phòng Giáo dục - Đào tạo huyện Thờng Tín
trờng trung học tân minh
____________
Tên đề tài:
MT VI KINH NGHIM TRONG GING DY T
HN VIT TRNG TRUNG HC C S
ngời thực hiện: Nguyễn Xuân Trờng
Chức vụ: Phó hiệu trởng
Năm học 2008 - 2009
Ngời thực hiện: Nguyễn Xuân Trờng
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - Tự do -Hạnh Phúc
o0o
Sáng kiến kinh nghiệm
____________________
I. Sơ yếu lý lịch:
Họ và tên: Nguyễn Xuân Trờng
Ngày sinh: 03/3/1971
Năm vào ngành: 1994
Chức vụ: Phó hiệu trởng
Trình độ chuyên môn: Đại học Văn
Đơn vị công tác: Trờng THCS Tân Minh
Bộ môn giảng dạy: Văn - Tiếng Việt
Khen thởng: Chiến sĩ thi đua cơ sở
A. Lý do chọn đề tài
Do vị thế địa lý và hoàn cảnh lịch sử, trong tiếng Việt có một lớp
từ gốc Hán rất phong phú về mặt số lợng, có giá trị nhiều mặt, thờng đợc
gọi dới dạng cái tên chung là từ Hán - Việt.
Sáng kiến kinh nghiệm
Trang: 2
Ngời thực hiện: Nguyễn Xuân Trờng
Lớp từ này đã góp một phần tích cực vào việc làm cho tiếng Việt
thêm giàu có, tinh tế, chuẩn xác và uyển chuyển, đủ khả năng đáp ứng
một cách tốt nhất mọi yêu cầu do cuộc sống văn hoá xã hội phát triển và
sự cảm nhận cái hay, cái đẹp trong mỗi tác phẩm văn học qua việc hiểu
cặn kẽ những từ Hán Việt trong mỗi tác phẩm đó.
Đối với học sinh ở các trờng THCS hiện nay, việc dạy cho các em
hiểu dúng nghĩa của các từ Hán Việt có trong từng tác phẩm văn học mà
các em đợc học là một điều đã khó. Song để các em từ "hiểu đúng" đến
"dùng đúng" và "hay" trong mỗi câu văn các em viết hoặc nói lại là điều
càng khó hơn nhiều.
Chính vì suy nghĩ đó, sau nhiều năm giảng dạy môn Văn -Tiếng
Việt ở trờng THCS, tôi nhận thấy trong việc sử dụng từ ngữ Hán Việt của
các em học sinh đôi khi rất tuỳ tiện, nhiều khi đã trở thành thói quen
không đúng và việc sử dụng tuỳ tiện từ Hán Việt đó dẫn đến việc ngời
đọc, ngời nghe hiểu lầm, không hiểu nổi các em định viết gì, nói gì.
Mặt khác, từ Hán Việt là một lớp từ khó, vừa "quen" lại vừa
"lạ".Nếu chúng ta - những ngời giáo viên giảng dạy về từ ngữ văn chơng
không có hớng uốn nắn và sửa chữa những sai sót không đáng có của học
sinh sẽ tạo ra thói quen không tốt trong việc sử dụng từ Hán Việt mà
không hiểu từ đó mang ý nghĩa gì.
Từ đó tôi đã suy nghĩ và chọn đề tài: "Một vài kinh nghiệm trong
giảng dạy từ Hán Việt ở trờng trung học cơ sở"
B. Quá trình thực hiện
I. Tình hình thực tế
Hàng chục năm giảng dạy môn Văn -Tiếng Việt ở trờng THCS, tôi
đợc giảng dạy hầu hết ở các khối lớp từ lớp 6 đến lớp 9. Tôi nhận thấy
việc dùng sai từ Hán Việt là do các em cha hiểu hoặc do các nguyên
nhân sau mà ta thờng gặp là:
1. Lầm lẫn từ Hán Việt đ ợc vay m ợn là đảo vị trí các yếu tố tạo
thành từ ghép song âm tiết (nh ng vẫn giữ nguyên ý nghĩa).
VD:
Sáng kiến kinh nghiệm
Trang: 3
Ngời thực hiện: Nguyễn Xuân Trờng
Lệ ngoại (Hán) - Ngoại lệ (Việt). Hán (H), Việt (V).
Ngoại hớng (H) - Hớng ngoại (V); cải hoán (H) - hoán cải (V);
khai triển (H)- triển khai (V).
Sự thay đổi này cũng có giới hạn. Cần lu ý những trờng hợp đảo vị
trí dẫn đến ý nghĩa khác hoặc một từ khác.VD: "lai vãng" và "vãng lai"
trong Hán ngữ ý nghĩa không thay đổi, nhng tiếng Việt "vãng lai" có ý
nghĩa chung là lu động, không cố định, (" tới rồi lại đi nh khách vãng
lai", còn "lai vãng" cũng có ý nghĩa chung là qua lại, tới, đến nhng ngữ
khí nặng nề mang ý răn đe, ngăn cấm. VD: "Từ nay tam cấm cửa không
cho mày lai vãng đến đây nữa!"
2. Lầm lẫn trong việc phân biệt ý nghĩa của các từ, từ tố Hán Việt
đồng âm
a. Đồng âm giữa từ Hán Việt với từ Hán Việt: nh có em đã viết:
"Cới vợ thờng đón dâu vào buổi chiều (hoàng hôn), nên mới gọi là hôn
lễ". Em học sinh đó đâu hiểu rằng "hôn" trong"hoàng hôn" có nghĩa là
tối (cả nghĩa đen và nghĩa bóng nh: "hôn quân" chẳng hạn) và "hôn"
trong "lễ thành hôn" là "kết duyên vợ chồng".
b. Đồng âm giữa từ Hán Việt và từ thuần Việt: nh "ngoan" trong
Hán ngữ có nghĩa là cứng đầu, cứng cổ, bớng bỉnh cố chấp, cứng cỏi" chỉ
xuất hiện với t cách là yếu tố trong từ ghép Hán Việt nh "ngoan cố,
ngoan cờng", nhng trong từ thuần Việt nh "phiếu bé ngoan"chẳng hạn.
Từ những nguyên nhân trên, tôi đã mở một cuộc điều tra nho nhỏ ở
khối lớp 7 giữa năm học 2002 - 2003 bằng cách đa ra 10 từ Hán Việt để
các em giải nghĩa và sau đó đặt câu với những từ đó. Kết quả là:
Lớp Sĩ số
Số điểm - tỷ lệ
9-10 7-8 5-6 3-4 1-2 0
7A 34 15% 20% 17% 25% 23%
7B 37 7% 14% 20% 28% 31%
7C 37 8% 15% 22% 26% 29%
7D 37 5% 15% 20% 29% 30% 1%
Với kết quả điều tra trên, tôi không khỏi suy nghĩ là làm thế nào
để các em "hiểu đúng" và "dùng đúng" từ Hán Việt.
Sáng kiến kinh nghiệm
Trang: 4
Ngời thực hiện: Nguyễn Xuân Trờng
II. Nội dung thực hiện
Phần I. Lý luận chung
Trớc hết, chúng ta thấy từ Hán Việt của cả một quá trình tiếp xúc
ngôn ngữ Việt - Hán kéo dài ít nhất là hai thiên niên kỷ trong những hoàn
cảnh đặc biệt. Vì vậy ta thấy từ Hán Việt lại vừa "quen" lại vừa "lạ".
Ta thấy từ Hán Việt "quen" bởi vì cái vỏ ngữ âm của nó đã đợc
Việt hoá đến cao độ nên không xa lạ gì với ngữ cảm, với cảm quan thính
giác của ngời Việt chúng ta nói chung và học sinh nói riêng.
VD: "Tất cả mọi ngời sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho
họ những quyền không ai có thể xâm phạm đợc, trong những quyền ấy
có quyền đợc sống, quyền tự do và quyền mu cầu hạnh phúc".
(Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945 - Hồ Chí Minh)
Hay: ((Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi ngời một vẻ mời phân vẹn mời ))
<Truyện Kiều -Nguyễn Du>
Chúng ta thấy "Sinh, quyền, bình đẳng, tạo hoá, xâm phạm, mu
cầu, hạnh phúc" hay "mai,cốt cách, tuyết,tinh thần" rõ ràng là quen thuộc
gần gũi và chiều sâu có ý nghĩa hơn
Một số từ xét về cội ngồn cũng là từ gốc Hán, nhng vì chúng vào
Việt Nam khá sớm, qua thời gian lâu dài đã hoà nhập vào hẳn từ vựng
tiếngViệt cho nên nêú không tìm hiểu tận cội nguồnthì khó nhận ra đợc
lai lịch nh: Cờ, xe, cô,cậu,buồng, buồm, vạn, triệu Một số từ khác dung
lợng ngữ nghĩa khá sâu rộng nhng vì đã gắn bó chặt chẽ với lịch sử, văn
hoá, xã hội của ta và cũng đã từng đợc sử dụng phổ biến nên trở thành
quen thuộc dễ hiểu nh: quân vơng, khanh tớng, công hầu, quân tử, tiểu
Sáng kiến kinh nghiệm
Trang: 5
Ngời thực hiện: Nguyễn Xuân Trờng
nhân, hiếu đễ, trung tín Đối với học sinh học tiếng Việt đặc biệt là từ
Hán Việt thì làm cho các em hiểu đợc ý nghĩa sâu sắc (chứ không phải là
nghĩa đối chiếu trực dịch) của những từ nh: thiên hạ, quân tử, tiểu nhân,
chẳng hạn từ "tiểu nhân"; học sinh các em sẽ hiểu là từ để chỉ kẻ xấu chứ
không phải là để nói về chuyện vóc dáng con ngời lớn bé, cao thấp nh
một em chỉ hiểu từng từ tố rồi ghép nghĩa kiểu nh: tiểu (nhỏ), nhân (ng-
ời) ngời bé. Và các em học sinh hiẻu rằng đây là từ chỉ kẻ xấu. Các
em có thể nêu ra hàng loạt tính nết, hành vi, cách ứng xử của kẻ "tiểu
nhân" để minh hoạ.
Còn từ Hán Việt "lạ" chủ yếu là do kết cấu ngữ nghĩa của từ Hán
Việt. Những từ nh "cứu cánh, bình sinh, nhân thân, trầm kha" tuy cũng
thờng xuyên xuất hiện trong lời nói trên văn bản nhng chẳng phải là dễ
hiểu đối với mọi ngời, nhất là đối với học sinh ở bậc THCS.
Tóm lại, cái "lạ" trong từ ngữ Hán Việt là phổ biến đối với đại đa
số các em học sinh THCS. Để các em không còn xa lạ đối với lớp từ quan
trọng này tôi đã dùng nhiều biện pháp giúp các em "hiểu đúng" và "dùng
đúng" từ Hán Việt.
1. Nhận diện từ Hán Việt bằng cách nắm đợc đặc điểm của từ vựng
Hán ngữ cổ - từ vựng văn ngôn, nòng cốt của lớp từ Hán Việt.
- Từ ghép trùng lập: là hai từ đơn có kết cấu âm tiết và ý nghĩa nội
hàm hoàn toàn giống nhau, sau khi lắp ghép thành một chỉnh thể trở
thành một từ ghép song âm.
Ví dụ:
nhân dân: mọi ngời, tất cả mọi ngời, ai nấy (đều )
xứ xứ: khắp nơi, khắp trốn, mọi nơi
gia gia: mọi nhà
niên niên: hàng năm, năm này qua năm khác
- Từ ghép kết hợp hai từ đơn có ý nghĩa giống nhau hoặc tơng tự
nhau tạo thành một nghĩa mới hàm ý nói chung hoặc tăng thêm sắc thái ý
nghĩa.
Ví dụ:
bằng hữu: bạn bè
hiểm trở: địa thế không thuận lợi cho việc đi lại
Một điều cần lu ý là nhiều thành tố của loại từ ghép này vẫn có thể
xuất hiện với t cách là một từ đơn (đơn âm) với những sắc thái ý nghĩa
riêng biệt.
Ví dụ:
bằng hữu: bạn bè (nói chung)
bằng: đứng riêng là một từ đơn lại có nghĩa là bạn bè cùng chung
chí hớng, trình độ học vấn, sở thích nếp sống
Sáng kiến kinh nghiệm
Trang: 6
Ngời thực hiện: Nguyễn Xuân Trờng
hữu: là bạn bè chỗ quen biết nói chung.
- Từ ghép kết hợp hai từ đơn trái nghĩa
+ Tạo ra nghĩa chung, bao hàm ý nghĩa của cả hai thành tố.
Ví dụ:
nam nữ: trai gái, nam nữ (nói chung)
tử sinh: sống chết (nói chung)
+ Tạo ra nghĩa riêng không bao hàm nghĩa riêng của từng thành tố
Ví dụ:
tả hữu: vốn nghĩa là bên trái, bên phải chuyển nghĩa thành bề tôi
thân tín.
+ Nghĩa của một thành tố trở thành nghĩa của từ ghép.
Ví dụ:
đắc thất: đắc (đợc), thất (mất) thì đắc thất có nghĩa chung là
mất, thất bại.
-Từ ghép kết hợp hai từ đơn theo quan hệ chính phụ.
Trong loại từ ghép này, nghĩa của thành tố này quy định, hạn chế,
bổ sung ý nghĩa của thành tố kai để tạo lên một nghĩa hoàn chỉnh. Các
nét nghĩa của thành tố gắn bó hữu cơ với nhau.
Ví dụ:
Tổ quốc: tổ quốc
Bất nghĩa: bất nghĩa
Phi thờng: phi thờng
- Từ ghép kết hợp kại hai từ đơn thành một chỉnh thể, mang một
nghĩa nội hàm hoàn chỉnh, riêng biệt.
Ví dụ:
quân tử: quân tử
tiểu nhân: tiểu nhân
túc hạ: từ tôn xng ngời đối thoại với mình
Mặt khác, còn phải cho học sinh nắm đợc một từ (một chữ) Hán có
thể có nhiều nghĩa nhng cũng lại có hiện tợng một ý nghĩa có thể đợc
biểu đạt bằng rất nhiều từ (chữ) khác nhau. Tuy nhiên mỗi từ (chữ) này,
ngoài nghĩa chung nhất còn mang nhiều sắc thái khác nhau.
Ví dụ: Để định danh sự vật là "con ngựa" bên cạnh từ "mã" còn có nhiều
từ khác để chỉ các loại ngựa khác nhau:
VD: "Câu": ngựa còn non tuổi, khoẻ mạnh, sung sức, đẹp mã
"Tuyết in sắc ngựa câu giòn
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời"
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Sáng kiến kinh nghiệm
Trang: 7
Ngời thực hiện: Nguyễn Xuân Trờng
- Ô thông: ngựa sắc lông đen nhánh, cao khoẻ còpn gọi tắt là ô
(ngựa ô).
"Vân Tiên đầu đội kim khôi
Tay cầm siêu bạc mình ngồi ngựa ô"
(Lục Vân Tiên)
- Bát: ngựa khoảng tám tuổi
- Li: ngựa sắc lông đen
- Đích: ngựa có mảng lông trắng ở trán
- Hà: ngựa hồng đốm trắng
Hoặc bên cạnh từ Sơn để chỉ núi còn có:
- hỗ: núi có cây, có cỏ
- dĩ: núi trọc
- hộc: núi có nhiều tảng đá
- ngao: núi có nhiều đá nhỏ
2. Từ việc giúp các em nhận diện từ Hán Việt, sau đó chỉ ra cho
các em thấy từ việc hiều sai đến chỗ dùng sai từ Hán Việt, chẳng hạn nh
đã có em viết là:
Ví dụ:
a) "Bạn Nam không chăm học, đó là yếu điểm của bạn ấy."
b) "Cố Bộ trởng Bộ giáo dục đang nghỉ hu tại một vùng quê yên tĩnh"
c) "Sắp đến giờ đi học rồi, em phải khẩn cấp làm xong bài tập ở
nhà để có bài tập nộp cho cô giáo".
Ta thấy: ở câu (a)
Yếu điểm và điểm yếu khác nghĩa nhau hoàn toàn.
Yếu điểm là một từ Hán Việt (yếu: quan trọng, VD: chủ yếu, trọng
yếu) "yếu điểm" là điểm quan trọng.
Nh vậy cần sửa câu trên là: "Bạn Nam không chăm học, đó là điểm
yếu của bạn ấy".
Cũng tơng tự nh vậy, trong câu (b): Cố bộ trởng và Cựu bộ trởng:
từ cố trong chữ Hán có nhiều nghĩa khác nhau. Cố là cũ (cố nhân: ngời
quen cũ). Cố có gốc là từ trớc (cố hơng, cố quốc). Cố còn có nghĩa là
chết (quá cố). Vậy Cố bộ trởng là ông bộ trởng đã qua đời, nên không
thể đang nghỉ hu ở một vùng quê yên tĩnh nh câu văn đã viết. Phải chữa
lại là: "Ông cựu bộ trởng " Cựu có nghĩa là cũ, từ dùng để chỉ ngời thôi
giữ chức vụ.
Trờng hợp ở câu (c): khẩn cấp và khẩn trơng
Câu văn dùng sai từ khẩn cấp, phải sửa lại thành " khẩn trơng
làm xong bài tập ". Khẩn nghĩa là gấp rút phải làm ngay mới đợc; cấp
Sáng kiến kinh nghiệm
Trang: 8
Ngời thực hiện: Nguyễn Xuân Trờng
nghĩa là vội, gấp rút, nên khẩn cấp chỉ công việc cần kíp phải làm
ngay để đối phó với một nguy cơ nguy hiểm nào đó. VD: Tin bão khẩn
cấp.
Còn khẩn trơng (trơng nghĩa là căng, căng thẳng) ý nói việc gấp
phải làm, việc căng thẳng hết sức nhanh chóng kịp thời có kết quả.
3. Từ việc nhận diện từ Hán Việt, chỉ ra chỗ dùng sai từ Hán Việt,
tôi đã tổng hợp mấy phơng án học từ Hán Việt sau:
* Phơng án "học ít biết nhiều"
Theo tác giả Phan Thiều trong "Dạy học sinh nắm yếu tố và các
quan hệ ngữ nghĩa trong các đơn vị định danh" cho rằng các từ ghép
mang nội dung ngữ nghĩa nhất định mà đại đa số trong các trờng hợp ta
có thể suy ra đợc
1. Biết nghĩa của các yếu tố thành phần
2. Biết quan hệ ngữ nghĩa của các yếu tố
Phơng án này giúp tiết kiệm thời gian. Một con tính nho nhỏ sau
giúp ta hình dung khả năng tiết kiệm thời gian lớn đến dờng nào:giả sử
có 5 từ tố A, B, C, D, E làm gốc để lắp ráp từng cặp thành những từ ghép
nhất định kiểu AB, BC, CD, DE ta sẽ có công thức toán học về khả
năng lắp ráp n(n - 1): 2, trong đó n là số lợng các yếu tố dùng để lắp ráp
ta có: 5 x 4 : 2 =10 (từ ghép). Đó là cha kể ghép nhờ cách đảo vị trí (AB
và BA)
-Học từ tố Hán Việt cha đủ mà còn nắm đợc công thức cấu tạo
nghĩa của từ ghép Hán Việt nữa. Nếu A, B là những từ tố Hán Việt; a, b
là nghĩa của từ tơng ứng, x là nét nghĩa không có trong A, B nhng có thể
suy ra từ ngữ cảnh ta sẽ có:
AB =ab (ái quốc = yêu nớc)
AB =ba (đảng kỳ = cờ đảng)
AB = a (x) b (tranh thủ =giành mà nắm lấy)
AB = b (x) a (quốc lộ = đờng do nhà nớc quản lý)
Tuy thế, phơng án này chỉ thích hợp với những em thông minh, có
kỹ năng nhất định trong sử dụng tiếng Việt.
* Phơng án "học ít hiểu kỹ"
Đối với học sinh phổ thông thì điều quan trọng không phải số từ
nhiều hay ít mà là nắm ý nghĩa từng từ và biết sử dụng cho chính xác,
nghĩa là đúng chữ, đúng nghĩa, đúng lúc, đúng màu sắc tu từ, đúng thể
loại.
Nguyên tắc là dạy ít, bày cho học sinh phơng pháp tìm hiểu chắc
chắn, so sánh với những từ đồng âm, đồng nghĩa, gần nghĩa và đa ra cách
Sáng kiến kinh nghiệm
Trang: 9
Ngời thực hiện: Nguyễn Xuân Trờng
sử dụng thích hợp. ở trờng phổ thông trí óc các em lớp dới cha phát triển
khi dạy từ Hán Việt nên đặt từ vào văn cảnh cụ thể giúp các em tiếp nhận
ý nghĩa từ một cách chính xác, không nên tách rời văn cảnh, tạo cho các
em thói quen dùng từ chính xác. Tất nhiên cách tiếp nhận này thờng bị
thu hẹp trong văn cảnh cụ thể, còn nếu đổi văn cảnh, học sinh có thể hiểu
sai, dùng sai, vì vậy các em hiểu rộng hơn bằng cách phân tích các yếu tố
thành phần, hiểu nghĩa từng yếu tố rồi suy ra nghĩa của từ, nghĩa đen và
nghĩa bóng, nghĩa cụ thể và trừu tợng, nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo phơng án này hứa hẹn nhiều kết quả tốt đẹp.
4. Muốn học sinh dùng đúng từ Hán Việt cần cho học sinh nắm đ-
ợc mấy điểm sau:
a. Phải hiểu đúng nghĩa khái quát tổng hợp của từ ngữ Hán Việt
chứ không nên hiểu theo cách đơn giản cộng nghĩa những yếu tố Hán
trong từ ngữ Hán Việt.
Ví dụ: Độc lập
+ Không thể hiểu theo cách rộng nghĩa các yếu tố Hán: Độc: một
mình; lập: đứng đứng một mình.
+ Phải hiểu theo nghĩa khái quát tổng hợp trong 2 trờng hợp:
- Sống độc lập: Sống dựa vào sức mình không ỷ lại phụ thuộc vào
ngời khác.
- Đất nớc độc lập: Nớc giữ đợc chủ quyền mọi mặt không bị nớc
khác thống trị.
b. Phải hiểu theo nghĩa ngời Việt hiểu. Có những từ Hán Việt dùng
theo nghĩa khác hẳn gốc Hán.
Ví dụ: hùng hổ, thiết tha, liên chi hồ điệp Chẳng hạn: hùng hổ nghĩa
gốc Hán là con gấu và con hổ; nghĩa Việt là vẻ hung hãn dữ tợn.
c. Phải chú ý đến hoàn cảnh nói năng, hoàn cảnh nào thì dùng từ
Hán Việt thì phù hợp, hoàn cảnh nào thì không phù hợp.
- Dùng từ Hán Việt cho trang trọng:
Ví dụ: Bà Hoàng Thị Loan là thân mẫu Hồ Chủ Tịch
- Trờng hợp thân mật không dùng từ Hán Việt:
Ví dụ: Mẹ ơi! Con mời mẹ vào xơi cơm.
Còn nếu viết: "Con đề nghị (hoặc "thỉnh cầu") mẹ vào xơi cơm thì
cách nói này sẽ cầu kỳ, không phù hợp.
Phần 2. Bài tập ứng dụng thực hành
Sáng kiến kinh nghiệm
Trang: 10
Ngời thực hiện: Nguyễn Xuân Trờng
Bài: Chị em thuý kiều
1. Văn bản:
Đầu lòng hai ả tố nga
Thuý Kiều là chị em là Thuý Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi ngời một vẻ mời phân vẹn mời
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cời ngọc thốt đoan trang
Mây thua nớc tóc tuyết nhờng màu da
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghêng nớc nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung thơng lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trơng.
Khúc nhà tay lựa lên chơng,
Một thiên "bạc mệnh" lại càng não nhân.
Phong lu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trớng rủ màn che
Tờng đông ong bớm đi về mặc ai.
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
2. Thuyết minh Hán Việt
a. Giải thích từ ngữ
Tố nga: đợc dùng để nói về ngời phụ nữ đẹp, thiếu nữ xinh đẹp
Cốt cách: dáng vẻ, dáng điệu, hình thể
Đoan trang: đứng đắn nghiêm trang
Thu thuỷ xuân sơn: nớc mùa thu, núi mùa xuân. Thơ văn cổ còn có
câu: "Nhãn nh thu thuỷ, mị tự xuân sơn (mắt trong nh
nớc mùa thu, lông mày xanh nh sắc núi mùa xuân) để
tả vẻ đẹp trên khuôn mặt phụ nữ.
Cung thơng, ngữ âm: năm cung bậc âm điệu trong nhạc cổ (cung,
thơng, giốc, chuỷ, vũ).
Sáng kiến kinh nghiệm
Trang: 11
Ngời thực hiện: Nguyễn Xuân Trờng
Hồng quần: Quần màu đỏ, phụ nữ quý phái ở Trung Hoa thời cổ xa
thờng mặc; phụ nữ, phái đẹp.
Cập kê: Đến tuổi cài trâm, đến tuổi trởng thành.
b. Mở rộng vốn từ
Tố nga có nghĩa là "tơ trắng" sau có nghĩa mở rộng là "trắng toát,
trắng tinh, trắng trong " nga có nghĩa gốc là "tốt đẹp" sau mở rộng
nghĩa là "con gái, thiếu nữ đẹp ngời tốt nết".
Tố: với những nét nghĩa đã nêu thờng xuất hiện trong từ ghép: tố
chất, tố nữ, nguyên tố.
* Từ đồng âm với từ tố:
Tố: nói cho biết, mách bảo, tố cáo, khiếu tố, tố giác, tố tụng, truy tố
Đoan trang: do "đoan" (ngay thẳng, ngay ngắn, đầu mối, nguyên
nhân" và "trang" (nghiêm chỉnh, nghiêm túc) hợp thành có nghĩa "đứng
đắn, nghiêm trang". Đoan thờng xuất hiện trong các từ ghép: đoan chính,
cực đoan.
Với nghĩa đã nêu "trang" thờng xuất hiện trong những từ ghép
trang nghiêm, trang trọng, trang nhã.
* Từ đồng âm với "trang"
Trang 1: thôn ấp, xóm làng, đồng ruộng, mùa màng, đất đai,
trang trại, trang ấp, trang viết, nông trang, điền trang, nghĩa trang,
thôn trang.
Trang 2: đồ dùng, quần áo, sắp đặt bố trí: trang phục, quân
trang, thời trang, võ trang, giả trang, hoá trang, trang bị, tân trang,
nguỵ trang, trang trí, trang thiết bị, trang hoàng
Trang 3: tô điểm (tô son điểm phấn): trang điểm, điểm trang, nữ
trang, trang sức, trang đài (nơi phụ nữ trang điểm), hồng trang (nữ giới,
phụ nữ).
Sắc: màu sắc (cả nghĩa đen và nghĩa bóng) vẻ mặt tinh thần, trạng
thái; vẻ đẹp của phụ nữ thờng xuất hiện trong các từ ghép: sắc thái, âm
sắc, bản sắc, đơn sắc, hoà sắc, ngũ sắc, khởi sắc, nhuận sắc, xuất sắc,
quốc sắc, nhan sắc, tửu sắc, tuyệt sắc, thần sắc, khí sắc, thất sắc, xuân
sắc.
* Từ đồng âm với "sắc"
Sắc: văn bản mệnh lệnh; ý kiến, mệnh lệnh thờng xuất hiện
trong các từ ghép: sắc lệnh, sắc phong, sắc chỉ.
Tài: năng lực đặc biệt, đặc biệt giỏi giang (về một mặt, một lĩnh
vực nào đó) thờng xuất hiện trong các từ ghép: tài năng, tài sắc, tài trí,
Sáng kiến kinh nghiệm
Trang: 12
Ngời thực hiện: Nguyễn Xuân Trờng
nhân tài, thiên tài, kỳ tài, đại tài, thực tài, anh tài, tài hoa, tài nghệ,
tài tử, tài mạo (tài năng tớng mạo), hiền tài.
* Từ đồng âm với "tài"
Tài 1: gỗ, nguyên vật liệu. Thờng xuất hiện trong các từ: tài liệu,
đề tài, khí tài, quan tài.
Tài 2: vun trồng: tài bồi
Tài 3: cắt, giảm, phán xét, quyết định: tài phán, trọng tài
Tài 4: tiền của: Tài chính, tài khoản, tài nguyên, tài sản, tài vụ,
tài phiệt, gia tài, phát tài, trọng nghía khinh tài.
phần iii. kết quả
Trong suốt quá trình thực hiện, áp dụng một số biện pháp giúp học
sinh "hiểu đúng" và "dùng đúng" từ Hán Việt. Với một phạm vi điều tra
khá rộng toàn bộ học sinh khối 7 (4 lớp), hơn 100 học sinh. Kết quả cho
thấy rằng: sau khi học sinh đã đợc cung cấp, hớng dẫn cách học từ Hán
Việt, các em không còn bỡ ngỡ với những từ Hán Việt đợc sử dụng trong
các tác phẩm văn học và việc hiểu đợc lớp từ quan trọng này các em sẽ
hiểu tốt hơn về tác phẩm, đồng thời các em còn "dùng đúng" các từ Hán
Việt đã học vào văn cảnh cụ thể.
Kết quả sau khi thực hiện:
Lớp Sĩ số
Số điểm - tỷ lệ
9-10 7-8 5-6 3-4 1-2 0
7A 34 25% 35% 40%
7B 37 25% 30% 35% 10%
7C 37 23% 32% 37% 8%
7D 37 17% 30% 39% 14%
Sáng kiến kinh nghiệm
Trang: 13
Ngời thực hiện: Nguyễn Xuân Trờng
c. kết luận
Trên đây là một số vấn đề mà tôi suy nghĩ và đã áp dụng trong việc
uốn nắn, sửa chữa thói quen không chính xác ở học sinh khi hiểu và dùng
từ Hán Việt mà tôi cảm thấy có kết quả khả quan trong quá trình giảng
dạy bộ môn Văn - Tiếng Việt ở bậc THCS. Tôi thiết nghĩ lớp từ Hán Việt
khá đặc biệt và vô cùng quan trọng, bởi mặc dù đá đợc Việt hoá cao song
lớp từ này còn chiếm số lợng tơng đối lớn trong ngôn ngữ tiếng Việt và
nhất là trong các tác phẩm văn học mà các em học sinh đợc học ngay cả
trong chơng trình sách giáo khoa mới cải cách.
Với khả năng, kinh nghiệm cha nhiều, bản thân tôi không dám coi
đây là "sáng kiến" mà chỉ dám coi là "kinh nghiệm", coi đây là những
suy nghĩ đa ra để trao đổi với các bạn đồng nghiệp, nhằm cùng rút ra
những biện pháp, cách dạy tốt nhất để hớng dẫn cho học sinh và các em
ngày càng hiểu đúng và dùng đúng hơn lớp từ đặc biệt và quan trọng này
- lớp từ Hán Việt.
Xin chân thành cảm ơn!
đánh giá
của hội đồng xét duyệt
Tân Minh, ngày 30 tháng 4 năm 2004
Ngời viết
Nguyễn Xuân Trờng
Sáng kiến kinh nghiệm
Trang: 14