Bài31: Thực hành: Quan sát các chu kì của nguyên
phân
Bài 32: Ôn tập
Tiết 28
Tiết 29
Tiết 30
Tiết 31
Tiết 32
Để đảm bảo việc xây dựng câu hỏi có tính hệ thống và bám sát các nội
dung và mục tiêu dạy học. Cần phân tích tính hệ thống của chương trình tế bào
học.
2.2.2. Nội dung:
•Tính hệ thống, tính kế thừa, tính lô gic của phần “ Sinh học tế
bào” SH 10 – nâng cao-THPT:
Mở đầu của SH 10 là phần “Giới thiệu chung về thế giới sống” giúp cho
học sinh có cái nhìn tổng quát về sinh giới. Sinh giới rất đa dạng và phong phú,
từ những dạng sống đơn giản và nhỏ bé nhất như vi rút (kích thước tính bằng
nm) đến những dạng động vật có vú to lớn cấu tạo cơ thể phức tạp, nhưng
chúng đều có những đặc điểm chung.Tất cả các cơ thể sống bất luận hình dạng
và kích thước như thế nào, đều được cấu tạo từ tế bào. Chính vì vậy sau khi
học sinh có cái nhìn tổng thể về sinh giới, về cơ thể sinh vật, sinh học 10 đã đi
sâu nghiên cứu về đơn vị cấu tạo nên cơ thể đó là tế bào. Phần “ sinh học tế
bào” giúp học sinh tìm hiểu về tế bào: Thành phần hoá học của tế bào, cấu trúc

của tế bào, chuyển hoá năng lượng và sự phân bào.
Phần “Sinh học tế bào” là phần kiến thức khá trừu tượng, học sinh
không thể dễ dàng qua sát được, vì thế học sinh phải có tính tư duy lô gic cao.
Đồng thời kế thừa những hiểu biết từ các lớp dưới, về thực vật, động vật, cơ
thể người, nghiên cứu những kiến thức cụ thể về những đối tượng này ở mức
độ đại cương, tìm hiểu về sự phân bào, về ADN, ARN, prôtêin. Vì thế phần “
Sinh học tế bào” lớp 10 có nhiệm vụ kế thừa, khái quát hoá, hệ thống hoá,
những kiến thức về tế bào mà học sinh đã được học, đồng thời bổ sung những
kiến thức về thành phần hoá học của tế bào, cấu trúc tế bào và nâng cao những
hiểu biết về ADN, ARN, prôtêin, về sự phân bào.
Chương trình “ Sinh học tế bào” có cấu trúc hệ thống cao: Từ việc tìm
hiểu các thành phần hoá học của tế bào, học sinh hiểu sâu hơn về cấu trúc tế
bào ( sinh vật nhân sơ và sinh vật nhân chuẩn), sau đó sẽ đi nghiên cứu sự
chuyển hoá vật chất và năng lượng trong tế bào, và cuối cùng là sự phân bào.
Tế bào là đơn vị cấu tạo nên cơ thể sinh vật , chính vì vậy những nhân
tố cấu tạo nên tế bào cũng chính là nhân tố cấu tạo nên cơ thể sống, sự chuyển
hoá vật chất và năng lượng trong tế bào thể hiện quá trình trao đổi chất của cơ
thể, quá trình nguyên phân của tế bào giúp cơ thể lớn lên, quá trình giảm phân
của tế bào giúp cơ thể sinh sản, duy trì sự ổn định bộ nhiễm sắc thể qua các thế
hệ tế bào và thế hệ cơ thể.
Như vậy, phần “Sinh học tế bào” SH 10 Nâng cao - THPT thể hiện tính
kế thừa, tính logic và tính hệ thống về kiến thức tế bào giúp học sinh lĩnh hội
kiến thức một cách sâu sắc, chặt chẽ.
•Các thành phần kiến thức của phần “ Sinh học tế bào”:
* Kiến thức khái niệm:
- Những khái niệm về thành phần hoá học của tế bào.
+ C¸c nguyªn tè vi lîng, ®a lîng.
+ Kh¸i niÖm vÒ níc vµ vai trß cña níc.
+ Kh¸i niÖm c¸c hîp chÊt h÷u c¬ chñ yÕu cña tÕ bµo.
- Khái niệm về cấu trúc tế bào

+ Cấu trúc, thành phần cấu tạo của tế bào nhân sơ và chức năng:
Thành phần cấu tạo của tế bào nhân sơ và chức năng.
+ Thành phần cấu tạo, cấu trúc, chức năng của TBNC.
Các hợp chất
hữu cơ chủ yếu
Monosaccarit
Cácbon hiđat
Li pit
Prôtêin
Axit nuclêic
Đisaccazit
Mỡ, dầu ,sáp
Poly caccarit
Phot pholipit
Steroit
ADN
ARN
mARN
tARN
rARN
Lục lạp (ở TBTV)
Tế bào nhân

Thành tế bào
Màng sinh
chất
Tế bào chất
Lông và roi
Tế bào nhân
thực

Thành tế
bào( ở tế bào
thực vật)
Màng sinh
chất
Nhân
Tế bào chất
Không bào
Ty thể
Lưới nội chất
Lizôxôm
Bộ máy gôn gi
Vi ống
Trung thể (TBĐV)
Cấu trúc tế
bào
- Khái niệm về các về sự vận chuyển các chất qua màng sinh chất.
+ Vận chuyển thụ động
+ Vận chuyển chủ động
+ Xuất bào, nhập bào
- Khái niệm về chuyển hoá vật chất và năng lượng trong tế bào.

×