Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

2 một số điểm mới của luật doanh nghiệp năm 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.49 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 2
CHƯƠNG I: NHỮNG NỘI DUNG THỂ HIỆN ĐIỂM MỚI CƠ
BẢN CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2005
4
1. Luật Doanh nghiệp với tư cách là luật chung cho các loại hình
doanh nghiệp
4
2. Các quy định về đăng ký kinh doanh 4
3. Các quy định về điều lệ công ty 5
4. Các quy định về nhóm công ty 5
5. Các quy định về công ty hợp danh 5
6. Các quy định về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên 6
7. Các quy định về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên
trở lên
6
8. Các quy định về công ty cổ phần 7
9. Các quy định về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 8
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ VỀ NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT
DN 2005
9
1. Những mặt tích cực đạt được 9
2. Những bất cập còn tồn tại 11
Kết luận 18
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1
Việc ban hành Luật Doanh nghiệp năm 2005 là một bước phát triển mới
trong pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam, là sự tiếp tục của Luật doanh
nghiệp năm 1999 và các đạo luật quan trọng khác về doanh nghiệp. Với sự ra


đời của Luật Doanh nghiệp năm 2005,các doanh nghiệp Việt Nam đã có được
một công cụ pháp lý quan trọng để vận hành và phát triển bình đẳng trong
điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
Luật Doanh nghiệp năm 2005 ra đời đánh dấu một sự thay đổi lớn trong
pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam, đồng thời phản ánh được tư tưởng và
mục tiêu nổi bật của luật Doanh nghiệp năm 2005 là hình thành một khung
pháp lý chung, bình đẳng áp dụng thống nhất cho mọi loại hình doanh nghiệp.
Đây là lần đầu tiên nước ta ban hành một văn bản pháp luật chung điều chỉnh
thống nhất tất cả các loại hình doanh nghiệp. Với việc ban hành Luật Doanh
nghiệp năm 2005, các doanh nghiệp Việt Nam đã có điều kiện để hoạt động
bình đẳng trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Sự ra
đời của Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng đáp ứng được yêu cầu đối xử bình
đẳng giữa các doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Một số điểm mới của Luật doanh
nghiệp năm 2005” sẽ giúp cho chúng ta thấy được tính tiến bộ của Luật
doanh nghiệp nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm giúp chúng ta nhìn nhận được một
số điểm mới tiến bộ của Luật doanh nghiệp năm 2005, đánh giá những mặt
tích cực và nhìn nhận một số bất cập còn tồn tại của Luật doanh nghiệp năm
2005 để làm cơ sở hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật của Việt Nam.
3. Kết cầu của đề tài
Trong khuôn khổ của bài viết, ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung
chính của đề tài gồm 02 phần
2
Chương I: Những nội dung thể hiện điểm mới cơ bản của Luật doanh
nghiệp năm 2005
Chương II: Đánh giá về những điểm mới của Luật doanh nghiệp năm
2005
CHƯƠNG I: NHỮNG NỘI DUNG THỂ HIỆN ĐIỂM MỚI CƠ BẢN CỦA

LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2005
1. Luật Doanh nghiệp với tư cách là luật chung cho các loại hình doanh
nghiệp
3
Luật Doanh nghiệp năm 2005 thay thế cho Luật Doanh nghiệp năm
1999, Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 2003, các quy định về tổ chức quản
lý và hoạt động của doanh nghiệp tại Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
năm 2000. Sự ra đời của Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã tạo lập môi trường
pháp lý chung cho hoạt động của các doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam.
2. Các quy định về đăng ký kinh doanh
Khác với Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp năm 2005
đã có những quy định cụ thể về từng loại hồ sơ đăng ký kinh doanh của doanh
nghiệp. Thay cho việc có Đơn đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp
năm 1999, Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã quy định về Giấy đề nghị đăng
ký kinh doanh, Luật năm 2005 cũng có những quy định cụ thể về hồ sơ đăng
ký kinh doanh của từng loại hình doanh nghiệp bao gồm hồ sơ đăng ký kinh
doanh đối với doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm
hữu hạn và công ty cổ phần. Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng đã quy định
cụ thể về tên của doanh nghiệp, trong đó có cách đặt tên cho doanh nghiệp,
những trường hợp cấm về cách đặt tên doanh nghiệp, đặt tên doanh nghiệp
trong trường hợp tên doanh nghiệp viết bằng tiếng nước ngoài, tên viết tắt của
doanh nghiệp và những trường hợp tên trùng và tên gây nhầm lẫn. Một điểm
mới khác của luật Doanh nghiệp năm 2005 theo hướng là luật chung cho các
loại hình doanh nghiệp, là gắn thủ tục đăng ký kinh doanh với thủ tục đăng ký
đầu tư. Điều này xuất phát từ quan điểm đổi mới, đơn giản hoá tối đa các thủ
tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp gia nhập thị
trường và thực hiện các hoạt động đầu tư. Hồ sơ, trình tự, thủ tục, điều kiện
và nội dung đăng ký kinh doanh, đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài lần đầu
tiên đầu tư vào Việt Nam được thực hiện theo quy định của Luật Doanh
nghiệp năm 2005 và pháp luật về đầu tư. Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là

Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
3. Các quy định về điều lệ công ty
So với Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã
có nét đột phá khi đi theo hướng chỉ quy định những vấn đề cơ bản, có tính
4
nguyên tắc về nhiều nội dung trong quản trị nội bộ doanh nghiệp, cho phép
Điều lệ công ty quy địn thêm những vấn đề cụ thể để đáp ứng yêu cầu điều
hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có quyền
quy định trong Điều lệ của mình các quan hệ ứng xử nội bộ và cách thức quản
lý, điều hành cụ thể trong hoạt động nội bộ của doanh nghiệp. Mối quan hệ
giữa các quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005 với các yêu cầu của quản
trị doanh nghiệp ghi trong Điều lệ công ty được thể hiện trong nhiều điều
khoản của Luật này. Cách quy định này của Luật Doanh nghiệp năm 2005
nhằm hình thành khung quản trị nội bộ tiên tiến của doanh nghiệp.
4. Các quy định về nhóm công ty
Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã lần đầu tiên nêu lên khái niệm nhóm
công ty, theo đó nhóm công ty là tập hợp các công ty có mối quan hệ gắn bó
lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ thị trường và các dịch vụ kinh
doanh khác. Nhóm công ty bao gồm các hình thức: công ty mẹ-công ty con.
Tập đoàn kinh tế và các hình thức khác. Tập đoàn kinh tế là nhóm công ty có
quy mô lớn. Đạo luật cũng đã làm rõ quyền và trách nhiệm của công ty mẹ
đối với công ty con, quy định cụ thể về báo cáo tài chính của công ty mẹ và
công ty con. Đây là một bước phát triểm mới của pháp luật doanh nghiệp Việt
Nam trong việc tạo ra cơ sở pháp lý để hình thành các tập đoàn kinh tế lớn có
khả năng cạnh ranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
5. Các quy định về công ty hợp danh
Điểm mới nổi bật của Luật Doanh nghiệp năm 2005 về công ty hợp
danh là Luật đã thừa nhận tư cách pháp nhân của loại hình công ty này. Đây
là một quy định mới so với quy định của Luật Doanh nghiệp năm 1999. Luật
Doanh nghiệp năm 2005 cũng đã quy định cụ thể hơn về Hội đồng thành viên

và điều hành kinh doanh của công ty hợp danh.
6. Các quy định về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
Điểm mới nổi bật của Luật Doanh nghiệp năm 2005 về công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên là Luật cho phép một cá nhân có thể thành lập
5
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và đã đưa ra quy định về cơ cấu
tổ chức quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là cá nhân. Đạo
luật cũng đã đưa ra những quy định cụ thể về người đại diện theo pháp luật
của công ty. Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty theo quy định tại Điều lệ
công ty. Người đại diện theo pháp luật của công ty phải thường trú tại Việt
Nam, trường hợp vắng mặt ở Việt Nam trên 30 ngày thì phải uỷ quyền bằng
văn bản cho người khác làm người đại diện theo pháp luật của công ty theo
nguyên tắc quy định tại Điều lệ công ty.
7. Các quy định về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã đưa ra quy định cụ thể khác biệt và cụ
thể hơn so với Luật Doanh nghiệp năm 1999 về người đại diện theo pháp luật
đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, theo đó Chủ tịch
Hội đồng thành viên hoặc Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc là người đại diện
theo pháp luật của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty. Người đại diện
theo pháp luật của công ty phải thường trú tại Việt Nam, trường hợp vắng mặt
ở Việt Nam trên 30 ngày thì phải uỷ quyền bằng văn bản cho người khác theo
quy định tại Điều lệ công ty để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại
diện theo pháp luật của công ty.
Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã đưa ra quy định về người đại diện theo
uỷ quyền. Đây là quy định mới so với Luật Doanh nghiệp năm 1999. Theo
quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005, việc chỉ định người đại diện theo
uỷ quyền phải bằng văn bản, được thông báo đến công ty và cơ quan đăng ký
kinh doanh trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày chỉ định.
8. Các quy định về công ty cổ phần

Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã có quy định mới về nhiệm kỳ của Hội
đồng quản trị. Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, nhiệm kỳ của Hội đồng
quản trị là năm năm, nhiệm kỳ của thành viên Hội đồng quản trị không quá
năm năm. Thành viên Hội đồng quản trị có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ
6
không hạn chế. Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng có những quy định khác
biệt so với Luật Doanh nghiệp năm 1999 về việc thông qua quyết định của
Đại hội đồng cổ đông. Theo Luật mới, quyết định của Đại hội đồng cổ đông
được thông qua tại cuộc họp khi có đủ một trong các điều kiện:
(1)được số cổ đông đại diện ít nhất 65% tổng số phiếu biểu quyết của tất
cả cổ đông dự họp chấp thuận; tỷ lệ cụ thể do điều lệ công ty quy đinh;
(2) Đối với quyết định về loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại
được quyền chào bán, sửa đổi, bổ sung theo Điều lệ công ty; tổ chức lại, giải
thể công ty, đầu tư hoặc bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá
trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty nếu Điều lệ
công ty không có quy định khác thì phải được ít nhất 75% tổng số phiếu biểu
quyết của tất cả số cổ động dự họp chấp thuận; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty
quy định;
(3) Việc biểu quyết bầu thành viên Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát
phải thực hiện theo phương thức bầu dồn phiếu, theo đó mỗi cổ đông có tổng
số phiếu biểu quyết tương ưúng với tổng số cổ phần sở hữu nhân với số thành
viên được bầu của Hội đồng quản trị hoặc Ban kiểm soát và cổ đông có quyền
dồn hết tổng số phiếu bầu của mình cho một hoặc một số ứng cử viên;
(4) Các quyết định được thông qua tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông
với số cổ đông trực tiếp và uỷ quyền tham dự đại diện 100% tổng số cổ phần
có quyền biểu quyết là hợp pháp và có hiệu lực ngay cả khi trình tự và thủ tục
triệu tập, nội dung chương trình họp và thể thức tiến hành họp không được
thực hiện đúng quy đinh;
(5)Trường hợp thông qua quyết định dưới hình thức lấy ý kiến bằng văn
bản thì quyết định của Đại hội đồng cổ đông đại diện ít nhất 75% tổng số

phiếu biểu quyết chấp thuận; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định.
9. Các quy định về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Xác định cụ thể thời hạn (chậm nhất là bốn năm) kết thúc quá trình
chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty
7
cổ phần, tổ chức quản lý và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp.
Việc xác định thời hạn 4 năm xuất phát từ yêu cầu đẩy nhanh quá trình sắp
xếp, tổ chức lại và nâng cao hiệu quả quản lý doanh nghiệp nhà nước, yêu cầu
tạo lập môi trường kinh doanh bình thường, không phân biệt đối xử giữa các
doanh nghiệp theo thành phần kinh tế, đồng thời, đã tính đến các điều kiện,
các vấn đề cần phải xử lý trong quá trình chuyển đổi.
Như vậy, lộ trình chuyển đổi DNNN đã được luật hoá, theo đó các quy
định hiện hành về DNNN sẽ chỉ được áp dụng trong khoảng thời gian 4 năm,
kể từ ngày Luật doanh nghiệp 2005 có hiệu lực. Sau thời gian này, các doanh
nghiệp không kể thành phần kinh tế đều hoạt động trong một hành lang pháp
lý chung về doanh nghiệp và đầu tư.
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ VỀ NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT DN 2005
1. Những mặt tích cực đạt được
Từ 1-7-2006, Luật Doanh nghiệp 1999 được thay thế bằng Luật Doanh
nghiệp 2005. Đây là một cải cách cơ bản trong hệ thống pháp luật về doanh
nghiệp, cả nội dung, tính thống nhất, chặt chẽ dựa trên những thành công đã
được thừa nhận của Luật Doanh nghiệp năm 1999.
8
Qua hơn 6 năm thực hiện Luật Doanh nghiệp năm 1999 đã có tác động
tích cực loại bỏ những cản trở, trở thành nền tảng quan trọng đối với sự phát
triển của khu vực kinh tế tư nhân. Người dân được quyền tự do kinh doanh
những gì luật pháp không cấm, góp phần giải phóng, phát triển sức sản xuất
và tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy mạnh mẽ việc hình thành và hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, đồng thời góp phần đổi
mới cơ bản phương thức và công cụ quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp.

Luật Doanh nghiệp năm 1999 thay thế Luật Công ty và Luật Doanh
nghiệp tư nhân đã khơi dậy tư duy sáng tạo về ý tưởng kinh doanh, tạo ra sự
thay đổi tích cực trong quan niệm xã hội về doanh nghiệp, doanh nhân. Thực
tế cho thấy, từ khi có Luật Doanh nghiệp, mọi tầng lớp nhân dân đã có hành
lang pháp lý để thực hiện ý chí làm giàu cho mình và đất nước. Theo số liệu
thống kê của Cục Phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa (Bộ Kế hoạch-Đầu tư),
từ đầu năm 2000 đến hết năm 2005, trên cả nước đã có khoảng 160.752 doanh
nghiệp đăng ký kinh doanh, gấp 3,3 lần so với tổng số doanh nghiệp đăng ký
thành lập giai đoạn 1991-1999. Nhờ đó tỷ trọng đầu tư của dân cư và doanh
nghiệp trong tổng đầu tư phát triển toàn xã hội liên tục tăng qua các năm. Vốn
đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh đã đóng vai trò quan trọng, thậm chí
là nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với phát triển kinh tế địa phương. Tại Bắc
Ninh, trước năm 2000 chỉ có gần 100 doanh nghiệp, nhưng đến hết năm 2005
đã có gần 1.600 doanh nghiệp đang hoạt động trên nhiều lĩnh vực. Rõ ràng
Luật Doanh nghiệp năm 1999 như luồng gió mới tạo ra sự sôi động trong đầu
tư, sản xuất kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp có quy mô lớn, tiếp cận vốn
công nghệ, phương thức làm ăn mới có hiệu quả, từng bước thích ứng với
điều kiện hội nhập. Theo báo cáo của Ban Quản lý các KCN tỉnh, trong nửa
đầu năm nay đã có gần 40 lượt nhà đầu tư, chủ yếu là đầu tư nước ngoài đến
tìm hiểu và có ý định đầu tư vào Bắc Ninh. Doanh nghiệp phát triển nhanh cả
về số lượng, chất lượng đã giải quyế t hàng chục nghìn lao động, nộp ngân
sách Nhà nước hàng chục tỷ đồng mỗi năm, góp phần vào tốc độ tăng trưởng,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, là động lực thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển
9
nhanh và bền vững. Với sự ra đời của Luật Doanh nghiệp, phương thức và
công cụ quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp cũng được đổi mới từ "năng
lực quản lý đến đâu thì mở đến đó" bằng "năng lực quản lý phải được xây
dựng, tăng cường đủ mức thúc đẩy và quản lý được quá trình phát triển".
Phương thức quản lý theo hướng kiểm tra, kiểm soát là chủ yếu từng bước
chuyển sang hợp tác và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động

sản xuất kinh doanh. Từ ưu điểm của luật và sự nỗ lực phối hợp có hiệu quả
giữa các cơ quan liên quan đã đẩy lùi cơ bản hiện tượng thành lập d oa nh
nghiệp không nhằm mục đích kinh doanh, nhất là để mua bán hoá đơn. Đồng
thời thúc đẩy thêm công cuộc cải cách hành chính và nâng cao năng lực bộ
máy hành chính Nhà nước phù hợp với yêu cầu của thể chế kinh tế thị trường.
Luật Doanh nghiệp năm 2005 được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 8,
Quốc hội khoá XI. Trên cơ sở kế thừa và phát triển Luật Doanh nghiệp năm
1999, Luật Doanh nghiệp 2005 tiếp tục là cuộc cải cách, trao quyền cho người
dân theo đúng quy luật và phù hợp nguyện vọng, yêu cầu của nhân dân. Từ đó
sẽ phát huy được tác dụng trong huy động nguồn lực, sáng kiến và trí tuệ của
dân để phát triển. Điều quan trọng là các cơ quan thi hành luật cần phân biệt
rõ việc đầu tư, tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh là của người đầu tư,
của doanh nghiệp. Như vậy mới bảo đảm tính đồng bộ giữa quyền tự do, tự
chủ kinh doanh và hệ thống pháp luật, hạn chế những vướng mắc, rào cản đối
với doanh nghiệp sau đăng ký kinh doanh. Đó cũng là tiếp tục khơi dậy nhiệt
huyết lập doanh nghiệp, tích cực sản xuất kinh doanh của mọi tầng lớp nhân
dân, thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, là động lực khởi nguồn thúc đẩy sự
phát triển đất nước.
2. Những bất cập còn tồn tại
2.1 Thủ tục gia nhập thị trường của các doanh nghiệp hoạt động theo
Luật Doanh nghiệp ở nước ta vẫn còn phức tạp và tốn kém
10
Nguyên nhân chủ yếu là do sự phối hợp chưa hiệu quả của các cơ quan
chức năng. Điển hình là những vướng mắc xung quanh con dấu thành lập
doanh nghiệp.
Ông Vũ Duy Thái - Chủ tịch Hiệp hội Công thương Hà Nội, nêu: "Một
trong những bất cập mà doanh nghiệp lâu nay gặp phải là để hoàn thành thủ
tục thành lập doanh nghiệp thông thường phải mất khoảng 50 ngày, trải qua
11 thủ tục với chi phí bằng 50% thu nhập bình quân đầu người, trong đó ba
thủ tục kéo dài thời gian nhất là cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (15

ngày), khắc dấu (14 ngày) và đăng ký mã số thuế và mua hoá đơn (15 ngày
nữa).
Hệ quả là doanh nghiệp vẫn phải chuẩn bị quá nhiều bộ hồ sơ, phải cung
cấp rất nhiều thông tin lặp đi lặp lại cho các cơ quan khác nhau, và mất rất
nhiều thời gian vì phải thực hiện hết thủ tục này mới được làm thủ tục khác.
Mặt khác, hầu hết các thủ tục đăng ký kinh doanh vẫn được thực hiện một
cách thủ công tại trụ sở của cơ quan chức năng, cũng gây nhiều phiền hà cho
doanh nghiệp.
Từ khi Luật Doanh nghiệp mới có hiệu lực, các sở kế hoạch và đầu tư tại
các địa phương đã áp dụng mô hình "một cửa liên thông" cho 3 thủ tục: đăng
ký kinh doanh, khắc dấu và đăng ký mã số thuế với mục đích đơn giản hoá
thủ tục thành lập doanh nghiệp, rút ngắn thời gian cấp đăng ký kinh doanh,
mã số thuế và cấp phép khắc dấu với thời hạn là 15 ngày. Song theo phản ánh
của các doanh nghiệp, do năng lực và phương tiện của các cơ quan đăng ký
kinh doanh còn yếu nên kết quả của cách làm này chưa được như mong đợi.
Ông Thái nêu dẫn chứng: "Đối với việc khắc dấu doanh nghiệp vẫn còn
có thể cải tiến thêm. Chẳng hạn: Dòng chữ vành ngoài của con dấu cấp cho
doanh nghiệp thuộc cấp tỉnh, thành phố quản lý, nhưng lại ghi theo địa
phương (quận, huyện) khiến mỗi khi doanh nghiệp di chuyển từ quận này
sang quận khác lại phải làm thủ tục khắc lại con dấu.
11
Ông thống kê: Có doanh nghiệp từ năm 2000 đến nay đã thay đổi đăng
ký kinh doanh tới 10 lần. Ở Hà Nội, mỗi năm có khoảng 9.000 doanh nghiệp
đăng ký mới và cũng khoảng chừng ấy doanh nghiệp thay đổi nội dung đăng
ký kinh doanh, nếu mỗi lần thay đổi lại làm lại từng ấy thủ tục gia nhập doanh
nghiệp thì sẽ là tốn kém vô cùng.
2.2 Chưa thực sự là sân chơi chung cho doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế
Để tạo “sân chơi” bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế hoạt động, Việt
Nam đang tiến hành xây dựng Luật Doanh nghiệp thống nhất. Một trong

những mục tiêu của việc ban hành Luật Doanh nghiệp thống nhất là để áp
dụng chung cho cả đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài, áp dụng cho cả các
công ty Nhà nước. Theo tinh thần của dự thảo Luật Doanh nghiệp thống nhất,
4 loại hình doanh nghiệp bao gồm: công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty
hợp doanh và doanh nghiệp tư nhân (4 loại hình doanh nghiệp đặc trưng của
nền kinh tế thị trường) sẽ là đối tượng áp dụng của luật. Có điều, các DNNN
hiện nay vẫn chưa phải là công ty TNHH hay công ty cổ phần như qui định
của dự thảo Luật Doanh nghiệp thống nhất nên chưa thuộc đối tượng áp dụng
của luật này. Để DNNN trở thành đối tượng điều chỉnh của Luật Doanh
nghiệp thống nhất cần phải chuyển đổi thành các công ty TNHH hay công ty
cổ phần theo đúng nghĩa của nó. Xung quanh chuyện chuyển đổi các DNNN
cho phù hợp với Luật Doanh nghiệp thống nhất cũng có không ít thách thức
đặt ra.
Với cơ chế hiện hành, các DNNN chưa thể hoạt động như là một công
ty thực thụ. Các công ty Nhà nước chuyển sang công ty TNHH một thành
viên hay công ty cổ phần hiện nay đa số Nhà nước vẫn giữ 50% cổ phần chi
phối nên vẫn phải chịu sự chủ quản của nhiều Bộ, ngành từ chiến lược kinh
doanh đến vốn, vấn đề đầu tư, nhân sự, họ chưa thể tự quyết định và tự chịu
trách nhiệm.
12
Đặc điểm của công ty TNHH, công ty cổ phần là phải hội đủ 4 yếu tố:
Trách nhiệm hữu hạn của nhà đầu tư; là pháp nhân độc lập; khả năng chuyển
nhượng được của cổ phần hoặc phần góp vốn; quản lý tập trung và thống
nhất. Trên thực tế, công ty Nhà nước mới chỉ hội tụ được 2 yếu tố 1 và 2. ở
khía cạnh quản lý, công ty Nhà nước chưa được quản lý tập trung và thống
nhất vì vướng mắc ở khâu tổ chức và cơ chế thực hiện quyền sở hữu để ra
quyết định. Tại công ty TNHH hay cổ phần, các quyết định cơ bản, quan
trọng nhất (vốn, đầu tư, chiến lược, nhân sự ) thuộc về chủ sở hữu và được
thông qua bởi đại hội cổ đông. Đối với công ty Nhà nước dưới chế độ chủ
quản, cũng những vấn đề quan trọng tương tự nhưng mỗi cơ quan (Chính phủ,

Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Kế hoạch - Đầu tư ) quyết định một vài vấn đề
riêng lẻ theo qui trình hành chính, không cơ chế phối hợp, không tiêu chuẩn
rõ ràng và hợp lý. Hệ quả dẫn đến là các quyết định đưa ra chậm chạp, cứng
nhắc, không tương thích (chiến lược không tương thích với vốn đầu tư và
người quản lý; vốn không tương thích với kế hoạch), cuối cùng, không có cơ
quan, cá nhân cụ thể nào trực tiếp chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp.
2.3 Bất cấp trong quy định tại một số điều về công ty cổ phần
• Sự chồng chéo, không rõ ràng về thẩm quyền giữa Hội đồng quản trị
(HĐQT) và Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) của Công ty cổ phần (CTCP)
Điều 120, Luật Doanh nghiệp quy định như sau:
“1. Hợp đồng, giao dịch giữa công ty với các đối tượng sau đây phải
được ĐHĐCĐ hoặc HĐQT chấp thuận:(a) ; (b) , (c) ;
“2. HĐQT chấp thuận các hợp đồng và giao dịch có giá trị nhỏ hơn 50%
tổng giá trị tài sản doanh nghiệp ghi trong báo cáo tài chính gần nhất hoặc
một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty
3. ĐHĐCĐ chấp thuận các hợp đồng và giao dịch khác trừ trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều này ”
13
Quy định trên đã gây ra cách hiểu không rõ ràng về thẩm quyền của
ĐHĐCĐ và HĐQT CTCP, dẫn tới hai vấn đề sau:
• Một là, nếu nội dung của khoản 1, khoản 2 và khoản 3 không độc lập
mà có liên quan với nhau: Trong trường hợp này, khoản 2 và khoản 3 được sử
dụng để phân định các trường hợp quy định tại khoản 1. Tuy nhiên, theo cách
quy định của Điều 120 thì chưa đưa ra được nội dung này. Như vậy, yêu cầu
đặt ra là phải quy định lại Điều 120 theo hướng cụ thể, dẫn chiếu từ Khoản 2,
Khoản 3 lên Khoản 1 để việc áp dụng được dễ dàng.
•Hai là, nếu nội dung của khoản 1 độc lập với khoản 2 và khoản 3:
Trong trường hợp này, khoản 1, Điều 120 không xác định rõ ràng chủ thể có
thẩm quyền quyết định các hợp đồng, giao dịch của công ty (ĐHĐCĐ hay

HĐQT). Mặt khác, điều khoản này chồng chéo thậm chí mâu thuẫn với Điều
108.2.g của Luật Doanh nghiệp.
Điều 108.2.g, Luật Doanh nghiệp quy định HĐQT có quyền: “Quyết
định giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị và công nghệ; thông qua hợp
đồng mua, bán, vay, cho vay và hợp đồng khác có giá trị bằng hoặc lớn hơn
50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty
hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty, trừ hợp đồng và
giao dịch quy định tại khoản 1 và khoản 3, Điều 120 của Luật này”;
Như vậy, Điều 108.2.g đã quy định "hợp đồng và giao dịch quy định tại
khoản 1" của Điều 120 không thuộc thẩm quyền của HĐQT. Đây là một quy
định mang tính loại trừ.
Nhưng Khoản 1, Điều 120 lại quy định các hợp đồng, giao dịch đó phải
được HĐQT hoặc ĐHĐCĐ chấp thuận. Đây chính là sự mâu thuẫn và trong
trường hợp này các doanh nghiệp không biết phải áp dụng theo quy định nào
để phù hợp với pháp luật
14
• Quy định không rõ ràng về thủ tục gửi tài liệu cho các cổ đông trước khi
tiến hành họp ĐHĐCĐ
Khoản 2, Điều 100 Luật Doanh nghiệp quy định: “Kèm theo thông báo
mời họp phải có mẫu chỉ định đại diện theo uỷ quyền dự họp, chương trình
họp, phiếu biểu quyết, các tài liệu thảo luận làm cơ sở thông qua quyết định
và dự thảo nghị quyết đối với từng vấn đề trong chương trình họp. Nếu công
ty có trang thông tin điện tử thì thông báo mời họp và các tài liệu gửi kèm
theo phải được công bố trên trang thông tin điện tử đó đồng thời với việc gửi
thông báo cho các cổ đông".
Quy định trên được hiểu là trong trường hợp công ty có trang thông tin
điện tử thì phải có trách nhiệm công bố thông báo mời họp và các tài liệu gửi
kèm theo trên trang thông tin điện tử đó.
Tuy nhiên, quy định “đồng thời với việc gửi thông báo cho các cổ
đông”gây ra nhiều cách hiểu khác nhau, theo đó, việc đồng thời gửi thông báo

có nghĩa là chỉ gửi thông báo mời họp hay phải gửi cả thông báo mời họp và
các tài liệu kèm theo. Thực tế, chúng tôi nhận thấy hiện nay, các Doanh
nghiệp áp dụng điều khoản này theo nhiều cách khác nhau, có Công ty vừa
công bố thông tin trên trang thông tin điện tử, vừa gửi thông báo và toàn bộ
tài liệu có liên quan đến các cổ đông; có Công ty thì chỉ gửi duy nhất Thông
báo mời họp cho cổ đông cùng với việc công bố thông tin trên trang thông tin
điện tử.
2.4 Vấn đề chủ doanh nghiệp tư nhân có được thành lập Công ty TNHH
một thành viên hay không
Vấn đề chủ doanh nghiệp tư nhân có được thành lập Công ty TNHH
một thành viên hay không cũng bị bỏ lửng. Lấy quy định cũ (trước khi có
Luật Doanh nghiệp 2005) áp dụng cũng không xong vì chỉ từ Luật Doanh
15
nghiệp 2005 mới có Công ty TNHH một thành viên! Áp dụng theo luật mới
thì…bó tay vì không có hướng dẫn. Ngoài ra, Luật Doanh nghiệp hiện thiếu
các hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục chuyển Công ty TNHH một thành
viên thành Công ty TNHH hai thành viên trở lên và ngược lại, chuyển Công
ty Cổ phần thành Công ty TNHH và ngược lại. Trình tự, thủ tục, giải thể
như thế nào cũng chưa được làm rõ.
Dự thảo thông tư hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp đề cập đến
vấn đề này theo hướng chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền thành lập, tham
gia thành lập Công ty TNHH một thành viên, Công ty TNHH hai thành viên
trở lên, Công ty Cổ phần và Công ty Hợp danh. Các quy định trình tự, thủ
tục đang thiếu cũng được đưa vào dự thảo để ban hành. Tuy nhiên, bao giờ
ban hành thì chưa biết!
2.5 Bất cập trong quy định của Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày
29/8/2006 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh (Nghị định số
88/2006/NĐ-CP)
Điều 25.1, Nghị định số 88/2006/NĐ-CP quy định “Trường hợp bổ
sung, thay đổi ngành nghề kinh doanh phải có chứng chỉ hành nghề thì phải

có thêm bản sao hợp lệ chứng chỉ hành nghề của Giám đốc (Tổng Giám đốc)
và các chức danh quản lý doanh nghiệp quy định tại Khoản 13, Điều 4, Luật
Doanh nghiệp”.
Theo quy định trên, có thể hiểu rằng doanh nghiệp phải nộp chứng chỉ
của cả hai chủ thể là Giám đốc (Tổng giám đốc) và các chức danh quản lý
khác trong doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trong thực tế doanh nghiệp chỉ cần nộp chứng chỉ của Giám
đốc (Tổng giámđốc), còn các chức danh quản lý khác trong công ty không
cần phải có chứng chỉ này.
16
Ngoài ra, đối với doanh nghiệp kinh doanh nhiều ngành nghề kinh
doanh có điều kiện thì một yêu cầu đặt ra là Giám đốc (Tổng giám đốc) phải
có đầy đủ các chứng chỉ đó.
Trong khi đó, Điều 57, Luật Doanh nghiệp quy định Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc là người: “có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tế trong
quản trị kinh doanh hoặc trong các ngành, nghề kinh doanh chủ yếu của công
ty”. Theo quy định này, Giám đốc
(Tổng giám đốc) không bắt buộc phải có đầy đủ các chứng chỉ hành
nghề của các ngành nghề mà công ty kinh doanh. Như vậy, bản thân các điều
khoản này đã thể hiện sự mâu thuẫn với nhau.
Mặt khác, quy định tại Điều 25.1, Nghị định số 88/2006/NĐ-CP không
phù hợp với tinh thần của Luật doanh nghiệp: “Doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế có quyền kinh doanh các ngành nghề mà pháp luật không cấm”
(Điều 7.1, Luật Doanh nghiệp) bởi vì thực tế, Giám đốc (Tổng giám đốc)
không nhất thiết phải là người nắm vững các kiến thức chuyên ngành, mà yếu
tố cốt lõi là họ có năng lực quản lý, biết cách sử dụng đúng người đúng việc
theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, quy định trên đã hạn chế quyền được
kinh doanh nói chung cũng như việc bổ sung thay đổi ngành nghề kinh doanh
của toàn doanh nghiệp. Do vậy, để đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp
của doanh nghiệp, đề nghị sửa quy định tại Điều 25.1, Nghị định số

88/2006/NĐ-CP theo hướng như sau:
“Trường hợp bổ sung, thay đổi ngành nghề kinh doanh phải có chứng
chỉ hành nghề thì phải có thêm bản sao chứng chỉ hành nghề của một trong
những cán bộ quản lý của doanh nghiệp quy định tại Khoản 13, Điều 4, Luật
Doanh nghiệp”.
KẾT LUẬN
Trước khi ban hành Luật Doanh nghiệp năm 2005, các doanh nghiệp ở
Việt Nam được điều chỉnh bằng nhiều đạo luật doanh nghiệp khác nhau:
17
doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ
phần được điều chỉnh bằng Luật Doanh nghiệp năm 1999; công ty nhà nước
được điều chỉnh bằng luật Doanh nghiệp năm 2003; doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài, bao gồm doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn
đầu tư nước ngoài được điều chỉnh bằng Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
năm 1996. Luật Doanh nghiệp năm 2005 có giá trị thay thế cho Luật Doanh
nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 2003. Luật Doanh
nghiệp năm 2005 cũng thay thế các quy định về tổ chức quản lý và hoạt động
của doanh nghiệp tại Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 và Luật
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm
2000.
Luật doanh nghiệp năm 2005 có những điểm tiến bộ so với Luật doanh
nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 2003. Luật Doanh
nghiệp năm 2005 cũng thay thế các quy định về tổ chức quản lý và hoạt động
của doanh nghiệp tại Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 và Luật
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm
2000. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn có một số bất cập còn tồn tại cần được hoàn
thiện, bài viết này sẽ đưa ra được một số điểm mới cơ bản mà em cho là quan
trọng nhất của đạo luật này nhằm có được cái nhìn toàn diện hơn về Luật
doanh nghiệp năm 2005.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Văn bản pháp luật
18
1. Luật doanh nghiệp năm 1999
2. Luật doanh nghiệp năm 2005
3. Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003
4. Nghị định 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 về đăng ký kinh doanh
II. Các tài liệu chuyên khảo
5. Giáo trình Luật thương mại – Trường đại học Luật Hà Nội xuất bản năm
2007
III. Các trang Web
6. vietlaw.org.vn
7. dangkykinhdoanh.net
8. issi.gov.vn
9. kinhdoanh.com.vn
10. dangcongsan.vn
11. bussine.gov.vn
19

×