Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

QUY PHẠM PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.6 KB, 4 trang )

1. KHÁI NIỆM QUY PHẠM PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH
Quy phạm pháp luật hành chính là một dạng của quy phạm pháp luật. Quy phạm
pháp luật là những quy tắc xử sự chung do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và đảm
bảo thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng của Nhà nước.
Từ đó, ta có thể rút ra định nghĩa: Những quy phạm pháp luật được dùng để
điều chỉnh các quan hệ quản lí hành chính Nhà nước là các quy phạm pháp luật hành
chính. Do đó, quy phạm pháp luật hành chính là một dạng cụ thể của quy phạm pháp
luật, được ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản
lí hành chính theo phương pháp mệnh lệnh – đơn phương.
2. ĐẶC ĐIỂM CỦA QUY PHẠM PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH
Do quy phạm pháp luật hành chính là một dạng của quy phạm pháp luật nên các
quy phạm pháp luật hành chính vừa có các đặc điểm chung của quy phạm pháp luật,
vừa có các đặc điểm khác với các quy phạm pháp luật nói chung.
2.1. Đặc điểm chung
Quy phạm pháp luật hành chính là quy tắc xử sự chung thể hiện ý chí của Nhà
nước trong lĩnh vực quản lý hành chính Nhà nước, bởi quy phạm pháp luật hành
chính do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận để điều chỉnh các quan hệ quản lý hành
chính theo định hướng nhất định.
Quy phạm pháp luật hành chính được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các
biện pháp thuyết phục (giáo dục, động viên...) hoặc cưỡng chế Nhà nước (xử phạt vi
phạm hành chính, các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính...).
Quy phạm pháp luật hành chính là tiêu chuẩn xác định giới hạn, đánh giá hành
vi của con người về tính hợp pháp trong lĩnh vực quản lý hành chính Nhà nước.
2.2. Đặc điểm riêng
2.2.1. Các quy phạm pháp luật hành chính chủ yếu do các cơ quan hành
chính nhà nước ban hành
Ở nước ta, theo quy định của pháp luật, các cơ quan Nhà nước hoặc người có
thẩm quyền ban hành quy phạm pháp luật hành chính là chủ thể lập pháp và chủ thể
quản lí hành chính Nhà nước như cơ quan quyền lực Nhà nước, Chủ tịch nước, các
cơ quan hành chính Nhà nước, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Tổng kiểm toán Nhà nước, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Việc quy


1
định thẩm quyền như vậy đã đáp ứng được yêu cầu điều chỉnh các quan hệ quản lí
hành chính Nhà nước một cách năng động, kịp thời; phù hợp với thực tiễn quản lí
từng ngành, lĩnh vực và địa phương; đồng thời còn phù hợp với yêu cầu về tính chủ
động, sáng tạo trong quản lí hành chính Nhà nước.
2.2.2. Các quy phạm pháp luật hành chính có số lượng lớn và hiệu lực pháp
lí khác nhau
Do phạm vi điều chỉnh các quy phạm pháp luật hành chính rất rộng và tính chất
đa dạng về chủ thể ban hành nên các quy phạm pháp luật hành chính có số lượng
lớn. Trong đó có những quy phạm có hiệu lực pháp lí trên phạm vi cả nước và chung
cho các ngành, lĩnh vực quản lí nhưng cũng có những quy phạm chỉ có hiệu lực trong
phạm vi một ngành, một lĩnh vực quản lí hay trong một địa phương nhất định. Ví dụ:
Quy phạm pháp luật về việc xử lí vi phạm hành chính có hiệu lực chung cho các
ngành, tuy nhiên quy phạm pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
bưu chính lại chỉ có hiệu lực trong ngành bưu chính.
2.2.3. Các qui phạm pháp luật hành chính hợp thành một hệ thống trên cơ sở
nguyên tắc nhất định
Do yêu cầu điều chỉnh thống nhất pháp luật trong quản lí hành chính Nhà nước
nên khi ban hành quy phạm luật hành chính, các chủ thể cần tuân thủ các nguyên tắc:
- Các quy phạm pháp luật hành chính do cơ quan Nhà nước cấp dưới ban hành
phải phù hợp với nội dung và mục đích của quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà
nước cấp trên ban hành. Ví dụ: UBND tỉnh Bắc Ninh ban hành quy phạm pháp luật
về việc nâng lương trước thời hạn với cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Bắc Ninh
phải căn cứ vào quy phạm pháp luật của Bộ Nội vụ về việc thực hiện chế độ nâng
lương thường xuyên và nâng lương trước thời hạn với cán bộ, công chức, viên chức.
- Các quy phạm pháp luật hành chính do cơ quan hành chính Nhà nước, Chủ
tịch nước, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân ban hành phải phù hợp với nội
dung và mục đích của quy phạm pháp luật do cơ quan quyền lực Nhà nước cùng cấp
ban hành; nếu không phù hợp sẽ bị cơ quan quyền lực Nhà nước đó bãi bỏ. Ví dụ:
Khoản 9 Điều 84 Hiến pháp 1992 quy định: “Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản

của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, thủ tướng Chính phủ, Tòa
án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với hiến pháp, luật
2
và nghị quyết của Quốc hội”.
- Các quy phạm pháp luật hành chính do cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm
quyền chuyên môn ban hành phải phù hợp với nội dung và mục đích của quy phạm
pháp luật do cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung cùng cấp ban hành.
Ví dụ: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định trình tự, thủ tục kiểm dịch
thủy sản, sản phẩm thủy sản sẽ phải căn cứ vào văn bản quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và
pháp lệnh về thú y của Chính phủ.
- Các quy phạm pháp luật hành chính do người có thẩm quyền trong các cơ
quan Nhà nước ban hành phải phù hợp với nội dung và mục đích của quy phạm pháp
luật do tập thể cơ quan đó ban hành. Ví dụ: Thủ tướng chính phủ khi ban hành quy
phạm pháp luật về chế độ thù lao đối với người đã nghỉ hưu giữ chức danh lãnh đạo
chuyên trách tại các hội phải căn cứ vào quy phạm quy định tổ chức, hoạt động và
quản lý hội của Chính phủ.
- Bảo đảm tính thống nhất giữa các quy phạm pháp luật hành chính do các chủ
thể cùng cấp, cùng địa vị pháp lí ban hành. Cụ thể, các chủ thể ban hành quy phạm
pháp luật hành chính có trách nhiệm kiểm tra và bảo đảm tính thống nhất giữa các
quy phạm pháp luật hành chính hiện hành do mình ban hành; tôn trọng thẩm quyền
ban hành pháp luật của các chủ thể khác ngang cấp, cùng địa vị; bàn bạc, phối hợp
với các chủ thể ngang cấp, cùng địa vị trong công tác ban hành pháp luật, phát hiện
và xử lí các văn bản quy phạm pháp luật sai trái. Ví dụ, Khoản 1 Điều 24 “Nghị định
của Chính phủ số 178/2007/NĐ-CP ngày 03/12/2007 quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ” quy định: “Bộ trưởng ...
không ban hành những văn bản trái với quy định của các Bộ trưởng khác”.
- Các quy phạm pháp luật hành chính phải được ban hành theo đúng trình tự,
thủ tục và dưới hình thức nhất định do pháp luật quy định.
3. KẾT LUẬN

Quy phạm pháp luật hành chính là phương tiện chủ yếu và là cơ sở của quản lí
hành chính Nhà nước. Do đó, khi tiến hành các hoạt động quản lí, các chủ thể quản lí
hành chính Nhà nước phải tuyệt đối tuân thủ các quy định của pháp luật hành chính
về phạm vi thẩm quyền và cách thức quản lí.
3
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
***
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2011.
2. PGS. TS. Nguyễn Thị Hồi, những nội dung căn bản của môn học lí luận nhà
nước và pháp luật, Nxb. Tư Pháp, Hà Nội, 2010.
3. Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2003.
4. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.
5. Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002.
6. Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính năm 2011.
7. Quyết định số 111/2006/QĐ-UBND của UBND tỉnh Bắc Ninh về việc “nâng bậc
lương trước thời hạn đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc tỉnh Bắc Ninh”.
8. Thông tư số 06/2010/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
quy định “trình tự, thủ tục kiểm dịch thủy sản, sản phẩn thủy sản”.
9. Quyết định số 30/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ về “chế độ thù lao đối
với người đã nghỉ hưu giữ chức danh lãnh đạo chuyên trách tại các hội”.
10. Nghị định của Chính phủ số 178/2007/NĐ-CP ngày 03/12/2007 quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ.
11. Các trang web:
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật :
- Văn bản quy phạm pháp luật :
4

×