Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm:Một số phương pháp dạy học văn bản nghị luận trong sách giáo khoa Ngữ văn THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.12 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
Trang
Phần thứ nhất: Đặt vấn đề 2
I. Lí do chọn SKKN 2
II. Thời gian thực hiện và triển khai SKKN 3
Phần thứ hai: Giải quyết vấn đề 4
Chương I. Cơ sở lí luận của vấn đề 4
Chương II. Thực trạng của vấn đề 8
Chương III. Các biện pháp tiến hành và giải quyết vấn đề 11
Chương IV. Hiệu quả của SKKN 24
Phần thứ ba: Kết luận 25
Phần thứ nhất: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn SKKN:
Văn bản nghị luận chiếm một vị trí quan trọng trong chương trình SGK
Ngữ văn THCS. Đây là loại văn bản trực tiếp nói lí lẽ, được viết ra nhằm phát
biểu một nhận định, tư tưởng, quan điểm, thái độ trước một vấn đề đặt ra trong
cuộc sống, qua đó xác lập cho người nghe, người đọc một tư tưởng quan điểm
nào đó. Văn bản nghị luận là kết quả chủ yếu của tư duy lôgíc.
Dạy học văn bản nghị luận có tác dụng rất lớn trong việc rèn luyện cho học sinh
tư duy lôgíc; kĩ năng lập luận sắc bén, năng lực biểu đạt những quan niệm, tư
tưởng một cách sâu sắc và bản lĩnh, tinh thần tự chủ trước đời sống. Cụ thể hơn,
kiến thức và kĩ năng được rèn luyện trong quá trình học tập về nghị luận và
cách nghị luận không chỉ giúp cho học sinh có khả năng làm văn mà có tác
dụng hình thành năng lực cả về tư duy và sự thành công trong giao tiếp. ảnh
hưởng của văn nghị luận đạt được không chỉ trong phạm vi môn Ngữ văn mà
còn lan tỏa đối với tất cả các môn học khác trong trường phổ thông.
Tuy nhiên, để tiếp nhận tốt loại văn bản này, người học còn phải có khả năng tư
duy trừu tượng tốt. Việc đọc - hiểu văn bản nghị luận, do vậy, là khó đối với
học sinh bậc THCS và đặc biệt là đối với học sinh Trung tâm hỗ trợ phát triển
giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật tỉnh Yên Bái (Phần lớn các em là đối tượng
chậm phát triển trí tuệ, khiếm thính thì đòi hỏi tư duy trừu tượng là một điều vô


cùng khó khăn). Chính vì vậy, qua quá trình giảng dạy Ngữ văn tôi xin đóng
góp một số ý kiến về Một số phương pháp dạy học văn bản nghị luận trong
sách giáo khoa Ngữ văn THCS và áp dụng đối với HS lớp 7 Trung tâm Hỗ trợ
phát triển giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật tỉnh Yên Bái nói riêng, hy vọng bài
viết của tôi góp phần vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn văn trong
nhà trường THCS nói chung, Trung tâm Hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập trẻ
khuyết tật tỉnh Yên Bái nói riêng.
II. Thời gian thực hiện và triển khai SKKN:
Bắt đầu từ ngày 15 tháng 9 năm 2011 đến nay.
Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2
Chương I. Cơ sở lí luận.
Văn bản nghị luận là một trong 6 dạng văn bản trong sách giáo khoa Ngữ
văn bậc THCS. Cũng như các văn bản khác, ngoài mục đích văn chương, văn
bản nghị luận với những giá trị đặc trưng riêng đã đem lại cho học sinh những
phát triển mà mỗi dạng văn bản tạo ra từ chính giá trị của bản thân tác phẩm.
Vậy, ta hiểu như thế nào về văn bản nghị luận?
Có nhiều cách phát biểu khác nhau về văn bản nghị luận. Theo sách giáo
khoa Ngữ văn lớp 7, văn bản nghị luận là kiểu văn bản được dùng để trực tiếp
trình bày, phát biểu các tư tưởng, quan điểm bằng luận cứ và lập luận trước một
vấn đề đặt ra nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng, quan điểm
nào đó, hoặc hướng tới giải quyết những vấn đề đặt ra trong đời sống.
Như vậy, mục đích của văn bản nghị luận trước hết là để đưa thông tin và
nói lí lẽ. Văn bản nghị luận thực chất là kiểu văn bản lí thuyết, văn bản trực tiếp
nói lí lẽ.
Về đặc điểm của văn bản nghị luận, phần Tập làm văn về văn nghị luận
trong sách giáo khoa Ngữ văn 7, tập hai; Ngữ văn 8, tập hai đã đề cập đến khá
cụ thể và sâu sắc. Cụ thể trên các phương diện sau:
Phạm vi đề tài và thể loại của văn bản nghị luận:
Văn bản nghị luận là một trong những kiểu văn bản quan trọng và phổ

biến trong đời sống. Khi cần trình bày một cách trực tiếp, mạch lạc, sâu sắc một
tư tưởng, quan điểm nào đó trước cuộc sống, người ta thường dùng nghị luận
làm phương thức biểu đạt chính. Vì vậy, phạm vi đề tài của văn bản nghị luận
rất rộng. Đề tài của các văn bản nghị luận được lựa chọn dạy trong chương trình
SGK Ngữ văn bậc THCS cũng vậy. Qua các tiêu đề của các văn bản đủ để thấy
sự phong phú, đa dạng của các vấn đề được đem ra bàn luận. Từ đề tài chiến
tranh, hòa bình, chủ quyền độc lập quốc gia đến việc bảo tồn, giữ gìn và phát
huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc; từ vai trò, vị trí, ý nghĩa đến đặc
trưng nghệ thuật của văn chương; từ phương pháp đọc sách đến những vấn đề
về dịch bệnh, môi trường, Sự phong phú, đa dạng; tính cập nhật của đề tài nghị
luận trong chương trình Ngữ văn phổ thông đã thể hiện ró quan điểm dạy học
văn gắn với thực tế đời sống, rút ngắn khoảng cách giữa văn học nhà trường với
đời sống xã hội; nâng cao vốn hiểu biết về văn hóa - xã hội nói chung cho học
sinh.
Về hình thức, văn nghị luận có thể tồn tại dưới dạng các bài bình luận
thời sự, bình luận kinh tế, quân sự, ;các bài tuyên ngôn, phát biểu ý kiến, diễn
thuyết; tiểu phẩm, chuyên luận, Các bài cáo, hịch, chiếu, biểu, tấu, cũng đậm
chất nghị luận.
Văn bản nghị luận – sản phẩm của tư duy logic:
3
Như chúng ta đã biết, văn bản nghị luận được dùng để trình bày trực tiếp
một tư tưởng, quan điểm bằng luận cứ và lập luận trước một vấn đề đặt ra trong
cuộc sống, vì vậy có thể nói văn bản nghị luận là sản phẩm của tư duy logic,
của lí trí.
Có thể thấy, văn chương hình tượng cũng có tính logic, nhưng đó là kiểu
logic hư cấu nghệ thuật. Còn đối với văn bản nghị luận, ở những phạm vi nhất
định cũng có sử dụng trí tưởng tượng, nhưng nhìn chung văn bản nghị luận
không căn bản dựa vào trí tưởng tượng, hư cấu. Văn bản nghị luận trước hết là
sản phẩm của tư duy logic, của lí trí sắc bén và tỉnh táo, nhằm trình bày tư
tưởng, quan điểm nào đó của người viết một cách rõ ràng, mạch lạc. Văn bản

nghị luận thuyết phục người đọc trong tính đúng đắn, khách quan, sắc bén của
lập luận. Ví dụ, Viễn Phương viết Viếng lăng Bác trước hết để bày tỏ nỗi xúc
động nghẹn ngào, trào dâng của một người con lần đầu được vào lăng viếng
Bác, thì cũng với niềm tôn kính chân thành, nhưng viết Đức tính giản dị của
Bác Hồ, tác giả Phạm Văn Đồng trước hết nhằm làm sáng tỏ và thuyết phục
người đọc nhận rõ rằng, giản dị là đức tính nổi bật ở con người vĩ đại hồ Chí
Minh,
Lập luận và luận điểm trong văn nghị luận:
Nếu như trong văn tự sự và kịch, nhân vật, cốt truyện và xung đột, là
những yếu tố cơ bản của tác phẩm thì trong văn bản nghị luận, luận điểm, lập
luận, luận cứ, luận chứng là những yếu tố cơ bản làm nên tác phẩm.
Về luận điểm:
Luận điểm là tư tưởng, quan điểm, chủ trương của tác giả về một vấn đề
nào đó. Luận điểm là linh hồn của bài văn,nó thống nhất các phần, các đoạn văn
thành một khối.
Nếu luận đề nêu lên đề tài, vấn đề, câu hỏi cần bàn luận, giải đáp thì luận
điểm là những ý kiến thể hiện quan điểm, chủ trương của người nói, người viết
được đưa ra nhằm giải đáp, làm sáng tỏ cho vấn đề hoặc câu hỏi đó giúp cho lí
trí được thông suốt.
Trong một bài văn nghị luận, luận điểm có thể các cấp độ khác nhau. Tùy
nội dung vấn đề và cách lập luận của người viết, bài văn có thể có một luận
điểm chính, luận điểm trung tâm và các luận điểm phụ; có luận điểm tổng quát,
bao trùm toàn bài và có luận điểm nhỏ là bộ phận của luận điểm lớn. Chẳng
hạn, luận điểm bao trùm của văn bản Tinh thần yêu nước của nhân dân ta là
“Nhân dân ta có một truyền thống yêu nước nồng nàn”. Luận điểm tổng quát đó
được triển khai thành các luận điểm nhỏ, bao gồm:
- Nhận địnhchung về lòng yêu nước của nhân dân ta;
- Những biểu hiện về lòng yêu nước của nhân dân ta;
- Nhiệm vụ của chúng ta.
Việc xác định được hệ thống, các cấp độ của luận điểm trong văn bản là

một yêu cầu cấp thiết chứng tỏ khả năng hiểu sâu, khả năng thâu tóm vấn đề và
kĩ năng tư duy logic, mạch lạc của người đọc.
4
Luận điểm thường được diễn tả sáng tỏ, mạch lạc dưới hình thức một câu
khẳng định hay phủ định; thường có các từ là, có, không thể, đã, chẳng hạn
“Nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước”.
Về luận cứ:
Luận cứ là lí lẽ và dẫn chứng được đưa ra làm cơ sở cho luận điểm. Lí lẽ
là những đạo lí, lẽ phải được thừa nhận, nêu ra là được đồng tình. Dẫn chứng là
sự vật, sự việc, số liệu, nhân chứng, bằng chứng, để chứng minh, làm sáng tỏ,
xác nhận cho luận điểm. Dẫn chứng phải tiêu biểu, xác thực, đáng tin cậy,
không thể bác bỏ. Lí lẽ và dẫn chứng phải đáng tin cậy mới làm cho luận cứ
vững chắc. Luận cứ phải chân thật, đúng đắn, tiêu biểu mới làm cho luận điểm
có sức thuyết phục. Chẳng hạn trong Nước Đại Việt ta (Ngữ văn 8), Nguyễn
Trãi viết:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Hai câu đầu là lí lẽ, nêu lên một nguyên lí đã được đúc kết, được thừa
nhận, hai câu sau là dẫn chứng. Trong quá trình đọc hiểu văn bản nghị luận, để
phân tích, đánh giá được tính đúng đắn của luận điểm, tính chặt chẽ, sắc bén
của lập luận thì việc xác định, phân tích luận cứ là một thao tác hết sức quan
trọng và cần thiết.
Về lập luận:
Lập luận là cách nêu lên luận điểm và vận dụng lí lẽ, dẫn chứng sao cho
luận điểm được nổi bật và có sức thuyết phục. Luận điểm được xem như kết
luận của lập luận.
Lập luận bao gồm các cách suy lí (quy nạp, diễn dịch), phân tích, chứng
minh, phản bác, bình luận, so sánh, tổng hợp, sao cho luận điểm đưa ra là hợp

lí, không thể bác bỏ. Lập luận thể hiện trong cách viết đoạn văn và trong cách tổ
chức bài văn. Mở bài cũng có lập luận, thân bài và kết bài đều có lập luận. Có
lập luận mới đưa ra được luận điểm như là kết luận của nó.
Ví dụ, luận điểm trung tâm của văn bản Chiếu dời đô (Ngữ văn 8) là:
“Việc định đô”.
Để đi đến luận điểm ấy, tác giả phải làm sáng tỏ câu hỏi: Tại sao phải dời
đô về Thăng Long?
Và tác giả đã lập luận rõ ràng:
- Dời đô là hợp với mệnh trời;
- Hai nhà Đinh, Lê dời đô là không theo mệnh trời;
- Thành Đại La là nơi có đủ ưu thế để trở thành kinh đô đất nước.
5
Để đánh giá cái hay, sức thuyết phục của văn bản nghị luận tất yếu phải
phân tích, đánh giá, chứng minh đượ mức độ chặt chẽ, sắc bén của lập luận và
sự hợp lí của các cách thức lập luận mà các tác giả đã lựa chọn.
Bố cục, kết cấu trong văn bản nghị luận:
Trong văn bản nghị luận, tính chặt chẽ, logic của kết cấu văn bản là tiêu
chí thứ nhất. Để gây ấn tượng nghệ thuật, để tạo cho tác phẩm nhiều hàm nghĩa
hoặc để thể hiện dụng ý nghệ thuật của mình, tác giả truyện ngắn hay tiểu
thuyết có thể bắt đầu câu chuyện từ kết thúc rồi mới đến diễn biến, còn đối với
văn bản nghị luận, sáng tạo nào của người viết cũng phải nằm trong khuôn khổ
nguyên tắc kết cấu chung của văn bản nghị luận - đó là tính logic, chặt chẽ. Kết
cấu của văn bản nghị luận thường được triển khai theo một hệ thống luận điểm,
luận cứ, trình tự lập luận nhất định nhằm từng bước giải quyết, làm sáng tỏ vấn
đề. Thông thường, luận điểm trước là sự chuẩn bị cơ sở cho luận điểm sau, luận
điểm sau tiếp thu và phát triển kết quả của luận điểm trước để đi đến luận điểm
cuối và cũng là kết luận của toàn bài. Nhìn chung, có thể khái quát bố cục, trình
tự lập luận của các văn bản nghị luận như sau:
Phần thứ nhất: Mở đầu, thường là trình bày cơ sở, tiền đề lí luận, vai trò,
vị trí của vấn đề được đem ra bàn luận.

Phần thứ hai: Khảo sát, phân tích tình hình thực tiễn, thực trạng của vấn
đề được đem ra bàn luận.
Phần thứ ba: Bàn luận, phủ định hoặc khẳng định một quan điểm, tư
tưởng lập trường, thái độ; đề ra những chủ trương, giải pháp, biện pháp để khắc
phục đối với vấn đề được đem ra bàn luận.
Phần thứ ba: Khẳng định, kết luận hoặc lời kêu gọi hành động.
Ngôn ngữ, giọng điệu:
Nếu đặc trưng của tác phẩm văn chương hình tượng là tính hình tượng,
gợi cảm, gọt giũa, đa nghĩa thì đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ tác phẩm nghị
luận là tính chính xác. Để thuyết phục người đọc, phải viết lên sự thật, bởi bản
thân sự thật có sức thuyết phục mạnh hơn tất cả. Do vậy ngôn từ phải chính xác.
Chính xác đến từng cung bậc và sắc thái. Bên cạnh đó, giọng điệu chính trong
văn bản nghị luận là giọng phân tích, bình luận khẳng định hoặc bác bỏ. Nếu tác
phẩm văn chương hình tượng có thể phản ánh một cách phong phú, đa dạng các
cung bậc cảm xúc tinh tế của đời sống tâm hồn, tình cảm của con người từ yêu
thương, giận hờn, mộng mơ, hi vọng đến cảm giác cô đơn, buồn tủi, sầu
muộn, thì do đặc trưng về thể tài, ngữ điệu trong văn bản nghị luận thường
được tập trung ở các sắc thái: khảng khái, dõng dạc, tự tin, hùng hồn, thống
thiết, đanh thép.
Tính chất đối thoại của văn bản nghị luận:
Trước hết, văn bản nghị luận viết ra nhằm để đối thoại, tranh luận về một
vấn đề nào đó đang đặt ra trong cuộc sống, chính vì vậy, văn bản nghị luận luôn
6
luôn hướng tới một đối tượng người nghe nhất định (tuy nhiên, trong văn nghị
luận, chủ yếu là đối thoại ngầm). Về mặt cú pháp, trong văn bản nghị luận
thường có một tỉ lệ câu nghi vấn hoặc câu có tính chất nghi vấn nhiều hơn các
loại văn bản văn chương hình tượng khác.
Ví dụ: Hịch tướng sĩ là cuộc đối thoại giữa chủ tướng và các tướng sĩ,
trong đó có rất nhiều câu hỏi trực tiếp.
Hay Nước Đại Việt ta là một đoạn đối thoại gián tiếp với quân xâm lược

nhằm khẳng định chủ quyền, độc lập dân tộc.
Hiểu được tính chất đối thoại của văn bản, xác định được mục đích, đối
tượng giao tiếp của văn bản là điều vô cùng quan trọng trong quá trình đọc –
hiểu văn bản.
Chương II. Thực trạng của vấn đề.
7
Trước đây do quan niệm phiến diện về văn học nên nhiều người cho rằng
văn chương chỉ bao gồm những sáng tác bằng tưởng tượng, hư cấu mà ít nghĩ
đến văn nghị luận. Hoặc có nghĩ đến thì lại cho rằng đây là thể loại thường đề
cập đến những tư tưởng cao siêu, trừu tượng, lập luận khó, diễn đạt khô nên
không hấp dẫn. Do vậy mà văn chương nghị luận rất ít được đưa vào chương
trình phổ thông. Mặt khác, mảng văn chương nghị luận này còn rất nghèo về đề
tài, chưa phong phú về thể loại.
Trong quá trình dạy, giáo viên lại thường chỉ chú ý khai thác nội dung
làm toát nên những quan điểm tư tưởng các các tác giả mà ít chú ý đến vẻ đẹp
về hình thức nghệ thuật của các tác phẩm. Vì thế việc dạy học các tác phẩm
nghị luận thường khô, không hấp dẫn đối với học sinh nên dẫn đến tình trạng
học sinh chán học, học một cách chống đối, hời hợt.
Trên thực tế cả ở thế giới và Việt Nam văn chương nghị luận có lịch sử từ
rất lâu đời, nó không chỉ có ý nghĩa đối với những vấn đề lớn lao của đất nước,
thời đại như công cuộc dựng nước, giữ nước, canh tân đất nước, mà còn rất gần
gũi và có ý nghĩa trong đời sống công dân hiện nay. Vì thế cụm văn bản nghị
luận được tuyển chọn dạy trong chương trình Ngữ văn THCS hiện rất phong
phú về đề tài và đa dạng về thể loại. Đây là một trong sáu kiểu văn bản (miêu tả,
tự sự, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh, hành chính - công vụ). Phần văn bản
nghị luận dành cho đọc – hiểu chiếm một khối lượng đáng kể trong chương
trình. Văn bản nghị luận trong sách giáo khoa THCS được phân loại như sau:
- Phân bố số lượng văn bản nghị luận theo từng lớp:
Phân bố số lượng văn bản nghị luận trong SGK Ngữ văn THCS
Lớp Tổng số văn bản Trung đại Hiện đại Nước ngoài

7 7 0 7 0
8 6 3 2 1
9 4 0 2 2
Tổng 17 3 11 3
- Phân loại văn bản nghị luận theo nội dung:
Theo sự phân chia này, văn bản nghị luận chia thành hai loại:
+ Nghị luận chính trị xã hội
+ Nghị luận văn học
Lớp
Phân loại văn bản nghị luận trong SGK Ngữ văn THCS
Nghị luận chính trị xã hội Nghị luận văn học
7 - Sự giàu đẹp của tiếng Việt
- Tinh thần yêu nước của nhân dân
- Tục ngữ về thiên nhiên và lao
động sản xuất
- Tục ngữ về con người và xã hội
8
ta
- Đức tính giản dị của Bác Hồ
- Những trò lố hay là Va-ren và
Phan Bội Châu
- Ý nghĩa văn chương
8
- Chiếu dời đô
- Hịch tướng sĩ
- Nước Đại việt ta
- Bàn luận về phép học
- Thuế máu
- Đi bộ ngao du
9

- Bàn về đọc sách
- Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ
mới
- Tiếng nói của văn nghệ
- Chó sói và cừu trong thơ ngụ
ngôn của La Phông-ten
Thực tế giảng dạy của trường: Trung tâm Hỗ trợ phát triển giáo dục hòa
nhập trẻ khuyết tật tỉnh Yên Bái, với 60 học sinh (trừ học sinh lớp 6 chưa học
văn bản nghị luận), trong đó học sinh lớp 7 là 20 em, điều đặc biệt hơn là cả 20
em đều khuyết tật (Khiếm thính, trí tuệ, vận động, đa tật, khiếm thị, ) do vậy
để có thể giúp các em có thể lĩnh hội kiến thức cơ bản đã là điều không dễ và
càng khó khăn hơn khi mong muốn các em có thể cảm nhận được chất văn, tính
nghị luận trong mỗi văn bản văn học. Vậy làm thế nào để học sinh có thể nhận
thức, lĩnh hội được một lượng kiến thức văn học nhất định và hơn nữa, qua các
văn bản nghị luận các em có thể học tập, rèn những kĩ năng sống, xác lập được
một tư tưởng, quan điểm, hoặc hướng tới giải quyết những vấn đề đặt ra trong
đời sống như thế nào đó là điều mà bản thân tôi và đồng nghiệp chúng tôi luôn
suy nghĩ, trăn trở. Xuất phát từ thực tiễn trên, tôi xin trình bày một vài suy nghĩ
của mình: Làm thế nào để dạy văn bản nghị luận có hiệu quả nhất?
Để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta hãy xem xét khả năng giáo dục học
sinh qua các giờ đọc – hiểu văn bản nghị luận.
Thứ nhất, bồi dưỡng cho học sinh ý thức, trách nhiệm đối với cuộc sống;
nâng cao nhận thức, hiểu biết về những vấn đề chính trị, văn hóa, xã hội.
Chẳng hạn, Bàn luận về phép học (Ngữ văn 8) của tác giả Nguyễn Thiếp
được viết từ thế kí XVIII nhưng những gì tác phẩm đề cập tới là vấn đề bức xúc
của xã hội ta ngày nay. Bài tấu này giúp người đọc, người nghe xác định rõ mục
đích chân chính của việc học, tác hại của lối học hình thức, cầu danh lợi và gợi
mở một số phương pháp, biện pháp, hình thức học có hiệu quả. Đây là vấn đề
hết sức gần gũi, có khả năng tác động trực tiếp đến động cơ, phương pháp học
của học sinh.

Như vậy, nếu khai thác đúng đắn và sâu sắc những giá trị nội dung tư
tưởng trong tác phẩm nghị luận sẽ có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục tư
tưởng, nhận thức và quan điểm, thái độ tích cực đối với cuộc sống cho học sinh.
9
Thứ hai, rèn luyện cho học sinh khả năng ứng xử nhanh nhạy trước
những vấn đề phức tạp đang đặt ra trong cuộc sống; phát triển tư duy logic, tư
duy sáng tạo.
Giống như các văn bản nhật dụng, đọc - hiểu các văn bản nghị luận là
một dịp để học sinh được trải nghiệm, được đặt mình vào các tình huống thực ở
ngoài đời. Thông qua cách đặt và giải quyết vấn đề của tác giả, học sinh có thể
học được cách ứng xử nhanh nhạy, bản lĩnh, sự tự chủ, lập trường kiên định,
cách thể hiện quan điểm thái độ trước những vấn đề phức tạp đang đặt ra trong
cuộc sống của mình, của quê hương, làng xóm của mình. Điều này đặc biệt có ý
nghĩa quan trong đối với học sinh của Trung tâm.
Đối với học sinh, nhất là học sinh bậc THCS, việc thể hiện bản lĩnh, chủ
kiến của mình trước mọi điều trong cuộc sống là một vấn đề khó khăn và càng
khó khăn hơn đối với đối tượng học sinh khuyết tật. Trong môi trường học áp
đặt, các em càng có ít cơ hội được thể hiện quan điểm, bản lĩnh của mình. Do
đó, qua những giờ đọc – hiểu văn bản nghị luận, học sinh có dịp để thể hiện bản
lĩnh, tinh thần tự chủ trước đời sống cũng như được rèn luyện, nâng cao năng
lực tư duy logic và sáng tạo.
Chương III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
10
Căn cứ vào tình hình thực tế học sinh, bám sát đặc điểm, phương pháp
dạy học văn bản nghị luận, thông qua thực tế giảng dạy trên lớp, tôi xin đề xuất
một số phương pháp dạy học, thể cụ thể như sau:
1. Tái hiện sinh động không khí lịch sử, thời đại, tạo nên tác phẩm:
Chúng ta biết rằng, mỗi văn bản nói chung, văn bản nghị luận nói riêng
thường được ra đời (có xuất sứ) trong những tình huống, hoàn cảnh khá đặc
biệt. Điều dễ gây được sự tò mò, hứng thú của học sinh chính là những chi tiết

xúc động về tác giả, những câu chuyện lịch sử thú vị liên quan đến tác phẩm,
Do đó, để tạo tâm thế cho học sinh sẵn sàng đi vào tác phẩm, người thầy cần tái
hiện sinh động không khí lịch sử, thời đại đã sản sinh ra tác phẩm. Cũng giống
như việc xây dựng “Biểu tượng lịch sử” trong việc giảng dạy môn Lịch sử, việc
tái hiện không khí sẽ tạo được sự hứng thú để học sinh tham gia vào đọc - hiểu
văn bản.
Ví dụ những câu chuyện về không khí chiến thắng giặc Minh vang dội
khi dạy Nước Đại Việt ta (Ngữ văn 8), những câu chuyện kể về Nguyễn Thiếp
mấy lần từ chối lời mời của vua Quang trung khi dạy Bàn luận về phép học
(Ngữ văn 8), chắc chắn sẽ thu hút mạnh mẽ trí tò mò, sự thích thú, độ tập trung
chú ý của học sinh.
Bên cạnh việc sử dụng các câu chuyện, giáo viên có thể sử dụng tranh
ảnh để tái hiện không khí lịch sử. Trong điều kiện hiện nay, khi công nghệ
thông tin vô cùng phát triển, việc tìm kiếm tranh ảnh phù hợp với nội dung một
bài dạy không phải là khó, chính vì vậy, kết hợp giữa câu chuyện lịch sử với
kênh hình, học sinh sẽ có hứng thú học tập hơn rất nhiều.
Ví dụ: Khi dạy văn bản Thuế máu (Ngữ văn 9). Để làm rõ tội ác của thực
dân Pháp, GV có thể kết hợp đưa kênh hình với tư liệu trong văn bản :
Hoặc các hình ảnh về chế độ bắt lính của chúng:
11
Trên thực tế, phương pháp này không phải là mới nhưng có lúc, có chỗ
chúng ta chưa coi trọng đúng mức khâu này.
2. Đọc, tóm tắt văn bản nghị luận:
a. Đọc văn bản nghị luận:
Hoạt động đọc chính là con đường quan trọng nhất để đến với một tác
phẩm văn học. Việc dạy học văn bản nghị luận cũng như vậy. Tuy nhiên, không
giống với đọc các văn bản tự sự, trữ tình, tác phẩm văn chương hình tượng
thường có tính mơ hồ, đa nghĩa, tính mở. Thông tin trong văn bản văn chương
hình tượng chủ yếu là thông tin hình tượng, hình ảnh, cảm xúc, Do đó, tư
tưởng, chủ đề của tác phẩm; quan điểm, thái độ, tình cảm của tác giả càng được

bộc lộ kín bao nhiêu thì tác phẩm càng trở nên ý nhị, sâu sắc bấy nhiêu.
Ngược lại, đặc điểm cơ bản của văn nghị luận là: các tư tưởng, quan
điểm, thái độ của người viết phải được xác lập, thể hiện một cách rõ ràng, trực
tiếp qua ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu. Thông tin trong văn bản nghị luận chủ
yếu là thông tin lí lẽ. So với văn bản văn chương hình tượng, ngôn ngữ trong
văn bản nghị luận có tính khách quan, chính xác, tính đơn nghĩa tương đối.
Chẳng hạn, mục đích chính khi đọc các văn bản nghị luận như Sự giàu đẹp của
Tiếng Việt, Đức tính giản dị của Bác Hồ (Ngữ văn 7), là để thu thập thông tin,
lí lẽ, để biết được tiếng Việt giàu và đẹp ở những phương diện nào? Sự giả dị
của Bác Hồ thể hiện ở đâu, từ đó xác định cho mình một quan điểm, thái độ
và hành động cần có trước những vấn đề được đặt ra.
Khi đọc văn bản nghị luận cần phụ thuộc vào đặc điểm cụ thể của từng
văn bản (không có yêu cầu nghiệm ngặt như đọc văn bản văn chương hình
tượng). Không thể đọc như đọc diễn cảm văn chương các văn bản Bàn về đọc
sách, Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới (Ngữ văn 9), Ngược lại, phải kết hợp
với đọc diễn cảm, phải thể hiện cảm xúc chủ quan và thay đổi ngữ điệu đọc
ChÕ ®é b¾t lÝnh ë c¸c n íc thuéc ®Þa
12
nhằm bắt trúng giọng điệu của tác giả khi đọc các văn bản Hịch tướng sĩ (Ngữ
văn 8), Thuế máu (Ngữ văn 9),
Khi hướng dẫn học sinh đọc đúng cũng có nghĩa là bước đầu đã hướng
học sinh đến cái đích của việc đọc - hiểu văn bản nghị luận.
b. Tóm tắt văn bản nghị luận:
Trên thực tế giảng dạy, Giáo viên mới chỉ quan tâm nhiều đến việc tóm
tắt một văn bản tự sự (chủ yếu là truyện), còn đối với văn bản nghị luận thì việc
tóm tắt thực sự chưa được chú ý nhiều. Mặc dù tóm tắt văn bản chưa phải là
khái quát, nhưng đối với văn bản nghị luận, để tóm tắt phải biết khái quát ở một
mức độ nhất định. Do đó, rèn cho học sinh kĩ năng tóm tắt cũng chính là rèn kĩ
năng khái quát. Hơn nữa, dung lượng văn bản nghị luận thường dài, lại chủ yếu
là thông tin, lí lẽ, lập luận. Vì thế, để học sinh dễ ghi nhớ, dễ vận dụng khi đọc -

hiểu trong dạy học, cần rèn cho học sinh thao tác tóm tắt văn bản nghị luận.
Khi tóm tắt văn bản nghị luận, cần tuân theo cách thức, biện pháp sau:
Do đặc trưng thể loại, khi tóm tắt văn bản nghị luận, ta có thể tóm tắt theo
bố cục bài văn, cụ thể: theo hệ thống các luận điểm, luận cứ và theo trình độ lập
luận của tác giả. Có thể vận dụng hai hình thức tóm tắt văn bản nghị luận như
sau:
Tóm tắt thành dàn ý:
Ví dụ: tóm tắt văn bản Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới(Ngữ văn 9).
1)Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới thì quan trọng nhất là sự chuẩn bị
bản thân con người.
- Từ cổ chí kim, con người luôn là động lực phát triển của lịch sử.
- Trong thời kì nền kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ thì vai trò của can
người lại càng nổi trội.
2) Bối cảnh thế giới hiện nay và những mục tiêu, nhiệm vụ nặng nề của
đất nước.
- Một thế giới mà khoa học công nghệ phát triển như huyền thoại thì sự
giao thoa, hội nhập giữa các nền kinh tế ngày càng sâu rộng.
- Để hội nhập, nước ta phải đồng thời giải quyết ba nhiệm vụ: thoát khỏi
nghèo nàn, lạc hậu; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; sớm tiếp cận với
nền kinh tế tri thức.
3)Những điểm mạnh, điểm yếu của con người Việt Nam cần được nhận
rõ khi bước vào nền kinh tế trong thế kỉ mới.
- Thông minh, nhạy bén với cái mới nhưng thiếu kiến thức cơ bản, kĩ
năng thực hành kém.
- Cần cù, sáng tạo nhưng thiếu đức tính tỉ mỉ, không coi trọng nghiêm
ngặt quy trình công nghệ, chưa quen với cường độ lao động khẩn trương.
13
- Có tinh thần đoàn kết, nhất là trong chiến đấu chống ngoại xâm, nhưng
lại thường đố kị nhau trong làm ăn và cuộc sống hàng ngày.
- Bản thân thích ứng nhanh nhưng lại có nhiều hạn chế trong thói quen và

nếp nghĩ, kì thị kinh doanh,
4)Bước vào thế kỉ mới, lớp trẻ việt Nam cần phát huy những điểm mạnh,
khắc phục những điểm yếu để đưa đất nước hội nhập và phát triển.
Tóm tắt thành một văn bản hoàn chỉnh, ngắn gọn.
Ví dụ: Hịch tướng sĩ (Ngữ văn 8)
Từ xưa đến nay, các bậc trung thần nghĩa sĩ bỏ mình vì nước đời nào
cũng có, ví như Kỉ Tín, Do Vu, Vương Công Kiên, Cốt Đãi Ngột Lang,
Huống chi ta cùng các ngươi sinh phải thời loạn lạc. Lòng ta đau xót,
quên ăn, quên ngủ; căm tức chưa xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù,
dẫu phải chết trăm nghìn lần ta cũng cam lòng.
Ta đối với các ngươi rất ân tình. Nhưng các ngươi nhìn thấy chủ nhục mà
không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn, làm tướng triều đình phải
hầu quân giặc mà không biết tức. Hoặc ham mê những thú vui tầm thường. Nếu
giặc tràn sang, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, lúc bấy giờ hậu quả thật khôn lường.
Nay các ngươi phải lo huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên để người
người đều giỏi, có thể bêu đầu giặc. Lúc bấy giờ ta cùng các ngươi sẽ để tiếng
thơm muôn đời.
Nay ta soạn Binh thư yếu lược. Nếu các ngươi chăm chỉ chuyên tập sách
này thì mới phải đạo thần chủ, bằng không tức là kẻ nghịch thù
Việc hướng dẫn học sinh tóm tắt văn bản phải được duy trì thường
xuyên, có như vậy các em mới nắm chắc các thao tác, cách thức tóm tắt và nhớ
các ý cơ bản trong một văn bản nghị luận.
3. Phát hiện, khái quát luận đề, luận điểm và phân tích luận đề, luận
điểm:
a. Phát hiện, phân tích luận đề:
Xác định luận đề trước khi vào đọc - hiểu chi tiết là để việc phân tích
luận điểm, luận cứ, lập luận không tản mạn, vụn vặt. Đối với văn bản, đoạn
trích, đề tài thường thể hiện ở nhan đề tác phẩm, tên văn bản. Vì vậy, để khái
quát luận đề, bên cạnh việc đọc toàn bộ văn bản, Giáo viên cần hướng học sinh
vào tiêu đề của văn bản, đoạn trích.

Chẳng hạn, Tinh thần yêu nước của nhân dân ta, Sự giàu đẹp của Tiếng
Việt (Ngữ văn 7), Bàn về đọc sách (Ngữ văn 9),
Các câu hỏi thường dùng để phát hiện, phân tích luận đề, như sau:
(?)Theo em, văn bản này bàn luận vấn đề gì? Hoặc
(?)Luận đề của văn bản này là gì?
14
(?)Tác giả bàn về vấn đề này nhằm mục đích gì? Hoặc
(?)Vấn đề được đem ra bàn luận có ý nghĩa, tầm quan trọng như thế nào?
b. Phát hiện, phân tích, khái quát luận điểm:
Trọng tâm của việc phân tích và dạy học văn bản nghị luận là luận điểm,
luận cứ, luận chứng, lập luận. Việc phát hiện, khái quát và phân tích luận điểm
vừa là đầu mối vừa là mục tiêu quan trọng của một giờ đọc - hiểu văn bản nghị
luận.
Quá trình phát hiện, khái quát luận điểm là quá trình đi tìm câu trả lời cho
câu hỏi: “Viết văn bản (phần, đoạn) này, tác giả nhằm khẳng định điều gì? Nói
cách khác, để phát hiện được luận điểm, phải trả lời được câu hỏi “Quan điểm,
chủ trương của tác giả về vấn đề này như thế nào?”
Chẳng hạn: Đoạn thứ nhất trong Ý nghĩa văn chương, tác giả lí giải vấn
đề gì?
Tuy nhiên, trên thực tế, việc phát hiện, tóm tắt, khái quát các ý thành luận
điểm không hề dễ, đặc biệt là với đối tượng học sinh Trung tâm. Để khái quát
được luận điểm phải qua thao tác tìm tòi, phát hiện, phân tích, Do đó, tùy vào
nội dung từng bài, từng đoạn, phần cụ thể mà giáo viên phải có những cách
thức, câu hỏi cụ thể để dẫn dắt, gợi ý học sinh từng bước phát hiện, phân tích và
khái quát luận điểm.
4. Lấy ví dụ, dẫn chứng tiêu biểu ngoài văn bản để phân tích, làm
sáng tỏ luận điểm:
Như chúng ta đã nói, văn bản nghị luận là văn bản thông tin, lí lẽ, lí lẽ đó
thường được chứng minh bằng những dẫn chứng tiêu biểu. Nhưng ở một số văn
bản khác, dẫn chứng trong bài còn hạn chế là cho việc dạy học hết sức khó khăn

(hoặc là ít dẫn chứng cụ thể, hoặc có dẫn chứng nhưng do phong cách ngôn
ngữ, hành văn nên dẫn chứng cũng rất khái quát, khó hiểu đối với học sinh. Để
học sinh hiểu, giải thích, phân tích được các luận cứ, luận điểm cần phải lấy
thêm ví dụ ngoài văn bản.
Ví dụ, trong văn bản Ý nghĩa của văn chương (Ngữ văn 7), Hoài Thanh
viết “Văn chương tô điểm, làm đẹp hơn cho cuộc sống”. Để có thể giải thích
cho học sinh lớp 7 hiểu được luận điểm cơ bản này là một điều hết sức khó
khăn. Phải lấy thêm các ví dụ từ các tác phẩm nghệ thuật để chứng minh:
- Nghệ sĩ là người nhạy cảm với cái đẹp, biết phát hiện ra cái đẹp từ
những gì gần gũi, giản dị trong cuộc sống.
- Cuộc sống (núi non, hoa cỏ, ) khi đi vào văn chương đã được gọt
rũa,khúc xã (được nhìn) qua con mắt lí tưởng hóa của người nghệ sĩ nên thường
đẹp hơn, hay hơn cuộc sống thực ở ngoài đời.
Để kiểm tra khả năng hiểu của học sinh và cũng là tạo điều kiện để các
em có thể thực hạnh, vận dụng, sáng tạo, giáo viên có thể yêu cầu các em lấy
15
thêm ví dụ. Một giờ đọc- hiểu văn bản nghị luận như vậy sẽ nhẹ nhàng, lí thú và
hiệu quả hơn.
5. Liên hệ với thực tế:
Chương trình thay sách giáo khoa Ngữ văn với quan điểm xóa bỏ khoảng
cách quá xa giữa văn học nhà trường với đời sống xã hội, gắn tác phẩm với đời
sống cá nhân học sinh. Cùng với các văn bản nhật dụng, các văn bản nghị luận
được lựa chọn góp phần quan trọng vào việc hiện thực hóa quan điểm trên. Kể
cả các văn bản nghị luận trung đại đã cách xa chúng ta nhiều thế kỉ, song những
vấn đề mà tác phẩm đặt ra vẫn có ý nghĩa thời sự đối với thời đại chúng ta.
Ví dụ, Chiếu dời đô (Ngữ văn 8) vẫn luôn là bài học mới mẻ về ý thức,
trách nhiệm của một người đứng đầu đất nước trước đời sống của muôn dân và
sự vững mạnh, phồn thịnh của một quốc gia. Hay Bàn luận về phép học (Ngữ
văn 8) phê phán lối học hình thức, cầu lợi danh, lối học tủ, học lệch, - những
vấn đề nhức nhối, bức xúc trong xã hội ta ngày nay.

Để tổ chức một giờ học thực sự sinh động, có ý nghĩa giáo dục, Giáo viên
cần hướng mối quan tâm của học sinh vào các vấn đề có ý nghĩa thiết thực với
đời sống hôm nay, tổ chức cho học sinh trao đổi, tranh luận về những vẫn đề
phức tạp. Chẳng hạn:
(?)Từ lối học xưa, em có liên tưởng, suy nghĩ gì về mục đích và phương
pháp học của chúng ta ngày nay? (Bàn luận về phép học).
Liên hệ thực tế như vậy giúp học sinh hiểu tác phẩm hơn, vừa gắn với
thực tế, vừa tạo điều kiện cho các em bộc lộ quan điểm, tư tưởng, chính kiến
riêng, qua đó góp phần hình thành “kĩ năng sống”, bản lĩnh đối mặt với những
vấn đề đang đặt ra trong cuộc sống.
6. Tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm khi dạy đọc – hiểu văn bản
nghị luận:
Trong dạy học Ngữ văn, làm việc theo nhóm là một hoạt động học tập
tích cực đã được nhiều giáo viên thực hiện thành công. Đây cũng là một trong
những kĩ năng quan trọng mà mỗi nhà trường cần hình thành cho học sinh.
Trong dạy học hợp tác, học sinh được tổ chức thành từng nhóm một cách
phù hợp (nhóm theo số lượng hay nhóm theo tính chất); được giao nhiệm vụ cụ
thể; được khuyến khích trao đổi, thảo luận, hướng dẫn hợp tác với nhau để cùng
giải quyết một nhiệm vụ học tập, qua đó, giúp các em chiếm lĩnh được kiến
thức, hiểu thấu đáo vấn đề và phát triển kĩ năng tư duy sáng tạo.
Với môn Ngữ văn, hoạt động nhóm là môi trường thuận lợi để học sinh
cùng nhau bàn bạc những vấn đề về nội dung, ý nghĩa một văn bản văn học,
phân tích ngôn ngữ, phong cách nghệ thuật văn bản, là biện pháp tích cực để
khai thác những hướng khác nhau trong cảm nhận văn chương. Hoạt động
nhóm có thể được tổ chức dưới nhiều hình thức cụ thể, chẳng hạn:
- Tóm tắt văn bản, tác phẩm theo nhóm
16
- Đọc sáng tạo, sắm vai theo nhóm
- Thảo luận, tranh luận theo nhóm
- Giải thích, cắt nghĩa theo nhóm

- Luyện tập theo nhóm
- Ngoại khóa theo nhóm
- Điều tra, khảo sát thực tế theo nhóm,
Tuy nhiên, trên thực tế đối với học sinh Trung tâm hỗ trợ phát triển giáo
dục hòa nhập trẻ khuyết tật tỉnh Yên Bái, chỉ có thể áp dụng hoạt động nhóm ở
một số hình thức:
- Tóm tắt văn bản, tác phẩm theo nhóm
- Thảo luận, tranh luận theo nhóm
- Giải thích, cắt nghĩa theo nhóm
- Luyện tập theo nhóm
Khi các em học sinh tham gia vào hoạt động nhóm (đặc biệt là đối với
học sinh khuyết tật), các em sẽ xóa đi phần lớn các mặc cảm đồng thời phát
triển các quan hệ xã giao, các kĩ năng giao tiếp cá nhân như nghe, nói, tranh
luận; rèn luyện khả năng hợp tác, tương hỗ và giúp các em tự tin hơn. Bên cạnh
đó, hoạt động nhóm sẽ khuyến khích sự phát triển tư duy độc lập, sáng tạo của
học sinh. Ngoài ra, hoạt động nhóm dựa trên nguyên tắc dân chủ và tương hỗ
nên tất cả học sinh từ khá, giỏi, trung bình, yếu kém, học sinh bình thường, học
sinh khuyết tật đều có thể tham gia.
Trong thực tế, việc tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh đôi lúc, đôi chỗ
chưa thực sự có hiệu quả, còn mang tính hình thức, máy móc, tùy tiện, lệch lạc,
như giờ học lộn xộn, ồn ào; nội dung thảo luận, thời gian thảo luận không phù
hợp với khả năng của học sinh, khiến cho giờ học Ngữ văn trở nên rời
rạc, Như vậy , hoạt động nhóm chỉ thực sự có hiệu quả khi mục đích được xác
định rõ ràng, tất cả các em đều được tham gia vào quá trình đọc- hiểu một cách
tích cực; nội dung thảo luận phải phù hợp, bám sát nội dung, gợi hứng thú cho
học sinh. Đây chính là nguyên tắc khi tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học
Văn nói chung, dạy học văn bản nghị luận nói riêng.
Thời gian giành cho hoạt động nhóm, số lượng các thành viên trong
nhóm, phụ thuộc vào mức độ yêu cầu cảu câu hỏi, bài tập, có thể chia thành
các nhóm lớn hoặc nhỏ.

Chẳng hạn, đối với hoạt động nhóm lớn khi khai thác văn bản Chiếu dời
đô (Ngữ văn 8):
(?)Tác giả cho rằng, dời đô là hợp với mệnh trời. Vậy “mệnh trời” ở đây
nghĩa là gì? Phải chăng “vâng mệnh trời” là vâng theo mệnh lệnh của một đấng
thần linh tối cao vạn năng nào đó?
Hoặc
17
(?)Lẽ ra, kết thúc bài chiếu phải là một mệnh lệnh, vì chiếu là để ban bố
mệnh lệnh. Nhưng kết thúc Chiếu dời đô lại là một câu hỏi. Cách kết thúc như
vậy có làm hỏng giá trị và chức năng của bài chiếu hay không? Vì sao?
Ngoài hình thức thảo luận nhóm trên lớp, có thể tổ chức cho học sinh
ngoại khóa theo nhóm; điều tra khảo sát thực tế theo nhóm về những vẫn đề đặt
ra trong văn bản để hình thành năng lực tự học, tự nghiên cứu cho học sinh.
Việc học như vậy sẽ trở nên nhẹ nhàng mà thú vị, sâu sắc, hiệu quả hơn.
18
*Bài soạn minh họa:
Ngày soạn: 10.12.2010
Ngày giảng:
TUẦN 22 - BÀI 20
Tiết 85
Văn bản: TINH THẦN YÊU NƯỚC CỦA NHÂN DÂN TA
(Hồ Chí Minh)
I. Mục tiêu cần đạt:
Qua bài này HS cần nắm được:
1.Kiến thức:
- Nét đẹp truyền thống yêu nước của nhân dân ta.
- Đặc điểm nghệ thuật văn nghị luận Hồ Chí Minh qua văn bản.
2. Kĩ năng:
- Nhận biết văn bản nghị luận xã hội.
- Đọc – hiểu văn bản nghị luận xã hội.

- chọn, trình bày dẫn chứng trong tạo lập văn bản nghị luận chứng minh.
3.Thái độ: Giáo dục tinh thần yêu nước, mà trước hết là tình cảm đối với
làng xóm, quê hương.
- Riêng với HS CPTTT, yêu cầu HS biết được tên văn bản, ý nghĩa của
văn bản; đối với HS đa tật (câm điếc), yêu cầu HS nhớ được tên văn bản, nắm
được nội dung, đặc điểm nghệ thuật của văn bản
- Riêng hai học sinh Dì, Chư (chưa biết đọc, viết), yêu cầu tiếp tục tập
viết Bảng chữ cái, tập đọc một số từ.
II.Chuẩn bị:
*Giáo viên: - Đọc kĩ Những điều cần lưu ý (SGV), nghiên cứu Chuẩn
kiến thức kĩ năng.
- Tranh ảnh về lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc
ta.
- Phiếu học tập.
- Bảng phụ: thống kê các mốc lịch sử in đậm những chiến thắng
vĩ đại của dân tộc ta trong công cuộc chống giặc ngoại xâm.
* Học sinh: Đọc kỹ văn bản và sọan bài theo câu hỏi gợi ý.
III.Tiến trình bài dạy:
1.Ổn định lớp (1 phút):
- Kiểm tra sĩ số:
2.Kiểm tra bài cũ (5 phút) :
(?)Thế nào là văn bản nghị luận? Để thuyết phục người đọc,người nghe,
một bài văn nghị luận cần phải đạt những yêu cầu gì?
19
3.Bài mới (39 phút):
HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC
SINH
NỘI DUNG
Hoạt động I. Khởi động (1 phút):
Giới thiệu bài:

Con người ai cũng gắn bó với nơi mình
sinh ra và lớn lên, ai cũng có tình cảm với
những người yêu thương, thân thuộc. Từ tình
yêu gia đình, làng xóm, tình cảm ấy nâng lên
thành tình yêu đất nước, quê hương. Và lòng
yêu nước đã được tôi luyện, thử thách cũng
như bộc lộ rõ nét nhất mỗi khi Tổ quốc bị xâm
lăng. Chân lí đó đã được Bác Hồ làm sáng tỏ
trong van bản “Tinh thần yêu nước của nhân
dân ta” mà chúng ta sẽ tìm hiểu ngày hôm
nay.
Hoạt động 2. Đọc – Hiểu văn bản (29
phút):
HS đọc chú thích
(?)Em hãy nêu xuất sứ của tác phẩm.
(?)Văn bản thuộc thể loại nào?
GV hướng dẫn HS đọc văn bản
(?)Theo em, vấn đề nghị luận của văn bản
là gì? Em hãy xác định câu chôt của văn bản.
GV hướng dẫn HS đọc: giọng văn hùng
hồn, đanh thép; khi thiết tha, giàu cảm xúc.
2 HS đọc
- HS thảo luận nhóm và trả lời câu hỏi
(?)Văn bản có thể chia làm mấy phần? Nội
dung mỗi phần là gì?
GV gợi ý, định hướng
- Từ đầu đến “lũ cướp nước”: Nhận định
chung về lòng yêu nước của nhân dân ta.
- Tiếp theo đến “nồng nàn yêu nước”:
Những biểu hiện về lòng yêu nước của nhân

I.Giới thiệu chung:
1. Xuất xứ: Được viết vào giữa thời
kì kháng chiến chống thực dân Pháp;
trích trong Báo cáo chính trị của Bác
tại Đại hội lần thứ II của Đảng
(2/1951) ở chiến khu việt Bắc.
2. Thể loại: Nghị luận chính trị - xã
hội
3. Luận đề (Vấn đề nghị luận):
- Luận đề: Lòng yêu nước của nhân
dân ta.
- Luận điểm chính: Nhân dân ta có
một truyền thống yêu nước nồng
nàn.
- Câu chốt: Dân ta có một lòng nồng
nàn yêu nước. Đó là truyền thống
quý báu của dân tộc ta.
4. Bố cục: 3 phần

20
dân ta.
- Đoạn còn lại: Nhiệm vụ của chúng ta.
HS chú ý phần thứ nhất
HS thảo luận nhóm nhỏ (theo bàn)
(?)Em hiểu lòng yêu nước nồng nàn nghĩa
là thế nào? Vì sao nói yêu nước là một truyền
thống quý báu của nhân dân ta?
- Nồng nàn: Trạng thái tình cảm sôi nổi,
mãnh liệt của tâm hồn.
- Nồng nàn yêu nước: Tinh thần yêu nước ở

độ mãnh liệt, sôi nổi, chân thành.
- Bởi vì, tình cảm đó được thử thách qua
các thời kì lịch sử, qua nhiều thế hệ; được kết
tinh thành những giá trị bền vững và trở thành
tài sản chung của cả dân tộc.
GV lấy ví dụ trong lịch sử.
(?)Lòng yêu nước của dân tộc ta được bộc
lộ mạnh mẽ nhất ở phương diện nào? Tại sao
lại như vậy?
- Lịch sử dân tộc ta, có thể nói, là lịch sử
yêu nước và chống ngoại xâm.
(?)Em hãy lấy ví dụ từ trong lịch sử để
chứng minh.
HS lấy ví dụ
GV bình giảng, định hướng.
(?)Em có nhận xét gì về cách dùng từ ngữ,
hình ảnh và cách diễn đạt của tác giả ở đoạn
văn này?
- So sánh ấn tượng, độc đáo: Lòng yêu
nước = những làn sóng mạnh mẽ, to lớn lướt
qua , nhấn chìm, → Biểu đạt thành công
sức mạnh đoàn kết và lòng yêu nước nồng nàn
của dân tộc ta.
- Các động từ chọn lọc: kết thành, lướt qua,
nhấn chìm, → gợi tả sức mạnh, tạo âm
hưởng mạnh mẽ cho câu văn.
HS theo dõi đoạn văn tiếp theo
HS làm việc theo cặp
(?)Để làm rõ lòng yêu nước của nhân dân
ta, tác giả đã chứng minh bằng cách nào? Hãy

chỉ ra các đoạn văn tương ứng.
- Đoạn 1: những cuộc kháng chiến vĩ đại
với những thời đại hào hùng, và tên tuổi các
vị anh hùng dân tộc.
II. Đọc - hiểu văn bản:
1. Nhận định chung về lòng yêu
nước của nhân dân ta:
- Dân ta có một lòng nồng nàn yêu
nước:
- Yêu nước là một truyền thống quý
báu của dân tộc ta.
- Lòng yêu nước của dân tộc ta được
bộc lộ mạnh mẽ nhất qua đấu tranh
chống ngoại xâm.
- Cách diễn đạt hàm súc; dẫn chứng
cụ thể; so sánh ấn tượng; hình ảnh
sinh động, từ ngữ chọn lọc, điêu
luyện.
2. Những biểu hiện của lòng yêu
nước của dân ta :
- Trong quá khứ:
21
(?)Em có nhận xét gì về các dẫn chứng và
cách nêu dẫn chứng của tác giả?
(?)Em hãy tóm tắt những biểu hiện lòng
yêu nước của đồng bào ta ngày nay.
GV sử dụng bảng phụ
- Từ các cụ già → nhi đồng trẻ thơ; từ kiều
bào → đồng bào ở vùng bị tạm chiếm; từ nhân
dân miền ngược → miền xuôi.

- Từ những chiến sĩ ngoài mặt trận → công
chức hậu phương,
- Từ mọi người dân → các điền chủ,
(?)Cấu trúc, cách lựa chọn, sắp xếp và trình
bày dẫn chứng của tác giả có gì đặc biệt?
GV khái quát, giảng bình
HS theo dõi đoạn cuối của văn bản.
HS thảo luận nhóm
(?)Theo em, lòng yêu nước được “trưng
bày” và được “giấu kín” nghĩa là thế nào?
- Trưng bày: có thể nhìn thấy
- Giấu kín: khó có thể nhìn thấy.
(?)Vậy, cái hay, cái độc đáo của đoạn cuối
này là gì?
(?)Khi mọi người đã hiểu rõ về lòng yêu
nước, nhiệm vụ của chúng ta là gì?
Hoạt động 3. Tổng kết (6 phút) :
HS thảo luận nhóm
(?)Theo em, nghệ thuật nghị luận ở bài này
có gì đặc sắc?
→ Dẫn chứng chính xác, tiêu biểu
đã chứng minh thuyết phục tinh thần
yêu nước của dân tộc ta trong quá
khứ
- Ngày nay: Tinh thần yêu nước
được kế thừa, phát huy – Xứng đáng
với tổ tiên.

→ Tất cả đều giống nhau nơi lòng
nồng nàn yêu nước.

→ Cách diễn giải rõ ràng, chặt chẽ
theo kết cấu liệt kê trùng điệp; dẫn
chứng cụ thể, tiêu biểu, toàn diện;
các sự việc, con người đều liên quan
đến nhau → khẳng định chứng
minh hùng hồn tinh thần yêu nước
nồng nàn của dân tộc ta.
3. Nhiệm vụ của chúng ta:
- Nghệ thuật so sánh độc đáo → giúp
người đọc có thể hình dung hai trạng
thái tinh thần yêu nước: biểu hiện rõ
ràng, đầy đủ; ẩn giấu tiềm tàng và
kín đáo.
- Động viên, khích lệ để lòng yêu
nước tiềm ẩn ở mọi người được cụ
thể hóa thành hành động thực tế:
những công việc yêu nước và kháng
chiến.
III. Tổng kết:
1. Nghệ thuật:
- Phép so sánh, liệt kê dẫn chứng
theo kết cấu Phép so sánh, liệt kê
dẫn chứng theo kết cấu Từ đến ;
- Bố cục chặt chẽ, lập luận mạch lạc;
- Hệ thống luận điểm, luận cứ đúng
đắn, tiêu biểu,toàn diện.
22
(?)Em có nhận xét gì về tình cảm, thái độ
của tác giả khi bàn luận về vấn đề này?
(?)Em nhận thức thêm được điều gì về lòng

yêu nước từ văn bản này?
HS suy nghĩ, trả lời
HS đọc ghi nhớ
Hoạt động 4. Củng cố - Dặn dò (3 phút):
*Củng cố: - HS đọc lại Ghi nhớ
- GV khái quát, nhấn mạnh
trọng tâm của bài.
*Dặn dò: - Về nhà học bài, học thuộc lòng
đoạn từ đầu đến “tiêu biểu của một dân tộc
anh hùng”.
- Chuẩn bị tiết Tiếng Việt: Câu
đặc biệt.
2. Nội dung:
- Tác giả khẳng định, ca ngợi truyền
thống yêu nước của dân tộc ta bằng
một giọng văn hùng hồn, đanh thép;
khi thiết tha, giàu cảm xúc.
→ Ghi nhớ (SGK – Tr27)

23
Chương IV. Hiệu quả
Qua một số năm giảng giạy, rút kinh nghiệm và việc vận dụng một số
phương pháp dạy học văn bản nghị luận như trên, học sinh của tôi đã hình
thành được thói quen học tập bộ môn nói chung, đọc - hiểu văn bản nghị luận
nói riêng, hiểu và nắm được đặc trưng của từng thể loại (hịch, cáo, ), từ đó
bước đầu biết vận dụng vào quá trình tạo lập văn bản nghị luận có hiệu quả.
Qua các tiết học đã phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
học sinh. Các em tham gia xây dựng bài học một cách sôi nổi và hào hứng.
Bản thân học sinh cũng có ý thức hơn trong việc soạn bài, làm bài theo
hướng tích hợp, biết khai thác, vận dụng linh hoạt các kiến thức trong đời sống,

trong các môn học khác để đưa vào trong bộ môn Ngữ văn.
Kiến thức truyền thụ cho học sinh luôn được liên tục củng cố và hệ thống
hoá trong quá trình dạy - học.
Kết quả học tập của các em đã từng bước đi lên trong từng năm học.
Riêng đối với học sinh lớp 7, năm học 2011 – 2012, bước sang học kì II
các em sẽ tiếp cận và tìm hiểu phần văn bản nghị luận, tuy nhiên bản thân tôi
với những kinh nghiệm đã tích lũy được trong những năm qua, tôi tin tưởng
rằng các em sẽ có hứng thú hơn trong việc học tập và kết quả sẽ cao hơn.
*Llưu ý:
- Về mặt lí thuyết, phương pháp chung thì có rất nhiều, đối với việc giảng
dạy văn bản nghị luận cũng vậy. Nhưng kết quả từng tiết dạy lại phụ vào việc
vận dụng phương pháp của từng Giáo viên với cách tổ chức các hoạt động, hệ
thống câu hỏi phát vấn, quả trình sử dụng phương tiện, đặc biệt là khả năng sử
dụng, chuyển tải kiến thức và lòng yêu nghề nghiệp.
- Dạy văn bản nghị luận phải đảm bảo đặc trưng của môn Ngữ văn, đảm
bảo đặc trưng thể loại nghị luận trong quá trình dạy học và đặc biệt hơn là thực
hiện tích hợp linh hoạt với Tập làm văn.
24
Phần thứ ba: KẾT LUẬN
Tác phẩm văn chương hình tượng là biểu tượng của cái đẹp. Cái đẹp đó
nằm trong mỗi từ ngữ, hình ảnh, thậm chí, đôi khi một dấu chấm câu cũng khơi
gợi mạnh mẽ sự rung động thẩm mĩ tinh tế của người đọc. Văn bản nghị luận
cũng là một sản phẩm có chứa cái đẹp. Cái đẹp trong văn nghị luận chủ yếu là
cái đẹp của trí tuệ sắc sảo, của tư duy khúc chiết. Đồng thời, sự hấp dẫn thẩm
mĩ của một tác phẩm nghị luận là do những yếu tố khác nhau tạo thành, đó là
nghệ thuật lập luận (sự logic, chặt chẽ trong việc triển khai trình tự các luận
điểm, sự sắc sảo về lí lẽ, và sự hùng hồn, thống thiết, chân thành của lời văn).
Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu và áp dụng phương pháp vào giảng
dạy, cũng có nghĩa là làm rõ cái hay, cái đẹp của văn bản nghị luận, tôi rút ra
một số bài học kinh nghiệm như sau:

1. Về phía học sinh:
- Chủ động, sáng tạo, tích cực và lòng say mê môn học nói chung, sự yêu
thích văn học nghị luận nói riêng.
- Lắng nghe những yêu cầu hướng dẫn, chỉ bảo của giáo viên khi chuẩn
bị và khi tiếp cận văn bản.
- Tìm hiểu kiến thức lịch sử, kiến thức thực tế liên quan đến nội dung mỗi
văn bản; vận dụng sáng tạo kiến thức văn bản nghị luận với văn nghị luận
(trong phần Tập làm văn).
2. Về phía giáo viên:
- Dạy văn nghị luận giáo viên cần bám sát văn bản, nắm vững đặc trưng
cơ bản của từng thể loại.
- Ngoài ra, những hiểu biết về tác giả, bối cảnh văn học, hoàn cảnh lịch
sử - thời đại ra đời tác phẩm là không thể thiếu để hiểu thấu đáo về tác phẩm.
- Vận dụng các phương pháp dạy học đúng đặc trưng bộ môn, sử dụng
các phương tiện dạy học triệt để,đặc biệt là việc ứng dụng công nghệ thông tin
trong dạy học.
- Đầu tư ngiên cứu, chuẩn bị các phương tiện, đồ dùng dạy học; thiết kế
giáo án chú trọng đến hệ thống câu hỏi, nội dung trọng tâm của bài.
- Tìm hiểu kĩ đối tượng học sinh để lựa chọn nội dung, phương pháp phù
hợp, nhất là đối với học sinh khuyết tật.
- Chủ động, tự tin, tâm thế vững vàng khi đứng lớp.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi được rút ra trong quá trình
thực tế giảng dạy. Vấn đề về phương pháp dạy học Ngữ văn nói chung, dạy học
25

×