Tải bản đầy đủ (.docx) (138 trang)

Kế thừa giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng đạo đức cho thanh niên ninh thuận hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (642.55 KB, 138 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ NGUYỄN HOÀI NHƯ

KẾ THỪA GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG
TRONG XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN
NINH THUẬN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Đạo đức học
Mã số:

62.22.02.06

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.Nguyễn Văn Phúc

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả của luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Tác giả

Võ Nguyễn Hoài Như

MỤC LỤC



3.1. . Những nhân tố tác động tới sự kế thừa các giá trị đạo đức trong xây dựng đạo đức
cho thanh niên Ninh Thuận hiện nay
3.2. Thực trạng kế thừa giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng đạo đức cho thanh
niên Ninh Thuận
3.3. Một số vấn đề đặt ra trong việc kế thừa giá trị đạo đức trong xây dựng đạo đức cho
thanh niên Ninh Thuận
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ CỦA KẾ THỪA GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG
TRONG XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN NINH THUẬN HIỆN NAY
4.1. Quan điểm
4.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của kế thừa giá trị đạo đức
truyền thống trong xây dựng đạo đức cho thanh niên Ninh Thuạn hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thanh niên Việt Nam là chủ nhân tương lai, đồng thời là lực lượng nòng cốt
trong sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để thanh niên thực hiện được
vai trò đó, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm giáo dục rèn luyện,
đào tạo thanh niên thành những người có đủ đức tài phục vụ sự nghiệp cách mạng.
Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Hồ Chí Minh không quên căn dặn: "Bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết". Trong điều kiện hiện
nay, với việc thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập, thanh niên lại càng có vai trò quan trọng; vì thế,
lại càng cần thiết đẩy mạnh và nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác giáo dục và đào
tạo thanh niên. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta xác định, một trong ba điểm

nghẽn cản trở sự phát triển hiện nay là chất lượng nguồn nhân lực. Vì thế, "Phát triển
nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao" là một trong ba khâu đột
phá nhằm đẩy mạnh sự nghiệp phát triển đất nước. Giáo dục và đào tạo là phương thức
trực tiếp hình thành nguồn nhân lực. Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết Trung
ương 2, khóa VIII và các chủ trương của Đảng, Nhà nước về định hướng chiến lược
phát triển giáo dục-đào tạo trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lĩnh vực giáo
dục và đào tạo của nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy vậy, chất lượng, hiệu quả của giáo dục
và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, chưa chú trọng đúng mức đến việc giáo dục đạo
đức, lối sống và kĩ năng làm việc. Do vậy, chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta hiện
nay còn những bất cập nhất định cả về mặt chuyên môn, tài năng, cả về mặt đạo đức. Để
khắc phục tình trạng này, cùng với yêu cầu về giáo dục chuyên môn, nghề nghiệp, thể
chất, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/3013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nhấn mạnh, cần "chú trọng giáo dục nhân
cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân. Tập trung vào những giá
trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, giá
trị, cốt cách nhân văn của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh" [Nghị
quyết].


Truyền thống và đạo lí dân tộc được thể hiện và kết tinh ở những giá trị đạo đức
truyền thống. Những giá trị đạo đức truyền thống như: lòng yêu nước, tinh thần đoàn
kết cố kết cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung, tinh thần lao động cần cù sáng tạo, tinh
thần hiếu học tôn sư trọng đạo… là thành quả hàng ngàn năm lao động sáng tạo, đấu
tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam; là kết
quả của giao lưu và tiếp thụ tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng
hoàn thiện. Chính vì thế, các giá trị đạo đức truyền thống có ý nghĩa trường tồn. Chúng
không chỉ là động lực, đồng thời xác lập bản sắc văn hóa và con người Việt Nam trong
suốt chiều dài lịch sử đã qua, mà còn là nền tảng để xây dựng văn hóa và con người Việt
Nam trong hiện tại và tương lai. Khi nhấn mạnh yêu cầu tập trung vào những giá trị cơ

bản của, văn hóa, truyền thống và đạo lí dân tộc, Đảng đã chỉ ra và đòi hỏi phải kế thừa
các giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng văn hóa và con người Việt Nam hiện
nay nhằm đáp ứng các yêu cầu của tình hình mới.
Trong bối cảnh chung đó, kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống trong xây
dựng đạo đức cho thanh niên Ninh Thuận chính là sự thực hiện yêu cầu và nhiệm vụ của
Nghị quyết về việc xây dựng con người, xây dựng đạo đức tại một địa phương cụ thể.
Hơn thế, so với nhiều địa phương khác, Ninh Thuận là tỉnh nghèo, điểm xuất phát của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa khá thấp cả về phương diện tiềm lực kinh tế-công nghệ,
cả về phương diện nhân lực. Do vậy, việc kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống trong
xây dựng đạo đức cho thanh niên sẽ góp phần tạo ra một nguồn nhân lực trẻ, một lực
lượng lao động nòng cốt cho sự phát triển của tỉnh. Để nâng cao hiệu quả của công tác
này, việc nghiên cứu về mặt lí luận và từ đó đánh giá thực trạng, đề xuất các giải pháp
nâng cao hiệu quả của kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng đạo đức
cho thanh niên Ninh Thuận là cần thiết. Trong các Chương trình hành động triển khai
Nghị quyết 25-NQ/TW về thanh niên được thực hiện bởi các cấp, các ngành của Ninh
Thuận trong những năm qua, ít nhiều cũng đã có những nhận định, những đánh giá về
việc kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng đạo đức cho thanh niên.
Tuy vậy, một nghiên cứu chuyên sâu ở cấp độ triết học là chưa có. Vì vậy, tác giả chọn
vấn đề "Kế thừa giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng đạo đức cho thanh niên
Ninh Thuận hiện nay" làm đề tài luận án.

2. Mục đích và nhiệm vụ của Luận án


2.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lí luận về kế thừa giá trị đạo đức truyền thống
trong xây dựng đạo đức cho thanh niên, luận án đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của việc kế thừa giá trị đạo đức truyền thống trong
xây dựng đạo đức cho thanh niên Ninh Thuận hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ

- Khảo sát, đánh giá những tài liệu chủ yếu liên quan đến đề tài, từ đó, xác định
những vấn đề sẽ được nghiên cứu trong luận án.
- Làm rõ một số vấn đề lí luận về giá trị đạo đức truyền thống và kế thừa giá trị
đạo đức truyền thống trong xây dựng đạo đức cho thanh niên Ninh Thuận.
- Đánh giá thực trạng kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng
đạo đức cho thanh niên Ninh Thuận hiện nay; từ đó xác định những vấn đề cần giải
quyết.
- Đề xuất quan điểm và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của kế thừa
giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng đạo đức cho thanh niên Ninh Thuận hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận án nghiên cứu vấn đề kế thừa giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng
đạo đức cho thanh niên Ninh Thuận
- Phạm vi nghiên cứu về thời gian là từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới.
4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lí luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, giáo dục đạo
đức cho thanh niên; các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát
triển thanh niên, giáo dục đạo đức cho thanh niên. Ngoài ra, luận án kế thừa và phát
triển kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, các công trình khoa học liên quan đến đề
tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu


Phương pháp chung được vận dụng trong nghiên cứu, thực hiện luận án là
phương pháp biện chứng duy vật; đồng thời, kết hợp sử dụng các phương pháp: lịch sử
và logic, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, so sánh, hệ thống hóa, khái quát
hóa...
5. Đóng góp mới của Luận án
- Luận án góp phần luận chứng sự cần thiết kế thừa giá trị đạo đức trong xây

dựng đạo đức cho thanh niên Ninh Thuận.
- Thông qua việc phân tích thực trạng kế thừa giá trị đạo đức truyền thống trong
xây dựng đạo đức cho thanh niên Ninh Thuận, luận án đã xác định những vấn đề chủ
yếu cần giải quyết; đồng thời, đề xuất quan điểm và một số giải pháp chủ yếu nhằm
nâng cao hiệu quả của kế thừa giá trị đạo đức trong xây dựng đạo đức cho thanh niên
Ninh Thuận hiện nay.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của Luận án
Về mặt lí luận, Luận án góp phần làm sáng tỏ và hệ thống hơn về mặt lí luận vấn
đề kế thừa giá trị đạo đức trong xây dựng đạo đức nói chung và trong xây dựng đạo đức
cho thanh niên nói riêng .
Về mặt thực tiễn, Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu và giảng dạy đạo đức; những kết quả nghiên cứu của Luận án cũng có ý
nghĩa khuyến nghị đối với công tác xây dựng đạo đức cho thanh niên Ninh Thuận hiện
nay.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình đã công bố của tác giả
liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung Luận án gồm: 4
chương, 11 tiết.


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Những nghiên cứu về giá trị đạo đức truyền thống và kế thừa giá trị đạo
đức truyền thống
Giá trị truyền thống nói chung, giá trị đạo đức truyền thống nói riêng và kế thừa
giá trị truyền thống là những vấn đề được nhiều tác giả tập trung đi sâu, nghiên cứu.
Trong số những nghiên cứu sớm nhất, phải kể đến những công trình tiêu biểu
sau:
Nguyễn Hồng Phong, “Tìm hiểu tính cách dân tộc”, Nxb. Văn - Sử - Địa, 1963;

; “Về giá trị tinh thần Việt Nam” (tập thể tác giả) 2 tập, Nxb. Thông tin - Lý luận, Hà
Nội, 1983; Trần Văn Giàu, “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam”, Nxb.
Thành Phố Hồ Chí Minh, 1993. Trong các công trình này, các tác giả đã phân tích một
cách sâu sắc những đặc điểm về tính cách dân tộc của con người Việt Nam, cũng như
các giá trị tinh thần truyền thống dân tộc và sự vận động của chúng qua những giai đoạn
lịch sử Việt Nam. Các tác giả khẳng định, những tính cách dân tộc, những giá trị tinh
thần như: lòng yêu nước, thương người, tinh thần cố kết dân tộc, đức tính lao động cần
cù, sáng tạo, tiết kiệm, ý thức tôn sư, trọng đạo, hiếu học, lối sống giản dị, ... là những
truyền thống vô cùng quý báu của con người Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Những
khẳng định của các tác giả được dựa trên sự phân tích những điều kiện kinh tế, xã hội,
lịch sử của sự hình thành và phát triển những giá trị tinh thần, đạo đức đó. Những tính
quy định của nền sản xuất nông nghiệp lúa nước; những yếu tố dân chủ làng, xã; vị trí
địa lí thuận lợi cho giao lưu kinh tế, văn hóa Bắc Nam, Đông Tây; sự quyết liệt của các
cuộc chiến tranh giữ nước triền miên trong lịch sử; những ảnh hưởng từ giao lưu, tiếp
biến văn hóa... đã được phân tích khá thấu đáo trong các công trình nêu trên. Thông qua
sự khẳng định những giá trị tinh thần, đạo đức truyền thống của dân tộc, các tác giả đặt
vấn đề cần phải kế thừa những giá trị tinh thần này trong xây dựng nền văn hóa mới Việt
Nam.
Trong các công trình: Trần Đình Hượu, “Đến hiện đại từ truyền thống”, Nxb.
Văn Hóa, Hà Nội, 1996; Nguyễn Văn Huyên, “Giá trị truyền thống - nhân lõi và sức
sống bên trong của sự phát triển đất nước, dân tộc”, Tạp chí Triết học số 4-1998… các


tác giả luận chứng và khẳng định tính bền vững, trường tồn của các giá trị truyền thống,
trong đó có các giá trị đạo đức. Cùng với điều đó, các tác giả đã đi sâu phân tích mối
liên hệ giữa các giá trị truyền thống với yêu cầu xây dựng xã hội và con người trong
điều kiện hiện đại. Từ lập trường duy vật lịch sử, Trần Đình Hượu đặc biệt lưu ý đến
tính quy định của các điều kiện kinh tế, xã hội đối với các giá trị tinh thần, đạo đức. Từ
đó, ông chỉ ra, bên cạnh những mặt tích cực, truyền thống cũng chứa đựng những hạn
chế nhất định. Để giải quyết hợp lí quan hệ giữa hiện đại và truyền thống, theo ông, cần

có những đổi mới trong kinh tế và tư duy về kinh tế, trong quản lí và trong các phương
diện khác của đời sống xã hội để những mặt tiêu cực của truyền thống không tái hiện
trong điều kiện mới. Trong khi nhấn mạnh, vai trò, cũng như sự cần thiết phải bảo vệ,
giữ gìn, kế thừa và phát huy các giá trị tinh thần trong quá trình xây dựng xã hội mới
hiện nay, tác giả Trần Đình Hượu cũng đồng thời cho rằng, giữ gìn truyền thống không
có nghĩa là phục hồi truyền thống một cách đơn thuần, giữ gìn truyền thống là vì hiện
tại và tương lai. Vì thế, ông đặt tên công trình nghiên cứu của mình là: Đến hiện đại từ
truyền thống.
Trong công trình: Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức, Hồ Sĩ Quý (đồng chủ
biên), “Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, các tác giả đã đề cập đến vấn đề giá trị, giá
trị truyền thống, giá trị văn hóa truyền thống và sự chuyển biến các giá trị sang hiện đại.
Trong công trình này, các tác giả đã phân tích những tác nhân dẫn đến những chuyển biến
giá trị tinh thần. Đó là việc chuyển sang thực hiện nền kinh tế thị trường; những tiến bộ
công nghệ trong sản xuất và trong các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Theo các
tác giả, kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa tác động có tính hai mặt đối với
sự phát triển xã hội và đạo đức con người. Vì thế, khai thác, giữ gìn và phát huy các giá trị
truyền thống là một trong những đảm bảo cho sự phát triển bền vững xã hội và con người.
Trong công trình: Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên (đồng chủ biên),
“Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hóa”, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2002, các tác giả đề cập đến vai trò của giá trị truyền thống trong sự phát
triển văn hóa Việt Nam trước đây và sự phát triển của nền văn hóa mới Việt Nam hiện
nay. Công trình đã đề cập đến thách thức của toàn cầu hóa đối với việc giữ gìn và phát
huy các giá trị truyền thống dân tộc. Các tác giả chỉ ra rằng, toàn cầu hóa là xu thế tất
yếu, khách quan của thời đại. Toàn cầu hóa trước hết là toàn cầu hóa về kinh tế. Toàn


cầu hóa về kinh tế là quá trình mà thông qua đó, thị trường và sản xuất ở nhiều nước
khác nhau đang ngày càng trở nên phụ thuộc lẫn nhau do có sự năng động của việc
buôn bán hàng hóa và dịch vụ cũng như do có sự lưu thông vốn tư bản và công nghệ.

Toàn cầu hóa về kinh tế tất dẫn đến quá trình hình thành một chỉnh thể thống nhất toàn
thế giới. Đó là sự ảnh hưởng, tác động, xâm nhập lẫn nhau xuyên biên giới trong các
lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội trong đó có đời sống văn hóa, tinh thần. Toàn
cầu hóa trong điều kiện hiện nay đang bị thao túng bởi các quốc gia tư bản lớn, các tập
đoàn kinh tế xuyên quốc gia. Vì thế, bị cuốn hút vào quá trình toàn cầu hóa, dân tộc
nào, quốc gia nào không có đủ bản lĩnh thì sẽ đánh mất bản sắc dân tộc và trở thành
bóng mờ của các quốc gia phương Tây. Các tác giả cho rằng, kế thừa và phát huy các
giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống, dân tộc là đảm bảo cho việc hội nhập vào quá
trình toàn cầu hóa một cách thành công. Bên cạnh đó, các tác giả còn phân tích và đánh
giá thực trạng các giá trị truyền thống Việt Nam trước xu thế toàn cầu hóa; từ đó, đề
xuất những giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy các giá trị tinh thần truyền thống của
Việt Nam.
Trong công trình: Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc (đồng chủ
biên),“Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường nước ta hiện nay”, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003, có nhiều tác bài viết đề cập đến giá trị đạo đức truyền
thống Việt Nam; về tác động có tính hai mặt của kinh tế thị trường; về tính tất yếu của
việc giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong bối cảnh kinh tế thị
trường… Các tác giả đã chỉ ra rằng, để khắc phục tối đa tác động từ mặt trái của kinh tế
thị trường đối với sự phát triển xã hội và con người, thì cùng với việc giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải đẩy mạnh việc kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức
truyền thống. Tuy nhiên, việc thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống chỉ thực
sự có hiệu quả khi đổi mới nội dung của chúng nhằm đáp ứng yêu cầu của sự phát triển
xã hội và con người trong điều kiện mới.
Trong công trình: Hồ Sĩ Quý, “Về giá trị và giá trị châu Á”, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội,2005, tác giả đã phân tích khá tập trung và chuyên sâu các vấn đề về
giá trị, truyền thống, giá trị truyền thống, giá trị châu Á, giá trị văn hóa Việt Nam… Bên
cạnh đó, công trình còn đề cập đến sự dịch chuyển một số giá trị ở Việt Nam trong quá
trình toàn cầu hóa. Theo tác giả: “Văn hóa Việt Nam chắc chắn có những giá trị ưu trội
nhất định” và cho rằng “Không có lý gì những giá trị ưu trội ấy lại không được phát



huy trong bước phát triển tiếp theo của đất nước trên con đường hội nhập và công
nghiệp hóa” .
Trong công trình: Phạm Văn Đức (chủ biên)“Toàn cầu hóa trong bối cảnh châu
Á – Thái Bình Dương: Một số vấn đề triết học Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007, các
tác giả đã khẳng định, toàn cầu hóa hiện nay là một xu thế vận động khách quan của
lịch sử. Nó vừa có những yếu tố tích cực, vừa có những yếu tố tiêu cực; vừa mang lại
những cơ hội to lớn, vừa đặt ra những thách thức không nhỏ đối với sự phát triển của tất
cả các quốc gia, dân tộc trên hành tinh này. Trong công trình này, các tác giả cũng phân
tích động thái của một số giá trị truyền thống trong làn sóng toàn cầu hóa, những biến
động tích cực, tiêu cực của toàn cầu hóa, nguy cơ suy thoái đạo đức, lối sống của người
Việt Nam hiện nay, cũng như tính tất yếu của việc giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa,
đạo đức truyền thống dân tộc trong bối cảnh mới. Theo các tác giả, “giáo dục và đào
tạo cần quan tâm đó chính là vấn đề giáo dục và phát huy truyền thống của dân tộc,
giáo dục ý thức, trách nhiệm công dân, trách nhiệm với Tổ quốc nhằm phát huy và khơi
dậy tinh thần dân tộc” (trang 102).


Cùng với những nghiên cứu về giá trị, giá trị truyền thống, những nghiên cứu lí
luận về tính tất yếu của kế thừa nói chung và kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống
nói riêng cũng thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu.
Ngô Thành Dương trong bài “Bàn về tính phổ biến và ý nghĩa thực tiễn của quy
luật phủ định của phủ định”, Tạp chí triết học, số 6, 1974; Hồ Văn Thông trong bài
“Một số vấn đề quy luật phủ định của phủ định”, Tạp chí triết học, số 7, 1977; Phạm
Văn Đức trong bài “Vấn đề kế thừa và phát triển trong lịch sử triết học”, Tạp chí triết
học, số 3, 1991; Vũ Thị Kiều Phương trong Luận văn cao học “Phủ định biện chứng và
vai trò của nó đối với sự phát triển”, Viện Triết học, Hà Nội, 2003, đã bàn khá chuyên
sâu về kế thừa nói chung.
Trong các công trình trên, các tác giả đều khẳng định, kế thừa là một hiện tượng
phổ biến, khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Chính nhờ hiện tượng này mà các

sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy mới có thể vận động và phát triển
được.
Công trình tập thể: Phan Huy Lê – Vũ Minh Giang (chủ biên), chương trình khoa
học cấp nhà nước KX-07, đề tài KX07-02: “Các giá trị truyền thống và con người Việt
Nam hiện nay”, đã tập trung nghiên cứu các giá trị truyền thống từ các bình diện: tư
tưởng, tâm lý, văn hóa... trên các phạm vi gia đình và cộng đồng. Từ các số liệu điều tra
xã hội học, các tác giả cho thấy: “Trong con người Việt Nam hiện nay, có thể thấy rõ sự
phát triển liên tục, không đứt gãy với những giá trị tinh thần truyền thống trong quá
khứ” (tr.268). Với nhận định được rút ra từ các số liệu đáng tin cậy, các tác giả công
trình đã khẳng định, kế thừa các giá trị truyền thống, trong đó có các giá trị đạo đức
không chỉ là một quy luật được nhận thức về mặt lý luận mà còn là một thực tế hiển
nhiên trong đời sống của con người Việt Nam cả trên phạm vi gia đình cũng như cộng
đồng.


Trong luận án tiến sỹ triết học: Nguyễn Văn Lý, “Kế thừa đổi mới các giá trị
đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay, Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tác giả đã phân tích về mặt lí luận,
kế thừa là tính quy luật tất yếu trong sự vận động và phát triển của tất cả các sự vật, các
hiện tượng, các quá trình. Tác giả cũng chỉ ra tính đặc thù trong sự kế thừa các giá trị
đạo đức truyền thống. Theo đó, kế thừa các giá trị đạo đức thường được thực hiện một
cách chủ động bởi các giai cấp quản lí xã hội. Lợi ích của các giai cấp quản lí xã hội chi
phối kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống. Trên cơ sở lí luận đó, tác giả luận án đã
phân tích những mặt tích cực và những hạn chế trong đạo đức truyền thống dân tộc, bên
cạnh đó xác định những nội dung cần phải kế thừa, bổ sung và đổi mới trong các giá trị
đạo đức truyền thống nhằm đáp ứng các yêu cầu của sự nghiệp xây dựng đất nước.
Bước đầu tác giả đã đưa ra một vài phương hướng và giải pháp cơ bản, đảm bảo kế thừa
và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình nước ta chuyển sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong bài “Từ “cái thiện” truyền thống đến “cái thiện” trong cơ chế thị trường ở

Việt Nam hiện nay”, Tạp chí triết học, số 8/ 2002, tác giả Nguyễn Hùng Hậu, cho rằng:
“Ngày nay trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cái Thiện
cũng được bổ sung bằng nhiều nội dung mới. Nếu như trước kia, Thiện cao nhất, lớn
nhất là yêu nước, đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, thì hiện nay Thiện phải làm
sao cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh…”. Từ đó tác giả đi
đến kết luận: “Như vậy, trong cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Cái Thiện mang
một nội dung mới, một ý nghĩa triết học cụ thể, chứ không chỉ là cái Thiện chung chung,
trừu tượng ở trong tâm mỗi người .
Trong Luận án tiến sĩ triết học “Kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống dân tộc trong việc xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay”, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2005, tác giả Võ Văn Thắng đã phân tích thực trạng và
những vấn đề đang đặt ra trong quá trình kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống
của dân tộc, trong việc xây dựng lối sống ở nước ta hiện nay; từ đó nhận xét rằng, " kế
thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc để xây dựng lối sống mới là
một quá trình phấn đấu công phu, bền bỉ và khó khăn, đòi hỏi phải được tiến hành một
cách thường xuyên, kiên trì và thận trọng" (trang 134).


Trong công trình: Nguyễn Duy Bắc (chủ biên), “Sự biến đổi các giá trị văn hóa
trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Nxb. Từ điển
bách khoa, Hà Nội, 2008, các tác giả đã luận giải về mặt lí luận cơ bản những vấn đề:
văn hóa, giá trị văn hóa, những biến đổi của các giá trị văn hóa, trong đó, các giá trị đạo
đức truyền thống được nhấn mạnh và xem là “chiếm vị trí nổi bật”. Từ đó, các tác giả đã
phân tích thực trạng biến đổi các giá trị văn hóa, đạo đức trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Trong công trình: Mai Thị Quý,“Toàn cầu hóa và vấn đề kế thừa một số giá trị
truyền thống của dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2009, đã phân tích một cách hệ thống và luận giải những vấn đề lí luận về
giá trị và giá tri đạo đức truyền thống, tính tất yếu của việc kế thừa các giá trị và giá trị
đạo đức truyền thống trong điều kiện toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa được nhìn nhận như là

một quá trình khách quan. Quá trình đó tác động và tạo ra những thách thức đối với việc
giữ gìn các giá trị tinh thần, đạo đức truyền thống dân tộc. Cùng với điều đó, vai trò của
các giá trị truyền thống trong đó có các giá trị đạo đức đối với sự phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, con người đã được tác giả đi sâu nghiên cứu. Sự kế thừa các giá trị truyền
thống được tác giả nhìn nhận và phân tích như là nhân tố đảm bảo cho việc mở cửa hội
nhập vào quá trình toàn cầu hóa .
Như vậy, những thành tựu nghiên cứu về giá trị và giá trị đạo đức truyền thống,
tính tất yếu của kế thừa các giá trị tinh thần truyền thống, những giải pháp kế thừa các
giá trị truyền thống trong xây dựng xã hội và con người trong điều kiện kinh tế thị
trường, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa hội nhập vào quá trình toàn
cầu hóa chính là những căn cứ lí luận, những gợi ý cho việc nghiên cứu mang tính ứng
dụng vấn đề Kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng đạo đức cho thanh
niên Ninh Thuận hiện nay.


Như vậy, chúng ta có thể thấy việc xem xét sự biến đổi của các giá trị truyền
thống, vấn đề kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống, và việc xây dựng đạo
đức mới trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta được sự quan tâm, nghiên
cứu của nhiều nhà khoa học. Song, có thể thấy, các công trình chủ yếu nghiên cứu các
giá trị tinh thần nói chung; những nghiên cứu về các giá trị đạo đức truyền thống chỉ
được đề cập cùng các giá trị tinh thần khác, mà ít được nghiên cứu chuyên biệt.
1.2. Những nghiên cứu về thanh niên và xây dựng đạo đức thanh niên.
Thanh niên là người chủ tương lai của đất nước, là nhân tố quan trọng ảnh hưởng
đến sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước ta
đặc biệt quan tâm đến công tác thanh niên. Trong bối cảnh đó, những nghiên cứu về
thanh niên, phát triển thanh niên rất đa dạng và liên tục. Trong Luận án này, tác giả chỉ
khảo sát một số công trình tiêu biểu có liên quan trực tiếp đến việc giải quyết mục đích
và những nhiệm vụ của Luận án.
Năm 2007, Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng xuất bản công trình “Hồ
Chí Minh về giáo dục, bồi dưỡng thanh thiếu niên và nhi đồng”. Công trình gồm 2

phần: Phần thứ nhất tổng hợp những bài phát biểu, những lá thư, những bài nói chuyện,
lời kêu gọi của Bác Hồ với thanh, thiếu niên và nhi đồng; phần thứ hai là những nghiên
cứu, học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh thiếu niên và nhi đồng.
Trong công trình này, các tác giả đã chỉ ra rằng, sớm có cách nhìn toàn diện,
vượt trước những người đương thời, Hồ Chí Minh không chỉ đánh giá cao vai trò của
thế hệ trẻ mà coi họ là những người kế tục sự nghiệp của cha ông. Bên cạnh đó, Người
còn chỉ ra những hạn chế của tuổi trẻ. Từ đó Người chú ý quan tâm đến việc bồi dưỡng
về lý tưởng cách mạng, đạo đức, khoa học kỹ thuật, phương pháp cách mạng, ý thức tổ
chức để họ trở thành con người toàn diện, có đức, có tài. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh
căn dặn, Đoàn viên thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong,
không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách
mạng cho họ, đào tạo họ thành những người kế thừa xây dựng xã hội chủ nghĩa, vừa
hồng vừa chuyên.
Trong bối cảnh hiện nay, những lời chỉ dẫn và những kinh nghiệm của Hồ Chí
Minh về giáo dục và bồi dưỡng cho thanh thiếu niên để họ trở thành người kế tục sự
nghiệp cách mạng vẫn còn nguyên giá trị và có tính thời sự thiết thực. Đó là cơ sở lí
luận, là định hướng cho những nghiên cứu của Luận án.


Công trình nghiên cứu khái quát về thanh niên trong thời gian qua là công trình
“Cơ sở lý luận và thực tiễn của chiến lược phát triển thanh niên”, Chu Xuân Việt (chủ
biên), Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2003. Trong công trình này, các tác giả đã luận giải
những vấn đề lý luận và phương pháp luận của chiến lược phát triển thanh niên, công
tác thanh niên, phong trào thanh niên,… Trên cơ sở đó, các tác giả đã phân tích và
khẳng định rằng, vấn đề cần quan tâm trong công tác thanh niên hiện nay là: “giải quyết
việc làm; nâng cao trình độ học vấn, trình độ nghề nghiệp cho thanh niên; tăng cường
giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đạo đức cách mạng, giáo dục truyền thống, nâng
cao lòng yêu nước, xây dựng nếp sống, lối sống lành mạnh; chăm lo công tác bảo vệ
sức khỏe, đẩy mạnh phong trào toàn dân tập thể dục, thể thao, rèn luyện thân thể để
nâng cao thể lực cho thanh niên;…” (trang 156,157).



Trong công trình “Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng về công tác thanh niên trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2005,
tác giả Dương Tự Đam đã luận chứng cho vai trò của thanh niên với tư cách là tài
nguyên lớn của quốc gia, nguồn nhân lực trẻ có trí tuệ, chất lượng cao, có nhiệt huyết, ý
chí và nghị lực tiềm tàng, tinh thần tình nguyện hiến dâng, tích cực tham gia hoạt động
kinh tế - xã hội, hoạt động chính trị, văn hóa và khoa học công nghệ một cách chủ động
sáng tạo, họ là lực lượng chủ chốt trong hiện tại và tương lai của xã hội. Tác giả đã làm
rõ vị trí của thanh niên, đặc điểm, xu hướng phát triển của thanh niên, đặc biệt tầm quan
trọng của thanh niên và công tác thanh niên khi Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong công trình “ Xã hội học thanh niên”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2006, tác giả Đặng Cảnh Khanh đã tập trung phân tích về vị trí, vai trò của thanh niên;
sự thay đổi chuẩn mực, định hướng giá trị dưới tác động của những điều kiện kinh tế xã hội hiện đại. Tất cả những vấn đề đó đã luận giải một cách sâu sắc dưới cách nhìn của
xã hội học; từ đó đã gợi mở nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng trong việc
nghiên cứu thanh niên ở nước ta.


Trong công trình “Xây dựng bản lĩnh thanh niên hiện nay”, Nxb. Thanh niên, Hà
Nội, 2006, Hồ Bá Thâm (chủ biên), các tác giả đã luận chứng cho tính cấp thiết của vấn
đề xây dựng bản lĩnh cho thanh niên và xây dựng nhân cách đối với thanh niên nói
chung trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay. Trong điều kiện toàn cầu hóa có nhiều
cơ hội và cũng không ít thách thức không chỉ đối với tương lai của dân tộc mà còn đối
với thanh niên, thế hệ trẻ - lực lượng rường cột của quốc gia, những người hết sức nhạy
cảm với thời cuộc, có năng lực sáng tạo cao, nhưng do thiếu kinh nghiệm nên dễ bị ảnh
hưởng bởi những tác động tiêu cực. Trong công trình này, các khái niệm bản lĩnh, cấu
trúc bản lĩnh của thanh niên; bản lĩnh văn hóa của dân tộc, bản lĩnh Hồ Chí Minh và
bản lĩnh của các thế hệ thanh niên từ truyền thống tới hiện tại trên những nét chính đã
được đi sâu phân tích và luận giải; bên cạnh đó, công trình còn làm rõ nội dung, giải

pháp xây dựng bản lĩnh chính trị của thanh niên hiện nay và đưa ra phương pháp rèn
luyện và những giải pháp cụ thể rèn luyện, xây dựng bản lĩnh thanh niên trong công
cuộc đổi mới, hiện đại hóa và phát triển đất nước hiện nay. Các tác giả nhận định: “Đoàn
viên, thanh niên hiện nay phải hướng tới những lý tưởng độc lập dân tộc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội với ham muốn mãnh liệt về học tập, xây dựng phát triển kinh tế đất
nước; chúng ta cần cụ thể hóa lý tưởng, ước mơ, tham vọng đó thành những đức tính cụ
thể để trau dồi thường xuyên, giúp cho việc hoàn thiện nhân cách, lý tưởng và bản lĩnh
sống cao đẹp.” (trang 265).
Trong công trình “Quản lý nhà nước đối với công tác thanh niên trong giai đoạn
hiện nay” Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2006, tác giả Đoàn Văn Thái đã cung cấp những
thông tin cơ bản và nhận thức về tình hình thanh niên; lịch sử phát triển và bài học kinh
nghiệm trong quản lý Nhà nước đối với công tác thanh niên; những kinh nghiệm trong
quản lý Nhà nước đối với công tác thanh niên; một số dự báo về tình hình thanh niên và
giải pháp tăng cường quản lý Nhà nước hiện đối với công tác thanh niên trong giai đoạn
hiện nay.


Trong công trình “Thanh niên: giáo dục và phát triển”, Nxb. Thanh niên, Hà
Nội, 2007, tác giả Dương Tự Đam đã làm rõ một số đặc điểm và vai trò của thanh niên
đối với sự phát triển của đất nước; phân tích sự chuyển đổi về định hướng giá trị của
thanh niên trong thời kỳ mới, đồng thời, xác định nội dung giáo dục định hướng giá trị
cho thanh niên. Tác giả khẳng định: “các giá trị cần định hướng cho thanh niên Việt
Nam hiện nay phải phù hợp với yêu cầu đào tạo con người mới phát triển toàn diện đồng
thời đáp ứng với thời đại mới”(Trang 54). Theo Dương Tự Đam, các giá trị đó bao gồm:
một là giá trị hiếu học, tôn sư trọng đạo, trọng học vấn và trọng tài năng; hai là, giáo
dục định hướng giá trị về việc làm và phát triển nghề nghiệp cho thanh niên; ba là,
những giá trị về văn hóa, nghệ thuật và thẩm mỹ cần định hướng giáo dục cho thanh
niên; bốn là, định hướng giáo dục sức khỏe và thể chất cho thanh niên xây dựng con
người phát triển cân đối về thể lực, hài hòa trong cuộc sống; năm là, giáo dục định
hướng lý tưởng, nhân cách cho thanh niên nhằm đáp ứng với mục tiêu yêu cầu con

người mới - xã hội chủ nghĩa, thích hợp với con người của thời đại kinh tế tri thức (trang
54-56).
Trong công trình “Thanh niên và lối sống của thanh niên Việt Nam trong quá
trình đổi mới và hội nhập quốc tế”, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2011, tác giả Phạm Hồng
Tung đã khảo sát nhiều nguồn tư liệu khác nhau ở cả trong và ngoài nước, với cách tiếp
cận đa ngành, đã trình bày và thảo luận về một số vấn đề liên quan đến lý thuyết khoa
học, phương pháp và cách tiếp cận đặc thù đối với nghiên cứu thanh niên và lối sống
thanh niên, cũng như hệ thống hóa những quan điểm lý luận của chủ tịch Hồ Chí Minh
về thanh niên và công tác thanh niên. Đồng thời, tác giả cũng phân tích làm sáng tỏ
những nội dung cơ bản, ưu điểm cũng như hạn chế của đường lối, chính sách và pháp
luật đối với thanh niên.
Ngoài ra, công trình còn đi sâu nghiên cứu, chỉ ra diện mạo và đặc điểm
chính của thế hệ thanh niên Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, làm rõ thực trạng và
những xu hướng biến đổi lối sống của thế hệ trẻ Việt Nam trong quá trình đổi mới
đất nước và hội nhập quốc tế, chỉ ra những yếu tố tác động cơ bản, có tính chất định
hướng đối với việc hình thành và quá trình biến đổi lối sống của thanh niên.


Công trình cũng đã góp phần tổng kết, đánh giá công tác thanh niên của Đảng,
Nhà nước và các tổ chức thanh niên trong 25 năm đổi mới đất nước vừa qua. Trong đó,
tác giả chỉ ra và phân tích những ưu thế và những mặt mạnh cơ bản của thanh niên Việt
Nam hiện nay xét cả trên những đặc điểm và khía cạnh phản ánh chất lượng thể chất và
chất lượng tinh thần. Tác giả khẳng định: “Sự quan tâm nghiêm túc, mạnh mẽ của Đảng
và Nhà nước đối với thanh niên và công tác thanh niên là nguyên nhân quan trọng nhất
đưa lại những thành tựu lịch sử trong việc giáo dục, tổ chức và vận động thanh niên ở
Việt Nam trong 25 năm qua, góp phần quan trọng vào sự ổn định của tình hình và sự
phát triển nhanh chóng, vững chắc của đất nước trong thời kỳ đổi mới.”(tr.85)
Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra những khuyến nghị và đề xuất 6 nhóm giải pháp
nhằm xây dựng lối sống của thanh niên Việt Nam phù hợp với tiến trình đổi mới đất
nước hiện nay: Đó là nhóm giải pháp liên quan đến đường lối, chính sách thanh niên của

Đảng và Nhà nước; Các tổ chức, đoàn thể của thanh niên; Gia đình và giáo dục gia đình
đối với thanh niên; Giáo dục học đường đối với thanh niên; Truyền thông đại chúng;
Chính bản thân thanh niên.
Trong công trình “Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay – vấn đề và giải pháp”,
Nguyễn Duy Quý (chủ biên), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, các tác giả đã đề
cập đến những vấn đề đạo đức đang tồn tại trong các nước trên thế giới cũng như ở Việt
nam. Trên cơ sở đó, các tác giả đã phân tích cách giải quyết những vấn đề này. Theo các
tác giả, hiện có ba quan điểm giải quyết những vấn đề này trên thế giới. Đó là quan
điểm coi sự suy thoái đạo đức là một tất yếu không thể cứu chữa. Quan niệm thứ hai là
nhằm hướng tới văn hóa và đạo đức phương Tây. Theo các tác giả, hai giải pháp này
đều có những hạn chế nhất định về mặt phương pháp luận và về mặt lịch sử trong giai
đoạn hiện nay. Giải pháp thứ ba là giải pháp trở về truyền thống của phương Đông. Các
tác giả đã phân tích những kinh nghiệm ngăn chặn suy thoái đạo đức ở một số nước con
rồng nhỏ châu Á, như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore. Nhìn chung, theo các tác giả,
các nước này đều có những giá trị truyền thống mà cho đến nay, chúng vẫn còn có giá
trị. Những giá trị đó đã đảm bảo cho các nước này vừa có sự phát triển nhanh về mặt
kinh tế, vật chất, vừa giữ được bản sắc dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Tuy nhiên, theo các tác giả, những giá trị đó cũng có những hạn chế nhất định về mặt
lịch sử. Do vậy, nếu muốn tiếp tục phát huy các giá trị truyền thống của mình, các nước
này cần có những đánh giá thích hợp về chúng. Trong công trình này, các tác giả đã làm


hiện rõ thực trạng đạo đức của cán bộ, đảng viên, công chức, thanh niên, đạo đức trong
lao động, giao tiếp và đạo đức trong gia đình. Từ đó, các tác giả đã chỉ ra nguyên nhân
suy thoái đạo đức trong xã hội Việt Nam hiện nay bao gồm: những nguyên nhân khách
quan, sâu xa, trực tiếp cần phải nhận diện; những nguyên nhân chủ quan thuộc về chúng
ta, từ lãnh đạo, quản lý, giáo dục và tổ chức đời sống xã hội. Đồng thời, các nhà nghiên
cứu cũng đề xuất phương hướng và giải pháp xây dựng đạo đức xã hội, đặc biệt là đạo
đức gia đình ở nước ta hiện nay theo hướng, cần phải có một hệ thống các giải pháp
mang tính tổng thể, đồng bộ về nhận thức, quan điểm, kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo

dục từ cấp vĩ mô đến vi mô thì mới giải quyết được vấn đề.
Công trình “Định hướng giá trị cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay” do tập
thể thường trực Trung ương Hội sinh viên Việt Nam biên soạn, Nxb. Thanh niên, 2007,
đã tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận về giá trị và định hướng giá trị, phân tích thực
trạng tình hình thanh niên và giáo dục định hướng giá trị cho thanh niên sinh viên của
Đoàn thanh niên, Hội sinh viên và đề xuất một số giải pháp phát huy vai trò của Đoàn
thanh niên, Hội sinh viên trong việc giáo dục định hướng giá trị cho thanh niên sinh
viên.
Hội thảo toàn quốc “Giáo dục đạo đức học sinh, sinh viên ở nước ta: thực trạng
và giải pháp” do Hội Khoa học Tâm lý - Giáo dục Việt Nam tổ chức tại Biên Hòa Đồng Nai, ngày 18, 19/7/2008 đã thu hút sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa
học tâm lý, giáo dục. Các chuyên gia, nhà khoa học tâm lý, giáo dục, cùng nhau phân
tích, đánh giá hiện trạng đạo đức thanh niên và nguyên nhân của thực trạng trên. Theo ý
kiến đa số, nguyên nhân chủ yếu của những biểu hiện suy thoái đạo đức của thanh niên
là: sự buông lỏng trong việc quản lý giáo dục con em trong gia đình; việc giáo dục đạo
đức trong nhà trường từ bậc phổ thông đến đại học còn nhiều bất ổn và tác động của nền
kinh tế thị trường, sự hội nhập các nền văn hóa và sự hấp dẫn của đời sống đô thị đã
làm cho các giá trị đạo đức truyền thống bị xâm hại và mai một dần.
Đề tài cấp Bộ “Sự lựa chọn các giá trị đạo đức và nhân văn trong định hướng lối
sống của sinh viên”,2009, do Huỳnh Văn Sơn làm chủ nhiệm đã khảo sát 874 sinh viên
từ các trường đại học tại thành phố Hồ Chí Minh. Từ số liệu khảo sát, đề tài cho thấy, sự
lựa chon các giá trị đạo đức nhân văn của sinh viên chưa rõ ràng, còn dao động, tồn tại
nhiều thái độ tiêu cực ở một bộ phận không nhỏ sinh viên và còn chưa thống nhất giữa


nhận thức với thái độ, hành vi. Đề tài cũng nêu một số kiến nghị như: cần xây dựng mô
hình nhân cách chuẩn mực, một thang giá trị rõ ràng để định hướng cho sinh viên; chú
trọng giáo dục những giá trị đạo đức nhân văn, thực hiện công tác giáo dục bằng nhiều
hình thức đa dạng,…
Công trình “Những giá trị sống cho tuổi trẻ” của DianeTillman, Nxb. Tổng hợp
thành phố Hồ Chí Minh, 2009 bao gồm các bài giảng về đạo đức cho tuổi trẻ với nội

dung sâu sắc về các giá trị: hòa bình, tôn trọng, yêu thương, khoan dung, trung thực,
khiêm tốn, hợp tác, hạnh phúc, trách nhiệm, giản dị, tự do, đoàn kết. Các bài học này
mang tính hướng dẫn hơn là răn dạy; giảng viên đóng vai trò hỗ trợ, hướng dẫn học viên
tự khám phá các giá trị này và vận dụng chúng vào thực tiễn. Nội dung và phương pháp
giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực của người học rất phù hợp với điều kiện
phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Đây là tài liệu tham khảo tốt cho việc
đổi mới giáo dục đạo đức cho thanh thiếu niên Việt Nam hiện nay.
Một số sách và đề tài khảo sát thực tế tình hình sinh viên và thanh niên như:
“Tổng quan tình hình sinh viên và công tác hội và phong trào sinh viên nhiệm kỳ VII
(2003-2008)” của Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam, Nxb. Thanh niên, 2008 ; Đề tài
nghiên cứu cấp bộ “Tổng quan tình hình thanh niên, công tác Hội Liên hiệp Thanh niên
Việt Nam và phong trào thanh niên nhiệm kỳ 2005-2010” do Nguyễn Phước Lộc làm
chủ nhiệm cũng đã cung cấp những số liệu sát thực phản ánh thực trạng đạo đức của
thanh niên qua kết quả điều tra tổng quan tình hình thanh niên, công tác Đoàn và phong
trào thanh thiếu nhi và qua các hoạt động của Đoàn thanh niên và Hội sinh viên Việt
Nam, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt nam, trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị với
Đảng, Nhà nước và các cấp các ngành nhằm đẩy mạnh công tác Hội sinh viên Việt Nam
và Hội Liên Hiệp Thanh niên Việt Nam và phong trào thanh niên.
1.3. Những nghiên cứu về kế thừa giá trị đạo đức truyền thống trong xây
dựng đạo đức cho thanh niên và thanh niên Ninh Thuận
Cũng như những nghiên cứu về thanh niên, giáo dục và phát triển thanh niên,
những nghiên cứu về xây dựng đạo đức thanh niên trong thời gian qua có nhiều thành
tựu đáng kể. Dưới đây là một số công trình tiêu biểu:
Đề tài nghiên cứu khoa học đặc biệt cấp Đại học quốc gia“Đạo đức sinh viên
trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt


Nam - Thực trạng, vấn đề và giải pháp”,2003, mã số: QG.01.08 do Trương Văn Phước
làm chủ nhiệm, đã phân tích sự chuyển đổi thang giá trị đạo đức trong kinh tế thị trường
và tác động của kinh tế thị trường đối với đạo đức của sinh viên trong giai đoạn từ khi

nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường. Phân tích những số liệu điều tra xã hội học,
các tác giả cho thấy, tình hình đạo đức của sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường là
khá phức tạp; bên cạnh những sinh viên biết kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức
truyền thống trong điều kiện đổi mới đất nước, biết tiếp nhận những giá trị đạo đức mới
để khẳng định nhân cách thì còn một bộ phận sinh viên sống thiếu lành mạnh, không
chịu rèn luyện tu dưỡng.Từ đó, đề tài đã xác định một số vấn đề đặt ra cần giải quyết để
xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên như: Vấn đề đảm bảo sự phát triển đồng bộ giữa
kinh tế thị trường và đạo đức sinh viên; vấn đề truyền thống và hiện đại trong xây dựng
đạo đức sinh viên; vấn đề dân tộc và quốc tế trong xây dựng đạo đức cho sinh viên.
Đồng thời, đề tài đề xuất một số giải pháp phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động
tiêu cực của kinh tế thị trường trong quá trình xây dựng đạo đức mới cho sinh viên bao
gồm: Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho sinh viên; đổi mới
nội dung và phương pháp giảng dạy các bộ môn khoa học Mác-Lênin nói chung và đạo
đức học nói riêng theo phương pháp dạy học tích cực; nâng cao chất lượng văn hóa và
chuyên môn; gắn giáo dục nhà trường với giáo dục xã hội trong công tác giáo dục đạo
đức cho sinh viên; phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo, tự giáo dục, tự rèn luyện
của sinh viên; nâng cao vai trò của tổ chức Đoàn thanh niên, Hội sinh viên trong việc
xây dựng đạo đức cho sinh viên.
Trong công trình “Giáo dục ý thức đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay”,
Nxb. , Tác giả Võ Minh Tuấn, đã làm rõ vị trí, vai trò và đặc điểm của sinh viên Việt
Nam, phân tích khái niệm kết cấu và đặc điểm ý thức đạo đức sinh viên Việt Nam hiện
nay, tác giả đã đi sâu khảo sát thực trạng ý thức của sinh viên, các yếu tố tác động, từ đó
dự báo một số xu hướng vận động chủ yếu trong ý thức đạo đức sinh viên. Bên cạnh đó,
tác giả đã đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm góp phần xây dựng và phát triển ý thức
đạo đức mới cho sinh sinh viên Việt Nam hiện nay. Xây dựng môi trường đạo đức tốt
đẹp gồm xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, nhân văn và môi trường gia đình văn
hóa. Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức, quản lý sinh viên bao gồm tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng và sức mạnh của đoàn thể, phát huy vai trò của báo chí
truyền thống, kết hợp biện pháp giáo dục, quản lý sinh viên, đặc biệt là việc tăng cường



và đổi mới công tác giảng dạy các bộ môn khoa học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Lê Thị Hoài Thanh trong luận án Tiến sĩ Triết học (2003): “Quan hệ biện chứng
giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện
nay”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, đã phân tích quan hệ biện chứng giữa
truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên. Theo tác giả, giữa
truyền thống và hiện đại có quan hệ biện chứng. Giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt
Nam hiện nay đương nhiên bị quy định bởi tính thời đại, hiện đại cả về nội dung lẫn
phương pháp. Tuy vậy, những giá trị đạo đức truyền thống và trong một chừng mực
nhất định, những phương pháp truyền thống vẫn có những giá trị nhất định. Vấn đề là
làm sao kết hợp được một cách hài hòa giữa truyền thống và hiện đại bằng việc đổi mới
những nội dung của cái truyền thống cho phù hợp với yêu cầu của xã hội và con người
hiện đại. Trên cơ sở thực trạng việc vận dụng quan hệ đó, luận án đã đề xuất một số giải
pháp cụ thể trong việc giáo dục đạo đức thanh niên; đó là: Kết hợp giáo dục truyền
thống và hiện đại trong gia đình, nhà trường và xã hội, tạo môi trường giáo dục lành
mạnh và thống nhất; kết hợp giáo dục đạo đức với giáo dục pháp luật, tạo môi trường
pháp lý cho việc kết hợp truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức; kết hợp các
phương pháp giáo dục truyền thống với các phương pháp giáo dục hiện đại, đổi mới
hình thức và phương pháp giáo dục.
Trong Luận án Tiến sỹ triết học của Phạm Bá Lượng,“Giá trị đạo đức truyền
thống với việc giáo dục đạo đức cho sinh viên công an nhân dân Việt Nam hiện nay”,
Học việc chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2009, đã chỉ ra mối liên hệ của
các giá trị đạo đức truyền thống đối với những phẩm chất cần có của người công an
nhân dân hiện nay, từ đó nhấn mạnh rằng, để kế thừa có hiệu quả giá trị đạo đức truyền
thống trong giáo dục đạo đức cho sinh viên công an nhân dân cần tính đến tính đặc thù
không chỉ của tuổi trẻ mà cả tính đặc thù trong hoạt động nghề nghiệp của người công
an nhân dân.
Cao Thu Hằng trong luận án Tiến sỹ triết học “Kế thừa giá trị đạo đức truyền
thống trong xây dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay”, Viện Triết học, 2011 đã

phân tích vai trò của giá trị đạo đức truyền thống trong sự hình thành và phát triển nhân
cách con người Việt Nam hiện nay, trong đó có thanh niên Việt Nam. Từ đó, tác giả cho


thấy, sự cần thiết phải kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống; đồng thời tác giả cũng
chỉ ra một số vấn đề có tính phương pháp luận cần lưu ý khi kế thừa các giá trị đạo đức
truyền thống trong xây dựng nhân cách con người Việt Nam. Đó là phải có quan điểm
lịch sử, biện chứng khi kế thừa các giá trị trị đạo đức truyền thống; kế thừa các giá trị
đạo đức truyền thống cần phải phát triển chúng; kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống
trong xây dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay cần gắn với những yêu cầu của
thời đại; tác giả cũng đã phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến nhân cách và kế thừa
giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay.
Đó là kinh tế thị trường, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, quá trình
toàn cầu hóa. Luận án cũng đã đề xuất một số giải pháp có tính định hướng đối với việc
kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng nhân cách con người Việt Nam,
đặc biệt là thanh niên. Đó là đẩy mạnh giáo dục giá trị đạo đức truyền thống; tăng
cường vai trò của pháp luật; nâng cao tính tích cực của toàn dân trong việc kế thừa giá
trị đạo đức truyền thống.
Luận án tiến sĩ triết học của Diệp Minh Giang “Xây dựng đạo đức của thanh
niên Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”,Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2011, đã làm rõ một số vấn đề về lý luận và thực tiễn
về đạo đức của thanh niên trong nền kinh tế thị trường. Theo tác giả, kinh tế thị trường
có tác động tiêu cực nhất định đối với đạo đức của thanh niên. Tuy vậy, kinh tế thị
trường cũng đồng thời tạo ra những điều kiện thuận lợi để thanh niên khẳng định vai trò
của mình trong lao động, xây dựng và bảo vệ đất nước. Chính trong những hoạt động đa
dạng và năng động đó, nhân cách đạo đức của thanh niên được phát triển. Lao động,
xây dựng và bảo vệ đất nước trong điều kiện mới đòi hỏi thanh niên phải nỗ lực phấn
đấu nhiều hơn và do đó, trưởng thành hơn. Các phẩm chất đạo đức của thanh niên được
đảm bảo bằng chính những cống hiến của họ trong điều kiện kinh tế thị trường. Trên cơ
sở những luận giải về mặt lí luận và những số liệu điều tra xã hội học, tác giả luận án đã

phân tích thực trạng đạo đức thanh niên và đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng đạo
đức thanh niên trong điều kiện kinh tế thị trường. Trong số những giải pháp được đề
xuất, những vấn đề như: tạo công ăn việc làm cho thanh niên; giáo dục hướng nghiệp và
nghề nghiệp; giáo dục lí tưởng chính trị, đạo đức, thẩm mĩ; tổ chức các phong trào hoạt
động cộng đồng, các sân chơi văn hóa, thể thao...được tác giả cho là cần được phát huy
vì chúng phù hợp với những đặc thù về tâm lí và vị thế xã hội của thanh niên.


×