Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

SKKN TÍCH HỢP TRONG DẠY VĂN Ở THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.16 KB, 13 trang )

Một vài giải
pháp
TRONG VIỆC VẬN DỤNG
PHƯƠNG PHÁP TÍCH HP
ĐỐI VỚI PHÂN MÔN
VĂN
CỦA BỘ MÔN NGỮ VĂN.
Trong hệ thống chương trình giáo
dục, môn Ngữ văn có một vò trí hết sức
quan trọng. Trước hết nó là một môn
học thuộc nhóm khoa học-xã hội. Điều
đó nói lên tầm quan trọng của nó trong
việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình
cảm cho học sinh. Môn Ngữ văn còn là
một môn học công cụ, có vò trí quan
trọng trong việc góp phần hình thành
những con người có trình độ học vấn,
có ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương,
qúi trọng gia đình, bạn bè, có lòng yêu
nước, tự hào dân tộc, biết hướng tới
những tình cảm cao đẹp như lòng nhân
ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công
bằng, lòng căm ghét cái ác, cái xấu.
Đó là những con người biết rèn luyện
để có tính tự lập, có tư duy sáng tạo,
bước đầu có năng lực thực hành và sử
dụng tiếng Việt như một công cụ để tư
duy giao tiếp.
Để đạt được những mục tiêu trên
chương trình và sách giáo khoa đổi mới
đã kòp thời đáp ứng. Bên cạnh những


hướng cải tiến chung như giảm tải, tăng
thực hành, gắn với đời sống, thì nét nổi
bật nhất của chương trình và sách giáo
khoa môn Ngữ văn là hướng tích hợp.
Biểu hiện rõ nhất của của hướng đó là
1
1
việc sát nhập ba phân môn: Văn –
Tiếng Việt- Tập làm văn vào một
chỉnh thể là Ngữ văn.
Chương trình Ngữ văn mới đã
khẳng đònh: “Lấy quan điểm tích hợp
làm nguyên tắc chỉ đạo tổ chức nội
dung chương trình, biên soạn sách giáo
khoa và lựa chọn các phương pháp
giảng dạy”. Lấy quan điểm tích hợp
làm nguyên tắc lựa chọn các phương
pháp trong giảng dạy sẽ tạo ra “sản
phẩm con người” năng động, sáng tạo,
thích ứng môi trường, xã hội…. Vì quan
điểm tích hợp phù hợp với xu thế chung
của thế giới. Vì kiến thức nhân loại
ngày càng phát triển, nhiều ngành xâm
nhập lẫn nhau. Tích hợp trong phương
pháp giảng dạy sẽ phối hợp tối ưu các
phân môn khác nhau, theo hệ thống
của từng cấp bậc khác nhau. Bởi vậy
giảng dạy môn Ngữ văn theo hướng
tích hợp là một điều tất yếu.
Qua mấy năm giảng dạy chương

trình mới của bộ môn Ngữ Văn nói
chung, phân môn Văn nói riêng và vận
dụng phương pháp tích hợp để giảng
dạy, bản thân tôi đã thực hiện một số
giải pháp tích hợp và bước đầu đã
mang lại một số hiệu quả nhất đònh.
Tôi mạnh dạn đưa ra giải pháp

Một
vài giải pháp trong việc vận dụng
phương pháp tích hợp đối với phân môn
Văn của bộ môn Ngữ văn.

Trước đây, trong chương trình và
sách giáo khoa cũ, dù tách bạch ba
phân môn : Văn- Tiếng Việt- Tập làm
văn thì giáo viên có kinh nghiệm vẫn
luôn có ý thức vận dụng phương pháp
tích hợp khi giảng dạy cả ba phân môn
này. Nhưng do không được chương
trình hoá, hiệu quả tích hợp đó vẫn rất
hạn chế.
Hiện nay, chương trình môn Ngữ
Văn đã được xây dựng thành một chỉnh
thể nên việc vận dụng phương pháp
tích hợp sẽ thuận lợi hơn, hiệu quả cao
hơn rất nhiều. Và, đây cũng chính là
yêu cầu đặt ra cho giáo viên giảng dạy
môn Ngữ Văn. Thế nhưng việc giảng
dạy ba phân môn như một thể thống

nhất, trong đó để mỗi phân môn vừa
giữ được bản sắc riêng, vừa hoà nhập
nhau để cùng hình thành một tri thức,
kỹ năng thống nhất ở học sinh là một
việc làm mới mẻ và không phải dễ
dàng. Bởi vậy trong quá trình thực hiện
vận dụng phương pháp tích hợp ở môn
Ngữ Văn trong thời gian qua còn có
tình trạng như:
- Phía giáo viên: Ít chú ý hoặc lưu ý
chưa toàn diện; hoặc có lưu ý nhưng lại
thái quá chưa đảm bảo được yêu cầu
là giữ được bản sắc riêng của từng
2
2
phân môn, lại vừa kết hợp các phân
môn để hình thành tri thức, kỹ năng
thống nhất; hoặc là có lưu ý tích hợp
hàng dọc lại không ưu ý tích hợp hàng
ngang; hoặc có khi lưu ý tích hợp
hướng nội mà không tích hợp hướng
ngoại (theo tôi tích hợp hướng ngoại
đối với môn Ngữ Văn không kém phần
quan trọng trong việc hình thành nhân
cách ở học sinh.)
- Phía học sinh: Chưa có thói quen vận
dụng, kết hợp vốn hiểu biết nhiều phân
môn, nhiều môn học để nắm bắt kiến
thức từng môn học; hoặc là có thói
quen học đâu bỏ đó, không biết vận

dụng vốn hiểu biết về môn học này để
giải quyết các yêu cầu của môn học
kia…
Trước thực trạng đó, việc tìm
kiếm các giải pháp thích hợp, tích cực
để vận dụng trong phương pháp giảng
dạy theo hướng tích hợp là một việc
làm bức thiết đối với giáo viên giảng
dạy môn Ngữ Văn nói chung va øphân
môn Văn nói riêng.
“Dạy văn là dạy người” tức là,
dạy văn học vừa là giúp cho học sinh
thấy được cái hay, cái đẹp trong từng
tác phẩm văn chương, lại vừa dạy học
sinh làm người, tức là dạy học sinh
biết yêu, ghét rạch ròi, biết tôn trọng
lẽ phải, sự công bằng, dạy cho học sinh
lòng nhân ái, vò tha, đức hi sinh, …
Đồng thời, phải biết dạy học sinh biết
học tập cách viết, cách nói từ tác phẩm
văn chương để sử dụng ngôn ngữ đạt
hiệu quả cao nhất trong quá trình giao
tiếp.
Để đạt được mục tiêu đó, người
dạy lẫn người học phải cảm thụ được
tác phẩm văn chương theo mối quan hệ
tay tư: “Người đọc- Tác phẩm –Hoàn
cảnh sáng tác tác phẩm –Tác giả”. Cho
nên khi vận dụng phương pháp tích hợp
trong giảng dạy phân môn văn học,

chúng ta cũng phải chú ý tới mối quan
hệ này trong quá trình giúp học sinh
lónh hội kiến thức. Ngoài ra, khi tiến
hành tích hợp ở phân môn này cũng
phải chú ý tới bản sắc riêng, yêu cầu
riêng của việc cảm thụ tác phẩm văn
chương.
Bước chuẩn bò là một trong những
thao tác quan trọng để giúp người dạy
và người học đạt được hiệu quả cao
trong việc truyền thụ và lónh hội kiến
thức.
Hơn nữa, công việc chuẩn bò là một
yêu cầu, vừa là một biện pháp để phát
huy tính tích cực, chủ động sáng tạo
của học sinh. Cho nên chúng ta không
nên coi nhẹ phần này. Trong bước
chuẩn bò chúng ta nên tiến hành ở hai
khâu: Chuẩn bò dài hơi cho cả năm học
và chuẩn bò theo từng giai đoạn, từng
bài.
Sau khi được phân công giảng dạy ở
các khối lớp, giáo viên cần nghiên cứu
chương trình, chuẩn bò tư liệu phục vụ
cho việc dạy và học đối với phân môn
này. Sau đó hướng dẫn học sinh sưu
tầm tài liệu và đọc trước văn bản sưu
3
3
tầm đó. Khi hướng dẫn học sinh sưu

tầm tài liệu cần cụ thể và chỉ rõ cho
học sinh thấy công dụng của từng tư
liệu.
Vd: Để chuẩn bò tốt cho việc thực hiện
phương pháp tích hợp trong phần giảng
dạy- học thơ Trung đại (Ngữ văn7), tôi
đã giới thiệu cho học sinh sưu tầm các
tài liệu về thơ của các tác giả Trung
đại. Ngoài ra còn phải sưu tầm các tài
liệu như: “ Thế thứ các triều vua” (để
tích hợp hướng nội và tích hợp hướng
ngoại, khi dạy về Hoàn cảnh ra đời của
tác phẩm) “Những ông vua sính chữ”
tích hợp hướng ngoại khi dạy về tác giả
bài thơ. (Thiên Trường vãn vọng của
tác giả Trần Nhân Tông)
- Ngoài việc yêu cầu học sinh chuẩn
bò bài theo yêu cầu sách giáo khoa,
giáo viên cần nhắc học sinh biết
vận dụng những kiến thức khác
nhau như: lòch sử- xã hội, môi
trường ,… vào việc chuẩn bò lónh hội
kiến thức.
Ví dụ:
+ Khi dạy bài: “Bức thư của thủ lónh
da đỏ” (Ngữ văn 6- tập 2) tôi nhắc học
sinh tìm hiểu tác hại của việc tàn phá
môi trường sống từ kiến thức: Sinh học,
Công nghệ và sách báo (nhằm tích hợp
hướng ngoại và hướng nội)

+ Khi dạy bài thơ : “Qua đèo Ngang”
của Bà Huyện Thanh Quan (Ngữ văn 7
– tập 1) nhắc học sinh coi lại “Thế thứ
các triều Nguyễn, triều Lê, lòch sử thời
Tròn h- Nguyễn phân tranh”, để học
sinh hiểu được nỗi buồn của nhà thơ về
một quá khứ vàng son cũng như nỗi
đau về đất nước trong thực tại.
- Nhắc học sinh ôn các kiến thức liên
quan đến bài học như thể loại, chủ
đề. Cùng với việc nhắc nhở học
sinh chuẩn bò bài, người dạy cần
chuẩn bò một hệ thống câu hỏi phục
vụ cho phương pháp tích hợp sao
cho hài hoà, thích hợp mà vẫn giữ
được bản sắc riêng của môn học.
Như trên tôi đã trình bày, dạy tác
phẩm văn chương là phải đặt tác phẩm
trong mối quan hệ tay tư : “Tác phẩm-
Tác giả- Hoàn cảnh ra đời của tác pẩm
– Người đọc”. Cho nên phần giới thiệu
chung, chúng ta cũng phải thực hiện
phương pháp tích hợp học sinh nắm bắt
tác phẩm tốt hơn.
- Khi giới thiệu về tác giả trong
chương trình, có những tác giả nào có
vai trò trong lòch sử, trong nền văn học
thì ta đưa những câu hỏi và tích hợp ở
dạng này.
Vd: Khi dạy bài: “Phò giá về kinh” –

Trần Quang Khải ( Ngữ văn 7), ta nên
đưa ra những câu hỏi tích hợp về vai
trò vò thế của Trần Quang Khải trong
các chiến thắng vang dội của quân và
dân nhà Trần được nhắc đến trong bài
thơ để giúp học sinh sống lại trong hào
khí chiến thắng đó khi cảm thụ bài thơ.
+ Khi giới thiệu về tác phẩm; về hoàn
cảnh ra đời của tác phẩm có liên quan
đến lòch sử – xã hội thì ta đưa ra câu
hỏi và tích hợp kiến thức này. Vd:
Cùng với bài “Phò giá về kinh” – Trần
4
4
Quang Khải (Ngữ văn 7 ), ta tiến hành
tích hợp kiến thức lòch sử về cuộc
kháng chiến chống quân Nguyên -
Mông xâm lược ( tích hợp theo hướng
ngoại) để hiểu sâu hơn về tác phẩm
( hướng nội). Đồng thời hiểu rõ hơn về
lòch sử chống giặc ngoại xâm của dân
tộc ở giai đoạn này và từ đó có sự đồng
cảm với tác giả khi tìm hiểu nội dung
bài thơ.
+ Về thể loại và phương thức biểu đạt:
ở phần này có kiến thức liên quan
trong phần so sánh, hệ thống kiến thức
thì ta cũng chú ý tích hợp và đưa ra câu
hỏi giúp học sinh tích hợp được kiến
thức.

Vd: Khi dạy bài: “Hồi hương ngẫu thư”
– Tác giả Hạ Tri Chương (Ngữ văn 7)
ta có thể cho học sinh tích hợp về thể
thơ thất ngôn tứ tuyệt và cách biểu đạt
biểu cảm với bài “Bánh trôi nước” của
tác giả Hồ Xuân Hương. Tích hợp chủ
đề tình yêu quê hương với bài “Tónh dạ
tứ” của Lý Bạch.
Ở phần này khi thực hiện
phương pháp tích hợp cần linh hoạt,
không nên quá công thức hay quá tham
tích hợp mà phá vỡ đặc thù của phân
môn, phá vỡ “chất văn” trong bài dạy.
Trong quá trình giúp học sinh tiếp
cận tác phẩm văn chương qua hệ thống
ngôn ngữ được trình bày trong văn bản,
người dạy phải tuyệt đối tuân thủ theo
các phương pháp giảng dạy văn. Khi
thực hiện các phương pháp này thì
phương pháp tích hợp được vận dụng
lồng trong phương pháp như: gợi mở,
nêu vấn đề, so sánh, phân tích tổng
hợp. Để chuẩn bò tích hợp tốt, giáo
viên cũng nên hướng dẫn học sinh
chuẩn bò trước ở nhà (nếu gặp vấn đề
khó)
Vd: Khi dạy bài:“Hồi hương ngẫu thư”
của Hạ Tri Chương (Ngữ văn 7) giáo
viên nên đưa vấn đề để tích hợp là:
Cũng viết về tình cảm đối với quê

hương song tình cảm đó biểu hiện ở Lý
Bạch với bài thơ “ Tónh dạ tứ” có điểm
gì giống và khác với bài “Hồi hương
ngẫu thư” của Hạ Tri Chương?
Ngoài ra ở phần Đọc – Hiểu văn bản,
kiến thức cần tích hợp còn được chú ý
tới bút pháp sáng tác và cách sử dụng
ngôn từ của nhà văn, nhà thơ. Thông
qua việc phân tích bút pháp, cách sử
dụng ngôn ngữ, ta tiến hành tích hợp
kiến thức Văn- Tập làm văn và Văn –
Tiếng Việt.
Khi phân tích bút pháp thể hiện của
một tác phẩm ta có thể tích hợp được
kiến thức Tập làm văn.
Vd: Dạy bài: “Cảnh khuya” của Hồ Chí
Minh (Ngữ văn 7) ta sẽ tích hợp được
yếu tố tự sự và miêu tả trong văn biểu
cảm.

Khi phân tích cách sử dụng của
ngôn ngữ của tác giả trong tác phẩm
văn chương, ta cũng tích hợp được kiến
thức Tiếng Việt.
Vd: Dạy bài: “Qua đèo Ngang” của Bà
Huyện Thanh Quan và bài “Bạn đến
chơi nhà” của Nguyễn Khuyến, ta vừa
5
5
tích hợp được kiến thức về đại từ “ta”

được sử dụng ở cuối mỗi bài thơ. Vừa
tổng hợp nâng cao kiến thức về việc
vận dụng sáng tạo từ Tiếng Việt ở bài
“Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn
Khuyến.
Hay khi dạy bài: “Ngẫu nhiên
viết nhân buổi mới về quê” của Hạ Tri
Chương, trong quá trình phân tích nghệ
thuật sử dụng tiểu đối để khái quát
quãng thời gian xa quê của nhà thơ, ta
sẽ tích hợp được kiến thức về “Từ trái
nghóa” sẽ học ở bài sau.
Vận dụng phương pháp tích hợp
trong việc dạy – học ở phân môn Văn
học, ta không chỉ vận dụng hai phần
trên của bài học mà còn có thể vận
dụng được ở ngay cả phần Luyện tập –
tổng kết.
phần tổng kết bài học, ta có
thể tích hợp được kiến thức theo cả
chiều dọc lẫn chiều ngang trong việc
rút ra cảm nhận chung về nội dung và
nghệ thuật của tác phẩm văn chương.
Cũng như phần liên hệ, liên tưởng
nhưng phải chú ý không để lặp lại ý ở
phần trên.
Vd: Khi dạy phần tổng kết bài “ Tiếng
gà trưa” của Xuân Quỳnh (Ngữ văn 7)
ta sẽ tổng kết cho học sinh về cách
biểu cảm (có vận dụng yếu tố tự sự và

miêu tả, cách lập ý hồi tưởng quá khứ,
suy ngẫm về hiện tại …)
Hay là: Khi dạy phần Luyện tập
của truyện:“Cây bút thần” (Ngữ văn 6),
ta cho học sinh kể lại phần kết thúc
truyện theo cách riêng của mình. Tức
là ta đã tích hợp kiến thức cho bài Tập
làm văn: “Kể chuyện tưởng tượng” sẽ
học ở các tiết tới.
Nói tóm lại, cách vận dụng
phương pháp tích hợp trong phân môn
Văn khá đa dạng, khá phong phú, đòi
hỏi người giáo viên - người chỉ đạo học
sinh tiếp cận giá trò văn chương phải
biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo để
không tạo nên sự nhàm chán, công
thức trong quá trình dạy - học.
Sau đây là một tiết minh hoạ cụ
thể cho việc vận dụng đó.
6
6
ạy – học theo phương pháp
tích hợp là một vấn đề cần
được quán triệt trong bộ môn
Ngữ văn nói chung và trong phân môn
văn nói riêng. Quan điểm tích hợp
không chỉ được thể hiện trong một
khâu nhất đònh nào của bài học mà cần
được quán triệt trong mọi khâu, mọi
bước tiến hành thực hiện trên lớp và

đặc biệt ngay cả khâu chuẩn bò của
thầy và trò từ đầu năm và trong suốt
cả năm học.
D
Để vận dụng tốt được phương
pháp dạy và học này đòi hỏi người dạy
lẫn người học phải tích cực, chủ động
và không ngừng tìm tòi sáng tạo.
Với khả năng hạn chế và trong
giới hạn của khối lớp do tôi phụ trách
giảng dạy, những giải pháp tôi đưa ra
đây có thể chưa đầy đủ hoặc còn nhiều
khiếm khuyết; các dẫn chứng đi kèm
chưa bao quát hết được các lớp trong
chương trình THCS. Tôi rất mong các
đồng nghiệp thông cảm và góp ý xây
dựng để bản thân tôi có điều kiện học
hỏi và góp phần giúp nhau hoàn thiện
về phương pháp dạy học, đồng thời
hoàn thành tốt công việc giảng dạy
Ngữ văn bậc Trung học cơ sở.

Đà lạt, tháng 12 – 2005

7
7
Giới thiệu 1 tiết minh hoạ
Tiết 30 : BẠN ĐẾN CHƠI NHÀ
- Nguyễn Khuyến -
I/ Mục tiêu bài học: -Giúp học sinh:

- Cảm nhận được tình bạn đậm đà, hồn nhiên của Nguyễn Khuyến.
- Thể thơ thất ngôn bát cú được Việt hoá bằng lời thơ thuần Việt trong sáng, bình
dò.
- Tính biểu cảm của văn bản thơ có thể được bộc lộ bằng các yếu tố tự sự sinh hoạt
hằng ngày.
II/ Chuẩn bò:
Gv: tiếp tục luyện tập đọc biểu cảm thơ Đường luật. Qua câu hỏi phân tích, luyện
tập nói cho học sinh. Phân tích hai câu đầu, hai câu cuối và phân tích tổng hợp bốn
câu giữa. Tích hợp văn bản để dạy bài Quan hệ từ tiết tiếp theo (ma ø- thời - thì ).
- Đồ dùng dạy học: bức chân dung Nguyễn Khuyến, tranh ảnh ao làng, …
- Hs: tiếp tục đọc văn bản, nắm vững tiểu sử tác giả, trả lời câu hỏi phần đọc hiểu.
- Kiến thức tích hợp: Tích hợp chủ đề, Thể loại, Phong cách viết của các giả,
Tiếng Việt về từ đồng âm, Đại từ , quan hệ từ. Yếu tố miêu tả trong văn biểu cảm….
III/ Các bước lên lớp:
1. Ổn đònh:
2. Bài cũ: (5 phút) - Đọc thuộc lòng bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh
Quan. Cho biết ý nghóa của bài thơ?
3. Bài mới: Trong thơ Trung đại Việt Nam, chúng ta không chỉ tự hào về khí
phách và khát vọng độc lập dân tộc, tự hào về chiến thắng chống ngoại xâm,
khẳng đònh sức mạnh của dân tộc trong việc bảo vệ và phát triển đất nước qua
hai bài thơ: Sông núi nước Nam và Phò giá về kinh. Ta còn cảm nhận được
tình yêu quê hương đất nước của các tác giả qua các bài ca dao về quê hương
đất nước, qua bài “ Thiên Trường vãn vọng” của Trần Nhân Tông. Mà chúng
ta còn có dòp tìm hiểu và biết thêm một quan điểm về tình bạn trong cuộc sống
của con người. Bài thơ: “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến là một bài
thơ hay trong đề tài tình bạn và cũng là bài thơ hay nhất trong thơ Nguyễn
Khuyến nói riêng, thơ Nôm Đường luật Việt Nam nói chung.(Tích hợp chủ đề).
8
8
- Hoạt động 1: 10 phút

-Đọc toàn bộ bài thơ.
Giải thích từ khó.
-Tác giả bài thơ này là
ai?-Hãy trình bày đôi nét
về tác giả Nguyễn
Khuyến?
-Điểm nào ở tác giả
Nguyễn Khuyến làm ta
khâm phục ? (Tích hợp
hướng ngoại kiến thức
lòch sử – xã hội)
-Thể loại của bài giống
bài thơ nào đã học? (Tích
hợp thể loại với bài Qua
đèo Ngang)
-Chỗ sáng tạo, linh hoạt
của Nguyễn Khuyến
trong bài thơ này là gì?
Có giống bố cục bài thơ
Qua Đèo Ngang của Bà
Huyện Thanh Quan
không?
(Tích hợp bố cục)
-Hoạt động 2: 20 phút
-Đọc diễn cảm câu thơ
đầu tiên với giọng điệu
thích hợp. Nhận xét
giọng điệu, nhòp thơ? Vì
sao?
-Gv nhận xét cách đọc, cách ngắt nhòp.

-Hs dựa vào tiểu dẫn trình bày về tác giả
Nguyễn Khuyến.
-Gv trình bày một vài nét về Lòch sử Việt
Nam lúc bấy giờ, sau đó chốt: Xuất thân từ
một gia đình nhà nho nghèo, Nguyễn
Khuến đã gắng học tập để đỗ đạt làm
quan, nhưng trước cảnh nước mất, ông bỏ
quan về ở ẩn, thể hiện một tinh thần bất
hợp tác với giặc, giữ cho mình một nhân
cách trong sạch.
-Học sinh trình bày lại thể thơ Thất ngôn
bát cú.
-Nguyễn Khuyến vẫn tả cảnh nhà, vẫn vừa
cười như muốn thanh minh cùng bạn già
chứ không theo bố cục nghiêm ngặt của
bài bát cú là phải bàn luận về vấn đề. Chỗ
bản lónh cao của nhà thơ là chỗ đó.
- Câu thơ không chỉ là sự thông báo khi
người bạn đến chơi mà còn thấy sự reo vui,
hồ hởi, phấn chấn.
Gv giảng: Thời gian này Nguyễn Khuyến
đã về ở ẩn. Ông đã tự cho mình đã già. Và
bạn ông cũng vậy.(Muốn đi lại tuổi già
thêm nhác). Nghèo, già sống ẩn dật chốn
I/ Giới thiệu chung
1/ Tác giả: Nguyễn
Khuyến
( sgk )
2/ Thể thơ: Thất
ngôn bát cú ( sgk )

II/ Đọc –Hiểu văn
bản
1/ Câu đầu: Giới
thiệu cuộc thăm
viếng:
-Đã bấy lâu nay bác
tới nhà hồ hởi, vui
vẻ, thoả lòng – xúc
động khi gặp lại
người bạn thân lâu
9
9

-Đọc tiếp 5 câu sau và
nhận xét lời thanh minh,
phân bua của nhà thơ với
bạn về cảnh tiếp khách
đạm bạc của mình? Vì
sao lại như vậy? Có thật
Nguyễn Khuyến nghèo
như thế không?
-HS thảo luận: 2 phút
-Có ý kiến cho rằng:
Câu thứ bảy “riêng trầu
không thì có “. Ý kiến
của em như thế nào?
hương thôn, ít giao du, bạn bè tâm giao ít
đi lại thường xuyên - vui mừng khi bạn đến
thăm. Câu thơ, lời thơ tự nhiên như nói
hằng ngày, thanh thoát.(xưng hô bằng Bác

– cách xưng hô thân mật không kém phần
tôn kính)
-Gặp bạn, Nguyễn Khuyến đã đặt trước
người bạn già, người đọc một tình huống
khó tin, khó xử, oái oăm. Đãi bạn từ xa tới
thăm, nhà thơ đã đãi bạn những gì:
+Không có người hầu hạ, tiếp khách.
+Không có cái gì để ăn, để uống được để
đãi khách.
-Mọi thứ xem ra xác đáng, cứ y như là
thật. Không có mà lại có, có mà lại như
không có.
+Có trẻ mà không biết trẻ đi chơi đâu mà
tìm
+Có cá ngon, gà béo nhưng do ao sâu, rào
rộng nên không bắt được.
+Có cải nhưng cải chửa ra cây, có cà cà
mới nụ , có bầu bầu vừa rụng rốn, có mướp
mới ra hoa làm sao mà có thể ăn được.
-Với nghệ thuật đối, đảo cho thấy được
dụng ý của tác giả.
-Gv chốt ý :Trong câu chuyện miếng trầu
là đầu câu chuyện, vậy mà lễ nghi tiếp
khách tối thiểu cũng không có.
-Tất cả chỉ đều là con số không.
-Ý thơ không mạch lạc.
-Trầu không là tên đầy đủ của thứ lá cây
này nhưng xét trong mạch thơ thì chỉ có thể
là trầu cũng không thể có nốt. Lời thơ cứ
nhỏ nhẹ, chân chất, thật thà mà hóm hỉnh,

vừa như thanh minh với bạn, vừa để giới
thiệu cảnh sống thanh bần của gia đình
mình. Nếu chú ý giọng điệu thơ và cách
dùng từ ngữ của tác giả, ta thấy đằng sau
cái nghèo thiếu, hiện hữu như ẩn chứa,
ngày xa cách.
2/ 6 câu tiếp: Hoàn
cảnh tiếp bạn:
Đặt khách trước một
tình thế:
+ trẻ thời đi vắng
+chợ thì xa
+ao sâu nước cả,
khôn chài cá.
+bầu vừa rụng rốn,
mướp đương hoa.
+ cải chửa ra cây,
cà mới nụ.
+đầu trò tiếp khách
trầu không có
- nói quá, đối, đảo
 nghèo khó, hóm
hỉnh, hài hước. Yêu
bạn bằng tình cảm
dân dã, chất phác.
-Tình bạn của họ
sâu sắc trong sáng
vì được xây cất trên
các nhu cầu tinh
thần.

10
10
-HS thảo luận ( 3 phút)
-So sánh ba từ cuối “ta
với ta” trong bài thơ với
ba từ cuối trong bài cuối
trong bài thơ “Qua đèo
Ngang” để thấy sự giống
nhau và khác nhau về
nội dung và hình thức,
cảm xúc của hai nhà thơ?
(căn cứ vào cuộc đời và
cá tính của hai tác giả để
giải thích ). (Tích hợp về
Tiếng Việt: Đại từ )
- Hoạt động 3: 5 phút
-Vì sao nói đây là một
bài thơ hay về tình bạn?
hứa hẹn một cuộc sống giàu có, phong lưu.
Đằng sau những câu thơ kể, tả thực kia
như là thầm thì thanh minh, hóm hỉnh vui
đùa của Nguyễn Khuyến Nổi bật cái
thanh đạm, nghèo túng của viên quan thanh
liêm về ở ẩn, nổi bật cái tinh thần cao quý
hơn tất cả, cái không có tất cả, chỉ có một
thứ là có tất cả, cái đó được thể hiện ở câu
thơ cuối.
-Gv chốt ý: Cả hai bài thơ: đều kết thúc ở
ba từ “ ta với ta” trực tiếp thể hiện cảm
xúc, tâm trạng của nhà thơ, chủ thể trữ

tình.
-Đều gợi mở dư ba cho người đọc.
Khác nhau:
+ Cụm từ “ ta với ta” trong bài thơ của Bà
Huyện Thanh Quan là đại từ ngôi thứ nhất
số ít, chỉ có một chủ thể trữ tình, một tâm
trạng. Đó là một cái bóng của bà, nỗi cô
đơn thăm thẳm không biết chia sẻ cùng ai.
+Bạn đến chơi nhà “ ta với ta”( đại từ số
nhiều “ ta” . Cả hai đều chung một tâm
trạng đó là nỗi vui mừng vì lâu nay mới
gặp nhau, cả hai còn khoẻ, còn nhớ đến
nhau, cùng chung một tâm sự
-Tuy nhiên đây là niềm vui khinh thế ngạo
vật của nhà nho tháo tiết được thể hiện
đậm nét ở câu cuối.
-Đây là điều khác biệt của Nguyễn Khuyến
so với Bà Huyện Thanh Quan.
-Đây là một bài thơ hay về tình bạn vì nó
thể hiện chân thật về tình bạn. Nó bất chấp
mọi hoàn cảnh, điều kiện. Nó mộc mạc,
đậm đà nhưng vẫn tràn ngập niềm vui dân
dã. Tạo tình huống bất ngờ mà thú vò, làm
người đọc ngạc nhiên rồi kết thúc bằng nụ
cười xoà hóm hỉnh mà sâu sắc.
-Nó được thể hiện bằng một thể thơ Thất
ngôn bát cú Đường luật chặt chẽ song
3/ Câu cuối: Tình
bạn cao cả
-…ta với ta (đại từ )

-> chỉ sự hoà hợp
của hai con người
trong một tình bạn
chan hoà vui vẻ -
niềm hân hoan, tin
tưởng ở tình bạn
trong sáng thiêng
liêng.
11
11
-Bài thơ vận dụng
phương thức biểu đạt
nào? Biểu cảm bằng
cách nào? ( Tích hợp Tập
làm văn)
-Chủ nhân tiếp bạn là
Nguyễn Khuyến. Em
hiểu gì về Nguyễn
Khuyến và tình bạn của
ông từ bài này?
-Từ tình bạn của nhà thơ,
quan niệm của em như
thế nào về tình bạn?
(Tích hợp hướng ngoại:
môn công dân)
- Hoạt động 4: 7 phút
-Đọc và xác đònh yêu
cầu bài tập 1 /106
(Tích hợp giữa phong
cách, cách sử dụng ngôn

ngữ của tác giả, thể thơ
Song thất lục bát, Thất
ngôn bát cú đường luật).
giọng thơ chất phác, hồn nhiên, câu nào
cũng đúng, cũng lấp lánh ánh mắt nheo
cười, cũng ấm áp niềm vui hồn hậu.
-Bài thơ với phương thức vừa biểu cảm trực
tiếp vừa thông qua yếu tố tự sự – kể về
hoàn cảnh tiếp bạn.
-Nguyễn Khuyến là con người hóm hỉnh,
hài hước, yêu đời.
-Tình bạn của ông là tình bạn chân thành,
ấm áp bền chặt dựa trên giá trò tinh thần.
-Học sinh tự trình bày cảm nhận, quan
niệm của mình về tình bạn.
-Bài tập 1 / sgk 106
+Chinh phụ ngâm khúc: hình ảnh trau
chuốt, giàu hình ảnh, đặc biệt là dùng nghệ
thuật điệp từ tài tình, thể hiện tính điêu
luyện trong văn chương bác học.
+Bạn đến chơi nhà: là lời ăn tiếng nói hằng
ngày trong dân gian, lời thơ tự nhiên, không
gò bó, giọng thanh thoát, diễn đạt ý chân
thành, bài thơ là một sáng tạo đặc sắc trong
dòng thơ Nôm Đường luật trong văn học
nước ta.

III/ Ghi nhớ / 105
IV/ Luyện tập:
4/ Hướng dẫn về nhà:

- Đọc thuộc lòng bài thơ.
- Nhắc lại nội dung bài học.
- Tìm thêm một số bài ca dao, tục ngữ, thành ngữ nói về tình bạn. (Tích hợp văn
học)
- Thử tìm xem trong bài thơ có bao nhiêu từ Hán Việt? Giải thích điều thú vò này?
(Tích hợp từ Hán Việt và so sánh với ngôn ngữ thơ của Bà Huyện Thanh Quan
với thơ Nguyễn Khuyến)
- Soạn: Chữa lỗi dùng quan hệ từ .
12
12
13
13

×