Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Định hướng chính sách đảm bảo thông tin khoa học và công nghệ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đổi mới công nghệ trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 103 trang )


1
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 5
1. LÝ DO NGHIÊN CỨU 5
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU 7
3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 9
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 9
5. MẪU KHẢO SÁT 9
6. CÂU HỎI VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU 9
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 10
8. LUẬN CỨ 11
9. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN: 11
10. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN 11
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 12
1.1. Các khái niệm 12
1.1.1. Thông tin, thông tin KH&CN 12
1.1.2. Các khái niệm công nghệ, ĐMCN, DNNVV 14
1.2. Vai trò của thông tin KH&CN đối với hoạt động ĐMCN của DNNVV
trong bối cảnh hội nhập quốc tế 20
1.2.1. Khái quát về vai trò của thông tin KH&CN đối với hoạt động ĐMCN
của DNNVV trong bối cảnh hội nhập quốc tế 20
1.2.2. Thông tin KH&CN là nguyên liệu cho hoạt động ĐMCN 23
1.2.3. Thông tin KH&CN là sản phẩm của hoạt động ĐMCN 24
1.2.4. Nội dung thông tin KH&CN phục vụ hoạt động ĐMCN của DNNVV
trong bối cảnh hội nhập 25
1.3. Cơ sở đảm bảo thông tin KH&CN phục vụ DNNVV ĐMCN 28
1.3.1. Nguồn lực thông tin/tin lực 28
1.3.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật 29
1.3.3. Nhân lực thông tin KH&CN 29



2
1.3.4. Các dịch vụ thông tin KH&CN 30
1.4. Phát triển mạng thông tin KH&CN để đảm bảo thông tin cho ĐMCN
của DNNVV - Xu thế tất yếu trong hội nhập quốc tế 30
1.4.1. Đặc điểm của thông tin KH&CN hỗ trợ cho ĐMCN trong bối cảnh hội
nhập quốc tế 30
1.4.2. Kinh nghiệm của các cơ quan thông tin, mạng thông tin KH&CN phục
vụ doanh nghiệp ĐMCN ở một số nước 32
Kết luận Chương 1 36
Chương 2. PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH LIÊN QUAN ĐẾN
ĐẢM BẢO THÔNG TIN KH&CN HỖ TRỢ DNNVV ĐMCN VÀ THỰC
TRẠNG HỆ THỐNG ĐẢM BẢO THÔNG TIN KH&CN HỖ TRỢ
DNNVV ĐMCN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 37
2.1. Phân tích, đánh giá chính sách liên quan đến đảm bảo thông tin
KH&CN hỗ trợ DNNVV ĐMCN ở Việt Nam hiện nay 37
2.2. Thực trạng hệ thống thông tin KH&CN hỗ trợ DNNVV ĐMCN 44
2.2.1. Điểm mạnh và điểm yếu 44
2.2.2. Cơ hội và thách thức 49
2.3. Phân tích kết quả điều tra, phỏng vấn 52
2.3.1. Thống kê kết quả điều tra, phỏng vấn 52
2.3.3. Phân tích kết quả 55
Kết luận Chương 2 65
Chương 3. ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH ĐẢM BẢO THÔNG TIN
KH&CN HỖ TRỢ DNNVV ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ TRONG BỐI
CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ 67
3.1. Định hướng Chính sách phát triển nguồn lực thông tin KH&CN 67
3.1.1. Chính sách đầu tư đảm bảo nguồn lực thông tin KH&CN phục vụ
DNNVV ĐMCN 67
3.1.2. Chính sách khuyến khích hợp tác trong nước và với các tổ chức quốc tế,

tổ chức phi Chính phủ để có thêm nguồn tài trợ về tài liệu 70

3
3.1.3. Chính sách khuyến khích DNNVV từng bước đóng góp thêm kinh phí để
bổ sung nguồn lực thông tin công nghệ mới 74
3.2. Định hướng chính sách phát triển nguồn nhân lực 75
3.2.1. Nâng cao nghiệp vụ, kỹ năng của đội ngũ xử lý thông tin có kiến thức về
công nghệ, kỹ thuật 75
3.2.2. Đào tạo nhân lực tiếp nhận và phổ biến tin KH&CN của DNNVV 79
3.2.3. Đào tạo nghiệp vụ tra cứu, tìm kiếm và xử lý thông tin đối với đội ngũ
nghiên cứu, ĐMCN của DNNVV 80
3.3. Định hướng chính sách ưu tiên phát triển sản phẩm và dịch vụ thông tin
KH&CN phù hợp với nhu cầu ĐMCN của DNNVV 82
3.3.1. Tạo các sản phẩm thông tin cung cấp định kỳ, cung cấp đột xuất theo
nhu cầu loại hình DNNVV 83
3.3.2. Phát triển dịch vụ thông tin KH&CN phù hợp với nhu cầu ĐMCN của
DNNVV 85
3.3.3. Xây dựng các cơ sở dữ liệu theo nhu cầu của DNNVV 87
3.4. Định hướng Chính sách ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật tin học
phục vụ DNNVV 88
3.4.1. Chính sách ưu tiến phát triển Mạng thông tin KH&CN dùng riêng cho
DNNVV 88
3.4.2. Chính sách đầu tư mua sắm trang thiết bị phục vụ xử lý thông tin đầu
vào, lưu trữ và truyền tải dữ liệu 91
3.4.3. Chính sách hỗ trợ trang thiết bị đầu-cuối, đường truyền, cài đặt phần
mềm để DNNVV tiếp nhận và khai thác thông tin 92
3.5. Tăng cường marketing 93
Kết luận chương 3 93
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 98

PHỤ LỤC

4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNTT
Công nghệ thông tin
CSDL
Cơ sở dữ liệu
DNNVV
Doanh nghiệp nhỏ và vừa
ĐMCN
Đổi mới công nghệ
KH&CN
Khoa học và công nghệ
NC&TK
Nghiên cứu và triển khai
SHTT
Sở hữu trí tuệ
TCĐLCL
Tiêu chuẩn – Đo lường - Chất lượng
Techmart
Chợ công nghệ và thiết bị


5
MỞ ĐẦU

1. LÝ DO NGHIÊN CỨU
Ngày nay, thông tin được coi là nhu cầu thiết yếu trong mọi hoạt động của con

người, là nguồn lực đầu vào để tạo ra của cải vật chất cho xã hội, là công cụ điều
hành, quản lý kinh tế vĩ mô, là phương tiện hữu hiệu để bang giao trong hội nhập
quốc tế.
Hoạt động thông tin khoa học và công nghệ (KH&CN) của các cơ quan trong
Hệ thống thông tin KH&CN quốc gia trong nhiều năm qua đã lấy đối tượng doanh
nghiệp làm trung tâm phục vụ, trong đó nội dung thông tin tập trung chủ yếu phổ
biến các thành tựu KH&CN của thế giới và trong nước, các kinh nghiệm chuyển
giao công nghệ quốc tế, kinh nghiệp tiếp nhận làm chủ công nghệ nhập ngoại, tiến
đến nghiên cứu đổi mới công nghệ (ĐMCN) và phát triển công nghệ nội sinh.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị hàng năm, Cục Thông tin
KH&CN Quốc gia - Cơ quan đứng đầu Hệ thống thông tin KH&CN Quốc gia, nơi
tác giả đã có nhiều năm công tác, không ngừng mở rộng hoạt động thông tin và đa
dạng hóa các loại hình sản phẩm và dịch vụ của mình nhằm hướng vào phục vụ các
đối tượng dùng tin trong xã hội như (1) Cán bộ lãnh đạo, quản lý, hoạch định chính
sách, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, KH&CN; (2) Các nhà nghiên cứu, nhà
khoa học, nghiên cứu sinh, giảng viên đại học và sinh viên các ngành kỹ thuật; (3)
Nông dân và (4) Doanh nghiệp, doanh nhân.
Thực tế hoạt động thông tin phục vụ doanh nghiệp của Cục Thông tin
KH&CN Quốc gia đã thực hiện trong những năm gần đây, chủ yếu tổ chức các Chợ
công nghệ và thiết bị (gọi là Techmart). Hoạt động này được tổ chức từ năm 2003
đến nay, cứ hai năm một lần tổ chức Techmart Quốc gia, hàng năm tổ chức
Techmart vùng hoặc địa phương. Tại các kỳ Techmart đã thu hút hàng nghìn lượt
doanh nhân, nông dân tham quan, tìm kiếm thông tin công nghệ, công nghệ để phục
vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, Cục Thông tin KH&CN Quốc
gia cũng đã cung cấp nhiều loại sản phẩm, dịch vụ thông tin như các loại bản tin,

6
dịch vụ tra cứu tìm tin theo nhu cầu, dịch vụ xây dựng các báo cáo chuyên đề đã
góp phần hỗ trợ doanh nghiệp trong hoạt động nghiên cứu đổi mới công nghệ
(ĐMCN), áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới vào quá trình quản lý, sản xuất, kinh

doanh.
Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế
thế giới, cộng đồng doanh nghiệp nói chung có nhu cầu rất lớn về thông tin
KH&CN phục vụ cho hoạt động ĐMCN, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm
và sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, khuôn khổ của
Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu là đề xuất định hướng chính sách đảm bảo thông
tin KH&CN cho một đối tượng cụ thể là doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Việt
Nam - Một cộng đồng rất lớn, chiếm trên 97% trong tổng số trên 500.000 doanh
nghiệp đăng ký hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, sử dụng trên 50% số lao động
trong các doanh nghiệp, sử dụng trên 30% tổng vốn đầu tư, tạo ra trên 40% số hàng
hóa tiêu dùng và xuất khẩu, trên 47% GDP, đóng góp gần 40% ngân sách Nhà nước
[2]. Theo Cục Phát triển Doanh nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chỉ có khoảng 8%
số DNNVV đạt trình độ công nghệ tiên tiến (phần lớn là các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài). DNNVV trong nước hầu hết đang sử dụng công nghệ và thiết bị
cũ, lạc hậu, quy mô nhỏ, tiêu hao nhiều vật tư, năng lượng và sức lao động. Sản
phẩm sản xuất ra, chất lượng thấp và giá thành cao, thậm chí thua kém nhiều các
sản phẩm nhập khẩu qua đường tiểu ngạch, nên khả năng canh tranh thấp, chỉ có
một số ít DNNVV mạnh dạn đầu tư ĐMCN nên sản phẩm của các loại doanh
nghiệp đó có khả năng cạnh tranh trên thị trường nội địa và vươn ra các thị trường
khu vực và thế giới.
Chúng ta đều biết, số DNNVV chỉ mới bung ra phát triển trong những năm
gần đây, khi đất nước đẩy mạnh công cuộc CNH, HĐH và mở cửa nên họ chưa
chuẩn bị tốt hành trang cho xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Hầu hết các DNNVV
đều có bước khởi đầu và trưởng thành với xuất phát điểm thấp, thậm chí có những
đơn vị trưởng thành từ hộ kinh doanh nhỏ lẻ, ít vốn, chưa có điều kiện đầu tư vào
thiết bị, dây chuyền sản xuất hiện đại, phần lớn thiết bị máy móc có được là loại đã

7
qua sử sụng, quá trình vận hành đã phải sửa chữa thay thế các loại phụ tùng tự gia
công , tự chế tạo, chưa có điều kiện để ĐMCN. Đây là tình trạng chung về máy móc

thiết bị và công nghệ của các DNNVV qua các cuộc điều tra của Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam (VCCI). Nhìn chung, đội ngũ cán bộ kỹ thuật của doanh
nghiệp không có cơ hội tiếp cận đến các loại thông tin về công nghệ, không biết
nguồn cung công nghệ để có cơ hội lựa chọn chuyển giao và ĐMCN.
Như vậy, việc đảm bảo thông tin KH&CN hỗ trợ DNNVV ĐMCN trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế là rất cần thiết, phải được các cơ quan Nhà nước quan
tâm, hỗ trợ một cách cơ bản, khoa học, tiến đến chuyên nghiệp. DNNVV cần được
cung cấp thông tin KH&CN phù hợp với nhu cầu thực tiễn để họ có thể tính toán
thích hợp hơn và để tận dụng tốt các lợi thế mà hội nhập quốc tế mang lại cũng như
chủ động đối mặt với các thách thức.
Nhận biết rõ vai trò quan trọng của cộng đồng DNNVV nước ta trong hoạt
động kinh tế và những mặt còn yếu kém, Chính phủ đã ban hành Nghị định
56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009 về việc “Trợ giúp phát triển DNNVV”, trong đó
tại Điều 9 và Điều 12 nêu rõ nhiệm vụ đảm bảo thông tin KH&CN cho DNNVV.
Tiếp đến, ngày 05 tháng 05 năm 2010, Chính phủ ra Nghị quyết 22/NQ-CP để khẩn
trương triển khai Nghị định 56/NĐ-CP. Trước sự chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng,
sự đòi hỏi cấp bách và nhu cầu thực tiễn của cộng đồng DNNVV về việc đảm bảo
thông tin KH&CN phục vụ hoạt động ĐMCN, tác giả mạnh dạn đề xuất đề tài
nghiên cứu “ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH ĐẢM BẢO THÔNG TIN KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA ĐỔI MỚI CÔNG
NGHỆ TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ” làm Luận văn tốt nghiệp.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
Hiện nay trên thế giới và ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu đề cập tới việc
cung cấp thông tin KH&CN phục vụ cho doanh nghiệp, những nguyên nhân cản trở
hoạt động ĐMCN ở doanh nghiệp và đưa ra các chính sách, hình thức hỗ trợ các
doanh nghiệp ĐMCN như: Đề tài: “Nghiên cứu và triển khai mạng thông tin Khoa
học và Công nghệ tại Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia nhằm

8
phục vụ doanh nghiệp” (TS. Tạ Bá Hưng, Ths. Phan Huy Quế, 2006); Đề tài

“Nghiên cứu kinh nghiệm của Hungary về phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, vận dụng vào Việt Nam” (Lê Du Phong,
GS,TSKH, chủ nhiệm đề tài; Phạm Hồng Chương, TS; Mai Ngọc Cường, GS,TS;
Hồ Hải Yến, ThS. Trường ĐH Kinh tế Quốc dân, 2006); Đề tài “Nghiên cứu đề
xuất cơ chế huy động vốn đầu tư chiều sâu, ĐMCN cho ngành cơ khí và phương án
đầu tư cho việc nghiên cứu và phát triển phù hợp với các quy định của WTO” (Đào
Duy Trung, TS (Chủ nhiệm đề tài) , Hà Văn Vui, PGS; Nguyễn Mạnh Tuấn, KS;


Xuân Quý, ThS; Và những người khác. Viện NC Cơ khí , 2009); Nghị định hợp tác
với Hoa Kỳ: “Nghiên cứu kinh nghiệm Hoa kỳ về xây dựng phương pháp luận phân
tích hiện trạng đổi mới và chính sách đổi mới, ứng dụng vào việc xây dựng chính
sách hỗ trợ ĐMCN cho DNNVV Việt Nam trong bối cảnh hội nhập” (2008-2010),
Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS. Trần Ngọc Ca; Đề tài “Nghiên cứu đổi mới cơ chế,
chính sách tài chính của Nhà nước đối với hoạt động KH&CN và hoạt động đổi
mới (công nghệ)” (Đặng Duy Thịnh, TS (Chủ nhiệm đề tài), Bùi Thiên Sơn,
PGS,TS; Nguyễn Trọng Thụ, ThS; Nghiêm Thị Minh Hoà, KS; Và những người
khác. Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN, 2009).
Tuy nhiên, các đề tài nghiên cứu nêu trên chủ yếu là đi vào nghiên cứu từng
khía cạnh khác nhau trong bối cảnh doanh nghiệp Việt Nam đang trên đà hội nhập
khu vực và thế giới. Tác giả cũng nhận thấy, chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu
có tính luận cứ khoa học để giải quyết các vấn đề một cách thấu đáo. Những nghiên
cứu trên đây chưa đi vào làm rõ công tác thông tin KH&CN hỗ trợ cho DNNVV
ĐMCN trong bối cảnh hội nhập. Chính vì vậy, tác giả muốn đặt nhiệm vụ nghiên
cứu đề tài của mình, từ luận cứ khoa học, nghiên cứu nhu cầu thực tiễn và chọn đối
tượng nghiên cứu cụ thể, đó là cộng đồng DNNVV - Một đối tượng đang được xã
hội coi trọng, được Nhà nước quan tâm để hoàn thiện chuyên đề nghiên cứu của
mình. Đây chính là sự khác biệt, tính mới, tính hệ thống, tính logic mà tác giả phải
hướng tới.



9
3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Đề xuất định hướng chính sách đảm bảo thông tin KH&CN hỗ trợ DNNVV
ĐMCN, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh
trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1/ Đối tượng: Công tác thông tin KH&CN hỗ trợ DNNVV ĐMCN
2/ Phạm vi nghiên cứu: Chỉ giới hạn đối tượng DNNVV trong các lĩnh vực sản
xuất hàng tiêu dùng, cơ khí - chế tạo - tự động hoá, chế biến lương thực - thực phẩm,
chế biến nông – lâm - thuỷ sản, vật liệu – hoá chất trên địa bàn thành phố Hà Nội,
Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh; thời gian từ năm 2006 đến nay.
5. MẪU KHẢO SÁT
Điều tra thực tiễn, lấy ý kiến tại Viện Khoa học Quản trị DNNVV, Hiệp hội
DNNVV Việt Nam, Cục Thông tin KH&CN Quốc gia và tại một số DNNVV ở
thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh. Hoạt động điều tra này
giúp tác giả có thêm nguồn thông tin sát với nhu cầu thực tiễn của cộng đồng
DNNVV.
6. CÂU HỎI VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Câu hỏi nghiên cứu:
 Thực trạng hoạt động đảm bảo thông tin KH&CN hỗ trợ DNNVV ĐMCN ở
nước ta hiện nay ra sao?
 Đề xuất định hướng chính sách gì để đảm bảo thông tin KH&CN hỗ trợ
DNNVV ĐMCN có hiệu quả trong hội nhập quốc tế hiện nay?
Giả thuyết nghiên cứu:
- Hệ thống đảm bảo thông tin KH&CN hỗ trợ DNNVV ĐMCN ở nước ta hiện
nay còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của DNNVV trong
bối cảnh hội nhập hiện nay. Để có được luận điểm này, tác giả đã phân tích hiện
trạng, những mặt mạnh, mặt yếu, cơ hội và thách thức của hoạt động đảm bảo thông
tin KH&CN hỗ trợ DNNVV ĐMCN ở nước ta hiện nay. Những phân tích này chủ

yếu tập trung vào nguồn nhân lực, vật lực, tài lực và tin lực.

10
- Đề xuất định hướng chính sách ưu tiên: Nhà nước cần ban hành các nhóm
chính sách sau:
(1) Chính sách ưu tiên phát triển nguồn lực thông tin KH&CN, cung cấp thông
tin KH&CN cho DNNVV ĐMCN; Đầu tư nguồn kinh phí hàng năm để mua nguồn
tin công nghệ nước ngoài, những cơ sở dữ liệu (CSDL) về công nghệ ; Chính sách
khuyến khích hợp tác trong nước và quốc tế để có thêm nguồn tài trợ về tài liệu.
(2) Chính sách ưu tiên phát triển nguồn nhân lực thông tin KH&CN có trình
độ cao, phục vụ cho hoạt động thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin
KH&CN hỗ trợ DNNVV ĐMCN; Tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ này thâm nhập
vào doanh nghiệp để nắm bắt nhu cầu của doanh nghiệp để hỗ trợ được hiệu quả;
Chính sách tăng cường trách nhiệm của đội ngũ chuyên gia đảm bảo thông tin
KH&CN cho DNNVV ĐMCN;
(3) Chính sách hỗ trợ kinh phí đào tạo cho các doanh nhân đạt được trình độ
nhất định, họ chịu trách nhiệm đầu mối tiếp nhận thông tin KH&CN phục vụ cho
ĐMCN của doanh nghiệp.
(4) Chính sách ưu tiên phát triển các sản phẩm và dịch vụ thông tin KH&CN
phù hợp với nhu cầu của DNNVV.
(5) Chính sách ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật tin học phục vụ
DNNVV; Xây dựng Mạng thông tin KH&CN tầm cỡ quốc gia phục vụ riêng cho
DNNVV ĐMCN; Đầu tư mua sắm trang thiết bị máy tính, máy quét, máy chủ phục
vụ xử lý thông tin đầu vào và lưu trữ dữ liệu; Hỗ trợ trang thiết bị đầu cuối để tạo
điều kiện cho DNNVV tiếp nhận và khai thác thông tin.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu (thu thập, xử lý, phân tích và tổng hợp
thông tin/tài liệu);
- Điều tra khảo sát bằng phiếu hỏi: thiết kế phiếu điều tra và thực hiện điều
tra tại các DNNVV;

- Quan sát, phỏng vấn và trao đổi trực tiếp với chuyên gia;
- Phân tích và tổng hợp.

11
8. LUẬN CỨ
 Luận cứ lý thuyết:
- Các khái niệm và lý thuyết liên quan đến thông tin, thông tin KH&CN,
- Công nghệ, ĐMCN, DNNVV, ĐMCN trong DNNVV
 Luận cứ thực tế:
- Luận cứ về nhu cầu thông tin KH&CN phục vụ ĐMCN của DNNVV trong
hội nhập quốc tế;
- Luận cứ về khả năng của các cơ quan thông tin KH&CN đảm bảo nhu cầu
thông tin KH&CN hỗ trợ DNNVV ĐMCN;
- Dựa vào các số liệu điều tra, phỏng vấn các chuyên gia, nhà quản lý, doanh
nghiệp tại Hà Nội, Đà Nẵng và Tp. Hồ Chí Minh;
- Nghiên cứu kinh nghiệm về đảm bảo thông tin KH&CN cho DNNVV
ĐMCN trong hội nhập quốc tế.
9. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN:
- Ý nghĩa lý luận:
Góp phần vào việc khẳng định vai trò, vị trí và ý nghĩa của thông tin KH&CN
trong hoạt động ĐMCN của DNNVV trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Góp phần định hướng chính sách đảm bảo thông tin KH&CN phục vụ ĐMCN
của các DNNVV tại Việt Nam, giúp họ sản xuất kinh doanh hiệu quả hơn, nâng cao
năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, từ đó tiếp tục đẩy mạnh
hoạt động thông tin KH&CN phục vụ doanh nghiệp.
10. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn còn có các chương sau đây:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Đặc điểm của hoạt động ĐMCN trong DNNVV và thực trạng hệ

thống đảm bảo thông tin KH&CN hỗ trợ DNNVV ĐMCN ở nước ta hiện nay
Chương 3: Định hướng chính sách đảm bảo thông tin KH&CN hỗ trợ
DNNVV ĐMCN trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

12
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Các khái niệm
1.1.1. Thông tin, thông tin KH&CN
a. Khái niệm thông tin
Thông tin là một thuật ngữ thường xuyên được nhắc tới, bởi nó có vai trò quan
trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vậy thông tin là gì? Thuật ngữ thông
tin (tiếng Anh- Information) có nguồn gốc từ thuật ngữ Latinh- Infomatio, có nghĩa
là diễn giải, thông báo. Theo nghĩa thông thường, thông tin được xem như một đối
tượng có nội dung, một quá trình trao đổi giữa con người và môi trường để làm dễ
dàng cho sự thích nghi của con người. Con người tồn tại luôn bị chi phối và chịu sự
tác động của thế giới. Cũng chính vì vậy, việc nhận thức được thế giới là mục đích
quan trọng của con người. Thông tin chính là chiếc cầu nối giữa thế giới với con
người [11]. Thông tin mang tính khách quan, bắt nguồn từ tính đa dạng, nhiều vẻ
của cấu trúc cũng như về mối quan hệ của các sư vật hiện tượng trong thế giới
khách quan.
Thông tin, về bản chất, là một đối tượng trừu tượng, vô hình, được biểu thị
qua nội dung của sự vật, được tiếp thu và được sử dụng cho các mục đích khác
nhau. Viện sỹ A.I. Berg và Giáo sư Tcherniak nhận xét: "thông tin không phải là vật
chất mà là một phạm trù của tư duy". Tuy nhiên, để tồn tại, thông tin phải được thể
hiện trong hình thái vật chất-năng lượng dưới dạng các tín hiệu vật lý như: âm
thanh, ánh sáng, điện tử, hoặc các dấu hiệu như: chữ viết, hình ảnh, văn bản,
Trong Bách khoa toàn thư của Liên Xô xuất bản lần thứ 3, tập 10 viết “Thông
tin là tin tức được truyền đi bởi con người bằng lời nói, chữ viết hoặc các phương

tiện khác”. Theo từ điển Oxford của Anh, thông tin là “điều mà người ta đánh giá
hoặc nói đến là tri thức, tin tức”. Nhiều từ điển khác đồng nhất thông tin với kiến
thức “thông tin là điều mà người ta biết” hoặc “thông tin là sự chuyển giao tri thức
làm tăng thêm hiểu biết của con người”. Từ điển Wikipedia cho rằng: Thông tin là

13
sự phản ánh sự vật, sự việc, hiện tượng của thế giới khách quan và các hoạt động
của con người trong đời sống xã hội. Điều cơ bản là con người thông qua việc cảm
nhận thông tin làm tăng hiểu biết cho mình và tiến hành những hoạt động có ích cho
cộng đồng.
Khái niệm thông tin rất đa dạng và nhiều khía cạnh phức tạp giống như bản
chất vốn có của thông tin là tính phong phú, đa dạng của nó. Căn cứ vào đặc điểm,
nội dung của tin tức, có thể chia thông tin thành các loại thông tin kinh tế, thông tin
quản lý, thông tin KH&CN, Mỗi loại thông tin đều có đặc trưng riêng, song nhìn
chung chúng đều đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển xã hội. Trong
Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5453-1991 nêu: “Thông tin là nội dung con người gán
cho dữ liệu với các qui ước (ký hiệu) đã biết, được sử dụng trong việc trình bày
chúng”.
Theo quan điểm của tôi, trong phạm vi lĩnh vực thông tin – thư viện: thông tin
là những dữ liệu đã được xử lý, tổ chức và lưu giữ trên những vật mang tin khác
nhau theo mục đích của người sử dụng. Nói cách khác, thông tin là kết quả của sự
phân tích, tổng hợp và đánh giá dựa trên những dữ liệu sẵn có để phục vụ nhu cầu
của người dùng tin.
Thông tin được lưu trữ trên nhiều dạng vật liệu khác nhau như được khắc
trên đá, được ghi lại trên giấy, trên bìa, trên băng từ, đĩa từ Nó có thể tồn tại dưới
dạng văn bản, âm thanh, hình ảnh…
b. Khái niệm thông tin KH&CN
Căn cứ vào đặc điểm, nội dung của tin tức, có thể chia thông tin thành các loại
thông tin kinh tế, thông tin quản lý, thông tin KH&CN, Mỗi loại thông tin đều có
đặc trưng riêng, song nhìn chung chúng đều đóng vai trò quan trọng trong quá trình

phát triển xã hội.
Trong phạm vi luận văn này, khái niệm thông tin KH&CN được hiểu theo
định nghĩa tại Khoản 1, Điều 2 Nghị định 159/2004/NĐ-CP ngày 31/8/2004 quy
định về hoạt động thông tin KH&CN, theo đó: “Thông tin KH&CN là các dữ liệu,
số liệu, dữ kiện, tri thức KH&CN (bao gồm khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ,

14
khoa học xã hội và nhân văn) được tạo lập, quản lý và sử dụng nhằm mục đích
cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước hoặc đáp ứng nhu cầu của tổ
chức, cá nhân trong xã hội”.
Như vậy, thông tin KH&CN là một loại hình thông tin, nó vừa là nguồn lực
của phát triển, vừa là của cải và tài sản của xã hội. Bước sang thời kỳ hậu công
nghiệp, từ những năm 70 của thế kỷ XX, hoạt động thông tin vừa là lĩnh vực hoạt
động khoa học, vừa là bộ phận của ngành kinh tế dịch vụ. Như vậy, sản phẩm và
dịch vụ của ngành thông tin KH&CN là một dạng hàng hóa đặc biệt với đầy đủ các
tiêu thức về giá trị và giá trị sử dụng.
1.1.2. Các khái niệm công nghệ, ĐMCN, DNNVV
a. Khái niệm công nghệ
Từ những năm 60 của thế kỷ trước, khởi đầu từ Mỹ rồi Tây Âu đã sử dụng
thuật ngữ "công nghệ" (technology) để chỉ các hoạt động ở mọi lĩnh vực, các hoạt
động này áp dụng những kiến thức là kết quả của nghiên cứu khoa học ứng dụng.
Hiện nay, thuật ngữ công nghệ được sử dụng rộng rãi nhưng có rất nhiều định nghĩa
khác nhau tùy theo từng quan điểm, từng mục đích sử dụng.
Theo quan điểm của Tổ chức Phát triển Công nghiệp của Liên Hợp Quốc
(UNIDO): Công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp bằng cách sử dụng
các kết quả nghiên cứu và xử lý nó một cách có hệ thống và có phương pháp. Theo
Ủy ban Kinh tế và Xã hội của khu vực Châu Á Thái Bình Dương (ESCAP), công
nghệ là "Hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và
thông tin. Nó bao gồm kiến thức, kỹ năng, thiết bị, phương pháp và các hệ thống
dùng trong việc tạo ra hàng hóa và cung cấp dịch vụ". [20]

Quan điểm luận văn này nhấn mạnh định nghĩa công nghệ của ESCAP, nó có
tính bao quát các khía cạnh liên quan đến công nghệ. Công nghệ là hệ thống kiến
thức, nhấn mạnh bản chất cốt lõi của công nghệ là kiến thức, khẳng định vai trò dẫn
đường của khoa học đối với công nghệ. Công nghệ có khả năng chế biến các nguồn
lực thành hàng hóa và dịch vụ, do đó phải đáp ứng được mục tiêu sử dụng và các
yêu cầu về kinh tế để được áp dụng trong thực tế. Công nghệ là công cụ, phương

15
tiện, nhấn mạnh đó là sản phẩm của con người và con người có thể làm chủ được nó.
Công nghệ hàm chứa trong đó các dạng hiện thân của nó như kiến thức, kỹ năng,
thiết bị, các hệ thống… do đó công nghệ có thể mua bán được.
Ở Việt Nam, từ điển Bách khoa tiếng Việt định nghĩa: “Công nghệ là sự áp
dụng khoa học vào trong thực tế để tạo ra sản phẩm và dịch vụ”. Luật KH&CN
Việt Nam (2000) định nghĩa: “Công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình,
kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản
phẩm”.
Mặc dù việc đưa ra định nghĩa công nghệ lại chưa có sự thống nhất, nguyên
nhân là do tính đa dạng của công nghệ, sự đa dạng trong quan điểm của các nhà
nghiên cứu và sự phát triển của KH&CN, nhưng nhìn chung, có bốn thành phần cần
bao quát trong định nghĩa công nghệ gồm:
- Công nghệ hàm chứa trong các vật thể bao gồm mọi phương tiện vật chất
(Technoware): công cụ, thiết bị, máy móc, vật liệu, phương tiện vật chất… Trong
sản xuất, các vật thể này hợp thành dây chuyền để thực hiện quá trình biến đổi gọi
là dây chuyền công nghệ.
- Công nghệ hàm chứa trong kỹ năng công nghệ của con người làm việc trong
công nghệ (Humanware) bao gồm mọi năng lực của con người như kỹ năng do học
hỏi, tích lũy được trong quá trình hoạt động, nó cũng bao gồm tố chất của con người
như tính sáng tạo, sự nhanh nhẹn, khả năng lãnh đạo, đạo đức lao động…
- Công nghệ hàm chứa trong các khung thể chế, tạo nên hệ khung tổ chức của
công nghệ (Organware): những quy định về trách nhiệm quyền hạn, mối quan hệ,

sự phối hợp của các cá nhân hoạt động trong công nghệ, quy trình đào tạo công
nhân, kỹ sư, bố trí sắp xếp thiết bị nhằm sử dụng tốt nhất phần kỹ thuật và phần con
người.
- Công nghệ hàm chứa trong các dữ liệu đã được tư liệu hóa được sử dụng
trong công nghệ (Inforware): các dữ liệu về phần kỹ thuật, phần con người và phần
tổ chức.

16
Một quá trình sản xuất phải đảm bảo 4 thành phần trên. Mỗi thành phần đảm
nhiệm những chức năng nhất định. Trong đó thành phần trang thiết bị được coi là
xương sống, cốt lõi của quá trình hoạt động nhưng nó lại do con người lắp đặt và
vận hành. Thành phần con người được coi là nhân tố chìa khoá của nhân tố hoạt
động sản xuất nhưng lại phải hoạt động theo hướng dẫn do thành phần thông tin
cung cấp. Thành phần thông tin là cơ sở hướng dẫn người lao động vận hành các
máy móc thiết bị và đưa ra các quyết định. Thành phần tổ chức có nhiệm vụ liên kêt
các thành phần trên, động viên người lao động nâng cao hiệu quả sản xuất.
b. Khái niệm ĐMCN
ĐMCN là việc thay thế phần quan trọng (cơ bản, cốt lõi) hay toàn bộ công
nghệ đang sử dụng bằng một công nghệ khác tiên tiến hơn. ĐMCN có thể chỉ nhằm
giải quyết bài toán tối ưu về các thông số của quá trình sản xuất như năng suất, chất
lượng, hiệu quả v. v. (ĐMCN quá trình) hoặc có thể nhằm tạo ra một sản phẩm,
dịch vụ mới phục vụ thị trường (ĐMCN sản phẩm) . ĐMCN cũng có thể trên cơ sở
đưa ra hoặc ứng dụng những công nghệ hoàn toàn mới chưa có trên thị trường hoặc
là thông qua việc chuyển giao công nghệ.[20]
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD): "Hoạt động ĐMCN gồm
các khâu liên quan đến khoa học, công nghệ, tổ chức, tài chính và thương mại, kể
cả đầu tư vào tri thức mới, đã hoặc nhằm đem lại các sản phẩm và quy trình
mới/hoàn thiện hơn về mặt công nghệ. Nghiên cứu và triển khai chỉ là một trong
các hoạt động này và có thể được thực hiện ở các giai đoạn khác nhau của quá
trình đổi mới".

Khái niệm này được OECD làm rõ hơn trong tài liệu OSLO: "Đổi mới sản
phẩm và quy trình công nghệ bao gồm các sản phẩm và các quy trình mới về công
nghệ được thực hiện và các cải tiến công nghệ đáng kể trong các sản phẩm và quy
trình. Một đổi mới sản phẩm và quy trình công nghệ được thực hiện nếu nó được
đưa ra thị trường (đổi mới sản phẩm) hoặc được sử dụng trong quy trình sản xuất

17
(đổi mới quy trình). Đổi mới sản phẩm và quy trình công nghệ bao gồm một loạt
các hoạt động khoa học, công nghệ, tổ chức, tài chính và thương mại" (1).[17]
Định nghĩa của OECD đã chỉ ra được đối tượng quan trọng nhất của ĐMCN là
sản phẩm mới (hàng hóa hoặc dịch vụ) và quy trình công nghệ mới (có thể gồm cả
thiết bị), đồng thời còn thể hiện được mối liên kết có tính hệ thống giữa các yếu tố
tham gia vào hoạt động ĐMCN. Theo đó quá trình đổi mới là một quá trình phức
tạp và có thể dẫn đến kết quả đổi mới thành công hoặc thất bại.
c. ĐMCN trong doanh nghiệp
Như chúng ta đã biết, công nghệ là một sản phẩm của con người và nó cũng
tuân theo quy luật chu trình sống của sản phẩm. Tức là nó được sinh ra, phát triển
và cuối cùng là suy vong. Bất kỳ một doanh nghiệp nào nếu không có những hoạt
động nhằm ĐMCN thì chắc chắn hệ thống công nghệ, dây chuyền sản xuất, máy
móc, trang thiết bị… sẽ trở nên lạc hậu, hiệu quả kinh tế thấp, dẫn đến bị đào thải,
làm cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp bị đe doạ. Do đó, ĐMCN là tất
yếu và phù hợp với quy luật phát triển. Tính tất yếu của ĐMCN còn xuất phát từ các
lợi ích khác nhau mà ĐMCN đem laị cho doanh nghiệp cũng như cho toàn xã hội
nói chung.
ĐMCN sẽ giúp doanh nghiệp, nhà sản xuất cải thiện, nâng cao chất lượng sản
phẩm, củng cố, duy trì và mở rộng thị phần của sản phẩm; đa dạng hoá mẫu mã sản
phẩm, giảm tiêu hao nguyên, nhiên liệu; cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao mức
độ an toàn sản xuất cho người và thiết bị, giảm tác động xấu đến môi trường. Đặc
biệt, về mặt lợi ích thương mại, nhờ đổi mới công nghệ, chất lượng sản phẩm được
nâng lên rõ rệt.

Có thể nói, tiêu chí cơ bản để xem xét sự phát triển của doanh nghiệp là sự chủ
động theo đuổi ĐMCN và sản phẩm của doanh nghiệp. Có rất nhiều việc cần phải
làm để thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện ĐMCN nhưng quan trọng nhất phải
giải quyết vấn đề động lực đổi mới của doanh nghiệp nghĩa là doanh nghiệp phải là
chủ thể ĐMCN. Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn phát triển đều phải chú trọng


(1) Tài liệu hướng dẫn Frascati 2002-OECD, tr.8

18
tới việc tích lũy kỹ thuật và lựa chọn sử dụng chiến lược nghiên cứu và phát triển
sản phẩm mới.
d. DNNVV
Khái niệm DNNVV
Muốn hiểu DNVVN là gì trước hết ta cần tìm hiểu thế nào là doanh nghiệp.
Theo luật Doanh nghiệp năm 2005: Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên
riêng, có tài sản riêng, có trụ sở giao dịch ổn định được đăng ký kinh doanh theo
quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Các
loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường rất đa dạng và phong phú. Tùy
theo từng cách tiếp cận khác nhau mà người ta có thể chia doanh nghiệp thành các
loại khác nhau trong đó dựa theo quy mô có thể chia doanh nghiệp thành doanh
nghiệp lớn và DNNVV.
Không có một khái niệm chung nào thống nhất trên toàn thế giới về DNNVV,
cũng như những gì cấu thành nên một DNNVV. Các khái niệm và sự phân loại thay
đổi tùy theo mỗi nước. Tuy nhiên, theo cách chung nhất, phân loại doanh nghiệp
phụ thuộc vào số người lao động hoặc số vốn kinh doanh. Thông thường thì
DNNVV là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ bé về mặt vốn, lao động hay doanh
thu. DNNVV có thể chia thành ba loại cũng căn cứ vào quy mô đó là doanh nghiệp
siêu nhỏ (micro), doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa. Theo tiêu chí của Ngân
hàng Thế giới, doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 10

người, doanh nghiệp nhỏ có số lượng lao động từ 10 đến dưới 50 người, còn doanh
nghiệp vừa có từ 50 đến 300 lao động.
Ở Việt Nam, theo Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính
phủ về trợ giúp phát triển DNNVV định nghĩa như sau: DNNVV là cơ sở kinh
doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu
nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài
sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động
bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên), cụ thể như sau:





19
Bảng 1.1: DNNVV theo Nghị định số 56/2009/NĐ-CP
Quy mô


Khu vực
Doanh
nghiệp siêu
nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ
Doanh nghiệp vừa
Số lao động
Tổng
nguồn vốn
Số lao động
Tổng nguồn
vốn

Số lao động
I. Nông, lâm
nghiệp và
thủy sản
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20 tỷ
đồng đến 100
tỷ đồng
từ trên 200
người đến 300
người
II. Công
nghiệp và
xây dựng
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20 tỷ
đồng đến 100
tỷ đồng

từ trên 200
người đến 300
người
III. Thương
mại và dịch
vụ
10 người trở
xuống
10 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
50 người
từ trên 10 tỷ
đồng đến 50 tỷ
đồng
từ trên 50
người đến 100
người
Nguồn: Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009
Vị trí và vai trò của các DNNVV trong nền kinh tế quốc dân
Nhiều nghiên cứu và thực tế đã chỉ ra rằng chính các DNNVV là một động lực
quan trọng thúc đẩy phát triển và đổi mới kinh tế - xã hội. Sự xuất hiện của các
DNNVV đã thực sự định nghĩa lại những mảng thị trường hoàn toàn mới, khởi đầu
cho những làn sóng sáng tạo - đổi mới không ngừng không chỉ cho quốc gia mà cả
thế giới.
Ở mỗi nền kinh tế quốc gia hay lãnh thổ, các DNNVV có thể giữ những vai
trò với mức độ khác nhau, song nhìn chung có một số vai trò tương đồng như sau:
 Giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế: DNNVV thường chiếm tỷ trọng lớn,
thậm chí áp đảo trong tổng số doanh nghiệp (Ở Việt Nam chỉ xét các doanh nghiệp

có đăng ký thì tỷ lệ này là khoảng 97%). Vì thế, đóng góp của họ vào GDP và tạo
việc làm là rất đáng kể, góp phần xóa đói giảm nghèo, tăng cường an sinh xã hội.
 Giữ vai trò ổn định nền kinh tế: ở phần lớn các nền kinh tế, DNNVV là
những nhà thầu phụ cho các doanh nghiệp lớn. Sự điều chỉnh hợp đồng thầu phụ tại
các thời điểm cho phép nền kinh tế có được sự ổn định. Vì thế, DNNVV được ví là
thanh giảm sốc cho nền kinh tế.

20
 Làm cho nền kinh tế năng động: vì DNNVV có quy mô nhỏ, nên dễ điều
chỉnh (xét về mặt lý thuyết) hoạt động.
 Tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng: DNNVV thường
chuyên môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết được dùng để lắp ráp thành một sản
phẩm hoàn chỉnh.
 Là trụ cột của kinh tế địa phương: nếu như doanh nghiệp lớn thường đặt cơ
sở ở những trung tâm kinh tế của đất nước, thì DNNVV lại có mặt ở khắp các địa
phương và là người đóng góp quan trọng vào thu ngân sách, vào sản lượng và tạo
công ăn việc làm ở địa phương.
Quan điểm của Chính phủ Việt Nam về phát triển các DNNVV
Để hỗ trợ DNNVV phát triển, Chính phủ đã thực hiện những chính sách ưu
đãi nhằm tạo điều kiện cho các doang nghiệp phát triển. Nhằm tiếp tục khuyến
khích, trợ giúp phát triển DNNVV đáp ứng các yêu cầu mới về hội nhập và phát
triển, ngày 30 tháng 6 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 56/2009/NĐ-CP
về trợ giúp phát triển DNNVV thay thế Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23
tháng 10 năm 2001 của Chính phủ về trợ giúp phát triển DNNVV. Theo đó, khối
doanh nghiệp này được sự hỗ trợ từ tài chính, thông tin, đào tạo nhân lực đến chính
sách hỗ trợ để sử dụng khoa học công nghệ Sau đó, tháng 5/2010, Chính phủ đã
ban hành Nghị quyết 22/NQ-CP triển khai thực hiện Nghị định số 56/2009/NĐ-CP,
hỗ trợ cho các DNNVV phát huy mọi khả năng và nguồn lực đẩy mạnh hoạt động
sản xuất kinh doanh.
1.2. Vai trò của thông tin KH&CN đối với hoạt động ĐMCN của DNNVV

trong bối cảnh hội nhập quốc tế
1.2.1. Khái quát về vai trò của thông tin KH&CN đối với hoạt động
ĐMCN của DNNVV trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Do quy mô sản xuất kinh doanh của các DNNVV Việt Nam là rất nhỏ bé, ít
chú ý đến ĐMCN nên khả năng cạnh tranh rất kém trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Việc ĐMCN của các DNNVV là cấp thiết nhưng còn rất nhiều khó khăn như thiếu
vốn, thiếu thông tin công nghệ và thông tin thị trường. Tuy nhiên, để đứng vững và

21
có những sản phẩm cạnh tranh được trên thị trường thì DNNVV vẫn phải quan tâm
đến thông tin công nghệ mới, thiết bị mới hoặc để ĐMCN, hoặc để nghiên cứu cải
tiến từng bộ phận của thiết bị, dây chuyền sản xuất nhằm đổi mới sản phẩm về mẫu
mã, chất lượng, giá thành,… Trường hợp muốn phát triển một loại sản phẩm mới,
doanh nghiệp cần phải tiến hành những bước đi cơ bản sau:
+ Cần thiết phải thu thập những thông tin liên quan đến sản phẩm mới, bao
gồm công nghệ, thiết bị sản xuất ra sản phẩm, tiềm năng công nghệ, thiết bị và
thông tin thị trường, giá cả trong nước và nước ngoài về sản phẩm;
+ Nghiên cứu những luận chứng khả thi về kinh tế-kỹ thuật khi phát triển loại
sản phẩm mới;
+ Nghiên cứu và thiết kế ra sản phẩm mẫu;
+ Sản xuất thử nghiệm;
+ Đưa ra thị trường tiêu thụ và thăm dò ý kiến khách hàng, khảo sát tiềm năng
thị trường;
+ Hoàn thiện sản phẩm về mẫu mã, chất lượng, giá cả,… phù hợp thị trường
và thị hiếu của người tiêu dùng;
+ Lập kế hoạch sản xuất quy mô lớn và phương thức tiêu thụ sản phẩm.
Như vậy, trong từng bước tiến hành, doanh nghiệp đều phải quan tâm tìm
kiếm thu thập những thông tin liên quan, đặc biệt là những thông tin về công nghệ
mới, thiết bị mới, kết quả nghiên cứu triển khai, các bản catalo công nghiệp, các bản
thiết kế, mẫu mã sản phẩm Với tiềm lực có hạn, các DNNVV có thể nhận được

các thông tin này từ sự hỗ trợ của các cơ quan thông tin của Nhà nước, cơ quan
thông tin chuyên ngành và tổng hợp
Thông tin KH&CN có thể được coi là nền tảng, là tiềm lực cho sự phát triển
bền vững của doanh nghiệp. Việc Việt Nam gia nhập WTO còn đặt DNNVV vào
cuộc cạnh tranh rất gay gắt với các doanh nghiệp nước ngoài. Để tồn tại, doanh
nghiệp cần phải coi trọng thông tin KH&CN để kịp thời ĐMCN nhằm nâng cao sức
cạnh tranh.
Hiện nay, nếu chỉ dựa vào thông tin theo chế độ báo cáo thống kê nhà nước,
thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, doanh nghiệp sẽ không có đủ
thông tin KH&CN, thông tin thị trường phục vụ sản xuất kinh doanh của mình.

22
Doanh nghiệp cần phải chủ động thu thập, xử lý thông tin cho đơn vị mình một cách
bài bản, coi thông tin là một bộ phận cấu thành trong tổ chức sản xuất kinh doanh.
Đây là việc mới và khó nhưng không có cách nào khác, nếu không làm tốt thông tin
nói chung và thông tin KH&CN và thị trường nói riêng, doanh nghiệp còn phải gặp
nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh và hội nhập thị trường quốc tế.
Nhu cầu thông tin trong doanh nghiệp là rất lớn, đa dạng và cũng chuyên sâu,
chi tiết cụ thể cho từng lĩnh vực chuyên môn. Thí dụ: trong trường hợp doanh
nghiệp cần thông tin về một công nghệ mới, thiết bị mới thì họ có nhu cầu được
cung cấp đầy đủ các tài liệu mô tả kỹ thuật chi tiết về công nghệ, thiết bị đó, bao
gồm cả bản thiết kế chi tiết, các thông số kỹ thuật cụ thể.
Tại các nước công nghiệp phát triển, để tồn tại và giành phần thắng trong cuộc
cạnh tranh quyết liệt trên thương trường, các doanh nghiệp lớn có tiềm lực đều phải
tự mình tổ chức và tăng cường công tác thu thập và nắm bắt mọi thông tin liên quan
đến mọi mặt hoạt động sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp mình, đặc biệt là
những thông tin về công nghệ phải đi trước một bước. Nhiều cơ quan, doanh nghiệp
còn có tình báo công nghệ. Các Hãng lớn của các nước phát triển đã sớm nhận thức
được tầm quan trọng của công nghệ và thông tin công nghệ. Thí dụ như Hãng
SIEMENS của CHLB Đức đã thuê trên 500 người chỉ để thu thập, theo dõi thông

tin về các sáng chế của các công ty nước ngoài liên quan đến các sản phẩm mà
Hãng quan tâm. Hãng Philips của Hà Lan đã thuê khoảng 250 người cũng chỉ để
làm công việc này. Ở Nhật Bản có khoảng 120 công ty tư nhân chuyên chào hàng
các CSDL về thị trường trong nước. Cùng với việc tăng cường năng lực nghiên cứu
và triển khai để tạo ra các công nghệ mới, các công nghệ mang tính đột phá, các
doanh nghiệp đầu tư ngày càng nhiều vào khâu thu thập, xử lý thông tin công nghệ
hiện có để nắm bắt những gì mà họ không thể tự làm được hoặc có thể tự làm được
nhưng kém hiệu quả do phải đầu tư quá lớn lại mất nhiều thời gian cho việc nghiên
cứu và thiết kế ra một loại sản phẩm mới mà không mang lại giá cả cạnh tranh. Do
vậy, thông tin công nghệ đối với các doanh nghiệp ở các nước phát triển đã trở
thành một trong những yếu tố quan trọng, một bộ phận hữu cơ không thể thiếu được
trong cơ chế đổi mới của các doanh nghiệp, giúp cho các doanh nghiệp duy trì được
khả năng và tăng cường năng lực cạnh tranh cũng như có thể đón đầu các xu hướng
phát triển công nghệ để tránh bị tụt hậu.

23
Thông tin công nghệ là một yếu tố hết sức quan trọng giúp doanh nghiệp dễ
dàng hơn trong việc thực thi ĐMCN. Khi nhu cầu ĐMCN của doanh nghiệp tăng
cao ắt sẽ hình thành một thị trường công nghệ lớn cho các nhà công nghệ, các cơ
quan dịch vụ thông tin KH&CN. Tuy vậy, để cho thị trường công nghệ hoạt động
náo nhiệt và hiệu quả hơn, vai trò của thông tin KH&CN đối với các doanh nghiệp,
đặc biệt là DNNVV là vô cùng cần thiết, bởi vì thông tin hỗ trợ đắc lực cho doanh
nghiệp trong việc tìm kiếm nguồn công nghệ tin cậy, nhanh, chính xác, phù hợp
giúp các doanh nghiệp có cơ hội cập nhật, lựa chọn và xác lập phương án ĐMCN
tốt nhất.
1.2.2. Thông tin KH&CN là nguyên liệu cho hoạt động ĐMCN
Thông tin KH&CN là nguyên liệu chủ yếu để những người thực hiện hoạt
động ĐMCN làm nhiệm vụ của mình.
ĐMCN là bộ phận quan trọng của hoạt động KH&CN, cũng là bộ phận sáng
tạo ra cái mới trong hoạt động KH&CN. Sự phát triển của nó, ngoài qui luật về vận

động tự thân, còn có quan hệ mật thiết với điều kiện hoàn cảnh bên ngoài tác động.
Có thể hệ thống hóa hoạt động ĐMCN gồm 4 yếu tố hợp thành: đầu vào, quá trình
hoạt động ĐMCN, đầu ra, và các tác động trở lại đối với quá trình hoạt động.
Thông tin KH&CN là đầu vào và là điều kiện tất yếu để ĐMCN hoạt động, là
sự đảm bảo cơ bản, quyết định cho mục tiêu ĐMCN. Có 4 yếu tố cơ bản của đầu
vào ĐMCN:
- Nhân lực: người thực hiện ĐMCN, làm nghiên cứu công nghệ, kỹ thuật,
công trình, người làm công tác quản lý ĐMCN và người phục vụ cho hoạt động đó.
- Tài lực: kinh phí để ĐMCN (lương, tiền mua tài liệu, trang thiết bị máy móc,
v.v…)
- Vật lực: địa điểm, trang thiết bị thực nghiệm và các loại nguyên vật liệu cho
hoạt động ĐMCN.
- Tin lực: các tài liệu quy hoạch, kế hoạch yêu cầu, đường lối kỹ thuật, phương
án thực thi, sách, báo, tài liệu hội nghị, hội thảo, các báo cáo kết quả nghiên cứu, đề
tài nghiên cứu khoa học, các tài liệu sáng chế, văn kiện, thông tin các cấp, hồ sơ kỹ
thuật, tư liệu kỹ thuật, v.v…
Cả 4 yếu tố trên đều rất quan trọng và cần thiết cho ĐMCN, không thể nói yếu
tố nào cần hơn, bởi mỗi yếu tố đều có vai trò đặc thù đảm bảo cho sự tồn tại và phát
triển của ĐMCN, tuy nhiên, có những yếu tố mang tính cần thiết hàng ngày (như

24
nguyên liệu cho nhà máy hoạt động, sản xuất), mà đối với hoạt động ĐMCN, đó
chính là thông tin KH&CN. Có thể nói, thông tin KH&CN là nguyên liệu cho
ĐMCN hoạt động, nó cũng là đầu vào của ĐMCN. Một đơn vị ĐMCN, cho dù đã
có nhân lực, tài lực, vật lực hùng hậu, nhưng nếu không có thông tin thì hoạt động
ĐMCN của đơn vị đó sẽ kém hiệu quả.
1.2.3. Thông tin KH&CN là sản phẩm của hoạt động ĐMCN
Thông tin KH&CN cũng là yếu tố đầu ra của hoạt động ĐMCN, thông qua
những thành quả KH&CN. Thành quả KH&CN có đóng góp trực tiếp và ảnh hưởng
gián tiếp đến sự phát triển kinh tế-xã hội. Hình thái biểu hiện của thành quả đó gồm

hai loại: "tri thức" và "hiện vật". Ở đây, "tri thức" chứa đựng trong các vật mang là
sách, báo, tạp chí, tài liệu hội nghị, hội thảo, các báo cáo kết quả nghiên cứu, kết
quả đề tài, luận văn, đồ án thiết kế, thống kê số liệu, tài liệu sáng chế, v.v…; "hiện
vật" bao gồm mô hình, máy mẫu, sản phẩm sản xuất thử, công nghệ mới, v.v… Như
vậy có thể thấy, yếu tố đầu ra của ĐMCN cũng là thông tin, hay nói cách khác, một
phần sản phẩm của ĐMCN cũng là thông tin.
Thông tin có mối liên hệ ngược trong hoạt động của ĐMCN
Về thực chất, hoạt động ĐMCN nói chung hay nghiên cứu và triển khai
(NC&TK) nói riêng là một quá trình chuyển hóa có nhiều cấp độ. Nó vừa là quá
trình không ngừng hình thành các thành quả KH&CN; vừa là quá trình không
ngừng tiếp thu, đưa các thành quả KH&CN vào thực tiễn sản xuất và đời sống. Sản
phẩm của ĐMCN hay NC&TK một mặt được áp dụng vào thực tiễn, thúc đẩy phát
triển kinh tế-xã hội, mặt khác nó lại quay trở lại là nguyên liệu đầu vào cho ĐMCN
hay NC&TK, để hoạt động NC&TK, ĐMCN tiếp tục hoạt động và phát triển cao
hơn. Sản phẩm của NC&TK, ĐMCN khi áp dụng vào thực tiễn cũng sẽ nhận được
thông tin phản hồi về chất lượng sản phẩm, về giá trị sử dụng, v.v… Thông tin phản
hồi cũng là yếu tố quan trọng cho hoạt động ĐMCN, nhất là trong cơ chế kinh tế thị
trường, ĐMCN phải luôn lắng nghe mọi phản ứng từ người sử dụng, bởi vì đó chính
là yếu tố giúp cho ĐMCN hoạt động đúng hướng và có hiệu quả cao.
Qua việc hệ thống hóa hoạt động ĐMCN, có thể thấy thông tin KH&CN là
một nhu cầu rất cần thiết trong toàn bộ quá trình hoạt động của ĐMCN. Thông tin
là yếu tố đầu vào, là sản phẩm đầu ra, là hiệu ứng thông tin phản hồi để ĐMCN hoạt

25
động. ĐMCN có diễn ra tốt hay không, sản phẩm của nó có chất lượng và áp dụng
hiệu quả vào thực tiễn hay không là nhờ rất lớn vào hiệu quả phục vụ thông tin, hay
nói cách khác, ĐMCN có thực hiện được hay không phụ thuộc rất nhiều vào thông
tin KH&CN.
1.2.4. Nội dung thông tin KH&CN phục vụ hoạt động ĐMCN của
DNNVV trong bối cảnh hội nhập

Nội dung thông tin KH&CN phục vụ hoạt động ĐMCN của DNNVV trong
bối cảnh hội nhập rất đa dạng, từ thông tin về công nghệ và thiết bị, phần cứng,
phần mềm công nghệ, tiêu chuẩn đo lường chất lượng, sở hữu trí tuệ, thông tin về
cơ chế chính sách đến thông tin về tư vấn, dịch vụ KH&CN, thị trường KH&CN;
từ thông tin KH&CN trong nước đến thông tin KH&CN nước ngoài.
Thông tin KH&CN là nguyên liệu chủ yếu để những người thực hiện hoạt
động ĐMCN làm nhiệm vụ của mình. Tất cả các thông tin thuộc lĩnh vực KH&CN
đều cần thiết cho hoạt động ĐMCN, tất nhiên tùy từng đối tượng, ở những thời
điểm khác nhau, nội dung thông tin có thể đi sâu hơn vào từng lĩnh vực cụ thể.
+ Thông tin về công nghệ và thiết bị
Nhu cầu thông tin công nghệ và thiết bị thường đi liền với nhu cầu ĐMCN của
doanh nghiệp. Hiện nay ĐMCN ở Việt Nam nhìn chung yếu kém và chậm so với
yêu cầu phát triển của nền kinh tế và so với mức độ đầu tư quốc tế. Trong 3 giai
đoạn của phát triển công nghệ là tiếp thu công nghệ, làm chủ công nghệ và sáng tạo
công nghệ, hầu hết doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ dừng ở giai đoạn tiếp thu công
nghệ một cách thụ động thông qua nhập khẩu máy móc và thiết bị và vì thế thông
tin về công nghệ và thiết bị nước ngoài là rất quan trọng đối với họ.
Ngoài thông tin về công nghệ, thiết bị nước ngoài, doanh nghiệp còn có nhu
cầu thông tin về công nghệ, thiết bị trong nước tự phát triển, liên kết phát triển hoặc
từ các nguồn cung trong nước khác. Một kênh thông tin quan trọng về công nghệ và
thiết bị là việc tổ chức các chợ công nghệ và thiết bị (Techmart). Qua các phiên chợ
này cho thấy, số lượng doanh nghiệp quan tâm tới công nghệ và thiết bị trong nước
ngày càng nhiều.

×