Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Tổ chức dạy học ngoại khóa trong dạy học phần Điện học Vật lý lớp 11 trung học phổ thông theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức và bồi dưỡng năng lực sáng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.44 MB, 118 trang )


5
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Danh mục các kí hiệu, các chữ viết tắt
Mục lục
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HOẠT ĐỘNG 6 NGOẠI
KHÓA VẬT LÍ Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG.
1.1. Cơ sở lí luận của hoạt động ngoại khóa vật lí ở trường phổ thông 6
1.1.1. Các vấn đề chung về hình thức tổ chức dạy học ở trường phổ thông 6
1.1.2. Các nhiệm vụ cơ bản của dạy học Vật lí ở trường phổ thông 8
1.1.3. Hoạt động ngoại khóa 9
1.1.4. Nội dung, hình thức tổ chức và phương pháp dạy học ngoại khóa 11
vật lí
1.1.5. Quy trình tổ chức hoạt động ngoại khóa về vật lí 24
1.1.6. Cơ sở đánh giá hiệu quả hoạt động ngoại khóa trong việc phát 29
huy tính tích cực hóa hoạt động nhận thức và bồi dưỡng năng
lực sáng tạo của học sinh.
1.2. Thực trạng của hoạt động ngoại khóa và tình hình dạy và học 34
phần “Điện học” trong nhà trường phổ thông hiện nay
1.2.1. Mục đích điều tra 34
1.2.2. Phương pháp điều tra 35
1.2.3. Đối tượng điều tra 35
1.2.4. Kết quả điều tra 35
Kết luận chương 1 43
Chƣơng 2: TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA PHẦN "ĐIỆN HỌC" VẬT LÍ 11
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC VÀ BỒI DƢỠNG NĂNG LỰC SÁNG TẠO
CHO HỌC SINH
2.1. Ý tưởng sư phạm khi soạn thảo tiến trình tổ chức hoạt động 44


ngoại khóa phần “Điện học ” vật lí 11

6
2.2. Mục tiêu của hoạt động ngoại khóa phần “Điện học” 45
2.2.1. Mục tiêu về kiến thức 45
2.2.2. Mục tiêu về kĩ năng 46
2.2.3. Mục tiêu phát triển tư duy 46
2.3. Nội dung của hoạt động ngoại khóa phần “Điện học” vật lí 11 46
2.4. Hình thức và phương pháp tổ chức hoạt động ngoại khóa 57
phần “Điện học” vật lí 11
2.5. Hướng dẫn thiết kế, chế tạo các dụng cụ điện sử dụng nguồn một chiều, 60
đáp ứng các nhiệm vụ hoạt động ngoại khoá phần “Điện học” vật lí 11
2.6. Tổ chức ngày Hội vui vật lí 74
Kết luận chương 2 80
Chƣơng 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM 81
3.1. Mục đích của thực nghiệm sư phạm 81
3.2. Đối tượng và thời gian thực nghiệm sư phạm 81
3.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm 81
3.4. Phân tích diễn biến và đánh giá kết quả thực nghiệm sư phạm 82
phần học sinh thiết kế, chế tạo dụng cụ điện
3.5. Phân tích diễn biến và đánh giá kết quả thực nghiệm sư phạm 93
phần học sinh báo cáo kết quả và tham gia hội vui vật lí
Kết luận chương 3 106
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO 108
PHỤ LỤC 110

4



DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
THPT: Trung học phổ thông
GV: Giáo viên
HS: Học sinh
SGK: Sách giáo khoa
BGK: Ban giám khảo
BKT: Ban kĩ thuật
BTC: Ban tổ chức
BTK: Ban thư ký
PĐT: Phiếu điều tra



















7

MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu
Bước vào thế kỷ 21, sự bùng nổ thông tin và khoa học kỹ thuật đã làm
thay đổi mục tiêu giáo dục truyền thống, từ mục tiêu chủ yếu trang bị kiến thức
sang chủ yếu đào tạo kỹ năng, năng lực. Điều này sẽ giúp cho từng người chúng
ta không chỉ học khi còn đi học mà còn học suốt đời. Hơn nữa, sự nghiệp công
nghiệp hoá - hiện đại hoá và tiến trình hội nhập quốc tế của đất nước đòi hỏi nguồn
nhân lực có trình độ cao, năng động, sáng tạo và phẩm chất đạo đức tốt.
Trước tình hình đó, yêu cầu ngành giáo dục phải có những thay đổi đáng
kể về chương trình, nội dung, đặc biệt là đổi mới mạnh mẽ về phương pháp giáo
dục. Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nêu rõ:
“Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã
hội hóa; đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy học; đổi mới cơ chế
quản l í giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản l í giáo dục, đào tạo.
Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối
sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành”.
Điều 28.2 Luật giáo dục cũng quy định: “Phương pháp giáo dục phổ thông
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với
đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng
làm việc nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến
tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Do sự hạn chế của thời gian trên lớp trong chương trình chính khóa, đồng
thời với sự gia tăng không ngừng của tri thức đã làm xuất hiện mâu thuẫn giữa
nhu cầu nhận thức của học sinh với tính kế hoạch của chương trình. Thực tế cho
thấy, dạy học nội khoá vẫn còn rất nặng nề, chưa kích thích được sự hứng thú
học tập và chưa phát triển được năng lực sáng tạo của học sinh. Thời gian để học

8
sinh thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn là quá ít so với kiến thức học
sinh đã được học. Do vậy, để đạt được mục tiêu đã đề ra của nền giáo dục, cần

phải đa dạng hoá các hình thức tổ chức hoạt động học tập của học sinh, cần phải
khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động ngoài giờ lên lớp (hay hoạt động
ngoại khoá). Đây là một hình thức dạy học có ý nghĩa và vai trò hết sức quan
trọng, mang lại hiệu quả cao, nó không những giúp học sinh củng cố các kiến thức
đã học ở nội khoá mà còn giúp đào sâu, mở rộng kiến thức, phát huy tính tích cực,
sáng tạo của học sinh nhưng hiện nay chưa được chú trọng ở các trường phổ thông
nước ta. Qua điều tra, khảo sát tại một số trường THPT tại Hà Nội và một số tỉnh
chúng tôi thấy hoạt động ngoại khóa chưa được coi trọng đúng mức, nếu có thì
được tiến hành mang tính bắt buộc, chưa thường xuyên, nặng về hình thức, kết
quả thu được còn thấp.
Đặc biệt, đối với Vật lí học, đây là một môn học bắt buộc trong hệ thống
các môn học của nhà trường phổ thông ở nước ta hiện nay. Do đặc thù của vật lí
học là một khoa học thực nghiệm, vì vậy trong giảng dạy và học tập môn vật l í
thì thực nghiệm là một khâu có vai trò quan trọng. Nó không chỉ làm tăng tính
hấp dẫn của môn học, giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn các kiến thức lí thuyết đã
học và rèn kỹ năng thực nghiệm của học sinh, từng bước tạo cho học sinh một
trực giác nhạy bén đối với các hiện tượng vật lí. Một trong những khâu quan trọng
của quá trình đổi mới phương pháp dạy học vật lí là tăng cường các hoạt động thực
nghiệm của học sinh trong quá trình học tập. Việc đưa thí nghiệm vào dạy học đã
giúp cho học sinh tiếp cận với con đường nghiên cứu khoa học của các nhà khoa
học và tiếp thu các kiến thức một cách nhanh chóng, dễ dàng hơn. Thông qua thí
nghiệm vật lí, học sinh sẽ được rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, giáo dục tổng hợp, hình
thành tư duy sáng tạo và tinh thần làm việc tập thể. Qua đó, học sinh có được một
số kĩ năng sử dụng các máy móc thiết bị cơ bản làm cơ sở cho việc sử dụng những

9
công cụ trong công việc cũng như trong cuộc sống. Tuy nhiên, số tiết thực hành còn
quá ít nên việc tổ chức hoạt động ngoại khóa vật lí là thực sự cần thiết.
Qua quá trình trực tiếp giảng dạy vật lí nhiều năm ở trường THPT, chúng
tôi nhận thấy: phần “Điện học” chiếm một tỉ lệ lớn trong chương trình vật lí 11.

Kiến thức phần này tương đối khó , có nhiều hiện tượng vật lí l í thú, khả năng
ứng dụng trong khoa học kĩ thuật và trong đời sống rất lớn mà trong quá trình tổ
chức dạy học chưa khai thác được. Dẫn đến việc vận dụng chúng để giải thích các
hiện tượng thực tế hay việc vận dụng vào thực tiễn đời sống đối với học sinh là
tương đối khó khăn. Ngoài ra, phần này cũng có những thiết bị điện đơn giản mà
học sinh có thể tự chế tạo được hoặc khai thác từ những thiết bị đã có sẵn trong thực
tế để tạo ra các thiết bị điện phục vụ cuộc sống nhưng giáo viên đã không tổ chức
cho học sinh tự thiết kế. Do vậy, trong học nội khóa, học sinh không có cơ hội được
rèn luyện các kĩ năng, chưa khơi dậy được sự hứng thú, tích cực trong học tập và tư
duy sáng tạo của học sinh.
Với mong muốn góp phần vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học
vật lí ở trường THPT, chúng tôi chọn đề tài: Tổ chức hoạt động ngoại khóa trong
dạy học phần “Điện học” Vật lý lớp 11 trung học phổ thông theo hướng tích cực
hóa hoạt động nhận thức và bồi dưỡng năng lực sáng tạo của học sinh.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu việc tổ chức hoạt động ngoại khóa phần “Điện học ” Vật lí lớp
11 nhằm kích thích hứng thú học tập, phát huy được tính tích cực và bồi dưỡng
năng lực sáng tạo của học sinh, đồng thời củng cố kiến thức đã học trong chương
trình nội khóa và giúp học sinh hiểu rõ hơn cách thức ứng dụng vật lí vào đời
sống, kĩ thuật.
3. Phạm vi nghiên cứu
+ Tổ chức hoạt động ngoại khoá phần "Điện học'' vật lí lớp 11 THPT.

10
+ Thực nghiệm sư phạm tại trường THPT Thạch Thất – Hà Nội.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Hoạt động ngoại khóa vật lí trong dạy học Vật lí ở trường phổ thông.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận về hoạt động ngoại khóa nói chung và ngoại
khoá vật lí nói riêng.

- Nghiên cứu cơ sở lí luận của phương pháp dạy học Vật lí để phát huy
tính tích cực và bồi dưỡng năng lực sáng tạo của học sinh.
- Nghiên cứu nội dung kiến thức phần “Điện học” trong chương trình vật
lí phổ thông.
- Điều tra thực trạng và đề xuất giải pháp việc tổ chức dạy học ngoại khóa
Vật lí tại các trường THPT.
- Xây dựng nội dung ngoại khóa phần “Điện học” thuộc chương trình Vật
lí lớp 11 THPT.
- Tổ chức thực nghiệm, đánh giá kết quả thực nghiệm, rút ra các kết luận
cần thiết.
6. Giả thuyết nghiên cứu
Nếu tổ chức dạy học bằng hoạt động ngoại khoá có nội dung phù hợp với
mục tiêu dạy học và đối tượng học sinh, có hình thức hoạt động phong phú sẽ
không những giúp học sinh ôn tập, củng cố, vận dụng kiến thức một cách hiệu quả
mà còn phát huy được tính tích cực, tự chủ và bồi dưỡng năng lực sáng tạo cho họ.
7. Dự kiến luận cứ
7.1. Luận cứ lí thuyết
- Các cơ sở lí luận về dạy học tích cực.
- Các phương pháp tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp.

11
- Các biện pháp phát huy tính tích cực hóa hoạt động nhận thức và bồi
dưỡng năng lực sáng tạo của học sinh.
7.2. Luận cứ thực tế
- Phiếu điều tra, trao đổi với giáo viên.
- Phiếu điều tra, khảo sát trên học sinh.
- Minh chứng của diễn biến dạy học ngoại khóa phần “Điện học”.
- Các kết quả học tập của học sinh.
8. Phƣơng pháp chứng minh luận điểm
Sử dụng các nhóm phương pháp sau:

- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
- Phương pháp thống kê toán học.
9. Đóng góp của đề tài
- Góp phần đưa cơ sở lí luận của hoạt động ngoại khóa vào thực tiễn.
- Có thể làm tài liệu tham khảo cho hoạt động ngoại khóa ở các trường THPT.
- Góp phần vào công cuộc đổi mới phương pháp dạy học.
10. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, khuyến nghị, tài liệu tham khảo luận văn dự kiến
được trình bày trong 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của hoạt động ngoại khóa vật lí ở
trường phổ thông.
Chương 2. Tổ chức hoạt động ngoại khóa phần “Điện học” vật lí 11 nhằm
phát huy tính tích cực và bồi dưỡng năng lực sáng tạo cho học sinh.
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm.


12
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA
VẬT LÍ Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG
1.1. Cơ sở lí luận của hoạt động ngoại khóa vật lí ở trƣờng phổ thông
1.1.1. Các vấn đề chung về hình thức tổ chức dạy học ở trường phổ thông
Hình thức tổ chức dạy học là toàn bộ những cách thức tổ chức hoạt động
của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học, ở thời gian và địa điểm nhất
định với những phương pháp, phương tiện dạy học cụ thể nhằm thực hiện những
nhiệm vụ dạy học. Hình thức dạy học khác nhau chủ yếu tùy theo mối quan hệ
giữa việc dạy học có tính tập thể hay có tính cá nhân, mức độ tính tự lực hoạt
động nhận thức của học sinh, sự chỉ đạo chuyên biệt của giáo viên đối với hoạt

động học tập của học sinh, chế độ làm việc, thành phần học sinh, địa điểm và
thời gian học tập. Trong thực tế dạy học, người ta phân biệt ba dạng tổ chức dạy
học: dạng toàn lớp, dạng nhóm, dạng cá nhân.
* Các dạng tổ chức dạy học cơ bản
+ Dạng toàn lớp: Là dạng trong đó, mỗi học sinh đồng thời hoàn thành những
nhiệm vụ nhận thức chung.
- Ưu điểm: GV có thể lãnh đạo đồng thời mọi học sinh, tích cực điều khiển việc
lĩnh hội tri thức, việc ôn tập và củng cố tri thức cho toàn lớp.
- Nhược điểm: giáo viên khó chú ý đến đặc điểm cá nhân, đặc biệt là đến tốc độ
hoạt động và trình độ hoạt động nhận thức của mỗi học sinh.
+ Dạng nhóm: Là dạng trong đó, từng nhóm học sinh cùng giải quyết những
nhiệm vụ nhận thức thống nhất. Các em có thể cùng thảo luận các nhiệm vụ nhận
thức, vạch ra con đường và giải quyết các nhiệm vụ đó, cuối cùng đạt đến kết
quả chung.

13
- Ưu điểm: Giáo viên có thể chú ý tới những nhu cầu riêng của từng nhóm học
sinh, có thể mở ra khả năng rộng rãi để học sinh hợp tác hoạt động với nhau
cũng như để kiểm tra lẫn nhau.
- Nhược điểm: Những cá nhân học sinh nào đó do học tập thụ động có thể sử
dụng những kết quả mà những học sinh khá thu được. Mặt khác, nó còn có thể
làm nẩy sinh mâu thuẫn giữa những yêu cầu của giáo viên và mức độ tích cực
của cá nhân học sinh riêng biệt, những yêu cầu do giáo viên nêu ra hoặc khó quá,
hoặc quá dễ so với trình độ của từng học sinh.
+ Dạng cá nhân: Là dạng mà mỗi học sinh độc lập hoàn thành nhiệm vụ học tập
theo trình độ và khả năng riêng của mình, không có sự tác động của bạn bè.
- Ưu điểm: Phù hợp với mức độ cao nhất những đặc điểm cá nhân học sinh về
trình độ nhận thức, tốc độ làm việc. Dạng này tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi cá
nhân phát huy hết tiềm năng của mình, rèn luyện năng lực nhận thức độc lập. Mặt
khác, đối với giáo viên về mặt giảng dạy có thể cá biệt hóa cao độ trong việc đưa ra

nhiệm vụ nhận thức, kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của học sinh.
- Nhược điểm: Dễ làm mất nhiều thời gian, đòi hỏi giáo viên mất nhiều công sức,
không có tác động qua lại, giúp đỡ lẫn nhau giữa các cá nhân học sinh.
Mỗi dạng tổ chức dạy học đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng. Thực tiễn
dạy học đã khẳng định rằng, muốn phát huy cao độ tác dụng của chúng, giáo
viên cần khéo léo sử dụng kết phối hợp các dạng tổ chức dạy học một cách hiệu
quả. Các dạng tổ chức dạy học này được thực hiện thông qua các hình thức dạy
học cụ thể [2].
* Các hình thức tổ chức dạy học ở trường phổ thông
Để thực hiện được những nhiệm vụ dạy học ở trường phổ thông, hoạt động
dạy học được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau. Đối với thực tiễn dạy học

14
ở nước ta, quá trình dạy học được thực hiện bởi nhiều hình thức, có thể kể đến
một số hình thức sau:
- Hình thức bài lên lớp (lớp – bài): Đây là hình thức dạy học phổ biến, là hình
thức giáo viên lên lớp trình bày nội dung kiến thức của một tiết, bài.
- Hình thức thảo luận tập thể: Thảo luận là hình thức cho học sinh trao đổi,
tranh luận về các vấn đề học tập để tự họ rút ra được các kết luận cần thiết.
- Hình thức tự học Với hình thức này, học sinh có thể làm được rất nhiều công
việc như học bài, làm bài, làm thí nghiệm, đọc sách tham khảo, chuẩn bị bài
mới…cách học theo phương pháp tự nghiên cứu.
- Hình thức hoạt động ngoại khóa (tham quan, thảo luận và xêmina…) Với hình
thức này, học sinh có thể tham quan học tập, tổ chức thảo luận theo chuyên đề, tổ chức
các buổi dạ hội…hình thức này còn ít được tiến hành tại các trường phổ thông [5].
1.1.2. Các nhiệm vụ cơ bản của dạy học Vật lí ở trường phổ thông
Căn cứ vào mục tiêu chung của hệ thống giáo dục quốc dân và đặc điểm riêng
của bộ môn Vật lí, việc dạy học vật lí ở trường phổ thông có các nhiệm vụ sau:
- Trang bị cho học sinh hệ thống những kiến thức phổ thông, cơ bản, ở mức độ
hiện đại, bao gồm: các hiện tượng vật lý, các khái niệm vật lý, các định luật vật lí

cơ bản, nội dung chính của các thuyết vật lí, các ứng dụng quan trọng nhất của
vật lý trong đời sống và trong sản xuất, các phương pháp nhận thức phổ biến
dùng trong vật lí.
- Phát triển tư duy khoa học ở học sinh: rèn luyện những thao tác, hành động,
phương pháp nhận thức cơ bản, nhằm chiếm lĩnh kiến thức vật lí, vận dụng sáng
tạo để giải quyết vấn đề trong học tập và hoạt động thực tiễn sau này.
- Trên cơ sở kiến thức vật lí vững chắc, có hệ thống, bồi dưỡng cho học sinh thế
giới quan duy vật biện chứng, giáo dục lòng yêu nước, thái độ đối với lao động,
đối với cộng đồng và những đức tính khác của người lao động.

15
- Góp phần giáo dục kỹ thuật tổng hợp và hướng nghiệp cho HS, làm cho học sinh
nắm được những nguyên lý cơ bản về cấu tạo và hoạt động của các máy móc dùng
phổ biến trong nền kinh tế quốc dân. Có kỹ năng sử dụng những dụng cụ vật lý, đặc
biệt là những dụng cụ đo lường, kỹ năng lắp ráp các thiết bị để thực hiện thí nghiệm
vật lí, vẽ biểu đồ, xử lý các số liệu đo đạc để rút ra kết luận. Những kiến thức, kỹ
năng đó giúp cho học sinh sau này nhanh chóng thích ứng được với lao động sản
xuất trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những nhiệm vụ trên
không thể tách rời nhau mà luôn luôn gắn liền với nhau, hỗ trợ lẫn nhau, góp phần
đào tạo ra những con người phát triển hài hòa, toàn diện [7].
1.1.3. Hoạt động ngoại khóa
1.1.3.1. Khái niệm hoạt động ngoại khóa
Hoạt động ngoại khóa là hoạt động được tổ chức ngoài giờ học các môn văn
hóa ở trên lớp, một trong những mảng hoạt động giáo dục quan trọng ở nhà trường
phổ thông. Hoạt động này có nghĩa hỗ trợ cho giáo dục nội khóa, góp phần phát
triển và hoàn thiện nhân cách, bồi dưỡng năng khiếu và tài năng sáng tạo của học
sinh. Nội dung ngoại khóa rất phong phú và đa dạng, nhờ đó các kiến thức tiếp thu
được trên lớp có cơ hội được áp dụng, mở rộng thêm trên thực tế, đồng thời có tác
dụng nâng cao hứng thú học tập nội khóa.
1.1.3.2. Vị trí của hoạt động ngoại khóa trong hệ thống các hình thức tổ chức

dạy học ở trường phổ thông
Nhà trường phổ thông có ba hình thức tổ chức đào tạo là: Dạy học trên lớp,
giáo dục lao động kỹ thuật tổng hợp và hướng nghiệp dạy nghề và công tác giáo
dục ngoài giờ lên lớp. Công tác giáo dục ngoài giờ lên lớp bao gồm các hoạt
động rộng rãi trong các lĩnh vực: Xã hội – chính trị, văn hóa – khoa học, nghệ
thuật, thể dục thể thao, quốc phòng. Công tác ngoại khóa nói chung, công tác

16
ngoại khóa vật lí nói riêng thuộc lĩnh vực thứ hai của công tác giáo dục ngoài giờ
lên lớp ở trường phổ thông [3].
1.1.3.3. Tác dụng của hoạt động ngoại khóa trong hệ thống các hình thức tổ
chức dạy học ở trường phổ thông
Để hoàn thành tốt mục tiêu giảng dạy của môn học, đặc biệt là mục tiêu
giảng dạy về rèn luyện năng lực sáng tạo và mục tiêu về thái độ tích cực trong
học tập của học sinh thì giáo viên vật lí cần phải phối hợp một cách khéo léo các
hoạt động học tập trong nội khóa và ngoại khóa cho học sinh. Hoạt động ngoại
khóa vật lí có tác dụng to lớn về cả ba mặt mục tiêu dạy học: giáo dưỡng, giáo
dục và giáo dục kỹ thuật tổng hợp. Để vận dụng có hiệu quả hình thức dạy học tổ
chức hoạt động ngoại khóa vật lí cho học sinh thì giáo viên cần phải hiểu rõ tác
dụng của hình thức dạy học này.
 Về giáo dục nhận thức: hoạt động ngoại khóa giúp học sinh củng cố, đào
sâu, mở rộng những tri thức đã học trên lớp, ngoài ra giúp học sinh vận dụng tri
thức đã học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn đời sống đặt ra theo phương
châm học đi đôi với hành, lí thuyết gắn liền với thực tiễn.
 Về rèn luyện kỹ năng: hoạt động ngoại khóa rèn luyện cho học sinh khả năng
tự quản, kỹ năng tổ chức, điều khiển, làm việc theo nhóm, ngoài ra còn góp phần
phát triển kỹ năng giao tiếp, giải quyết vấn đề, chế tạo dụng cụ và làm thí nghiệm,…
 Về giáo dục tinh thần thái độ: hoạt động ngoại khóa tạo hứng thú học tập,
khơi dậy lòng ham hiểu biết, lôi cuốn học sinh tự giác tham gia nhiệt tình các
hoạt động, phát huy tính tích cực, nỗ lực của học sinh [3].

 Về rèn luyện năng lực tư duy: hoạt động ngoại khóa có thể rèn luyện cho
học sinh các loại tư duy: Tư duy logic; Tư duy trừu tượng; Tư duy kinh nghiệm;
Tư duy phân tích; Tư duy tổng hợp; Tư duy sa
́
ng ta
̣
o.

17
1.1.3.4. Các đặc điểm của giờ học ngoại khóa
Hoạt động ngoại khóa nói chung và hoạt động ngoại khóa vật lí nói riêng có
những đặc điểm cơ bản sau:
- Việc tổ chức hoạt động ngoại khóa dựa trên tính tự nguyện tham gia của học sinh
và có sự hướng dẫn của giáo viên. Trên cơ sở đó, học sinh sẽ yêu thích công việc,
hoạt động tích cực, có hiệu quả và phát triển được năng lực của mình.
- Số lượng học sinh tham gia không hạn chế, có thể là theo nhóm nhưng cũng
có thể là tập thể đông người. Trong điều kiện cho phép có thể huy động học sinh
toàn trường tham gia, không phân biệt trình độ học sinh.
- Có kế hoạch cụ thể về mục đích, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức,
lịch hoạt động cụ thể và thời gian thực hiện.
- Kết quả hoạt động ngoại khóa của học sinh không không đánh giá bằng điểm
số như đánh giá kết quả học tập nội khóa.
- Việc đánh giá kết quả của hoạt động ngoại khóa vật lí thông qua tính tích cực,
sáng tạo của học sinh và sản phẩm của quá trình hoạt động. Ngoài ra, kết quả của
hoạt động ngoại khóa được đánh giá một cách công khai thông qua cả giáo viên và
học sinh. Để khích lệ quá trình hoạt động của học sinh thì cũng cần có sự khuyến
khích và phần thưởng động viên kịp thời cho các em.
- Nội dung và hình thức tổ chức hoạt động ngoại khóa phải đa dạng, phong phú,
mềm dẻo, hấp dẫn để lôi cuốn được nhiều học sinh tham gia [5].
1.1.4. Nội dung, hình thức tổ chức và phương pháp dạy học ngoại khóa vật lí

1.1.4.1. Nội dung ngoại khóa vật lí
Nội dung ngoại khóa phải bổ sung kiến thức cho nội khóa, củng cố, đào
sâu, mở rộng hợp lí các kiến thức trong chương trình vật lí, bổ sung những kiến
thức mà học sinh còn thiếu hụt hay mắc sai lầm khi học nội khóa. Nội dung
ngoại khóa vật lí ở trường phổ thông có thể gồm:

18
- Đào sâu nghiên cứu những kiến thức lí thuyết về vật lí và kĩ thuật.
- Nghiên cứu những lĩnh vực riêng biệt của vật lí học ứng dụng như kỹ thuật
điện, kỹ thuật vô tuyến, kỹ thuật chụp ảnh
- Nghiên cứu thiết kế, chế tạo và sử dụng các dụng cụ, làm thí nghiệm vật lí,
nghiên cứu những ứng dụng của vật lí trong cuộc sống.
Việc lựa chọn nội dung nào để tổ chức hoạt động ngoại khóa vật lí, giáo
viên phải dựa vào một số yếu tố, đó là:
- Vai trò của hoạt động ngoại khóa vật lí.
- Xuất phát từ đặc điểm nội dung kiến thức vật lí có tính trừu tượng, có nhiều
ứng dụng trong thực tiễn nhưng trong nội khóa chưa đáp ứng được do điều kiện
thời gian, phương tiện dạy học.
- Nội dung ngoại khóa phải hấp dẫn để thu hút được đông đảo học sinh tự
nguyện tham gia.
- Nếu kết hợp các nội dung để tổ chức ngoại khóa sẽ làm cho hoạt động phong
phú hơn và thu hút được nhiều học sinh tham gia hơn [3].
Căn cứ vào các hướng có thể tổ chức hoạt động ngoại khóa về vật lí như trên và
thực tế dạy học vật lí ở trường phổ thông hiện nay, chúng tôi lựa chọn nội dung
của đề tài chủ yếu là hoạt động thực nghiệm: thiết kế, chế tạo và sử dụng thiết bị
điện đơn giản. Và chúng tôi chọn nội dung kiến thức của phần “Điện học” trong
sách giáo khoa Vật lí lớp 11 trung học phổ thông để xây dựng nội dung cho hoạt
động ngoại khóa.
1.1.4.2. Các hình thức hoạt động ngoại khóa về vật lí
Việc phân chia các hình thức hoạt động ngoại khóa về vật lí chỉ mang tính

chất tương đối, có thể dựa trên các cơ sở khác nhau. Có thể phân ra các hình thức
hoạt động ngoại khóa về vật lí theo lượng học sinh tham gia, cũng có thể phân

19
theo nội dung ngoại khóa, cách thức tổ chức hoặc theo thời gian và địa điểm diễn
ra hoạt động ngoại khóa… Chẳng hạn:
 Dựa vào số lượng học sinh tham gia ngoại khóa, có: hoạt động ngoại khóa theo
các nhóm và hoạt động ngoại khóa có tính quần chúng rộng rãi. Cụ thể:
 Hoạt động ngoại khóa theo nhóm
Dựa trên tính chất đặc thù của bộ môn vật lí: các kiến thức vật lí không khó
nhưng biểu hiện khá phức tạp trong thực tế và các kiến thức được vận dụng rộng
rãi trong đời sống. Cho nên tổ chức ngoại khóa về vật lí nên lựa chọn nhiều nội
dung liên quan đến việc vận dụng kiến thức đã được học vào thực tiễn. Để hoạt
động ngoại khóa về vật lí thành công được thì hình thức tổ chức hoạt động ngoại
khóa theo nhóm là ưu việt nhất. Hình thức này vừa đảm bảo cho quá trình thiết
kế, chế tạo ra các sản phẩm một cách nhanh chóng, có chất lượng, vừa tạo điều
kiện cho học sinh tự học hỏi lẫn nhau và rèn luyện kĩ năng làm việc theo nhóm.
- Các nguyên tắc đảm bảo tổ chức tốt nhóm ngoại khóa vật lí:
+ Khi tổ chức nhóm ngoại khóa trước hết phải dựa trên tinh thần tự nguyện,
hứng thú của học sinh, học sinh phải được lựa chọn lĩnh vực kiến thức yêu thích
để thiết kế, chế tạo thí nghiệm. Điều này tạo cho học sinh tinh thần làm việc
thoải mải, từ đó họ thấy yêu thích công việc, nỗ lực hoàn thành công việc và phát
triển được tài năng.
+ Để nhóm ngoại khóa có thể tồn tại và hoạt động có hiệu quả thì nhất thiết phải
phát hiện và xây dựng được hạt nhân của nhóm. Hạt nhân của nhóm thường là
nhóm trưởng. Học sinh được chọn là hạt nhân của nhóm phải thích thú và có sự
nhiệt tình cao với đề tài mà nhóm theo đuổi, đồng thời cũng phải có khả năng
đoàn kết các thành viên trong nhóm học tập và lực học thuộc hạng khá vững vàng,
tuy nhiên nhóm trưởng không nhất thiết là thành viên giỏi nhất trong nhóm.


20
+ Yếu tố mới và tính vừa sức của đề tài đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì
và phát triển sự hứng thú và tích cực của nhóm. Với nguyên tắc này, nội dung hoạt
động ngoại khóa phải mới ít nhiều so với nội khóa, không đơn thuần là những thí
nghiệm kiểm nghiệm lại kiến thức hoặc áp dụng dưới dạng quá đơn giản các kiến
thức đã học. Giáo viên cần phải xác định được nội dung thích hợp, vừa sức với
học sinh và khéo léo tổ chức sao cho từng bước học sinh thu được kết quả đều
đặn, kể cả ở giai đoạn đầu để động viên kịp thời. Để đạt được điều đó, khi tổ chức
nhóm ngoại khóa giáo viên cần phải dự kiến được những khó khăn mà học sinh có
thể gặp phải, lên phương án giúp đỡ và tạo điều kiện về thời gian, tài liệu, nguyên
vật liệu…cho nhóm học sinh.
+ Phải đảm bảo tính nghiêm túc, nhẹ nhàng, tránh nặng nề, nhưng cũng tránh tùy
tiện trong quá trình nhóm hoạt động. Để đảm bảo nguyên tắc này, nhóm ngoại
khóa cần có lịch làm việc cụ thể về thời gian cũng như tiến độ công việc, tránh
tình trạng “đầu voi, đuôi chuột”. Kiên quyết không để kế hoạch bị phá sản chừng
nào không bị những nguyên nhân khách quan chi phối. Như vậy thì quá trình hoạt
động mới có ý nghĩa và đảm bảo uy tín của giáo viên.
- Nội dung của nhóm ngoại khóa: tùy theo nội dung hoạt động của nhóm ngoại
khóa có thể phân loại thành: Nhóm “Vật lí lý thuyết”, nhóm “Chế tạo dụng cụ thí
nghiệm vật lí”, nhóm “Vật lí kĩ thuật”.
+ Nhóm “Vật lí lý thuyết”
Nhóm này đi sâu vào tìm hiểu và sưu tầm các tài liệu xoay quanh vấn đề đang
học hoặc các vấn đề đang được quan tâm nhằm giúp cho các thành viên trong lớp
hiểu sâu hơn kiến thức được học. Đồng thời nghiên cứu, giải thích các hiện tượng
mà trong hoàn cảnh hạn chế của thời gian trên lớp mà giáo viên không thể đi sâu
được. Khi tham gia nhóm ngoại khóa này, học sinh có thể sưu tầm những bài vật lí
hay rồi tiến hành thảo luận để tìm ra phương pháp giải hay, ngắn gọn; cũng có thể

21
nhiệm vụ của nhóm là tìm hiểu lịch sử phát sinh và phát triển của một lĩnh vực của

vật lí, kĩ thuật hoặc học sinh tìm hiểu tiểu sử của các nhà bác học vật lí v.v…
Nhóm có thể phụ trách công việc ra báo tường hoặc tập san vật lí của trường, nội
dung hoạt động của nhóm ngoại khóa này phải mới so với nội khóa, không đơn
thuần là sưu tập các thông tin đã có trong sách giáo khoa hoặc sách bài tập. Trong
quá trình thực hiện đề tài, giáo viên cần lưu ý tới sự hứng thú của học sinh theo
hướng tìm hiểu, nghiên cứu mà các em đã chọn để đảm bảo cho đề tài được thành
công, đúng tiến độ và cung cấp được những sản phẩm có chất lượng.
+ Nhóm “Chế tạo dụng cụ thí nghiệm vật lí”: do đặc thù của môn học cho nên
hình thức nhóm ngoại khóa “Chế tạo dụng cụ thí nghiệm vật lí” là phổ biến nhất
trong công tác ngoại khóa vật lí. Tại các trường phổ thông hiện nay đã được
trang bị các dụng cụ thí nghiệm phục vụ cho giờ học thực hành của học sinh.
Tuy nhiên, số lượng các thí nghiệm còn hạn chế, đặc biệt là các thí nghiệm có
liên quan đến các ứng dụng vật lí của kĩ thuật. Để có thể phát huy tính tích cực
của học sinh và phát triển được năng lực sáng tạo của các em thì việc phải chế
tạo thêm các dụng cụ thí nghiệm là rất cần thiết. Do vậy công tác ngoại khóa tổ
chức cho học sinh tham gia chế tạo các dụng cụ thí nghiệm là rất phù hợp. Tổ
chức được tốt hình thức ngoại khóa với nội dung như vậy vừa giúp học sinh trực
tiếp tham gia chế tạo dụng cụ có thể hiểu sâu hơn kiến thức được học, thấy được
ứng dụng của kiến thức trong thực tế, đồng thời cũng khiến cho các em thấy
hứng thú và tích cực hơn trong học tập, đồng thời vừa có thể bổ sung thêm các
dụng cụ thí nghiệm còn thiếu cho nhà trường, giúp cho việc giảng dạy các khóa
sau được thuận lợi. Trong trường hợp như vậy, giáo viên cũng cần phải góp ý để
các em chế tạo được những dụng cụ thí nghiệm đẹp, bền và có thể sử dụng được
lâu dài. Tuy nhiên trong quá trình học sinh chế tạo dụng cụ, giáo viên cũng cần
làm cho các em hiểu rõ nguyên tắc cấu tạo cũng như hoạt động của các dụng cụ

22
thí nghiệm, chứ không phải các em chỉ cần chế tạo các dụng cụ theo mẫu có sẵn
mà không hiểu bản chất và ý nghĩa của các dụng cụ. Như vậy thì công tác ngoại
khóa mới có ý nghĩa giáo dục và thực tiễn mạnh mẽ. Giáo viên cũng cần lưu giữ

các hình ảnh hoạt động và sản phẩm của nhóm trong phòng thí nghiệm của nhà
trường để giáo dục và làm gương cho các thế hệ sau. Trong quá trình hoạt động
ngoại khóa, giáo viên cũng cần dạy cho các em biết cách sử dụng các công cụ,
hiểu tính năng và cách gia công các vật liệu khác nhau như sắt, gỗ, bìa cứng,
dung dịch hoá học, dây dẫn bằng kim loại,… Giáo viên cũng có thể nhờ phụ
huynh hoặc chuyên gia đến hướng dẫn cho các em trong nhóm.
- Nhóm “Vật lí kĩ thuật”
Hình thức hoạt động ngoại khóa với nội dung liên quan đến các ứng dụng của
vật lí trong kĩ thuật cũng được nhiều học sinh tham gia, dễ hứng thú, đồng thời
có tác dụng giáo dục kĩ thuật khá trực tiếp do đó cần phải được đề cao và khuyến
khích. Nhóm ngoại khóa này có thể hoạt động theo nhiều hướng, với tên gọi
phong phú và hấp dẫn. Những nhóm ngoại khóa này mang nhiều tính chất thực
hành chuyên môn hơn nhóm “Chế tạo dụng cụ thí nghiệm vật lí” nhưng hoạt
động của nhóm vẫn phải gắn liền với hai mặt lí thuyết và thực hành. Do vậy giáo
viên cần phải bổ sung thêm cả kiến thức lý thuyết và thực hành cho học sinh. Khi
tổ chức hình thức ngoại khóa này, giáo viên nên tổ chức những nhóm phục vụ yêu
cầu của nền sản suất ở địa phương và nên phối hợp với những chuyên gia ở đó để
có sự giúp đỡ về kĩ thuật cũng như kinh nghiệm. Các nhóm ngoại khóa “Vật lí kĩ
thuật” này nếu làm tốt vai trò của mình sẽ trở thành nòng cốt trong việc liên hệ bài
học vật lí với thực tế kĩ thuật, nhóm này có vai trò tốt trong việc giúp cho các học
sinh khác hiểu rõ hơn vai trò và biểu hiện của các kiến thức vật lí trong đời sống.
 Hoạt động ngoại khóa có tính chất quần chúng rộng rãi

23
Các hoạt động ngoại khóa vật lí thu hút nhiều người tham gia, như: Hội vui vật
lí; triển lãm vật lí; báo tường về vật lí… Hoạt động ngoại khóa này thường là kết
quả của quá trình hoạt động của nhóm vật lí. Các hoạt động ngoại khóa này nếu
được chuẩn bị chu đáo và tổ chức một cách hấp dẫn thì có tác dụng rất lớn trong
việc nâng cao lòng yêu thích nghiên cứu và học hỏi của học sinh.
+ Hội vui vật lí

Hội vui là một hình thức ngoại khóa dễ phổ biến, lôi cuốn được đông đảo học
sinh tham gia, tạo ra được khí thế trong học tập và nghiên cứu. Hội vui có thể tổ
chức theo từng chuyên đề hoặc theo khối lớp. Chẳng hạn: hội vui cơ học; hội vui
về nhiệt học; hội vui về điện học; hội vui về quang học… Hội vui có nội dung
chính là các trò chơi hoặc các câu hỏi rèn luyện trí tuệ, như: trò chơi hái hoa dân
chủ; thi khéo tay; thi giải đáp các câu hỏi trí tuệ Thời gian tổ chức hội vui
không nên kéo dài để đảm bảo cho hội vui vừa truyền tải hết nội dung cần thiết
vừa không gây ảnh hưởng đến sức khỏe và sự đi lại của học sinh. Để cho hội vui
thành công, đáp ứng được yêu cầu đã đề ra của chủ hội thì cần phải chuẩn bị nội
dung sao cho hợp lí, phong phú, hấp dẫn và có phần thưởng khuyến khích cho
người thắng cuộc khi tham gia trò chơi. Đối với những trò chơi có liên quan đến
máy móc thì cần phải kiểm tra kĩ lưỡng trước khi tổ chức hội vui và phải có dự trù
thời gian và dụng cụ cho những trò chơi này.
+ Triển lãm về vật lí
Triển lãm về vật lí ở trường phổ thông có thể tổ chức nhân ngày lễ của trường
hoặc dịp tổng kết một kì học hoặc cuối năm học. Mục đích của triển lãm về vật lí
là để nói lên thành tựu hoạt động học tập và nghiên cứu về vật lí của một khối
lớp hoặc của toàn trường. Để cho triển lãm thành công thì nội dung triển lãm
phải phong phú; trình bày đẹp, khoa học và hấp dẫn. Nội dung triển lãm có thể
gồm: dụng cụ, mô hình vật lí mà học sinh chế tạo được; mẫu vật sưu tầm được;

24
đồ dùng phục vụ cho việc dạy học; biểu diễn thí nghiệm vật lí có liên quan đến
kiến thức vật lí phổ thông mà học sinh đã được học. Triển lãm có thể tổ chức kết
hợp với hội vui vật lí hoặc tiến hành cùng với các bộ môn khác như toán, hóa,
sinh, công nghệ…
+ Báo tường về vật lí
Đây là một hình thức hoạt động ngoại khóa khá hấp dẫn, dễ tổ chức, lôi cuốn
được đông đảo học sinh tham gia, không phân biệt trình độ học sinh nhiều. Hình
thức hoạt động ngoại khóa này có tác dụng tốt trong việc thúc đẩy học sinh sưu tầm,

đọc các sách báo hoặc giải các bài toán hay về vật lí. Báo tường về vật lí cũng là
một hoạt động để giáo viên hoặc các thành viên tích cực trong lớp công bố các bài
toán hay mà không có điều kiện hoặc không cần thiết phải trình bày trên lớp.
 Dựa vào cách thức tổ chức cho học sinh tham gia ngoại khóa, có:
- Tham quan các công trình kỹ thuật ứng dụng vật lí: là một hình thức tổ chức dạy
học trong thực tế, quan sát trực tiếp của học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên và
cơ sở tham quan nhằm nghiên cứu sự vật, hiện tượng, qui trình cần tìm hiểu trong
nội dung dạy học. Hình thức tham quan ngoại khóa có thể được tổ chức trước, trong
và sau khi học một kiến thức nào đó. Nếu tiến hành tham gia trước khi học một kiến
thức mới, ta gọi là tham quan chuẩn bị. Mục đích của tham quan chuẩn bị là giúp học
sinh tích lũy những hiểu biết cần thiết để lĩnh hội tri thức mới dễ dàng và hứng thú.
Nếu tiến hành tham quan trong quá trình học thì được gọi là tham quan bổ sung. Mục
đích của nó là nhằm minh họa, làm rõ vấn đề, kiến thức vừa mới được học. Nếu tiến
hành tham quan sau khi học thì gọi là tham quan tổng kết với mục đích là để củng cố,
đào sâu kiến thức đã học. Tham quan ngoại khóa vật lí có tác dụng:
+ Mở rộng, nâng cao hiểu biết, bồi dưỡng phương pháp nhận thức như quan sát, phân
tích, tổng hợp những tư liệu cụ thể đã thu thập được trong quá trình tham quan.

25
+ Nâng cao hứng thú học tập, phát triển óc quan sát, tính tò mò khoa học, giáo dục tư
tưởng, tình cảm cho học sinh, đảm bảo dạy học gắn liền với lao động, sản xuất [3].
- Câu lạc bộ vật lí là nơi tập trung những cá nhân có cùng sở thích, nhu cầu,
nguyện vọng, cùng nhau hoạt động để đạt được mục đích nào đó. Hoạt động câu
lạc bộ vật lí ở trường học là một loại hình hoạt động ngoài giờ lên lớp, là môi
trường tốt nhất để các cá nhân yêu thích vật lí có dịp học tập, sinh hoạt, rèn
luyện, vui chơi giải trí với các kiến thức vật lí trên tinh thần tự nguyện, nhằm
phát huy năng lực bản thân, trang bị cho các em những kỹ năng cần thiết để vận
dụng vào thực tiễn đời sống xã hội [9].
- Hội vui vật lí: Hội vui là nơi để mỗi cá nhân hoặc tập thể thể hiện khả năng của
mình, khẳng định thành tích, kết quả của quá trình tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu

trong học tập. Qui mô, đối tượng tham gia, cách thức tổ chức hội vui phụ thuộc
vào mục đích, yêu cầu, ý nghĩa, tính chất và nội dung của hội vui. Thông qua tổ
chức hội vui vật lí:
+ Bồi dưỡng cho học sinh động cơ học tập tích cực, kích thích hứng thú đối với
các lĩnh vực của vật lí.
+ Phát hiện, bồi dưỡng các em có năng khiếu, phát huy tính sáng tạo, độc lập suy nghĩ.
+ Bồi dưỡng và phát huy tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau vượt qua khó khăn. Hình
thành, phát triển khả năng hoạt động tích cực và tương tác của học sinh [3].
 Dựa vào cách thức tham gia hoạt động ngoại khóa của học sinh, có:
+ Học sinh đọc sách báo về vật lí và kĩ thuật: hình thức này có thể tổ chức trong
một lớp học. Giáo viên tạo điều kiện cho các em trình bày những thông tin mà các
em đã đọc về các lĩnh vực vật lí nhằm mục đích cung cấp thông tin, mở rộng hiểu
biết cho các học sinh còn lại trong lớp học.
+ Học sinh tổ chức các buổi báo cáo và dạ hội về các vấn đề vật lí – kĩ thuật, học
sinh có thể nghiên cứu thêm về một số kiến thức còn khó hiểu, trừu tượng mà giờ

26
học nội khóa không có thời gian để tìm hiểu. Bên cạnh đó, học sinh có thể tự tạo
thí nghiệm để minh họa thêm; học sinh biểu diễn thí nghiệm hoặc giới thiệu sản
phẩm vật lí chế tạo được…
+ Học sinh tổ chức triển lãm, giới thiệu những kết quả tự học, tự nghiên cứu, chế
tạo hoặc làm báo tường hoặc tập san về vật lí – kĩ thuật.
+ Tham gia thiết kế, chế tạo và sử dụng các dụng cụ vật lí, các mô hình kỹ thuật:
hình thức này thu hút được nhiều học sinh tham gia vì học sinh lứa tuổi này rất
thích tự thể hiện mình và thích khám phá những điều mới lạ so với những kiến
thức thuần túy trong giờ học nội khóa.
+ Luyện tập giải các bài tập vật lí: vì thời lượng giải toán vật lí không nhiều, do đó
giáo viên không có thời gian hướng dẫn cho học sinh những phương pháp hay
hoặc bài toán hay mà chỉ tập trung giới thiệu những bài toán cơ bản để củng cố lí
thuyết. Chính vì thế, việc tổ chức cho học sinh giải bài tập vật lí là hình thức rất

hay, giúp học sinh tìm tòi phương pháp giải toán mới và đưa ra một số bài toán lạ.
Hoạt động này rất thiết thực góp phần làm tăng hiệu quả học tập rất rõ và dễ lôi
cuốn học sinh tham gia. Tuy nhiên, việc tổ chức cũng gặp nhiều khó khăn về thời
gian và địa điểm.
Trên cơ sở nghiên cứu về các nội dung, hình thức của hoạt động ngoại khóa về
vật lí và mục đích của đề tài, chúng tôi đã lựa chọn hướng nội dung hoạt động ngoại
khóa là hoạt động thực nghiệm: tổ chức và hướng dẫn học sinh thiết kế, chế tạo và
sử dụng các thiết bị điện từ những vật liệu rẻ tiền, dễ kiếm, đơn giản. Với hướng nội
dung đó, chúng tôi cũng lựa chọn hình thức tổ chức hoạt động ngoại khóa cơ bản là
học sinh hoạt động theo nhóm. Ngoài ra để hoạt động ngoại khóa của học sinh có ý
nghĩa và tăng sự hứng thú của học sinh hơn, chúng tôi có tổ chức một buổi để cho
các nhóm học sinh báo cáo sản phẩm và kết hợp với hội vui vật lí.
1.1.4.3. Phương pháp dạy học bằng hoạt động ngoại khóa vật lí

27
Phương pháp dạy học hoạt động ngoại khóa vật lí thường có tính mềm dẻo,
không cứng nhắc, phụ thuộc vào nội dung của hoạt động ngoại khóa và trình độ
của giáo viên cũng như học sinh. Cũng như trong dạy học nội khóa, trong dạy
học ngoại khóa việc hướng dẫn của giáo viên cũng theo các kiểu định hướng:
định hướng tìm tòi, định hướng khái quát chương trình hóa, định hướng tái tạo.
Theo chúng tôi, vận dụng các phương pháp này vào dạy học hoạt động ngoại
khóa có thể tuân theo các bước như sau: Ban đầu giáo viên định hướng học sinh
tìm tòi, tự tìm ra các kiến thức hoặc cách thức cần áp dụng để giải quyết vấn đề.
Nếu học sinh không đáp ứng được yêu cầu đó thì giáo viên tổ chức định hướng
khái quát chương trình hoá, gợi ý thêm cho học sinh. Nếu như học sinh vẫn
không thực hiện được nhiệm vụ thì giáo viên chuyển dần sang kiểu định hướng
tái tạo angôrít.
- Định hướng tìm tòi
Là kiểu hướng dẫn mà người dạy không chỉ ra cho học sinh một cách tường
minh các kiến thức và cách thức hoạt động cần áp dụng, mà người dạy chỉ đưa ra

những gợi ý mang tính tổng quát để học sinh có thể tự tìm tòi, huy động hoặc
xây dựng những kiến thức và cách thức hoạt động thích hợp để giải quyết nhiệm
vụ mà họ đảm nhận, tức là đòi hỏi học sinh phải tự xác định được kế hoạch hành
động thích hợp trong tình huống đang xét. Sự định hướng tìm tòi có thể phân biệt
hai trình độ khác nhau đối với hành động đòi hỏi ở học sinh. Đó là:
+ Định hướng tìm tòi áp dụng các cách thức hành động theo các mẫu đã biết, ở
mức độ này, giáo viên yêu cầu học sinh tự huy động, lựa chọn cách thức hoạt động
theo các mẫu đã biết để chuyển tải áp dụng vào tình huống đang xét.
+ Định hướng tìm tòi sáng tạo: Giáo viên yêu cầu học sinh tự nghĩ ra cách thức
hoạt động giải quyết vấn đề, không phải là theo một mẫu có sẵn.
- Định hướng khái quát chương trình hóa

28
Đó là kiểu hướng dẫn trong đó người dạy cũng gợi ý cho học sinh tự tìm tòi
như kiểu định hướng tìm tòi nói trên, nhưng giúp cho học sinh ý thức được lối
khái quát của việc tìm tòi giải quyết vấn đề và sự định hướng được chương trình
hóa theo các bước dự định hợp lí, theo các yêu cầu từ cao đến thấp đối với học
sinh: từ tổng quát, tổng thể, toàn bộ đến riêng biệt, chi tiết, bộ phận sao cho thực
hiện được một cách có hiệu quả các yêu cầu. Người dạy phải thực hiện từng
bước việc hướng dẫn học sinh tự lực giải quyết nhiệm vụ mà họ đảm nhận. Sự
định hướng ban đầu đòi hỏi học sinh tự lực tìm tòi giải quyết vấn đề. Nếu học
sinh không đáp ứng được thì sự giúp đỡ tiếp theo của giáo viên là sự phát triển
định hướng khái quát ban đầu (gợi ý thêm, cụ thể hóa, chi tiết hóa thêm một
bước) để thu hẹp hơn phạm vi, mức độ phải tìm tòi giải quyết cho vừa sức với
học sinh. Nếu học sinh vẫn không đáp ứng được thì sự hướng dẫn của giáo viên
chuyển dần sang kiểu định hướng tái tạo, mà trước tiên là kiểu định hướng
angôrít (hướng dẫn trình tự các hành động, thao tác hợp lí) để theo đó học sinh tự
giải quyết vấn đề đã đặt ra. Nếu học sinh vẫn không đáp ứng được thì mới thực
hiện sự hướng dẫn tái tạo đối với mỗi hành động, thao tác cụ thể riêng biệt của
trình tự hành động, thao tác đó.

- Định hướng tái tạo
Đó là kiểu định hướng trong đó giáo viên hướng học sinh vào việc huy
động, áp dụng những kiến thức, cách thức hoạt động học sinh đã nắm được hoặc
đã được giáo viên chỉ ra một cách tường minh, để học sinh có thể thực hiện được
nhiệm vụ mà họ đảm nhận. Nghĩa là học sinh chỉ cần tái tạo những hành động đã
được giáo viên chỉ rõ hoặc những hành động trong các tình huống đã quen thuộc
đối với học sinh. Sự định hướng tái tạo có thể phân biệt hai trình độ khác nhau
đối với hành động đòi hỏi ở học sinh. Đó là:

×