phần thứ nhất : đặt vấn đề
I/ Lý do chọn đề tài
Đã từ lâu, Rốn luyn k nng vit on vn cho hc sinh THCS là vấn đề
hết sức quan trọng và cần thiết trong việc tạo lập văn bản. Từ đó, giúp học sinh
hình thành ý thức và nhân cách cũng nh trình độ học vấn cho các em ngay khi
đang học bậc học THCS và tr ởng thành sau này. Qua việc rèn luyện kĩ năng viết
đoạn văn, ta rèn cho học sinh ý thức tự tu d ỡng, biết yêu th ơng, quí trọng gia
đình, bạn bè, có lòng yêu n ớc, yêu chủ nghĩa xã hội, biết h ớng tới những tình
cảm cao đẹp nh lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm
ghét cái xấu, cái ác và cũng từ đó rèn cho các em tính tự lập, có t duy sáng tạo,
b ớc đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật. Tr ớc
hết là trong văn học có năng lực thực hành và năng lực sử dụng Tiếng Việt nh
một công cụ để t duy và giao tiếp.
Để rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết đoạn văn, giáo viên phải h ớng dẫn
cho các em cách thức viết đoạn văn, cách sử dụng vốn từ ngữ, diễn đạt câu trong
đoạn văn, bố cục đoạn văn trong một văn bản, cách sử dụng các ph ơng tiện liên
kết trong đoạn văn. Tuỳ theo từng ph ơng thức diễn đạt khác nhau mà viết theo lối
qui nạp, diễn dịch, song hành hay móc xích.
Để viết đ ợc đoạn văn phải có nhiều câu kết hợp tạo thành, cũng nh vậy để
tạo thành văn bản yêu cầu phải có các đoạn văn liên kết với nhau mà thành (khi
đã dùng các ph ơng tiện liên kết trong văn bản).
Tuy vậy, trong giai đoạn hiện nay, có rất nhiều
những ph ơng tiện hiện đại, thông tin đại chúng cập
nhật liên tục khiến cho học sinh lao vào con đ ờng say
mê nghiện sách vở bị lãng quên, ham bạo lực điện
tử, sách kiếm hiệp. Vì vậy, các em không còn ham
đọc sách, ham nghiên cứu. Cho nên, việc viết một
đoạn văn lại càng là vấn đề đáng quan tâm khi chúng
ta rèn luyện cho các em.Hơn thế nữa, tập làm văn là
môn học thực hành tổng hợp ở trình độ cao của môn Văn Tiếng Việt, môn
Tập làm văn đ ợc xem nh vị trí cốt lõi trong mối t ơng quan chặt chẽ với Văn và
Tiếng Việt. Nh vậy, chúng ta dạy Tập làm văn cho học sinh là dạy cho các em
nắm vững văn bản, biết xây dựng các đoạn văn thông th ờng. Rèn luyện cho học
sinh là rèn luyện cho các em các thao tác, những cách thức, những b ớc đi trong
quá trình tạo lập văn bản. Vì thế, cách xây dựng đoạn văn trong phân môn tập
làm văn đ ợc coi nh vị trí hàng đầu. Việc rèn cách viết đoạn văn cho học sinh
THCS theo trục tăng dần qua các thể loại văn học: tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị
luận thuyết minh, điều hành ( hành chính công vụ). Từ đó giúp các em biết vận
dụng các thể loại văn bản để phục vụ cho học tập và trong đời sống. Qua việc
tiếp thu những kiến thức của môn Văn Tiếng Việt, học sinh vận dụng sáng
tạo, tổng hợp để có thể nói hoặc viết theo những yêu cầu, những đề tài khác
nhau, những kiểu văn bản khác nhau mà cuộc sống đặt ra cho các em.
Thông qua môn Tập làm văn, qua bài làm văn của mình, các em bọc lộ
những tri thức, vốn sống t t ởng, tình cảm của cá nhân. Vì thế ng ời giáo viên phải
biết nắm lấy u thế này để phát huy những khả năng của các em, đồng thời qua
việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn giáo viên có dịp uốn nắn điều chỉnh những
lệch trong vốn sống, nhận thức, t t ởng tình cảm - đặc biệt qua các thể loại văn
học mà các em sẽ học trong ch ơng trình.
Trên đây là những lí do, vị trí, vai trò của việc xây dựng đoạn văn cho học
sinh THCS. Từ những mặt tích cực, hạn chế trên chúng tôi chọn đề tài này để
nghiên cứu và xây dựng các b ớc để rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn đ ợc tốt hơn.
II/ Lịch sử vấn đề
Nh chúng ta đã biết, vấn đề nghiên cứu, rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn cho
học sinh đã đặt ra từ lâu nh ng ch a đ ợc quan tâm nhiều do phân môn Tập làm văn
ch a đ ợc xem là phân môn chính và có nhiều quan niệm khác nhau:
Tr ớc cải cách giáp dục (Từ những năm 1980 trở về tr ớc), phân môn Tập làm
văn thuộc về môn Văn, là bộ phận của môn Văn, quan niệm Tập làm văn giúp
cho học sinh tạo lập đ ợc những văn bản văn học.
Đến cải cách giáo dục (1980 2001), Tập làm văn là một phần của môn
TiếngViệt, quan niệm dạy môn này và Tiếng Việt có tính chất nh là công cụ để
học tốt các môn học khác. Làm văn là quá trình giúp học sinh xây dựng văn bản.
Giai đoạn hiện nay: phân môn Tập làm văn có tính độc lập nh ng có mối
quan hệ trực tiếp đến phần Văn và phần Tiếng Việt.
Lần thay sách giáo khoa này, phân môn Tập làm văn đ ợc tích hợp cùng phân
môn Văn và Tiếng Việt trong ch ơng trình Ngữ Văn mới. Các kiểu văn bản của
Tập làm văn chính là trục để xây dựng nội dung, ch ơng trình Ngữ Văn THCS từ
năm học 2002 2003.
III/ Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu
1. Mục đích .
Tập làm văn với mục đích giúp cho học sinh nắm đ ợc các thể loại trong ch -
ơng trình tập làm văn ở THCS nh Tự sự, Miêu tả, Biểu cảm, Nghị luận, Thuyết
minh, Điều hành. Từ đó, học sinh biết vận dụng các thể loại văn bản để phục vụ
cho học tập, trong đời sống. Đặc biệt đề tài này sẽ giúp cho các em biết cách xây
dựng đoạn văn thuộc các thể loại nói trên, với bố cục đoạn văn dù ngắn hay dài
đều phải đảm bảo mặt nội dung và hoàn chỉnh về hình thức, h ớng dẫn cho các
em rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn theo bố cục ba phần: Mở bài, Thân bài, Kết
luận.
Mỗi đoạn văn đều bao hàm một ý chính của nó. ý chính đó, có thể đứng ở
đầu đoạn văn theo cách diễn dịch hoặc đứng cuối đoạn văn theo cách qui nạp
hoặc ý chính của các câu bình đẳng nhau, ngang hàng nhau theo cách song hành.
Qua đó, rèn luyện cho học sinh kĩ năng diễn đạt đúng và hay bằng các hình
thức nói hoặc viết, tập vận dụng một cách sáng tạo, tổng hợp những kiến thức đã
tiếp thu đ ợc qua các môn Văn Tiếng Việt và những kiến thức văn hoá xã hội
để có thể nói và viết theo yêu cầu, đề tài khác nhau, những kiểu văn bản khác
nhau mà cuộc sống đặt ra cho các em.
Viết đoạn văn (trong phân môn Tập làm văn còn trực tiếp rèn luyện cho học
sinh một số đức tính nh lòng nhân ái, tính trung thực, sự kiên trìBởi vì môn này
góp phần phát triển trí t ởng t ợng óc sáng tạo, biết phân biệt: đúng, sai, tốt, xấu,
phải, trái Từ đó, nuôi d ỡng tâm hồn học sinh h ớng tới cái chân, thiện, mĩ .
2. Nhiệm vụ
Ng ời giáo viên phải nắm lấy u thế của học sinh nh những tri thức, vốn sống,
t t ởng, tình cảm để phát huy những khả năng cao hơn. Đồng thời, qua đó uốn
nắn, điều chỉnh, hạn chế những lệch lạc trong nhận thức, vốn sống, t t ởng, tình
cảm của các em.
Củng cố kiến thức Tiếng Việt và Văn học góp phần bồi d ỡng tâm hồn, trí tuệ
để học sinh biết rung động tr ớc cái hay, cái đẹp, h ớng các em tới nhu cầu thẩm
mĩ, sáng tạo và biết tôn trọng những giá trị thẩm mĩ khi xây dựng đoạn văn.
Là bộ môn khó, đặc biệt yêu cầu kĩ năng càng khó hơn, đòi hỏi chúng ta
phải dày công, kiên trì dạy các em. Qua đó, hình thành thói quen, kĩ năng phân
tích đề, lập dàn ý, dùng từ, đặt câu, dựng đoạn, trình bày, diễn đạt. Trong đó,
cách viết đoạn, dựng đoạn càng quan trọng trong b ớc đầu tạo lập viết đoạn, dựng
đoạn càng quan trọng trong b ớc đầu lập văn bản. Cũng từ dựng đoạn, nhiệm vụ
của giáo viên Ngữ Văn là phát huy năng lực t duy, năng lực sử dụng ngôn ngữ,
giúp các em biết tích luỹ vốn kiên thức, biết huy động vốn kiến thức, biết đặt ra
các vấn đề và giải quyết các vấn đề ấy. Qua đó, biết trình bày kết quả t duy của
mình một cách rõ ràng, chặt chẽ, có sức thuyết phục tr ớc từng vấn đề, từng kiểu
văn bản khi viết đoạn và trong giao tiếp. Là phân môn có tính thực hành cao, nên
giáo viên cần cho học sinh đọc nhiều đoạn văn mẫu, viết nhiều đoạn văn để tạo
lập văn bản đ ợc dễ dàng hơn. Đó là những mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của
giáo viên Ngữ văn trong b ớc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh THCS.
IV/ Đối t ợng, phạm vi nghiên cứu
Điều tra các đối t ợng học sinh, phạm vi nghiên cứu ở một số tr ờng trong
Huyện.
Đối t ợng phần lớn là học sinh khối THCS.
V/ Ph ơng pháp nghiên cứu.
Tr ớc hết, chúng ta phải có cái nhìn khái quát toàn bộ ch ơng trình ở cấp
THCS nh sau:
Chơng trình Tập làm văn THCS đồng tâm với chơng trình Tập làm văn của
Tiểu học nhng ở yêu cầu cao hơn, tiếp tục và hoàn chỉnh chơng trình ở THCS,
mở rộng các thể văn mới hơn, yêu cầu cao hơn đối với học sinh. Chơng trình Tập
làm văn có mối quan hệ khá rõ ràng: Giữa Văn Tiếng Việt Tập làm văn.
Để trở thành thao tác tốt viết đoạn văn, giáo viên hớng dẫn học sinh nh cách
dùng từ đặt câu và cao hơn là dựng đoạn. Vì vậy, có thể nói học sinh đợc học và
thực hành 15 loại văn bản ở bậc THCS, đủ để giao tiếp bằng văn bản và tiếp tục
học lên ở những bậc trên.
1. Ph ơng pháp lí thuyết .
B ớc đầu dạy cho học sinh những khái niệm về từng thể loại văn, làm quen
với những đề văn mẫu, những bài văn mẫu và tìm hiểu cụ thể từng bài qua các
tiết học: Lí thuyết về đoạn văn. Qua đó, giúp học sinh học, tìm hiểu cách xây
dựng đoạn văn, bố cục đoạn văn, các câu chốt (câu chủ đề) trong đoạn văn, viết
theo các cách diễn dịch, qui nạp, song hành, móc xích Từ đó, cho học sinh tập
viết đoạn văn, có vận dụng lí thuyết về thể loại văn ấy. Tuy nhiên, ph ơng pháp lí
thuyết không quá nặng.
2. Ph ơng pháp nghiên cứu, tìm hiểu.
Học sinh là chủ thể trong quá trình dạy học để phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của các em trong quá trình tiếp nhận. Trong quá trình nghiên cứu,
tìm hiểu cho học sinh tự thân vận động là chính, giáo viên im lặng đến mức tối
đa để khuyến khích học sinh sáng tạo trong giờ Tập làm văn. Vậy, trong tiết học
Tập làm văn mà đặc biệt là tiết rèn luyện viết đoạn văn, h ớng dẫn các kĩ năng
nghiên cứu, tìm hiểu để vận dụng các kiến thức đã học để dựng đoạn theo đặc
điểm thể loại để tạo lập văn bản.
3. Ph ơng pháp kiểm tra, khảo sát .
Với ph ơng pháp này, đòi hỏi học sinh phải thực hành liên tục, chắc chắn các
thao tác từ lí thuyết về thể loại sau đó đến nghiên cứu, tìm hiểu. Từ đó, ta mới đi
vào kiểm tra, khảo sát để thấy đ ợc sự vận dụng tổng hợp, để sáng tạo văn bản
qua nhiều b ớc trong quá trình rèn luyện các kĩ năng. Đó là điều kiện để đánh giá
học sinh thông qua bài kiểm tra, bài viết ở lớp (hoặc ở nhà) đòi hỏi phải đánh giá
đúng năng lực của học sinh và đòi hỏi một sự nhạy cảm của thầy tr ớc yêu cầu
thực hành của học sinh.
4. Ph ơng pháp cố vấn, chuyên gia .
Đây là những ph ơng pháp khó đối với học sinh. Học sinh th ờng không chú ý
đến những cái khó khăn này và cũng không cần hỏi ai những vấn đề cần tháo gỡ,
cần đến chuyên gia cố vấn.
Mặc dù, mức độ lí thuyết mang tính trừu t ợng, việc kiểm tra, đánh giá, cố
vấn, chuyên gia, giáo viên giúp học sinh vận dụng kiến thức vào viết văn rõ ràng
hơn.
Nh vậy, việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nói chung và viết đoạn văn
biểu cảm nói riêng giáo viên phải định h ớng cho các em biết đối chiếu giữa thực
hành và lí thuyết, đối chiếu kết quả thực hành của mình với yêu cầu chung. Nh -
ng, ph ơng pháp cố vấn, chuyên gia phải đ ợc liên hệ một cách chặt chẽ giữa giáo
viên với học sinh.
Trên đây là một số các ph ơng pháp nghiên cứu đối với việc rèn luyện các kĩ
năng viết đoạn văn biểu cảm cho học sinh THCS.
Phần Thứ hai: Nội dung
A/ Lí thuyết về đoạn văn và thực trạng viết đoạn văn Tự sự
kết hợp với Miêu tả - Biểu cảm của học sinh THCS .
I/ Lí thuyết về đoạn văn
Nh chúng ta đã biết, bài viết đ ợc cấu thành bởi các đoạn văn( văn bản) theo
những ph ơng thức và bằng những ph ơng tiện khác nhau. Dựng đoạn đ ợc triển
khai từ ý trong dàn bài. Có thể Đoạn văn là một ý hoặc nhiều ý và cũng có thể
một ý có nhiều đoạn. Trong đoạn văn th ờng có bố cục ba phần: mở đoạn, phát
triển đoạn và kết đoạn . ở góc độ đặc điểm cấu trúc thì các đoạn văn có thể là
đoạn diễn dịch, qui nạp, móc xích, song hành
Để rèn luyện đ ợc kĩ năng viết đoạn văn, đòi hỏi học sinh phải suy nghĩ yêu
cầu diễn đạt thành lời, thành đoạn, phải sử dụng các ph ơng tiện ngôn ngữ sao
cho phù hợp với ý của đoạn để hiệu qủa biểu đạt cao hơn, đoạn văn có sức cuốn
hút hơn với ng ời đọc. Kĩ năng dựng đoạn văn gắn với kĩ năng luyện nói trên lớp.
Có triển khai ý thành đoạn cũng mới tiến hành đ ợc. Đây là những thao tác,
những kĩ năng có khi thực hiện và rèn luyện đồng thời cùng một lúc.
Qua đó, ta có thể hiểu đ ợc: Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản,
bắt đầu từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm x ống dòng và th -
ờng biểu đạt một ý t ơng đối hoàn chỉnh. Đoạn văn th ờng do nhiều câu tạo thành.
Đoạn văn th ờng có từ ngữ chủ đề và câu chủ đề. Từ ngữ chủ đề là các từ ngữ đ ợc
dùng làm đề mục hoặc các từ ngữ đ ợc lặp lại nhiều lần (th ờng là chỉ từ, đại từ,
các từ đồng nghĩa) nhằm duy trì đối t ợng đ ợc biểu đạt. Câu chủ đề mang nội
dung khái quát, lời lẽ ngắn gọn, th ờng đủ hai thành phần chính và đứng ở đầu
hoặc cuối đoạn văn (hay còn gọi là câu chốt). Các câu trong đoạn văn có nhiệm
vụ triển khai và làm rõ chủ đề của đoạn bằng các phép diễn dịch, qui nạp, song
hành
Khi chuyển từ đoạn này sang đoạn khác, cần sử dụng các ph ơng tiện liên kết
để thể hiện quan hệ ý nghĩa của chúng. Có nhiều ph ơng tiện liên kết trong đoạn
văn: dùng từ ngữ có tác dụng liên kết, quan hệ từ, đại từ, chỉ từ, các cụm từ thể
hiện ý liệt kê, so sánh, đối lập, tổng kết, khái quát,và dùng câu nối trong đoạn
văn. Đoạn văn liên kết nhằm mục đích tạo sự liền mạch một cách hợp lí, tạo tính
chỉnh thể cho văn bản.
Nh vậy, các ph ơng tiện liên kết vốn mang ý nghĩa, nh ng đồng thời chúng
cũng là hình thức làm rõ tính liên kết của nội dung đoạn văn. Mặt khác, lại có
những ph ơng tiện liên kết đồng nghĩa, gần nghĩa với nhau, nên cần lựa chọn các
ph ơng tiện liên kết cho phù hợp với ý đồ chủ quan của ng ời viết, với sự việc đ ợc
phản ánh và tình huống giao tiếp cụ thể.
Vì vậy, chúng ta cần tận dụng những hiểu biết và khả năng trên của học sinh
để phát huy tính tích cực, tính chủ động và sáng tạo của học sinh trong việc rèn
luyện kĩ năng viết đoạn văn đợc tốt và làm nền tảng cho chơng trình THPT. Mặc
dù vậy, học sinh ở các trờng THCS, phần lớn có khuynh hớng không thích học
văn mà đặc biệt là phân môn tập làm văn. Và vì thế nó đã ảnh hởng rất nhiều đến
việc tiếp thu, vận dụng sáng tạo các kĩ năng viết đoạn văn của các em.
II/ Thực trạng viết đoạn văn Tự sự của học sinh THCS
Cũng bộ môn Ngữ văn, nh ng theo khảo sát, phần lớn các em học phân môn
Tập làm văn còn yếu mà đặc biệt là cách dựng đoạn văn khiến cho giáo viên và
học sinh còn rất lúng túng. Th ờng thì thời l ợng quá ngắn mà kiến thức nhiều, nên
học sinh không thể tìm hiểu kĩ các đoạn văn mẫu. Phần lớn học sinh hiểu sơ sài
về mặt Lí thuyết, vì thế xác định đề bài, chủ đề và bố cục đoạn văn càng bối rối:
việc rèn kĩ năng viết đ ợc tiến hành trong các tiết phân tích đề, dàn ý và dựng
đoạn, liên kết đoạn từ thấp đến cao, từ một tiêu đề, một ý, một đoạn văn đến
nhiều đoạn, cuối cùng là một văn bản hoàn chỉnh. Khi viết còn ch a hiểu kĩ đề bài
nên hay bị sai lệch. Việc phân phối thời gian, số l ợng câu cho các đoạn, các ý
lớn, ý nhỏ ch a rõ ràng, cụ thể. Cho nên, có nhiều tr ờng hợp viết thừa hoặc thiếu
ch a xác định cụ thể đề tài, chủ đề của đoạn văn. Quá trình lập luận, trình bày ch a
chặt chẽ, lô gíc và sinh động. Ch a biết vận dụng nhiều ph ơng pháp liên kết trong
một đoạn văn hoặc nhiều đoạn văn. Vì thế các đoạn văn th ờng hay đơn thuần,
nhàm chán.
Phần lớn học sinh ch a biết sử dụng ngôn ngữ cho phù hợp với từng kiểu văn
bản. Và đặc biệt là phong cách văn bản.
Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn tự sự
I/ Một số vấn đề chung về văn tự sự
Tự sự là một thuật ngữ khoa học. Trong từ điển Tiếng Việt 2000( Đào Duy
Anh) giải thích:
Tự là bày ra.
Sự là việc ta làm.
Nh vậy Tự sự là lối bày tỏ sự thật.
Chúng ta cần phân biệt rõ hai khái niệm: tác phẩm tự sự (theo quan điểm lí
luận văn học) và ph ơng thức tự sự (trong tập làm văn).
1.Theo quan điểm lí luận văn học.
Tác phẩm phản ánh hiện thực qua bức tranh mở rộng của đời sống trong
không gian, thời gian qua các sự kiện, sự cố xảy ra trong cuộc đời con ng ời.
Trong tác phẩm tự sự nhà văn thể hiện t t ởng, tình cảm của mình thâm nhập sâu
sắc vào sự kiện và hành động bên ngoài của con ng ời tới mức giữa chúng hầu nh
không có sự phân biệt nào cả.
Nhà văn tả lại, kể lại những gì xảy ra bên ngoài mình khiến cho ng ời đọc có
cảm giác hiện thực đ ợc phản ánh trong tác phẩm tự sự là một thế giới tạo hình
xác định đang tự phát triển, tồn tại bên ngoài nhà văn, không phụ thuộc vào tình
cảm ý muốn của nhà văn.
2.Theo quan niệm trong Tập làm văn.
Trong Tập làm văn, khái niệm Tự sự đ ợc hiểu theo nghĩa rộng. Đó là ph -
ơng thức biểu đạt bằng cách kể ra các sự kiện theo mối quan hệ nào đó nh quan
hệ nhân quả, quan hệ liên t ởng.
Sách giáo khoa Tập làm văn tr ớc đây (1986 1995) không dùng khái
niệm tự sự mà dùng các khái niệm kể chuyện, trần thuật, t ờng thuật. Trong sách
giáo khoa Ngữ văn-6 Tập I- trang 28 nhà xuất bản giáo dục 2002, nêu định
nghĩa về văn tự sự nh sau:
Tự sự (kể chuyện) là ph ơng thức trình bày một chuỗi sự việc, sự việc này
dẫn đến sự việc kia, cuối cùng dẫn đến một kết thúc, thể hiện một ý nghĩa. Tự sự
giúp ng ơi kể giải thích sự việc, tìm hiểu con ng ơi, nêu vấn đề và bày tỏ thái độ
khen, chê.
Theo quan niệm này thì kể chuyện về sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử, t ờng
thuật một hội nghị, một vụ hoả hoạn đều thuộc ph ơng thức tự sự. Nói cách
khác khái niệm tự sự bao gồm cả nội dung trần thuật, kể chuyện đã học trong ch -
ơng trình Tập làm văn tr ớc đây.
Văn tự sự chia làm hai dạng: kể chuyện đời th ờng và kể chuyện t ởng t ợng.
+ Kể chuyện đời th ờng (kể chuyện đời sống) là kể ng ời thực, việc thực ta th -
ờng găp trong cuộc sống hàng ngày. Yêu cầu của dạng văn này phải tôn trọng sự
thật.
Có thể phân thành hai loại: kể chuyện danh nhân và kể chuyện đời th ờng.
+ Kể chuyện t ởng t ợng: khái niệm kể chuyện t ởng t ợng chỉ mang tính ớc
lệ Vì kể chuyện bao giờ cũng phải t ởng t ợng để hình dung sự việc và kể cho
ng ời khác nghe. Kể chuyện t ởng t ợng là t ởng t ợng cụ thể về số phận và cuộc
sống của một sự việc về môt kết thúc khác của một câu chuyện dẫ viết. Kể lại
chuyện cổ tích theo cách nhìn mới, cách hiểu mới, ng ời kể phải hoá thành nhân
vật. Thậm chí phải thay đổi ngôi kể để kể chuyện hấp dẫn hợp lí.
3. Mối quan hệ giữa tự sự với các ph ơng thức khác.
Trong quá trình tạo lập văn bản, tuỳ vào mục đích, nội dung và tính chất của
văn bản mà ng ời viết kết hợp các ph ơng thức biểu đạt với nhau. Điều đó cũng có
nghĩa là không thể kêt hợp các ph ơng thức một cách tuỳ tiện. Trong thực tế, tự sự
có thể kết hợp với hầu hêt các ph ơng th c biểu đạt, song chủ yếu là các ph ơng
thức miêu tả, biểu cảm và lập luận.
+ Tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm.
ở các văn ban tự sự, ph ơng thức kể và tả kết hợp rất chặt chẽ. Tả, kể và biểu
cảm th ờng gắn bó với nhau. Chẳng hạn nếu kể là chính thì miêu tả trong khi kể
nhằm làm cho sự việc kể thêm sinh động màu sắc, hình dáng, diện mạo của nhân
vật, sự việc hành động nh hiện lên sống đọng tr ớc mắt ng ời đọc. Yếu tố biểu cảm
xuất hiện trong khi kể giúp ng ời viết thể hiện đ ợc rõ hơn thái độ, tình cảm của
mình tr ớc việc đó, buộc ng ời đọc phai trăn trở nghĩ suy tr ớc sự việc đang kể, ý
nghĩa của chuyện này càng thêm sâu sắc.
Ví dụ 1: Tự sự kết hợp với miêu tả.
Trong gian phòng lớn tràn ngập ánh sáng, những bức tranh của thí sinh
treo kín bốn bức tờng. Bố, mẹ tôi kéo tôi chen qua đám đông để xem bức tranh
của Kiều Phơng đã đợc đóng khung, lồng kính. Trong tranh, một chú bé đang
ngồi nhìn ra ngoài cửa sổ, nơi bầu trời trong xanh. Mặt chú bé nh toả sáng ra
một thứ ánh sáng rất lạ. Toát lên từ cặp mắt, t thế ngồi của chú không chỉ sự suy
t mà còn rất mơ mộng nữa. Mẹ hồi hộp thì thầm vào tai tôi:
- Con có nhận ra tôi không ?
Ví dụ 2: Tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm.
Nh ng, ô kìa ! Sau trận m a vùi dập và những cơn gió phủ phàng kéo dài
suốt cả một đêm, t ởng chừng nh không bao giờ dứt, vẫn còn một chiếc lá th ờng
xuân bám trên bức t ờng ghạch. Đó là chiếc lá cuối cùng ở trên cây.
ở
gần cuống
lá còn giữ mầu xanh sẫm, nh ng với với rìa lá hình răng c a đã nhuộm mầu vàng
úa, chiếc lá vẫn dũng cảm treo bám vào cành, cách mặt đất l ng chừng 20 bộ .
+ Tự sự kết hợp với nghị luận:
ở ch ơng trình Ngữ văn THCS đã cung cấp 6 kiểu văn bản dựa trên 6 ph ơng
thức biểu đạt chính. Nếu nh các ph ơng thức miêu tả, biểu cảm, tự sự chủ yếu
dùng hình t ợng, hình ảnh, cảm xúc để tái hiện hiện thực thì nghị luận dùng lí lẽ
lô gíc phán đoán nhằm làm sáng toả một ý kiến một quan điểm, t t ởng nào đó.
Các ph ơng thức trên là cơ sở của t duy hình t ợng, còn nghị luận là cơ sở của t
duy lô gíc. Chính vì thế mà trong văn bản tự sự, để ng ời đọc, ng ời nghe phải suy
nghĩ về một vấn đề nào đó, ng ời viết, ng ời kể có khi nghị luận bằng cách nêu lên
các ý kiến nhận xét cùng những lí lẽ và dẫn chứng. Nội dung đó th ờng đ ợc diễn
đạt bằng hình thức lập luận làm cho câu chuyện thêm phần triết lí.
Ví dụ 3: Chao ôi ! đối với những ng ời ở xung quanh ta, nếu ta không cố
tìm mà hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc bần tiện, xấu xa bỉ ổitoàn là
những thứ để ta tàn nhẫn không bao giờ ta th ơng Vợ tôi không ác nh ng thị khổ
quá rồi. một ng ời đau chân có lúc nào quen đ ợc cái chân đau của mình để nghĩ
đến một gì khác đâu? Khi ng ời ta khổ quá thì ng ời ta chẳng nghĩ gì đến ai đ ợc
nữa. Cái bản tính tôt của ng ời ta bị những nỗi lo lắng buồn đau, ích kỉ che lấp
mất. Tôi biết vậy nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận.
Nh vậy, có thể nói rằng trong tự sự gần nh có tất cả các ph ơng thức biểu đạt
vì tự sự chính là bức tranh gần gũi nhất với cuộc sống mà cuộc sống thì hết sức
đa dạng, phong với đầy đủ tất cả các tình huống, cảnh ngộ, tất cả các kiểu nhân
vật, các mẫu ng ời mà ta gặp th ờng ngày. Vì thế mà trong văn bản tự sự có các
yếu tố khác kết hợp. Song tiêu biểu là các yếu tố miêu tả, biểu cảm và nghị luận
nh đã trình bày ở trên.
II/ Đặc điểm của đoạn văn tự sự
1.Quan niệm về đoạn văn.
2.Trong các tài liệu về ngữ pháp văn bản đã thừa nhận : Giữa câu
và văn bản có một đơn vị ngữ pháp, đơn vị này đ ợc gọi bằng những tên gọi khác
nhau: chỉnh thể cú pháp phù hợp, chỉnh thể trên câu, thành tố của văn bản, khổ
văn xuôi, đoạn vănĐó là đơn vị trung gian giữa các câu văn, văn bản. Ngoại trừ
văn bản chỉ có một câu, thông th ờng văn bản có nhiều câu. Nh ng câu không phải
là đơn vị cấu tạo nên văn bản mà chỉ là đơn vị trực tiếp cấu tạo nên đơn vị trung
gian này. Chỉnh thể trên câu là một đơn vị ngữ pháp có sự gắn bó một cách
chặt chẽ, có một kết cấu nhất định và thể hiện hoàn chỉnh một tiểu chủ đề. Còn
đoạn văn là một bộ phận của văn bản mang nhiều màu sắc phong cách .
( Phong cách cá nhân và phong cách chức năng ).
Vì vậy, dùng khái niệm đoạn văn trong việc xây dựng các loại văn bản là
hoàn toàn hợp lí. Tuy nhiên hiện nay đã và đang tồn tại nhiều cách hiểu khác
nhau về doạn văn.
Thứ nhất : đoạn văn đ ợc dùng với ý nghĩa chỉ sự phân đoạn về nội dung,
phân đoạn ý của văn bản.
Thứ hai : đoạn văn đ ợc hiểu là sự phân đoạn hoàn toàn mang tính hình thức.
Muốn có đoạn văn ta phải chấm xuống dòng.
Mỗi chỗ chấm xuống dòng cho ta một đoạn văn.
Nếu quan niệm đoạn văn nh vậy có nghĩa là bất chấp nội dung một đoạn
văn. Nh vậy, phải chăng đoạn văn đ ợc xay dựng một cách tuỳ tiện, không dựa
vào cơ sở ngữ nghĩa.
Hiện nay, có một cách hiểu thoả đáng hơn cả là coi đoạn văn vừa là sự phân
đoạn về nội dung, vừa là sự phân đoạn hình thức. Đoạn văn là đơn vị cơ sở của
văn bản. Về mặt nội dung đoạn văn phải đảm nhận một chức năng nào đấy về
mặt nghĩa, có thể hoàn chỉnh hoặc ch a hoàn chỉnh. Tính hoàn chỉnh này thể hiện
ở chỗ sau mỗi đoạn văn phải có dấu chấm xuống dòng,chữ đầu bao giờ cũng
phhải viết hoa và lùi vào phía trong. Dựa vào sự phân tích nh trên có thể quan
niệm Đoạn văn là cơ sở cấu thành văn bản trực tiếp đứng trên câu diễn đạt môt
nộ dung nhất định, đ ợc mở đầu bằng chỗ lùi vào đầu dòng, viết hoa và kết thúc
bằng dấu chấm ngắt đoạn).
Vậy, vấn đề đặt ra là: nếu căn cứ vào quan niệm đoạn văn nh trên, trong
những tr ờng hợp có đối thoại giữa các nhân vật, tức là khi xây dựng những đoạn
văn tự sự, khái niệm này cần phải lí giải nh thế nào ?
3. Đoạn văn tự sự.
Tự sự theo nghĩa rộng là ph ơng thức biểu đạt bằng cách kể ra các sự kiện
theo mối quan hệ nào đấy nh : quan hệ nhân quả, quan hệ liên t ởng. Cốt truyện
của tác phẩm tự sự đ ợc thể hiện qua môt chuỗi tình tiết, thông th ờng mỗi tình tiết
đ ợc kể bằng một đoạn văn. Bởi vậy, đoạn văn tự sự có thể giới thiệu nhân vật (lai
lịch, tên họ, quan hệ, tính tình, tài năng) hoặc kể về các việc làm, hành đọng,
lời nói, kết quả và sự đổi thay do các hành động ấy đem lại. ở đoạn có lời đối
đáp giữa các nhân vật th ờng t ơng ứng với một đoạn thoại, tức là đoạn đối thoại
ấy nhằm h ớng đến một nội dung nào đó trong toàn bộ nội dung của văn bản.
đoạn thoại có thể gồm nhiều cặp thoạ cùng h ớng đến một nội dung nào đó trong
toàn bộ cuộc thoại.
Vậy, thế nào là đoạn văn tự sự ? Đoạn văn tự sự có đặc điểm gì ? Để
hiểu đ ợc vấn đề này ta xết các ví dụ sau:
Ví dụ 1 : Chẳng bao lâu, ng ời chồng mất. Bà sinh ra một đứa bé không
chân, không tay, tròn nh một quả dừa. Bà buồn lắm toan vứt đi thì đứa con bảo:
-Mẹ ơi, con là ng ời đấy. Mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp. Nghĩ lại
thấy th ơng con, bà đành để con lại nuôi và đặt tên cho nó là Sọ Dừa .
Ví dụ 2 : Vị quan nọ bảo:
-Đ ợc, tôi sẽ đ a anh vào gặp vua với điều kiện anh phải chia đôi nửa
phần th ởng của nhà vua. Nếu không thì thôi.
Ng ời nông dân đồng ý. Viên quan nọ liền dẫn ông ta vào cung vua. Vua
cầm lấy viên ngọc và bảo:
-Thế anh muốn ta th ởng cho anh cái gì bây giờ ?
Ng ời nông dân bèn th a:
-Xin bệ hạ hãy th ởng cho thần 50 roi Chỉ có điều là hạ thần đã đồng
ý chia cho viên quan đã đ a thần vào đây một nửa số phần th ởng của bệ hạ. Vậy,
xin bệ hạ hãy th ởng cho mỗi ng ời 25 roi .
Xét hai phần văn bản trên, chúng ta nhận thấy t ơng ứng các nội dung
sau:
+ ở ví dụ 1 : tâm trạng của bà mẹ và thái độ của Sọ Dừa.
+ ở ví dụ 2 : sự tham lam của viên quanvà thái độ thông minh của ng ời nông
dân.
Đây là những đoạn văn tự sự trình bày những sự việc, những hành động
liên quan đến các nhân vật, tức là đã mang đặc tr ng cho phong cách chức năng
và phong cách cá nhân. Khái niệm đoạn văn tự sự ở đây liên quan trực tiếp đến
ngữ dụng học, đặc biệt là những khái niệm nh : cuộc thoại, đoạn thoại. Nh ng, cần
phải xác định: Đoạn văn tự sự là cuộc thoại hay đoạn thoại?
Cuộc thoại là đơn vị hội thoại bao trùm lớn nhất. Có thể nói, toàn bộ
hoạt động ngôn ngữ của con ng ời là trong chuỗi dằng dặc những lời đối đáp ấy
của con ng ời để nghiên cứu chính là cuộc thoại .
Có trê dựa trên các tiêu chí sau để xác định một cuộc thoại: - nhân vật
đối thoại: sự đ ơng diện liên tục của những ng ời đối thoại.
- Tính thống nhất về thời gian và địa điểm.
- Tính thống nhất về đề tài diễn ngôn.
- Các dấu hiệu danh giới về cuộc thoại.
- Đoạn thoại: là một mảng diễn ngôn do một số cặp trao đáp liên kết với
nhau về ngữ nghĩa (một chủ đề duy nhất) hoặc về ngữ dụng (tính duy nhất về
đích).
Cấu trúc tổng quát của một đoạn thoại có thể là:
+ Đoạn thoại mở thoại.
+ Thân cuộc thoại.
+ Đoạn thoạ kết thúc.
Từ cách phân tích và những khái niệm trên, có thể đi đén khẳng định: tự sự
là ph ơng thức trình bầy một chuỗi các sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc kia,
cuối cùng dẫn đến một kết thúc, thể hiện một ý nghĩa.
Bài văn tự sự gồm nhiều đoạn văn. Đoạn văn tự sự có thể giới thiệu về nhân
vật (lai lịch, tên họ, quan hệ, tính tình, tài năng) hoặc kể về các việc làm, hành
động, lời nói, kết quả và sự đổi thay do các hành đồng ấy đem lại. ở những đoạn
có lời đối đáp giữa các nhân vật th ờng t ơng ứng với một đoạn thoại, tức là đoạn
đối thoại ấy nhằm h ớng đến một nội dung nào đó trong toàn bộ cuộc thoại.
Nh vậy, phần văn bản ở ví dụ 1 trích dẫn ở trên là một đoạn văn tự sự t ơng
ứng với nội dung: tâm trạng của bà mẹ sau khi sinh con và thái độ của Sọ Dừa
khi nói với mẹ.
Phần văn bản ở ví dụ 2 gồm 2 đoạn văn tự sự t ơng ứng với hai nội dung sau:
mong muốn đ ợc dâng ngọc quí cho vua của ng ời nông dân và điều kiện của viên
quan ; thái độ của vua và câu trả lời thông minh của ng ời nông dân.
III/ yêu cầu của đoạn văn tự sự
Khái niệm đoạn văn và những vấn đề liên quan đến đoạn văn, các lớp trên
học sinh mới tiếp thu một cách hoàn chỉnh và có hệ thống. Nh ng từ lớp 6, học
sinh đã phải viết các đoạn văn tự sự, miêu tả. Vì vây, tr ớc khi h ớng dẫn học sinh
viết đoạn văn tự sự, giáo viên cần cung cấp một số vấn đề liên quan đến khái
niệm đoạn văn và những yêu cầu cụ thể khi viết đoạn văn, đặc biệt tạo cho học
sinh kĩ năng xác định câu chủ đề trong đoạn văn và viết những đoạn văn có câu
chủ đề.
Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu từ chữ viết hoa, lùi đầu
dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và th ờng biểu đạt một ý t ơng đối
hoàn chỉnh.
Một đoạn văn bao giờ cũng phải liên quan chặt chẽ với các đoạn văn khác
trong bài văn, nghĩa là đoạn văn ấy phải chịu sự chi phối của phong cách văn
bản. Đoạn văn tự sự phải mang màu sắc của văn bản tự sự, tức là phải kể về ng ời,
về việc, về hành động của các nhânvậth. Mỗi đoạn văn tự sự th ờng có một ý
chính diễn đạt thành một câu gọi là câu chủ đề. Các câu khác diễn đạt những ý
phụ dẫn đén ý chính đó, hoặc giải thích cho ý chính, làm cho ý chính nổi lên.
Các câu trong đoạn văn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau về nội dung (cùng h -
ớng về một vấn đề) và hình thức (các câu liên kết với nhau thông qua các ph ơng
tiện liên kết).
IV/ rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn tự sự
1 .Xác định ý của đề .
Để làm tốt bài văn tự sự, tr ớc khi làm phải đọc kĩ đề bài và nắm vững yêu
cầu của đề bài, từ đó sẽ xá định nội dung theo yêu cầu của đề. Nh vậy, xác định
của đề là suy nghĩ, định h ớng, xác định nội dung sẽ viết theo yêu cầu của đề. Cụ
thể là xác định nhân vật, sự việc, tình tiết, diễn biến, kết qua và ý nghĩa của
truyện. Nếu là truyện sáng tạo thì cần phải nghĩ về việc đặt tên truyện.
Với việc xác định ý của đề tuỳ theo yêu cầu của đề bài mà giáo viên h ớng
dẫn cho học sinh cách xác định ý, lựa chọn ý cho bài viết. Để làm sáng tỏ yêu
càu của đề bài học sinh cần phải triển khai, trình bày nội dung cụ thể của đối t -
ợng, tức là cần trả lời câu hỏi: viết những gì ? Với bài van tự sự học sinh cầnphải
xác định nhân vật, sự việc, diễn biến, kết quả và ý nghĩa của câu chuyện.
2 .Xác định câu chủ đề cho từng ý .
Trong văn bản tự sự có nhiều đoạn văn. Mỗi đoạn văn th ờng diễn đạt một ý
t ơng đối hoàn chỉnh. ý chính này th ờng đ ợc diễn đạt thành một câu, gọi là câu
chủ đề. Các câu khác diễn đạt những ý phụ dẫn đến ý chính đó, hoặc giải thích
cho ý chính, làm cho ý chính nổi lên. Để viết đ ợc các đoạn văn có nội dung phù
hợp với chủ đề của đoạn văn, tr ớc hết xác định chủ đề lớn của bài văn là gi ? Sau
đó mới xác định câu chủ đề cho từng ý, tức là từng đoạn văn. Các câu chủ đề của
đoạn văn th ờng nằm ở đàu đoạn (đoạn văn trình bày theo cách diễn dịch) hoặc ở
cuối đoạn (đoạn văn qui nạp).
3. Sử dụng phép liên kết và cách dùng từ trong đoạn văn .
Mỗi đoạn văn bao giờ cũng phải trình bay t ơng đối hoàn chỉnh một ý. Các
câu trong đoạn văn phải có quan hệ về ý nghĩa và phải liên kết chặt chẽ với nhau
bằng các ph ơng tiện liên kết.
Ph ơng tiện liên kết những từ, những tổ hợp từ dùng để liên kết câu.
Phép liên kết là cách sử dụng các ph ơng tiện liên kết để liên kết câu. Có các
phép liên kết sau: phép nối, phép lặp, phép thế, phép liên t ởng, phép nghịch đối
Ví dụ: - Đoạn văn sử dụng phép nối.
Cô không đẹp, chỉ xinh thôi. Và tính cô cũng nh tuổi cô còn trẻ con lắm,
thấy khách hàng nói một câu bông đùa, cô đã chửi ng ời ta chòng ghẹo mình, díu
đôi đôi lông mày lại và ngoe nguẩy cái mình. Khách trông thấy cũng c ời. Nh ng
cô cũng không giận ai lâu, chỉ một lát cô lại vui tỉnh ngay .
(Thạch Lam Hàng n ớc cô Dầu)
- Đoạn văn sử dụng phép lặp.
Mặt trời lặn dần sau đỉnh núi. Đã đến lúc khỉ và cáo phải về nhà. Khỉ bảo
cáo: Mai mời cậu đến nhà tớ chơi nhé, đ ợc không ? Cáo băn khoăn: Chỗ bạn
ở có bao nhiêu là nhà, làm sao tớ tìm đ ợc khỉ hào hứng
ồ
thế này nhé, tớ sẽ
vẽ lên trên cánh cổng nhà tớ. Bạn sẽ tìm thấy ngay thôi mà .
- Đoạn sử dụng phép thế .
Hùng V ơng thứ m ời tám có một ng ời con gái tên là Mị N ơng. Ng ời đẹp nh
hoa, tính nết hiền dịu. Vua cha yêu th ơng nàng hết mực, Muốn kén cho con một
ng ời chồng thật xứng đáng .
4. Cách viết đoạn văn tự sự .
Một đoạn văn tự sự thông th ờng gồm có cấu tạo ba phần: Mở bài, Thân bài,
Kết bài.
Mở bài và Kết bài th ờng đ ợc viết thành một đoạn văn, còn phần thân bài
gồm nhiều đoạn văn.
4.1 . Cách viết đoạn Mở bài :
Phần mở bài có nhiệm vụ giới thiệu nhân vật, tình huống phát sinh câu
chuyện, không gian, thời gian của câu chuyện. Nh vậy, phần này phải trả lời các
câu hỏi: câu chuyên xảy ra ở đâu ? Vào không gian nào ? Câu chuyện có mấy
nhân vật ? Nhân vật chính là ai ? Cũng có lúc ng ời ta bắt đầu từ một sự cố nào
đó, hoặc kết cục câu chuyện, số phận nhân vật, rồi ng ợc lên kể lại từ đầu.
Nhìn chung cách mở bài của bài văn tự sự rất phong phú đa dạng, bao gồm:
*Giới thiệu nhân vật và tình huống phát sinh câu chuyện. Cách mở bài này
nhằm thu hút ng ời đọc, tạo sự tò mò đối với ng ời đọc. Cách này ta th ờng thấy
trong những câu chuyện cổ tích, chuyện ngụ ngôn.
Ví dụ: Hùng V ơng thứ m ời tám có một ng ời con gái tên là Mị N ơng, ng ời
đẹp nh hoa, tính nết hiên dịu, vua cha yêu th ơng hết mực, muốn kến cho con một
ng ời chồng thật xứng đáng .
* Cách mở bài giới thiệu trực tiếp nhân vật.
Ví dụ: Cô Mắt, cậu chân, cậu Tay, bác Tai, lão Miệng từ x a vẫn sông với
nhau khá thân thiết.
* Cũng t ơng tự nh cách mở bài giới thiệu trực tiếp nhân vật nh ng có khi kể
lại theo ngôi thứ nhất, nhân vật trong truyện tự giới thiệu về mình.
Ví dụ: Chúng tôi có ba ng ời. Ba cô gái. chúng tôi ở trong một hang d ới
chân núi cao điểm. Con đ ơng qua tr ớc hang kéo lên đồi đi đến đâu đóxa ! Đ ờng
bị đánh lỡ loét, Màu đất đỏ, trắng lẫn lộn. Hai bên đ ơng không có lá xanh, chỉ
có những thân cây bị t ớc khô cháy. Những cây nhiều rể nằm lăn lóc. Những tảng
đá to.Một vài cái thùng xăng hoặc vành ô tô méo mó, han ghỉ nằm trong lòng
đất .
* Cũng có những truyện lại đ ợc bắt đầu bằng vài câu tả cảnh, tả thời khắc
lúc đó để tạo bối cảnh cho chuyện.
Ví dụ: Ngoài cửa sổ bấy giờ những bông hoa bằng lăng đã th a thớt, cái
giống hoa ngay từ khi mới nở, màu săc đã nhợt nhạt;Hẳn có lẽ vì đã sắp hết
mùa, hoa đã vãn trên cành, cho nên mấy bông hoa còn sót lại trở nên đậm sắc
hơn
* Cách mở đàu nói đến kết quả sự việc rồi mới ng ợc lên kẻ lại từ đầu.
Ví dụ : Các bạn ! Mỗi lần nhìn thấy cây l ợc ngà nhỏ ấy là mỗi lần tôi băn
khoăn và ngậm ngùi.Trong cuộc đời kháng chiến của tôi ; tôi đã chứng kiến
không biết bao nhiêu là cuộc chia tay, nh ng tôi ch a bao giờ lại xúc đông nh lần
ấy
Nh vậy, trong văn bản tự sự có nhiều cách mở đàu câu chuyện, điều đáng
quan tâm là phải mở đầu làm sao để thu hút sự quan tâm chú ý, tò mò, hấp dẫn
đối với ng ời đọc. Hầu hết học sinh đều cảm thấy rất khó khăn khi viết đoạn mở
bài. Bởi vì mở bài có l u loắt, trong sáng, hấp dẫn thì làm văn mới có cảm xúc,
mới hay và thu hút ng ời đọc. Chính vì vậy, rèn luyện kĩ năng viết đoạn mở bài
cho học sinh là điều đáng quan tâm đối với mỗi giáo viên dạy văn.
4.2. Cách viết đoạn thân bài.
Phần thân bài của bài văn tự sự gồm nhiều đoạn văn. Mỗi đoạn văn là một ý
của bài. Các đoạn trong phần này có thể đ ợc trìng bày theo các trình tự nhất
định. Song vẫn có các cách viết khác.
+ Đoạn văn giới thiệu nhân vật.
Trong tác phẩm tự sự, nhân vật là đặc tr ng thẩm mĩ cốt yếu đóng vai trò
trung tâm của tác phẩm. Không có nhân vật thì không có cốt truyện. Mọi diễn
biến mâu thuẫn và những vấn đề nảy sinh cần giải quyết đều phải biểu hiện qua
nhân vật và hành động của nhân vật. Mọi sự việc trong văn tự sự điều xoay
quanh nhân vật, do nhân vật làm và thể hiện tính cách nhân vật.
Ví dụ: Sơn Tinh, Thuỷ Tinh hai nhân vật này đ ợc khắc hoạ nh sau: Sơn
Tinh ở vùng núi Tản Viên, có tài lạ. Vẫy tay về phía Đông, phía Đông nổi cồn
bãi, vẫy tay về phía Tây, phía Tây mọc lên dãy núi đồi. Còn nhân vật Thuỷ Tinh
thì: gọi gió, gió đến, hô m a, m a về, là chúa của vùng n ớc thẳm.
Các nhân vật trong tác phẩm tự sự có quan hệ thân thiết với nhau và đều có
mối quan hệ với cốt truyện. Chính nhân vật sẽ quyết định việc lựa chọn cốt
truyện, bởi vì cốt truyện chính là hệ thống các biến cố tạo thành hệ thống quan
trọng duy nhất của tác phẩm. Xây dựng nhân vào trong quan hệ với các nhân vật
khác trong hệ thống các biến cố, sự kiện để từ đó tính cách nhân vật đ ợc bọc lộ.
Nhân vật là một đặc tr ng cơ bản của tác phẩm tự sự, vì thế việc xây dựng
đoạn văn về nhân vật giữ một vai trò quan trọng trong tác phẩm văn học.
+ Đoạn văn xây dựng sự việc:
Tự sự là trình bày một chuỗi sự việc để thông báo , giải thích, tìm hiểu, thể
hiện một điều gì (chủ đề). Do đó, muốn tự sự, ng ời ta phải chọn sự việc, liên kết
sự việc sao cho thể hiện đ ợc điều muốn nói (tức là chủ đề của truyện) làm cho
câu chuyện có ý nghĩa. Vì vậy, tự sự không đơn giản là kể việc mà kể việc sao
cho có ý nghĩa, sắp xếp theo một hệ thống đảm bảo tính liên kết giữa các sự việc,
làm cho câu chuyện phát triển một cách tự nhiên. Nếu trong một đoạn văn xây
dựng sự việc theo kiểu sáng tr a chiều tối thì không tạo câu chuyện,
hoặc chuỗi các sự vật liên tiếp không có sự kiện biến cố cũng không tạo thành
truyện bởi vì nó vô nghia. Sự việc tạo thành câu chuyện phải khác th ờng, tác
đông của sự việc phải gây biến đổi, nhằm bọc lộ ban tính, nguyên nhân bên
trong của con ng ời hay sự vật mới tạo thành truyện.
Sự việc trong văn tự sự th ờng đ ợc kể một cách cụ thể: sự việc xảy ra trong
khoảng không gian, thời gian nh thế nào (sáng, tr a, chiều, tối, thời kì nào, ở đâu)
Ví dụ: Bấy giờ ở Trung Quốc, nhà Tần vừa thành lập( năm 221-tr ớc
CN) .Năm 218 Tần Thuỷ Hoàng sai t ớng Đỗ Th đem 50 vạn quân chia thành
năm mũi xâm l ợc đất Bắch Việt ở phía Nam. Quân Tần Thuỷ Hoàng đến đâu lấy
thêm quân huyện mới đến đấy () quân xâm l ợc tàn bạo càng hung hăng tiến
sâu vào đất cua ng ời Âu Việt Lạc Việt .
Trong hệ thống sự việc của đoạn văn tự sự : có sự việc khởi đầu, sự việc cao
trào, sự việc kết thúc. Khi xây dựng sự việc cần có sự việc mở đầu, nó là nguyên
nhâ trực tiếp làm bùng nổ các xung đột.
Ví dụ : sự việc mở đầu trong truyện Sơn Tinh Thuỷ Tinh là vua Hùng
V ơng thứ m ời tám kén phò mã. Đó là nguyên nhân của các sự việc tiếp theo: Sơn
Tinh Thuỷ Tinh đến cầu hôn. Vua thách sính lễ, Sơn Tinh lấy đ ợc vợ.
Sự phát triển bao gồm các chuỗi sự kiện hoặc các biến cố nối tiếp nhau làm
cho xung đột phát triển đến cao trào, sự việc cao trào là xung đột gay gắt căng
thẳng và đi đến chỗ nhất thiết phải giải quyết.
Ví dụ: Thuỷ Tinh không lấy đ ợc vợ, nổi giận đem quân đuổi theo đánh Sơn
Tinh, hòng c ớp lại Mị N ơng, Sơn Tinh cũng không chịu thất bại và đánh trả lại
Thuỷ Tinh. Sự việc kết thúc là kết quả của xung đột đ ợc giải quyết, ví dụ: Thuỷ
Tinh thất bại.
Các sự việc đ ợc sắp xếp theo một trình tự hợp lí cái tr ớc là nguyên nhân của
cái sau và là cái kết quả của cái tr ớc. Đó là sự sắp xếp nh thế khiến cho các sự
việc quan hệ với nhau gắn bó chặt chẽ. Nh vậy, xây dựng sự việc chính là quá
trình tìm ý, chọn ý, sắp xếp các ý để viết đoạn văn tự sự.
* Đoạn văn sử dụng ngôi kể và thay đổi ngôi kể trong văn tự sự.
a/ Kể theo ngôi thứ nhất: khi kể theo ngôi thứ nhất, ng ời kể chuyện x ng: tôi,
chúng tôi, em, chúng em. Cách kể này mang màu sắc cá nhân, kể những gì mình
biết, mình làm.
Có hai loại ngôi kể: ngôi kể thứ nhất của tác giả đứng ra kể chuyện mình
hoặc chuyện mình biết. Ví dụ: bút kí, hồi kí, và ngôi thứ nhất đ ợc kể bằng lời
của một nhân vật h cấu. Ví dụ: Dế Mèn phiêu l u kí ( Tô Hoài)
b/ Kể theo ngôi thứ ba:
Kể theo ngôi thứ ba là ngôi kể rất cổ x a, th ờng gặp trong thần thoại,
truyền thuyết, cổ tích. ở đó, ng ời kể bằng cách gọi tên sự vật, nhân vật. Nh ng
cũng có lúc ng ời kể có nhu cầu bọc lộ thái độ chủ quan của mình bằng cách bình
luận về một điều gì đó.
Sự thay đổi ngôi kể trong đoạn văn tự sự.
Trong tác phẩm tự sự không phải lúc nào nhà văn cũng chỉ sử dụng một
ngôi kể, để tạo nên sự hấp dẫn cho câu chuyên cần phải phối hợp các ngôi kể với
nhau. Một câu chuyện có thể kể theo ngôi thứ ba, nh ng khi tả ng ời, tả cảnh lại
nhìn nhận theo cách nhìn một nhân vật trong truyện.
Ví dụ: trong truyện Lão Hạc (Nam Cao) toàn bộ câu chuyện đ ợc kể bằng
lời của ông giáo, nh ng khi tả cảnh bắt chó, Lão Hạc than thở lại đ ợc kể bằng lời
của Lão Hạc. Đó là sự chuyển đổi ngôi kể.
* Đoạn văn tự sự kết hợp với yếu tố miêu tả và biểu cảm.
Ví dụ: Dân phu kể hàng trăm ngàn con ng ời, từ chiều đến giờ hết sức giữ gìn,
kẻ thì thuổng, ng ời thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm d ới
bùn lầy ngập quá khửu chân, ng ời nào, ng ời nấy l ớt th ớt nh chuột lột. Tình cảnh
trông thật là thảm (Phạm Duy Tốn Sống chết mặc bay).
* Đoạn văn tự sự kết hợp với yếu tố nghị luận.
Ví dụ: Nhĩ nghĩ một cách buồn bả con ng ời ta trên đ ờng đời thật khó
tránh đ ợc những điều vòng vèo hoặc chùng trình, vả lại nó đã thấy có cái gì hấp
dẫn ở bên sông đâu ? Hoạ chăng chỉ có anh đã từng trải, từng in gót chân khắp
mọi chân trời xa lạ mới thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi
sông Hồng ngay bờ bên kia, cả trong những nét tiêu sơ, và cái điều riêng anh
khám phá thấy giống nh một niềm say mê ph lẫn với một nỗi ân hận, đau đớn,
lời lẽ không bao giờ giải thích khác .
4.3 . Cách viết đoạn kết bài.
Cũng nh phần mở bài, phần kết bài cũng có nhiêu cách kết thúc: thông th -
ờng kết thúc hay gắn với chủ đề câu chuyện. Hay cụ thể hơn là truyện cổ tích th -
ờng hay khép lại bằng hai chữ: từ đây, từ đó .
Ví dụ: Từ đó, oán nặng thù sâu, hàng năm Thuỷ Tinh làm m a gió, bão lụt
dâng n ớc đánh Sơn Tinh
Ví dụ: Thánh Gióng đánh đuổi xong giặc Ân, một mình, một ngựa, cởi bỏ
giáp sắt và bay về trời ( Thánh Gióng).
Kết thúc mở.
Là loại kết thúc mà khi các diễn biến còn ch a kết thúc để ng ời đọc tự suy
luận về h ớng phát triển của câu chuyện. Cách kết thúc nh vậy lai ch a phải kết
thúc.
Ví dụ: Kết thúc của tác phẩm Tắt đèn Ngô Tất Tố.
Hoặc : tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa Nguyễn Thành Long.
V/ Một số đoạn văn tự sự tiêu biểu
Đoạn mở bài :
1 . Trời vừa sáng, tờ lịch bay bay nh muốn nói: cô bé ơi hôm nay thứ ba
rồi đấy ! Em vùng dạy, tìm cặp sách, chiếc cặp to phồng những sách vở em
chuẩn bị từ tr ớc khi đi ngủ, đang nằm ngay ngắn trên bàn trong t thế sẵn
sàng Bác đồng hồ kêu reng reng nhắc đã đến giờ. Nào chào chị lịch chăm
chỉ, chào bác đồng hồ vui tính; em đi học nhé.
( Bài làm của học sinh).
2 . Năm học này, lớp em có nhiều bạn học sinh đã nêu cao tấm g ơng bền bỉ,
khắc phục khó khăn trong học tập đạt nhiều thắng lợi có bạn yếu Văn đã trở
thành giỏi Văn. Có bạn yếu Toán đã trở thành học sinh giỏi Toán. Nhiều tấm g -
ơng sáng đã làm em vô cùng cảm phục. Trong số đó g ơng bạn Thu Lan đã in sâu
vào tâm trí em nhất.
(Theo Tập làm văn lớp 5- Sở giáo dục Cửu Long)
3 . Trời về m a, cái nắng càng trở nên gay gắt. Những đợt gió mạnh ào qua
làm hơi nóng từ đ ờng nhựa bốc lên hầm hập, cuốn bụi bay mù mịt. Tôi gò l ng
trên chiếc xe đạp mong cho mau chóng về tới nhà. Sau một buổi học căng thẳng,
giờ thì trong bụng đã đói meo. Lại thêm cả khát nữa. Con đ ờng nh dài ra, mắt
tôi chợt sáng lên khi nhìn thấy hiệu kem tr ớc mắt. Phải rồi, lúc này mà th ởng
thức cảm giác mát lạnh của một que kem thì thú vị phải biết. Một ngìn mẹ cho
ăn sáng vẫn còn nguyên đây. Tôi vội vả ghé xe vào vệ đ ờng. Đột nhiên, tôi giật
bắn mình vì một tiếng quát the thé:
- Thằng ranh kia ! Cứ đứng ám mãi tr ớc hàng ng ời ta thế hả ? Có xéo ngay
đi không thì bảo !
Thì ra bà chủ hiệu kem đang quát một đứa ăn xin gầy gò rách r ới.
4 . Hàng năm đã trôi qua, Thuỷ Tinh lặng lẽ ôm nỗi buôn d ới Thuỷ Cung.
Chàng nghĩ tới Mị N ơng và vẫn không thôi khao khát đ ợc cùng nàng nên vợ nên
chồng. Và có lẽ buồn hơn cả là cái tiếng xấu mà thiên hạ đã gán cho chàng kể từ
ngày giữa chàng và Sơn Tinh giao chiến để giành Mị N ơng. Thế rồi một hôm,
Thuỷ tinh quyết đi tìm Mị N ơng. Chàng từ ơbiển Đông ng ợc dòng sông Hồng
men theo con suối nhỏ để đi lên nui Tản. Một ngày. Hai ngay. Một tháng.
Hâithngs. Núi Tản kia rồi, Thuỷ Tinh nép mình sau tảng đá lớn. Chàng hy vọng
Mị N ơng sẽ ra suối
5 . Một buổi sáng, tôi đến tr ờng sớm hơn mọi ngày để làm trực nhật. Đang từ
từ đ a những lát chổi nơi hành lang, tôi chợt nghe thấy tiếng rền rĩ : Ai ! Đau
quá ! Sao tôi lại khổ thế này ! Tôi b ớc về phía có tiếng rên ấy và sững ng ời lại:
Tr ớc mắt tôi, bức t ờng hành lang loang lổ những vết x ớc và những hình vẽ. Chắc
đây là trò đùa của mấy cậu học sinh lớp 6 E đây mà.Lớp này luôn đứng bét tr -
ờng vì mấy vị tr ờng này.
Đoạn thân bài :
1. Chiều hôm qua, khi trống tr ờng đã tan, một nhóm học trò vẫn còn nán
lại. Họ thì thầm với nhau một điều gì đó rồi cả lũ kéo đi. Một lúc sau họ quay
lại, mặt cậu nào, cậu nấy đỏ phừng phừng; Quần áo thì lấm lem bụi đất. Hình
nh họ vừa đá bóng thua thì phải. Tiếng cải nhau ỏm tỏi. Tiếng gắt gỏng om sòm.
Bỗng huỵch cậu Dũng béo th ợng cả đôi giày bẩn thiểu dính đkầy bùn đất, đá
phốc vào ng ời tôi khiến tôi choáng cả ng ời. Ch a kịp định thần lại thì thêm một
cú trời giáng nữa. Tôi tối tăm cả mặt mũi. Ôi ! Cái áo trắng tinh của tôi ! Một
vài vết x ớc đã hằn lên thân thể tôi.
2. Mị N ơng thoáng đỏ mặt. Nàng không thể không chạnh lòng tr ớc lời tâm
sự chân thành của Thuỷ Tinh. Tự nàng cũng rõ rằng ngày ấy, khi cùng các lạc
Hầu bàn bạc để tìm cách chọn rể hiền. Vua cha cùng với quần thần trong triều
đã ngầm thiên vị cho Sơn Tinh. Ngay cả lúc ấy, dù thầm thán phục cả hai chàng
nh nhau, nh ng tự trong thâm tâm, nàng vẫn thấy Sơn Tinh gần gũi với mình hơn.
Vả lại chỉ nghĩ tới việc lấy chông về miền n ớc thẳm xa xôi cách trở, nàng đã sợ
hãi rfồi. Nh ng mọi chuyên đã qua Mị N ơng nghiêm nghị nhìn Thuỷ Tinh.
- Ta hiểu lòng chàng nh ng sau khi mọi việc đã in bề sao chàng còn gây
chiến với phu quân ta mãi không thôi, để muôn dân điêu đứng ? Chàng thật
đáng trách.
3. Mùa thu năm ấy, một mùa thu không thể nào quên; Đó là những ngày lụt
lội. Tôi còn nhớ rất rõ. N ớc ngập hơn nửa bánh xe. M a, gió, gào rít dữ dộ. Cha
tôi hôm ấy hơi mệt vì tối qua bị mắc m a. Nếu nghỉ mất một buổi thì hơi tiếc vì
toàn là môn khó. nh ng nhìn cha với dáng vẻ mệt mỏi rồi nhìn ra ngoài trời m a
gió, tôi lại tự an ủi Thôi, mai mình m ợn vở của bạn cũng đ ợc, nh ng nếu mai
cũng.
- Thuý ơi ! Tiếng gọi của cha cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi.
- Dạ ! Tôi vừa trả lời, vừa chạy vào.
- Con lấy đeo vào, mặc áo m a rồi dắt xe ra, cha sẽ chở con đi.
- Nh ng mà cha
- Không sao đâu, cha chỉ hơi mệt thôi mà. Lẹ lên con !
- Vâng ạ !
4. Có một giọt n ớc m a đậu trên cành lá hồng nhung non tơ. Nó vừa đ ợc tia
nắng sớm thức dạy, ngái ngủ v ơn mình ngắm nhìn xung quanh. Rồi nó nhìn lại
mình sung s ớng nghĩ bụng: Chà mình đẹp quá. có lẽ muôn vật trong khu v ờn
này đều đang chiêm ng ỡng vẻ đẹp kiềù diễm của mình .
5. Gia đình Sẻ sống trong khu rừng này từ bao giờ, Sẻ em không biết nữa. Từ
khi ra đời. Sẻ em đã thấy mọi ng ời thật gần gủi và thân thiết với mình. Mẹ Sẻ
chăm sóc các con rất chu đáo. Anh em Sẻ chẳng thiếu thứ gì. Hôm thì những
thóc vàng ơm. Hôm thì năm kê béo ngậy. Có hôm lại là chú Cào Cào. Khi anh
em nhà Sẻ đã cứng cáp, mẹ giành thời gian dạy chúng tập bay. Bao giờ mẹ cũng
nhắc đi nhắc lại câu Có công mài sắt có ngày nên kim . Em nghĩ bụng Họ
nhà chim thì ai chẳng biết bay. Cứ có cánh là bay đ ợc tất, cần gì phải tập ! .
6. Chiều chiều tôi th ờng cùng ông ra v ờn bắt sâu và t ới n ớc cho cây. Trong
tất cả các cây ở khu v ờn này, hình nh ông thích nhất cây mai tử quí. Ông hay
dừng lại, chăm chút cho nó thật lâu. Có hôm, ông còn thì thầm trò chuyện với nó
nữa. Thấy lạ, tôi hỏi thì ông trả lời rằng đây là cây mai mà một ng ời đồng đội cũ
vủa ông đã đem từ miền Nam ra tặng. Nhìn mắt ông hơi chớp chớp, giọng lạc
hẳn đi, tôi có vẻ thắc mắc. Mãi ông mới nói thêm rằng ng ời đồng đội của ông đã
mất vì vết th ơng cũ tái phát. Tôi hiểu và th ơng ông tôi nhiều hơn. Từ đó, tôi càng
chăm t ới n ớc và bắt sâu cho cây mai.
7. Từ buổi ấy, tôi và Hà trở thành đôi bạn thân. Hà sống ở đây đã lâu nên
ngõ ngách nào cũng thân thuộc. Chiều chiều, chúng tôi cùng bọn trẻ trong xóm
lùa trâu ra bãi cỏ sông sau làng. Đây là v ơng quốc riêng của bọn trẻ. Thôi thì
đủ các tro: nào thả diều, nào đánh trận giả, nào nhảy dây, kéo coĐứa nào
cũng thủ sẵn một thứ quà vặt trong túi. Mấy quả ổi xanh, một nắm lạc luộc,
chùm dâu gia chín Ban đầu, thấy tôi còn ngại ngùng rụt rè, Hà kéo tay tôi ào
vào nhập cuộc. Lâu quen dần, tôi trở nên bạo dạn. Cũng chạy nhảy. Cũng hò
hét; N ớc da trắng hồng của tôi đã đ ợc nhuộm màu nh ng điều đó không làm tôi
bận tâm. Bởi vì tôi đlã có đ ợc một quãng tuổi thơ đầy ý nghĩa.
Đoạn kết bài .
1. Mị N ơng đứng lặng hồi lâu. Lời Thuỷ Tinh vẫn còn văng vẳng bên tai
nàng. Sự oán trách Thuỷ Tinh d ờng nh đã tiêu tan đâu cả. Nàng nghĩ tới những
câu nói cuối cùng của thần N ớc. Những cánh rừng đầu nguồn bị phá Môi tr -
ờng bị ô nhiễm Con ng ời cũng chịu một phần trách nhiệm tr ớc những thiên tai.
Nàng hiểu ý Thuỷ Tinh muốn nói gì. Diều nàng có thể làm đ ợc lúc này để minh
oan phần nào cho Thuỷ Tinh chính là cùng với Sơn Tinh ngăn chặn những sai
lầm của con ng ời. Phải giữ lấy những cánh rừng. Thuỷ Tinh ! Chàng hãy yên
tâm. Thiếp sẽ không phụ lòng chàng đâu ! Mị N ơng thầm nhủ trong lòng. Nàng
rời bờ suối, rảo gót quay về. Sơn Tinh con đợi nàng trên đỉnh núi kia.
2. Thế đấy các bạn ạ. Đó là một kỉ niệm sâu sắc mà bây giờ hay cho mãi về
sau này tôi không thể nào quên đ ợc. Nó trở thành một sợi dây vô hình nêu giữ
những kí ức tuổi thơ, nêu giữ những tình cảm thiêng liêng để tôi luôn tự nhắc với
lòng mình rằng: phải sống tốt hơn ! Sống tốt hơn nữa.
(Đặng Thị thuý Tr ờng THCS Đặng Thai Mai )
3. Rồi mùa xuân đi qua, mùa hè lại tới. Ch a bao giờ hạn hán lại kéo dài đến
thế. Mặt trời chói chang nh quả cầu lửa hun nóng tất thảy mọi vật và cây cối rủ
xuống. Hoa không nở, chim chẳng còn hót. Dòng suối cảm thấy mệt mỏi chẳng
còn đủ sức mà rong chơi nữa. Một ngày kia, nó hốt hoảng nhận ra rằng mình
ngày một cạn kiệt đi. Nó ng ớc nhìn lên ngọn núi sừng sững. Một màu sanh vẫn
phủ kiến, trông mới tràn trềm sức sống làm sao. Dòng suôis chợt nép mình chân
núi và cảm thấy mình thật bé nhỏ.
(Đặng Thị Thuý Tr ờng THCS Đặng Thai Mai)
4. Lắng nghe lời tâm sự của bức t ờng, tôi cảm thấy những cô cậu học trò ấy
thật đáng trách. Tôi cuối xuống thu gom những mẩu gạch vỡ vụn và vụn vôi,dọn
lại bãi chiến tr ờng. Ngay chiều hôm ấy, bác bảo vểt ờng cùng với nhóm học sinh
nghịch ngợm chiều qua đã đ a vôi vữa đến sửa sang lại bức t ờng. Những vết x ớc,
những câu chuyện đáng buồn ấy thì có thể sẽ không bao giờ phai mờ trong tâm
trí của nó và của tôi nữa.
(Đặng Thị Thuý Tr ờng THCS Đặng Thai Mai)
5. Mặt trời lên cao. Giọt n ớc m a cảm thấy hình nh mình đang bị thu nhỏ
lại. Nó không còn đủ sức để nhún nhảy nữa. Nó khô dần, khô dần rồi tan biến.
Trong khi đó, Vũng N ớc đọng vẫn cần mẫn thấm dần, thấm dần vào lòng
đất. Vị n ớc mát lạnh, ngọt ngào tiếp sức cho từng chiếc rễ của cây hoa hồng.
Cành lá rung rinh, rung rinh trong gió nh muốn nói: Cảm ơn bác Vũng N ớc,
cảm ơn bác Vũng N ớc.
6. Khi chúng tôi học hết tiểu học, bố mẹ tôi cũng hoàn thành chuyến công
tác xa, xin phép ông bà nội đón tôi lên thành phố. Và thật ngẫu nhiên đó cũng là
lúc gia đình Hà cùng chuyển vào Nam. Thế là chúng tôi xa nhau. buổi chia tay
diễn ra vô cùng xúc động. Đứa nào cũng khóc. Nh ng chúng tôi biết rằng khoảng
cách không gian và thời gian sẽ không thể nào chia cắt nổi tình bạn thân thiết
của chúng tôi.
I/ Đ ặc điểm của đoạn văn nghị luận
Trong đời sống xã hội, nhu cầu giao tiếp giữa con ng ời với con ng ời luôn đặt
ra những vấn đề cần trao đổi, bàn bạc thống nhất, đồng thuận, phản bác. và
nghị luận cũng bắt đầu từ đó. Xã hội càng phát triển, nghị luận trong giao tiếp
càng phong phú, sâu sắc trong mọi lĩnh vực của đời sông: thiên nhiên, lao động
sáng tạo, ứng xử, sinh hoạt cộng đồng ở đâu cũng cần nghị luận.
Nghị luận là loại văn trong đó ng ời viết (ng ời nói) trình bày những ý kién
của mình bằng càch dùng lí luận bao gồm cả lí lẽ và dẫn chứng để làm rõ một
vấn đề về chân lí nhằm làm cho ng ời đọc (ng ời nghe) hiểu tin, đồng tình với
những ý kiên của mình và hành động theo những diều mình đề xuất.
Văn nghị luận đ ợc viết ra nhằm xác lập cho ng ời đọc, ng ời nghe một t t ởng,
một quan điẻm nào đó. Vì thế nó th ờng có luận điểm rõ ràng, có lí lẽ, dãn chứng
thuyết phục. Và trong bài văn, đoạn văn nghị luận th ờng có bốn đặc điểm cớ bản
sau:
1. Vấn đề có ý nghĩa xã hội là nội dung nghị luận.
Giáo s tiên sĩ Nguyễn Thanh Hùng: Thành phần nội dung quan trọng để xây
dựng nên bài văn nghị luận là vấn đề có ý nghĩa xã hội. Từ đây tác giả giải
thích thuật ngữ vấn đề, ý nghĩa xã hội của vấn đề là nhân tố nội dung quan
trọng của văn bản nghị luận.
Thuật ngữ vấn đề đ ợc nảy sinh trong quan hệ giữa cái quen thuộc, đã biết
và cái xa lạ, ch a biết vấn đề xuất hiện do nhu cầu thực tiễn và lí luận. Tìm hiểu
vấn đề, xác định rõ vấn đề. Phân tích, lí giải vấn đề và giải quyết vấn đề một
cách khách quan khoa học là tính chất nghiên cứu của quá trình nghị luận.
Ta lại biết vấn đề chỉ có thể trở thành trọng tâm bàn bạc thảo luận khi nào
vấn đề ấy chứa đựng ý nghĩa xã hội. Nó phải là vấn đề đ ợc nhiều ng ời quan tâm,
giải quyết xong vấn đề ấy sẽ có tác dụng sâu rộng tới sự phát triển của con ng ời
và xã hội vì vấn đề ấy đang đặt ra ý nghĩ lí luận vàm thực tiễn to lớn mà ch a đ ợc
giải quyết trọn ven. Với cách hiểu vấn đề nh thế sẽ thấy rõ tính chất phong phú
của ý kiến, thấy rõ sự khác nhau của các chiều h ớng bàn luận.
Biết đặt vấn đề cũng có nghĩa là lúc mở ra con đ ờng giải quyết nó.
Giải quyết vân đề là khám phá những tri thức bên ngoài hệ thống kiến thức
đã đ ợc phát hiện. Con trả lời những câu hỏi đkặt ra chỉ là việc tìm kiếm thông tin
trong hệ thống kiến thức thời đại. Nội dung câu hỏi đơn giản hơn nội dung vấn
đề. Trả lời hệ thống câu hỏi quyết định tính chất cụ thể của việc giải quyết vấn
đề. thực tiễn tuy là tiêu chuẩn kiểm nghiệm đầu tiên giá trị chân lí của vấn đề,
nh ng không phải là tiêu chuẩn duy nhất mà còn phải đ ợc bổ sung bằng tiêu
chuẩn khoa học và trình độ giải quyết vấn đề bằng sự phát triển lí luận.
Văn nghị luận có sức mạnh hấp dẫn và phổ biến trong đời sống con ng ời là
vì thế. Hoài Thanh cũng đã từng suy nghĩ:
Duy có điều câu chuyện luôn luôn có vấn đề. Đặt vấn đề, giải quyết vấn đề
rồi lại đặt vấn đề y nh trong cuộc sống vậy. Có nh thế mới đủ sức hấp dẫn ng ời
ta. Bởi vì vậy, bằng cách đặt vấn đề, cách trình bày, kể cả cách nói, cách viết,
mang lại một cái gì ít nhiều bổ ích và thú vị.
( Hoài Thanh Tuyển tập).
Tóm lại vấn đề có ý nghĩa xã hội nh đã trình bày ở trên là nội dung hiện
thực của văn nghị luận. Vì thế văn nghị luận mang đậm tính chất nghiên cứu và
có tính chất lí luận cao.
2.Tính chất lôgíc của văn nghị luận.
Bản thân tuật ngữ này cho biết nghị luận là bàn bạc, phân tích, đồng tình
hay phản bácmột vấn đề nào đó để tìm hiểu và thẩm định giá trị lí luận. Học sinh
phải vận dụng trí óc và suy nghĩ để tìm hiểu, tiếp thu có phê phá. Điều đó đòi hỏi
ng ời làm bài phải có kiến thức phong phú và phải biết cách thức lí luận sinh hoạt.
Văn nghị luận chẳng những mang tính xã hội của mục đích giải quyết vấn
đề, đáp ứng nhu cầu đ ơng thời mà còn công khai hoá vấn đề và con đ ờng giải
quyết vấn đề để mọi ng ời cùng xem xét, tranh luận. Tranh luận và thuyết phục là
tình huống có đối t ợng trực tiếp hoặc gián tiếp trong văn nghị luận để ng ời
viết, ng ời nío vận dụng ngôn ngữ diễn đạt t t ởng theo hình thức t duy lí luận hợp
lôgic.
Tính chất lôgic trong văn nghị luận thể hiẹn trong việc hoàn thiện hệ thống
nguyên tắc chuẩn mực của ngôn ngữ, h ớng lời nói và viết những chuẩn mực đó
một cách có suy nghĩ. Ngoài cú pháp đảm bảo sự kết hợp chặt chẽ của suy nghĩ
để con ng ời hiểu nhau trong cuộc sống giao tiếp, văn nghị luận còn phải vận
dụng phép tu từ chuyển nghĩa để diễn đạt đầy đủ ý tứ tạo nên phong cáh tinh tế,
uyên chuyển và lí thú.
Việc vận dụng cú pháp và tu từ trong văn nghị luận không đ ợc phép xa rời
tính chất chất lo gic để việc trình bày t t ởng suy nghỉ dễ hiểu, trong sáng, hợp lí
hơn.
Văn nghị luận không chỉ nhằm thuyết phục ng ời đọc bằng ph ơng pháp t duy
lôgic thuần khiết mà còn phát hiện ra sự thật đời sống, giá trị và ý ngiã của nó.
Vì vậy, nghị luận còn chú ý giải thích vấn đề trong tiến trình lịch sử và phat triển
và phân tích mối liên hệ nội tại của vấn đề một cách cụ thể kèm dẫn chứng, chi
tiết, minh hoạ. Lập luận trong văn nghị luận chỉ thực sự có ý nghĩa thuyết phục
nếu ng ời đọc tiếp thu thông tin, hiểu thấu đáo nội dung ý ngghĩa của thông báo.
Trong văn nghị luận, t duy ngôn ngữ và lô gic có quan hệ mật thiết chặt chẽ
và gắn bó mật thiết với nhau trong quá trình hình thành văn bản.
3. Tính chỉnh thể trong cấu trúc nghị luận .
D ới ánh sáng của phong cách học văn bản, tính chỉnh thể là đặc tr ng cơ bản
của bất kì một kiểu loại văn bản nào, nó thể hiện trọn vẹn nội dung và hoàn
chỉnh về hình thức. Tính chỉnh thể của văn bản nghị luận thể hiện ở mối quan hệ
giữa các vấn đề đặt ra và cách giải quyết vấn đề giữa nội dung và hình thức, giữa
t duy và ngôn ngữ, giữa mục đích nghị luận và phong cách nghị luận.
Nói đến cùng tỉnh thể của văn nghị luận thể hiện rõ nhất ở cấu trúc nội dung
vấn đề và hệ thống trình bày, cách thức lập luận cũng nh văn phong phù hợp để
làm cho ng ời đọc hiểu rõ, nắm chắc vấn đề và con giải quyết vấn đề để thuyết
phục và hấp dẫn ng ời đọc, ng ời nghe.
Nói khác đi, bài văn nghị luận đạt tới chỉnh thể cao nếu ng ời nếu ng ời viết
hiểu một cách t ờng tận vấn đề, nắm vững mục đích nghị luận và có ph ơng tiện
ngôn ngữ, thao tác phù hợp, thấu tình đạt lí, tác động mạnh mẽ vào trí tuệ và tình
cảm, trái tim ng ời đọc, ng ời nghe.
4. Tính chất đối thoại trong văn nghị luận .
Văn nghị luận lấy việc đề xuất, bàn bạc, thảo luận, phê bình vấn đề có ý
nghĩa xã hội làm nội dung nên bao giờ nó cũng có một ai đó để giao tiếp và
đối thoại. Văn nghị luận chẳng những mang đặc điểm bàn luận mà còn theo đuổi
mục đích thuyết phục ng ời khác tin vào ý kiến đúng dắn cũng nh ph ơng thứ trình
bày, lập luận, chứng minh của chủ thể lập luận. Tại sao phải đặt vấn đề đối
thoại ? Vì nghị luận là giao tiếp xã hội, con ng ời đ ơng thời không những tán
thành đồng ý với con ng ời đ ơng thời bằng bàn bạc tranh luận mà còn phải thực
hiên sự đồng tình hay phản bác đó một cách rộng rãi với con ng ời mọi thời đại,
mọi xứ sở.
Lôgic đối thoại là đặc điểm quan trọng của văn nghị luận. Sự ẩn hiện của
ng ời cùng đối thoại sau cau chữ và văn nghị luận sẽ cuốn hút đối t ợng, tạo nên
những tình huống đối thoại giả định và sự phản biện ngầm của ng ời đối thoạ
mà chủ thể nghị luận cần phải hình dung ra, dự kiến tr ớc để tạo nên sự tập trung
tâm lí cao độ và thái độ kiên trì mục đích cũng nh nghệ thuật hùng biện.
Có thể nói ngắn gọn, lôgic đối thoại trong văn nghị luận làm cho ý t ởng bài
văn phong phú, làm cho ph ơng án trình bày có khả năng nảy sinh để dự đoán
những tình huống tranh luận có thể sảy ra, tạo nên sự căng thẳng hấp dẫn của
cuộc đối thoại ngàm. Lôgic đối thoại huy động tối đa ngăng lực cá nhân biết tự
đặt mình vào ng ời khác, tâm lí khác và tình huống cụ thể để xem xét, luận giải
vấn đề toàn vẹn, đem lại hiệu quả thuyết phục cao của văn nghị luận.
II/ Yêu cầu của đoạn văn nghị luận
1. Yêu cầu nhất quán .
Văn nghị luận thiên vè t t ởng vá lí luận nên cần đảm bảo tốt yêu cầu nhất
quán.
Nhất quán trong việc triển khai nội dung đều tập trung vào một vấn đề, luận
đề, luận điẻm. Tuy bàn bạc đứt mách từng luận điểm nh ng tất cả các nội dung
trong bài nghị luận phải có liên hệ và qui định lẫn nhau. Nhất quán trong nội
dung là không đ ợc phép tự mâu thuẫn với nhau giữa các ý kiên, nhận định, đánh
giá và ngay cả dẫn liệu không đ ợc chống đối nhau. Mối quan hệ nội dung đ ợc
thiết lập trên sự liên kết ý t ởng và ph ơng tiện diễn đạt, dẫn dắt, nhân mạnh, tô
đam, dồn nén khiến cho ng ời đọc lôi cuốn vào sự chi phối của chủ thể nghị luận.
Con đ ờng lập luận phải đ ợc định h ớng tr ớc và phải tuân thủ tuyệt đối sự định h -
ớng đó trong suốt quá trình hình thành văn bản.
Hình thức văn bản cũng có vảitò quan trọng tạo nên sự nhất quán. Sự nhất
quán đó sinh ra bởi giọng điệu, phong cách của toàn bài.
Qua hình thức nghị luận ng ời ta cần nhận đ ợc thái độ tin t ởng hay hoài nghi,
khẳng định hay phủ định, đồng tình hay phản bác. Ngoài thái độ trên, màu sắc
cảm xúc hiện qua âm h ởng hoặc cảm hứng chủ đạo của bài văn nh hùng hồn, bi
tráng, ca ngợi hay mỉa mai, thân tình hay thù địch cũng góp phần tạo nên sực
nặng thuyết phục của bài văn nghị luận.
2. Yêu cầu trong sáng.
Trong sáng ở bài văn nghị luận thể hiện bởi năng lực t duy, khả năng lập luận
và hành văn dung dị dứt khoát để ng ời đọc hiểu rõ phạm vi sâu rộng, ý nghĩa lí
thuyết và thực tiễn của vấn đề nghị luận để thoả mãn yêu cầu này, văn nghị luận em
trọng tính trọn vẹn, hoàn chỉnh t ơng đối của nội dung ý tứ và sự đầy đủ rõ ràng của
chứng cứ ninh bạch. Phải phấn đấu đẻ triển khai nội dung và hình thức của bài văn
nghị luận đày đủ, đúng dắn và đến đáy của ván đề đặt ra.
Mặt khác sự trong sáng của bài văn nghị luận có đ ợc nhờ chỗ biết tách biệt,
phân chia văn bản rõ ràng và trình bày ý tứ theo một trình tự hợp lí, tự nhiên.
Trong dòng chảy của ý tứ và quan điểm lí luận ấy phải tô đậm những ý quan
trọng một cách có chủ đích.
Không ôm đồm và phải biết tuyển lựa ý kiến, chọn lựa dấu liệu và không
lạm dụng cách hành văn đơn điệu làm chìm mờ ý t ởng của bài văn.
Phát hiện ra sự thông mạch trong t duy và sự kết dính trong diễn đạt ngôn từ
của bài văn. Tránh dùng những từ lạ, ý mới mà không hề có sự chuẩn bị tr ớc cho
tâm thế ng ời đọc.
3. Yêu cầu hài hoà .