Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Tác động tiêu cực của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tới việc thực hiện công bằng xã hội ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 111 trang )

Đại học quốc gia hà nội
Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn
=====***=====



Vũ Thị Minh Tâm



Tác động tiêu cực của kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa tới việc thực hiện
công bằng xã hội ở nước ta hiện nay



Luận văn thạc sỹ triết học






Hà nội - 2009

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=====***=====




VŨ THỊ MINH TÂM



Tác động tiêu cực của kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa tới việc thực hiện
công bằng xã hội ở nước ta hiện nay



Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 85


LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TIẾN SỸ



HÀ NỘI – 2009


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công bằng xã hội là ước mơ lâu đời, là khát vọng lớn lao và chính đáng
của nhân loại. Cuộc đấu tranh vì lẽ công bằng được ví như là “cuộc trường
chinh” trong lịch sử loài người. Hiện nay, Việt Nam đang trong thời kì quá độ

lên chủ nghĩa xã hội, chế độ xã hội mà nhân dân ta xây dựng mang bản chất
công bằng và bình đẳng, nó thể hiện qua mục tiêu mà Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta đang phấn đấu thực hiện là: dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Do đó, việc đảm bảo công bằng xã hội, đảm bảo sự
bình đẳng giữa người và người trong mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng
thụ, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Nền kinh tế nước ta có điểm xuất phát thấp, với lực lượng sản xuất ở
nhiều trình độ khác nhau, để phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất, xây
dựng nền kinh tế hiện đại, Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, nói khái quát lại là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc hình thành mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
điểm đột phá về lý luận, thể hiện sự nhận thức đúng đắn qui luật khách quan
trong quá trình phát triển nền kinh tế nước ta. Nhờ đó, nền kinh tế nước ta
đạt tốc độ tăng trưởng cao, đời sống nhân dân được cải thiện, vị thế của
Việt Nam không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc thực hiện công bằng xã hội.
Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường tự nó có cả mặt tích cực và tiêu cực
ảnh hưởng tới việc thực hiện công bằng xã hội. Điều đó làm nảy sinh ý kiến
cho rằng, phải chăng công bằng xã hội và phát triển kinh tế thị trường là hai
mục tiêu không tương dung với nhau và vì vậy, hoặc là phải hi sinh công

2
bằng xã hội để đạt được mục tiêu kinh tế, hoặc phải hi sinh phát triển kinh tế
để đạt được công bằng xã hội.
Thực tế đã chứng minh, giữa phát triển nền kinh tế thị trường định hư-
ớng xã hội chủ nghĩa với việc thực hiện công bằng xã hội có mối quan hệ biện
chứng với nhau. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo cơ
sở, tiền đề, điều kiện cho việc thực hiện công bằng xã hội. Ngược lại, thực

hiện tốt công bằng xã hội là động lực to lớn cho sự phát triển kinh tế. Chỉ có
sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với đảm bảo công bằng xã hội mới tạo ra
sự phát triển ổn định, bền vững. Tư tưởng này xuyên suốt trong các văn kiện
của Đảng và tiếp tục được Đại hội X khẳng định:
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và
từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội
trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống
hiến và hưởng thụ, tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển xã
hội, văn hoá, y tế, giáo dục và đào tạo…giải quyết tốt các vấn đề
vì mục tiêu phát triển con người [25;101].
Do đó, việc nghiên cứu làm rõ những tác động của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là những tác động tiêu cực của nó đối
với việc đảm bảo thực hiện công bằng xã hội, từ đó có biện pháp phát huy
những tác động tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực là một vấn đề cấp
thiết cả trên phương diện lý luận lẫn thực tiễn ở nước ta hiện nay. Chính vì
vậy, chúng tôi lựa chọn vấn đề: “Tác động tiêu cực của kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa đến việc thực hiện công bằng xã hội ở nước ta
hiện nay” để nghiên cứu.
Đề cập đến vấn đề này giúp chúng ta nhìn rõ khả năng hiện thực của
việc thực hiện công bằng xã hội trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa để khỏi rơi vào sai lầm, chủ quan, duy ý
chí, ảo tưởng như chúng ta từng mắc phải trước đây, làm tổn hại đến mục tiêu

3
tăng trưởng kinh tế. Còn phấn đấu để thực hiện công bằng trên con đường tiến
dần tới mục tiêu bình đẳng toàn diện vẫn luôn là nhiệm vụ thường xuyên, liên
tục và là mục tiêu cuối cùng của chúng ta.
2. Tình hình nghiên cứu
Những năm gần đây ở nước ta, việc phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công bằng xã hội được giới lý luận rất

quan tâm nghiên cứu. Có nhiều công trình, nhiều bài báo, luận văn đã được
công bố:
Cuốn sách: “Về động lực của sự phát triển kinh tế – xã hội” do Giáo sư
Lê Hữu Tầng làm chủ biên đã tập trung làm rõ khái niệm công bằng xã hội
trong mối quan hệ với khái niệm bình đẳng xã hội, coi công bằng xã hội như
một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Các tác giả cũng đề xuất
mở rộng nguyên tắc phân phối theo lao động - một nội dung cốt lõi của công
bằng xã hội trong chủ nghĩa xã hội - thành nguyên tắc phân phối theo cống
hiến - như một nội dung cốt lõi của công bằng xã hội trong thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Kỉ yếu hội thảo: “Vấn đề phân phối và phân hoá giàu nghèo trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta ”,
2004, trong kỉ yếu này các nhà nghiên cứu đã trình bầy khá rõ khái niệm, thực
trạng thực hiện công bằng xã hội ở nước ta, đồng thời đề ra một số giải pháp
thực hiện tốt công bằng xã hội.
Tác giả Lương Xuân Quì, chủ biên cuốn: “Xây dựng quan hệ sản xuất
định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt
Nam” , 2002, đã đề cập đến khái niệm, thực trạng, hệ quan điểm, phương
hướng, giải pháp xây dựng quan hệ sản xuất (quan hệ sở hữu, quan hệ phân
phối, quan hệ quản lý) định hướng xã hội chủ nghĩa và việc thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội ở Việt Nam.

4
Tác giả Trịnh Quốc Tuấn chủ nhiệm đề tài: “Kết hợp tăng trưởng kinh tế
với tiến bộ và công bằng xã hội trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta” đã phân tích những thành tựu, tác động và thách thức của tăng trưởng kinh
tế và của công bằng xã hội trong đổi mới, đồng thời đề đạt một số phương
hướng, quan điểm, giải pháp kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công
bằng xã hội trong những năm tới.

Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt nam và Đảng Cộng sản Trung
Quốc: “Chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường, kinh nghiệm của Trung Quốc,
kinh nghiệm của Việt Nam”, 2003, nêu rõ sự tương dung về bản chất, mục
tiêu…giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang
xây dựng và kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc. Cả hai nước
xây dựng nền kinh tế thị trường trên tinh thần nhất quán là thực hiện công
bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển kinh tế.
Tác giả Lương Việt Hải, trong bài viết: “Công bằng xã hội trong điều
kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 4 - 2004, đã
đưa ra khái niệm, những đặc trưng cơ bản và vai trò của công bằng xã hội. Trên
cơ sở đó, khẳng định công bằng xã hội là hoàn toàn có thể thực hiện được.
Tác giả Nguyễn Thị Nga, trong bài viết “Quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế và công bằng xã hội ở nước ta hiện nay - những quan điểm cơ bản của
Đảng” đó phân tích và luận chứng những quan điểm của Đảng cộng sản Việt
Nam về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta
hiện nay, coi công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển xã hội.
Bài viết: “Những vấn đề đặt ra trong tăng trưởng kinh tế ở nước ta” của
tác giả Nguyễn Thị Thơm, Tạp chí Lý luận chính trị, số 12 - 2005, tập trung
phân tích những mặt tiêu cực của quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường
làm ảnh hưởng tới việc thực hiện công bằng xã hội.

5
Như vậy, có thể thấy vấn đề công bằng xã hội và kinh tế thị trường đã được
tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau, rất phong phú và đa dạng. Tuy nhiên,
nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề tác động tiêu cực của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa tới việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt
Nam, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hạn chế những tác động tiêu cực đó để
thực hiện công bằng xã hội đạt hiệu quả hơn thì chưa có công trình nào.
Thực hiện CBXH là một vấn đề rất khó khăn, phức tạp, cần phải tiếp tục

nghiên cứu sâu sắc. Chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ làm sáng
tỏ thêm vấn đề này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Làm rõ những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa tới việc thực hiện công bằng xã hội, trên cơ sở đó,
đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần giảm thiểu những tác động tiêu
cực của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện tốt hơn
cụng bằng xó hội ở nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ: để đạt mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ khái niệm công bằng xã hội, kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
- Làm rừ tác động của kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa tới
việc thực hiện cụng bằng xó hội.
- Phân tích một số tác động tiêu cùcchủ yếu của kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa tới việc thực hiện công bằng xã hội ở nước ta hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện tốt hơn công bằng
xã hội ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

6
Đối tượng: Tác động tiêu cực của kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa tới việc thực hiện công bằng xã hội.
Phạm vi: Nghiên cứu những tác động tiêu cực chủ yếu của kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa tới việc thực hiện công bằng xã hội ở
nước ta hiện nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế thị trường
và công bằng xã hội.
- Luận văn cũng tiếp thu kết quả của những công trình nghiên cứu có
liên quan trực tiếp đến luận văn.
Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, kết hợp với các phương pháp cụ thể như: phân tích tổng hợp, logic
– lịch sử, hệ thống cấu trúc, khảo sát thực tiễn…
6. Đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho nghiên cứu và giảng dạy các vấn đề có liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, và mục lục,
nội dung chính của luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.


7
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ
KINH TẾ THỊ TRƢỜNG ĐỊNH HƢỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1.1. Công bằng xã hội và kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa
1.1.1. Công bằng xã hội
Công bằng xã hội là một vấn đề xuyên suốt được đặt ra trong lịch sử
nhân loại từ thời cổ đại đến nay. Khi loài người nhận thức được bất công xã
hội ở mức độ nào thì sẽ hướng tới sự công bằng ở mức độ tương ứng. Như
vậy, trong mỗi xã hội sẽ có những chuẩn mực riêng về công bằng xã hội, do
hoàn cảnh lịch sử cụ thể của giai đoạn đó qui định. Ph.Ăngghen từng nhận
xét: chân lý của người Hi Lạp và La Mã cho rằng chế độ nô lệ là công
bằng. Chân lý của nhà tư sản năm 1789 đòi hỏi thủ tiêu chế độ phong kiến

vì chế độ ấy không công bằng…Do đó, khái niệm về công bằng xã hội biến
đổi, chẳng những cùng với thời gian và không gian mà cả cùng với bản
thân con người nữa.
Trong chế độ công xã nguyên thuỷ, công bằng xã hội có nghĩa là mọi
người đều phải tuân theo trật tự đã được cộng đồng thừa nhận, ai vi phạm sẽ
bị trừng phạt.
Khi sở hữu tư nhân xuất hiện thì nội dung của khái niệm công bằng
cũng thay đổi: sự công bằng được xem xét trong mối quan hệ với địa vị xã
hội. Platôn cho rằng: dù xã hội không có sự bình đẳng nhưng vẫn có sự công
bằng, bởi lẽ công bằng là ở chỗ mỗi hạng người dù ở địa vị xã hội nào cũng
phải làm hết trách nhiệm của mình, biết sống đúng với tầng lớp của mình và
phải biết được thân phận mình.
Từ thế kỉ XVI, cùng với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản, những tư tưởng
về công bằng xã hội đã tạo nên sự thay đổi có tính chất bước ngoặt trong lịch
sử tư tưởng về công bằng, tiến bộ xã hội của nhân loại.

8
Nhà triết học vĩ đại người Pháp J.J.Rutxo tập trung phê phán quan hệ
đẳng cấp, bất bình đẳng trong xã hội tư bản; phê phán tính hai mặt của sở hữu
tư nhân. Ông cho rằng đó là nguyên nhân làm cho xã hội phân chia giàu
nghèo, làm gia tăng sự bất công trong xã hội. Muốn xoá bỏ tình trạng đó con
người phải thiết lập “khế ước xã hội” để cải biến chính mình, loại bỏ tính xấu
xa, đặc biệt là lòng tham và tính ích kỉ thì sẽ đạt được công bằng và bình
đẳng. Đây là những giải pháp trừu tượng và khó thực hiện.
Còn theo nhà triết học Đức I.Cantơ thì công bằng xã hội gồm: công
bằng về bảo hộ, công bằng trong trao đổi và phân phối. Trong đó, ông nhấn
mạnh công bằng trong phân phối là quan trọng nhất. Cantơ chủ trương xây
dựng một xã hội văn minh, đề cao công bằng, bình đẳng trong phân phối. Mặc
dù chưa đầy đủ nhưng quan niệm phân phối công bằng của Cantơ là một
nguyên tắc quan trọng trong việc đi tới công bằng xã hội.

Các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng (H.Xanhximong; S.Phurie;
R.Owen) bày tỏ mơ ước về một xã hội công bằng, ở đó không có chế độ tư
hữu, bóc lột, bất công, mọi người đều lao động và hưởng thụ như nhau. Tuy
nhiên, đó chỉ là mô hình một xã hội lý tưởng, công bằng ở đây là thứ công
bằng bình quân chủ nghĩa và không có lực lượng, giải pháp nào để đi tới xây
dựng một xã hội như mơ ước.
Mục tiêu hàng đầu đặt ra tại các nước tư bản chủ nghĩa là thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, vấn đề công bằng xã hội chỉ được quan tâm khi tác động tiêu
cực của kinh tế thị trường làm gay gắt các vấn đề xã hôị, tạo ra nguy cơ bùng
nổ xã hội, đe doạ sự tồn vong của chủ nghĩa tư bản. Mục đích giải quyết các
vấn đề xã hội của nhà nước tư sản chỉ giới hạn trong khuôn khổ chế độ tư bản
chủ nghĩa và được xem như phương sách ổn định chế độ tư bản chủ nghĩa, do
đó, công bằng trong xã hội tư sản khó có thể trở thành mục tiêu, thành động
lực cho sự phát triển.

9
Khách quan mà nói, chủ nghĩa tư bản hiện đại đã đạt được một số thành
công nhất định trong việc thực hiện công bằng xã hội nhằm xoa dịu bớt những
xung đột xã hội vốn có của nó thông qua một số cuộc cải cách xã hội. Nhờ đó,
trong một chừng mực nhất định đã làm dịu bớt đi những mâu thuẫn gay gắt
tồn tại trong lòng xã hội tư sản. Tuy nhiên, với bản chất thống trị, bóc lột, chủ
nghĩa tư bản không thể và không muốn giải quyết triệt để vấn đề công bằng
xã hội. Tổng thống Mỹ - Bill Clinton - phải thừa nhận:
Thị trường là một thứ kì diệu, nhưng nó không cho chúng ta
những đường phố an toàn, môi trường sạch sẽ, các cơ hội học
hành công bằng và không đảm bảo sức khoẻ cho trẻ em nghèo
bắt đầu cuộc sống hoặc tuổi già khoẻ mạnh và an toàn. [13;89].
Hiện nay, chủ nghĩa tư bản đang phải đối mặt với nhiều thách thức về
công bằng xã hội gay gắt, nhất là khi vấn đề này được xem xét trong điều kiện
tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng cao. Nhà kinh tế học người Pháp, Ôlivio

de Saloges, có lý khi cho rằng:
Đông đảo quần chúng không thể hiểu được rằng một sự tăng
trưởng kinh tế ngày càng gia tốc lại được thể hiện bằng sự phân
phối bất công đến thế vì thu nhập cá nhân và bất bình đẳng ngày
càng trầm trọng. [66;48].
Trong bối cảnh đó, xuất hiện nhiều trào lưu tư tưởng và lý thuyết về
công bằng xã hội. Chẳng hạn như trào lưu cổ điển và tân cổ cho rằng muốn
phát triển phải bớt công bằng đi vì không thể cùng một lúc vừa có tăng trưởng
kinh tế vừa có công bằng xã hội. Khi nào kinh tế phát triển đến một mức độ
nhất định mới có điều kiện để thực hiện công bằng xã hội.
Thuyết “Nền kinh tế hỗn hợp” do P.A.Samuelson - nhà kinh tế học
người Mỹ - đưa ra lại khẳng định: phải kết hợp giữa kinh tế thị trường với
Nhà nước. Theo ông, sự bất công sinh ra từ kinh tế thị trường là tất yếu, vì
vậy, chính phủ phải thông qua những chính sách phân phối lại thu nhập, điều
hoà những bất công trong xã hội.

10
Trong tác phẩm “Một lý thuyết về công bằng”, nhà xã hội học Mỹ John
Rawls coi : “Công bằng là đặc tính quan trọng đầu tiên của thể chế xã hội
cũng như chân lý là đặc tính đầu tiên của hệ tư tưởng” [Trích theo 58;65].
Những bất công về kinh tế và xã hội phải tổ chức sao cho mọi người đều có
thể chấp nhận và chúng gắn với những vị trí và chức năng được mở ra cho tất
cả mọi người. Ông đưa ra nguyên tắc: tối đa hoá cái tối thiểu cho những
người bị yếu thế trong xã hội và xem đó như là lý tưởng công bằng xã hội và
con đường để tiến lên xã hội đó là bằng đạo đức.
Đến C.Mác - Ph.Ăngghen - V.I.Lênin, các ông đã xem xét công bằng
xã hội một cách toàn diện, hệ thống hơn trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những
tư tưởng tiến bộ của các nhà lý luận trước đó. Theo C.Mác, sự phát triển kinh
tế tư bản về bản chất không thể dẫn tới công bằng xã hội được. Phương thức
phân phối trong chủ nghĩa tư bản là bất hợp lý vì nó không dựa vào sức lao

động, do giai cấp tư sản - người chiếm hữu tư liệu sản xuất - quyết định và kết
quả của phương thức phân phối này là: nhà tư bản ngày càng giàu lên trên sự
đau khổ và nghèo đói của những người công nhân và nhân dân lao động.
C.Mác đã đưa ra quan niệm về nguyên tắc phân phối đảm bảo công
bằng xã hội trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gô - ta”. Mác chỉ rõ rằng
trong xã hội xã hội chủ nghĩa, sau khi đã khấu trừ đi những khoản cần thiết để
duy trì sản xuất, tái sản xuất cũng như để duy trì đời sống của cộng đồng, toàn
bộ số sản phẩm xã hội còn lại sẽ được phân phối theo nguyên tắc: “mỗi người
sản xuất sẽ được nhận lại từ xã hội một số lượng vật phẩm tiêu dùng trị giá
ngang với số lượng lao động mà anh ta đã cung cấp cho xã hội (sau khi đã
khấu trừ số lao động của anh ta cho các quĩ xã hội)” [49;31]. Theo C.Mác
đây là một nguyên tắc phân phối công bằng, nhưng C.Mác cũng chỉ rõ, trong
điều kiện của chủ nghĩa xã hội, sự phân phối đó chưa loại trừ được mà vẫn
còn hàm chứa trong nó sự chấp nhận một tình trạng bất bình đẳng nhất định
giữa các thành viên trong xã hội vì những người lao động không phải ai cùng

11
như ai, người này khác người kia về thể chất và tinh thần, về năng lực lao
động và tay nghề, về hoàn cảnh gia đình…Vì vậy, “với một công việc ngang
nhau và do đó, với một phần tham dự như nhau vào quĩ tiêu dùng xã hội, thì
trên thực tế, người này vẫn lĩnh nhiều hơn người kia, người này vẫn giàu hơn
người kia…” [49;35]. Đó vừa là ưu việt vừa là thiếu sót của nguyên tắc phân
phối theo lao động. Theo C.Mác điều đó khó có thể tránh khỏi trong giai đoạn
đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Thiếu sót đó chỉ có thể khắc phục trong
chủ nghĩa cộng sản, khi có thể thực hiện được nguyên tắc phân phối: làm theo
năng lực, hưởng theo nhu cầu.
Nhận thức sâu sắc lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về công bằng xã
hội, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán trong tư tưởng và hành động về
việc phải xây dựng một xã hội Việt Nam công bằng, bình đẳng. Hồ Chí Minh
chỉ rõ nội hàm của công bằng xã hội là mọi người được ăn no, mặc ấm, tự do

trong chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là xây dựng một xã hội
không có người bóc lột người, một xã hội trong đó mọi người đều bình đẳng.
Trong vấn đề phân phối công bằng, Người nhấn mạnh nguyên tắc:
hưởng thụ ngang bằng với mức độ đóng góp, cống hiến của từng cá nhân, chứ
hoàn toàn không phải là sự ngang bằng về hưởng thụ giữa các cá nhân mà
không tính đến sự cống hiến của từng người, không coi việc thực hiện công
bằng xã hội như là sự cào bằng trong nghèo khổ. Người cũng kiên quyết
chống lại sự đồng nhất tinh thần đồng cam cộng khổ với chủ nghĩa bình quân.
Bình quân chủ nghĩa là trái với bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Trên cơ sở của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa
những quan điểm chung về công bằng xã hội, xuất phát từ thực tế của đất nước,
cùng với việc đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, quan niệm của Đảng ta về công bằng xã hội từng bước được hoàn thiện.

12
Đại hội VI của Đảng đã chỉ ra một trong những thực trạng của đất nước
ta là bên cạnh những bất công của phân phối có “tính chất bình quân”, “bao
cấp”, đã nảy sinh những vấn đề bất công bằng mà trước đó không có. Đó là:
Hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển, công bằng xã hội bị
vi phạm, pháp luật, kỉ cương không nghiêm. Những hành vi lộng
quyền và tham nhũng của một số cán bộ và nhân viên nhà nước,
những hoạt động của bọn làm ăn phi pháp…chưa bị trừng trị
nghiêm khắc và kịp thời. [20;18].
Dù đất nước còn rất nhiều khó khăn nhưng Đảng vẫn khẳng định có thể
thực hiện công bằng xã hội ở một mức độ nào đó. Vì thế, trong năm mục tiêu
cụ thể về kinh tế - xã hội đối với những năm còn lại của chặng đường đầu tiên
của thời kì quá độ được nêu ra tại Đại hội VI đã dành một mục tiêu cho vấn
đề công bằng xã hội:
Tạo ra sự chuyển biến về mặt xã hội. Giải quyết một phần quan
trọng việc làm cho người lao động và bảo đảm về cơ bản phân

phối theo lao động. Thực hiện công bằng xã hội phù hợp với điều
kiện cụ thể của nước ta. Loại bỏ các nguồn thu nhập do làm ăn
phi pháp mà có. [20;45].
Đại hội VI là mốc đánh dấu nước ta bắt đầu thực hiện nền kinh tế nhiều
thành phần, do đó, công bằng xã hội còn bao hàm trong đó nội dung công
bằng đối với các thành phần kinh tế:
Xoá bỏ những thành kiến thiên lệch trong sự đánh giá và
đối xử thiên lệch với người lao động thuộc các thành phần kinh
tế khác nhau. Nhà nước có chính sách ưu đãi về kinh tế …đối với
các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, song về pháp luật phải
thực hiện nguyên tắc bình đẳng. Những người làm ra của cải và
những việc có ích cho xã hội, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ,
chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và chính sách đều được tôn

13
trọng, được hưởng thu nhập tương xứng với kết quả lao động,
kinh doanh hợp pháp của họ. Đối với những kẻ luời biếng, ăn
bám, phải phê phán và cưỡng bức lao động. Những kẻ phạm
pháp đều bị trừng trị theo pháp luật. Ai vi phạm hợp đồng đều bị
xử phạt theo pháp luật. Đó là chính sách nhất quán đối với mọi
công dân, không phân biệt họ thuộc thành phần kinh tế nào.
Nền kinh tế thị trường mà chúng ta xây dựng là nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, vì thế việc thực hiện công bằng xã hội luôn
được đặt lên vị trí hàng đầu, đồng thời tích cực xoá bỏ tiêu cực xã hội:
Cùng với việc tiến tới xoá bỏ cơ sở kinh tế - xã hội của sự bất
công xã hội phải đấu tranh kiên quyết chống những hiện tượng
tiêu cực làm cho những nguyên tắc công bằng xã hội và lối sống
lành mạnh được khẳng định hàng ngày trong xã hội ta. [20;86-
87].
Đại hội VII đã chỉ ra những mặt tích cực và tiêu cực của nền kinh tế thị

trường, trong đó xuất hiện những mặt tiêu cực mới có tính bất công xã hội và
là một nguyên nhân gây khủng hoảng kinh tế - xã hội. Trong khi đó, việc
thực hiện các chính sách xã hội tuy có một số tiến bộ nhưng chưa được quan
tâm đúng với tầm quan trọng của nó. Do đó, thực hiện công bằng xã hội sẽ là
động lực góp phần đẩy lùi khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Trong văn kiện Hội nghị giữa nhiệm kì khoá VII Đảng ta nhấn mạnh
đến việc thực hiện công bằng xã hội nên đã đưa ra khái niệm “chính sách
công bằng xã hội” và nhận định rằng chúng ta “thực hiện chính sách công
bằng xã hội chưa tốt”. và đặc biệt, đã bổ sung vào mục tiêu phát triển của đất
nước thêm từ “công bằng”.
Để thực hiện mục tiêu đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, vấn đề
gắn tăng trưởng kinh tế với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội luôn được
chú trọng:

14
Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công
bằng xã hội phải thể hiện ở các khâu phân phối hợp lý tư liệu sản
xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện
cho tất cả mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng
lực của mình. [22;113].
Điều này tiếp tục được Đảng khẳng định tại Đại hội IX và nhấn mạnh
đó là một trong những nội dung của đường lối phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước. Đồng thời Đại hội IX có sự phát triển mới trong quan niệm về công
bằng xã hội. “Thực hiện công bằng xã hội chống áp bức bất công” được xác
định là một trong những nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai
đoạn hiện nay ở nước ta. Thực hiện công bằng xã hội là một tiêu chuẩn căn
bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Và “thực hiện các chính sách xã hội hướng vào việc phát triển và
lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực

mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, khuyến khích
nhân dân làm giàu hợp pháp” [24;104]. Chính sách xã hội cấp bách góp phần
thực hiện công bằng xã hội bao gồm: giải quyết việc làm, cải cách chế độ tiền
lương cho cán bộ công chức, thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, thực
hiện ưu đãi xã hội và đền ơn đáp nghĩa…
Như vậy, đối với nước ta hiện nay, công bằng xã hội phải được thực
hiện một cách toàn diện, bao gồm cả công bằng trong lĩnh vực kinh tế, văn
hoá, chính trị - xã hội…trong đó, công bằng trong kinh tế là gốc.
Có thể thấy rằng, công bằng xã hội là một khái niệm mở và đang từng
bước hoàn thiện cả về nội hàm và ngoại diên của nó gắn với quá trình phát
triển của nền kinh tế.
Trong tiếng Việt, khi nói đến công bằng, người ta thường liên tưởng
đến sự ngang nhau, sự tương đương nhau. Còn trong tiếng nước ngoài, từ

15
công bằng, ví dụ từ “justice” trong tiếng Anh và tiếng Pháp, thường được hiểu
là sự đúng đắn, chính đáng, lẽ phải, công lý.
Từ điển Bách khoa Triết học, Matxcơva,1983, định nghĩa:
Công bằng là khái niệm đạo đức - pháp quyền, đồng thời cũng là
khái niệm chính trị - xã hội. Khái niệm công bằng bao hàm trong
nó yêu cầu về sự phù hợp giữa vai trò thực tiễn của cá nhân
(nhóm xã hội) với địa vị của họ trong đời sống xã hội, giữa
những quyền và nghĩa vụ của họ, giữa làm và hưởng, giữa lao
động và sự trả công, giữa tội phạm và sự trừng phạt, giữa công
lao và sự thừa nhận của xã hội. Sự không phù hợp trong những
quan hệ đó được đánh giá là sự bất công. [Trích theo 5;246].
Có thể thấy, bản chất của công bằng xã hội chính là sự tương xứng (sự
phù hợp) giữa một loạt các khía cạnh khác nhau trong quan hệ giữa các cá
nhân (hay nhóm xã hội) đóng góp cho tập thể, cho xã hội và cái mà họ được
hưởng từ tập thể, xã hội, cái mà cá nhân làm cho tập thể, cho xã hội có thể là

điều tốt lành (lao động, cống hiến, nghĩa vụ, công lao…) hoặc cũng có thể là
điều xấu, có hại cho xã hội (tội phạm…). Còn cái mà cá nhân được hưởng có
thể là tiền công, phần thưởng, địa vị, quyền lợi xã hội…và cũng có thể là sự
trừng phạt bằng những hình thức từ thấp đến cao.
Ở Việt Nam trong những năm gần đây xuất hiện một số công trình
khoa học nghiên cứu về công bằng xã hội dưới nhiều góc độ như triết học,
kinh tế học, xã hội học, luật học…Theo đó, các tác giả coi công bằng xã hội là
sự ngang bằng nhau giữa người với người ở một phương diện nhất định, đó là
quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi của con người theo nguyên tắc: cống hiến
ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau.
Để đánh giá thế nào là công bằng không phải là một vấn đề đơn giản. Nó
đòi hỏi phải so sánh phần hưởng thụ của các cá nhân, các nhóm xã hội với phần
đóng góp, cống hiến của họ. Ở đây, phần hưởng thụ về cơ bản là có thể lượng

16
hoá được một cách tương đối dễ dàng hơn, còn phần đóng góp, cống hiến, nhất
là sự đóng góp, cống hiến về tài năng và trí tuệ thì rất khó có thể lượng hoá một
cách chính xác được. Làm thế nào để so sánh chất lượng cống hiến của hai
người vào hiệu quả công việc chung - người lao động trực tiếp và người tổ
chức, quản lý lao động - để đánh giá mức độ hưởng thụ của hai người là công
bằng hay không công bằng? Thêm vào đó, sự đóng góp của cá nhân không
những cần phải được xem xét không chỉ trong hiện tại, mà còn phải tính đến sự
đóng góp cả trong quá khứ và tương lai. Sự đánh giá đơn giản vấn đề này có
thể dẫn đến việc ngộ nhận công bằng thành bất công và ngược lại.
Chúng ta không nên hiểu công bằng xã hội chỉ trên phương diện công
bằng về kinh tế. Công bằng xã hội còn là sự công bằng trong việc tham gia và
hưởng thụ kết quả hoạt động trong các lĩnh vực xã hội, chính trị, văn hóa của đời
sống. Công bằng xã hội là sự công bằng toàn diện mà sự công bằng trong mỗi
lĩnh vực chỉ là những bộ phận cấu thành của nó. Tuy nhiên, trong những xã hội
kém phát triển, do vai trò quyết định nổi bật của kinh tế đối với sự tồn tại và phát

triển của các cá nhân và xã hội, nội dung quan trọng nhất cuả công bằng xã hội
trước tiên và chủ yếu là công bằng về kinh tế. Vì thế, có thể nói công bằng về
kinh tế đóng vai trò là hạt nhân, là yếu tố cốt lõi của công bằng xã hội.
Từ những quan niệm phân tích ở trên cho thấy công bằng xã hội có một
số đặc trưng sau:
Công bằng xã hội là một khái niệm mang tính lịch sử. Không có một
quan niệm công bằng chung cho mọi thời đại, mọi quốc gia. Tiến trình phát
triển của lịch sử nhân loại cho thấy với những hình thái kinh tế - xã hội trong
từng giai đoạn lịch sử nhất định sẽ qui định những chuẩn mực cụ thể của công
bằng xã hội. Vì thế, dùng một thước đo công bằng chung cho mọi thời đại,
mọi dân tộc, mọi xã hội cũng sai lầm không kém việc áp đặt những chuẩn
mực công bằng khi những điều kiện vật chất chưa phù hợp với nó.

17
Công bằng xã hội có tính khách quan vì công bằng xã hội xuất phát từ
nhu cầu khách quan của sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội, có
công bằng xã hội thì mới khuyến khích người lao động hăng hái tạo ra càng
nhiều của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Công bằng xã hội không chỉ
phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của phân công lao
động xã hội, vào mối tương quan giữa lao động phức tạp và lao động dơn
giản, vào tính chất của quan hệ sản xuất, mà còn phụ thuộc vào trình độ văn
hoá, văn minh của xã hội và chế độ xã hội.
Khái niệm công bằng xã hội không thể tách rời khái niệm bình đẳng xã
hội, do đó, khi nghiên cứu về khái niệm công bằng cần phải xem xét cả khái
niệm bình đẳng.
Bình đẳng với tính cách là phạm trù chính trị - xã hội, có nghĩa là sự
bằng nhau, sự ngang nhau giữa các cá nhận, nhóm xã hội về một hay một số
phương diện xã hội nhất định. Chẳng hạn, sự ngang bằng nhau giữa các cá
nhân hay các nhóm xã hội đó về những quyền và nghĩa vụ công dân, về chính
trị - xã hội, về cơ hội xã hội, về mức độ thoả mãn những nhu cầu nhất định

trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá – xã hội…
Công bằng xã hội là sự ngang nhau giữa người và người không phải về
mọi phương diện hay một phuơng diện bất kì mà chính là về một phương diện
hoàn toàn xác định: quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và
hưởng thụ theo nguyên tắc cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau.
Như vậy, có thể coi thực hiện công bằng xã hội là thực hiện một loại bình
đẳng xã hội quan trọng nhất, đó là một nấc thang hướng tới bình đẳng xã hội
toàn diện.
Thực hiện bình đẳng xã hội là tạo ra cho mọi thành viên trong xã hội
những điều kiện và khả năng như nhau nhằm làm cho họ tự do phát triển năng
lực, thoả mãn các nhu cầu và có địa vị xã hội như nhau. Còn thực hiện công
bằng xã hội là đặt mọi người vào những cơ hội như nhau để phát triển và tạo

18
ra cho mỗi người những điều kiện thực tế để phát triển. Sự phát triển trong
công bằng là sự phát triển chứa đựng sự vượt trội, chênh lệch, phân hoá…
Bình đẳng có khía cạnh công bằng (như sự bình đẳng về những quyền
và nghĩa vụ của công dân, bình đẳng trong hưởng thụ ở những người có lao
động, đóng góp như nhau), nhưng cùng có khía cạnh không công bằng (như
sự phân phối bình quân bất chấp chất lượng và hiệu quả công việc dẫn đến sự
trì trệ xã hội); ngược lại, trong công bằng vừa có bình đẳng vừa có bất bình
đẳng. Cái mà xã hội thừa nhận là công bằng thì không nhất thiết phải thừa
nhận là sự bình đẳng và sự bất bình đẳng không phải lúc nào cũng đồng nghĩa
với sự bất công (sự vượt trội, phân hoá giàu nghèo…). Dó đó, nhiều khi người
ta nói về sự công bằng nhưng thực ra đó không phải là sự công bằng mà là
bình đẳng và ngược lại, không ít khi sự bất công được đề cập đến lại không
phải là sự bất công mà chỉ là sự bất bình đẳng.
Trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, chúng ta coi
công bằng xã hội là mục tiêu đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế -
xã hội. Từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì khoá VII đến nay, việc

thực hiện công bằng xã hội nhằm tạo ra một xã hội công bằng luôn luôn là
một bộ phận quan trọng trong mục tiêu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội: Phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Công bằng xã hội là một trong những yếu tố nội sinh của tăng trưởng
kinh tế. Nói cách khác, công bằng xã hội là một động lực cho sự phát triển
kinh tế - xã hội. Sở dĩ như vậy vì trong một xã hội mà công bằng được đảm
bảo thì mới có thể kích thích, động viên mọi người ra sức cống hiến cho xã
hội một cách tự nguyện nhất. Có công bằng xã hội người lao động mới phát
huy hết khả năng, không ngừng nâng cao năng suất lao động để tạo ra năng
suất lao động có chất lượng cao. Có công bằng xã hội các nhà kinh doanh mới
chịu bỏ vốn, chấp nhận rủi ro để đầu tư cho sản xuất.

19
Ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, với một hoàn cảnh kinh tế - xã hội nhất
định bao giờ cũng có một thước đo của công bằng xã hội tương ứng làm căn
cứ để xác định một tỷ lệ tương ứng cụ thể giữa cống hiến và hưởng thụ cho
mọi chủ thể cùng tham gia vào hoạt động của nền sản xuất xã hội. Thước đo
này công bằng thì sẽ là công cụ bảo vệ lợi ích chung của mỗi cá nhân trong xã
hội ấy. Điều này đảm bảo cho sự ổn định và phát triển của xã hội.
Công bằng xã hội không chỉ tác động mạnh mẽ, tích cực trong lĩnh vực
kinh tế mà còn đóng vai trò điều chỉnh quan hệ người - người trong các lĩnh
vực: chính trị, xã hội, đạo đức, pháp quyền…để đảm bảo sự tương xứng giữa
nghĩa vụ và quyền lợi của cá nhân hay nhóm xã hội. Nếu sự tương xứng giữa
cống hiến và hưởng thụ, giữa quyền lợi và nghĩa vụ của con người đó được
thực hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đảm bảo cho mọi người được
đối xử ngang bằng nhau phù hợp với những cống hiến, tài năng, phẩm giá,
trách nhiệm… của họ, không ai bị thiệt thòi, bất công…thì công bằng xã hội
sẽ không chỉ tạo trạng thái ổn định cho sự phát triển của xã hội mà còn tạo ra
tâm lý lành mạnh, phấn khởi, có tác dụng kích thích tính tích cực năng động

của con người trong hoạt động thúc đẩy xã hội phát triển. Khi con người được
đối xử công bằng làm cho các quan hệ xã hội trở nên tốt đẹp hơn, hình thành
một động lực mạnh mẽ đóng góp cho sự phát triển xã hội.
Cần nhận thức rõ rằng, tăng trưởng kinh tế là điều kiện không thể thiếu
để thực hiện, phát triển và đảm bảo công bằng xã hội. Tuy nhiên, trong điều
kiện kinh tế thiếu thốn vẫn có thể và phải thực hiện công bằng xã hội. Không
nhất thiết phải giàu có mới thực hiện công bằng, trái lại, càng chưa giàu có,
càng nghèo khó lại càng phải thực hiện công bằng, nếu muốn tạo ra bầu
không khí hoà thuận, tin yêu lẫn nhau, tạo động lực cho sự phát triển xã hội.
1.1.2. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế là lĩnh vực hoạt động đầu tiên đảm bảo sự tồn tại và phát triển
của xã hội loài người. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của

20
phương thức hoạt động kinh tế. Từ chỗ là hoạt động kiếm sống đơn thuần của
kinh tế nói chung, kinh tế thị trường là chiến trường sôi động trong hoạt động
mưu cầu lợi nhuận cũng như trong mặt trận chiếm lĩnh những đỉnh cao của sự
giàu có và do đó, đỉnh cao của quyền lực không chỉ trong kinh tế mà cả trong
lĩnh vực chính trị - xã hội. Thực tế lịch sử cho đến nay cho thấy, hình thức tổ
chức kinh tế - xã hội có hiệu quả hơn cả là kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát
triển nhất định của văn minh nhân loại, nói lên trạng thái vận động của nền
kinh tế theo cơ chế thị trường, trong đó các vấn đề: sản xuất cái gì? Sản xuất
bao nhiêu? Sản xuất cho ai? đều do thị trường quyết định, thông qua sự chỉ
dẫn của quan hệ cung cầu và giá cả.
Là một kiểu tổ chức kinh tế, kinh tế thị trường vừa là vấn đề của lực
lượng sản xuất, vừa là vấn đề của quan hệ sản xuất. Phải đạt đến một trình độ
phát triển nhất định nền sản xuất xã hội mới thoát khỏi tình trạng tự cung tự
cấp, mới có sản phẩm dư thừa để trao đổi, cũng phải trong những quan hệ xã
hội như thế nào của sản xuất mới nảy sinh cái tất yếu của kinh tế, người sản

xuất hàng hoá phải mang sản phẩm ra thị trường, kẻ mua và người bán trao
đổi với nhau trên thị trường.
Thị trường - nhìn từ góc độ các quan hệ kinh tế - là tổng hoà các
quan hệ kinh tế để thực hiện việc trao đổi hàng hoá trong hình thái kinh tế
hàng hoá.
Cơ chế thị trường là cơ chế vận hành của mọi nền kinh tế thuộc phạm
trù hình thái kinh tế hàng hoá, nó bao gồm các nhân tố và các quan hệ cơ bản
như: nhân tố cung - cầu, quan hệ trao đổi, giá cả. Sự vận động của cơ chế thị
trường bị chi phối bởi các qui luật thị trường như: qui luật giá trị, qui luật
cạnh tranh…
Không thể có một nền kinh tế thị trường chung chung tách rời khỏi chế
độ xã hội. Trong nhiều đặc tính có thể dùng làm tiêu thức để phân biệt nền

21
kinh tế thị trường này với nền kinh tế thị trường khác phải nói đến mục đích
chính trị, mục tiêu kinh tế - xã hội của nhà nước đó. Theo đó, ta có thể phân
chia thành nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là nền kinh tế phát triển ở trình độ
cao, trong đó những quan hệ kinh tế của kinh tế thị trường và của chủ nghĩa tư
bản thâm nhập vào nhau thành một thể thống nhất.
Trong một thời gian dài chúng ta đồng nhất kinh tế thị trường với chủ
nghĩa tư bản nên không thừa nhận kinh tế thị trường. Ngày nay, quan điểm
trên đã hoàn toàn bị xoá bỏ. Thay vào đó, ta coi phát triển kinh tế thị trường là
yêu cầu tất yếu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính Lênin từng
nhận định: Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự chuẩn bị vật chất đầy
đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội, là nấc
thang lịch sử mà giữa nó với nấc thang được gọi là chủ nghĩa xã hội thì không
có nấc thang nào ở giữa cả.
Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa hiện nay đang được xây dựng ở

Trung Quốc. tại Đại hội IX (1992), Đảng Cộng sản Trung Quốc đã chính thức
khẳng định: mục tiêu cải cách thể chế kinh tế Trung Quốc là xây dựng thế chế
kinh tế thị trường và chỉ rõ: thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa chính
là làm cho thị trường phát huy được vai trò mang tính cơ sở trong việc bố trí
các nguồn lực dưới sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, khiến
cho các hoạt động kinh tế tuân theo yêu cầu của qui luật giá trị, thông qua
chức năng của đòn bẩy giá cả và cơ chế cạnh tranh, phân phối các nguồn lực
một cách hiệu quả, tạo ra động lực và sức ép cho các doanh nghiệp, thực hiện
chọn lọc tự nhiên, lợi dụng ưu điểm của thị trường, phản ứng mau lẹ với các
tín hiệu kinh tế, thúc đẩy điều tiết kịp thời sản xuất và nhu cầu tiêu dùng.
Nhận thức rõ rằng kinh tế thị trường là sản phẩm tiến bộ của xã hội loài
người, là phương thức và phương tiện tất yếu để phát triển kinh tế - xã hội,

22
Đảng ta khẳng định: phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, lấy sức mạnh kinh tế - xã hội để thực hiện phát triển xã hội theo hướng
nhân văn xã hội chủ nghĩa. Theo tính thần đó, Đại hội IX tiếp tục làm rõ:
Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. [24;86].
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là
nền kinh tế của chúng ta hiện nay không còn là nền kinh tế hạch toán tập
trung, quản lý bằng cơ chế hành chính bao cấp nhưng cũng không phải là nền
kinh tế tự do (kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa) và cũng chưa hoàn toàn là
nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Có thể coi đây là một nền kinh tế quá
độ, vừa tuân theo những qui luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và
bị chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Định hướng xã hội chủ nghĩa nhấn mạnh mặt tích cực, chủ động của nhân

tố chủ quan tác động đến xu hướng có tính khách quan của quá trình tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi ngay từ đầu
và trong suốt các chặng đường phát triển lâu dài lên chủ nghĩa xã hội sự kết hợp
giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội. Sự kết hợp này vì thế là
một điều kiện cơ bản giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở
nước ta hiện nay chính là quá trình nỗ lực của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
trên cơ sở nhận thức những qui luật kinh tế khách quan để kiểm soát, điều
khiển quá trình vận động và phát triển của các yếu tố cấu thành, cũng như
toàn bộ nền kinh tế nhằm đạt tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội, chống lại nguy cơ
chệch hướng sang con đuờng khác. Định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta bao gồm cả việc định hướng phát triển

23
lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt: sở
hữu, tổ chức quản lý và phân phối.
Định hướng xã hội chủ nghĩa giúp phân biệt nền kinh tế thị trường mà
chúng ta đang xây dựng với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Sự khác biệt
này được thể hiện trên một số mặt sau:
Về mục đích: kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phục vụ cho lợi ích
của các nhà tư bản, xây dựng cơ sở vật chất, kĩ thuật cho chủ nghĩa tư bản,
bảo vệ sự tồn tại và phát triển của giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản. Chúng
ta xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhằm phát triển
lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, thực hiện
công nghiệp hoá - hiện đại hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân lao động.
Về chế độ sở hữu: Nếu kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa dựa trên chế
độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là chủ yếu thì kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện đa dạng hoá các hình thức sở hữu: sở hữu
toàn dân và nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp, song

chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu đóng vai trò nền tẳng của nền
kinh tế quốc dân. Từ các hình thức sở hữu cơ bản hình thành nhiều thành
phần kinh tế với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng, đan xen,
hỗn hợp. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi trong quá trình phát triển
kinh tế thị trường ở nước ta phải củng cố và phát triển kinh tế nhà nước và
kinh tế tập thể để nó trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân, có khả năng
hướng dẫn các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Kinh tế nhà nước phải được củng cố và phát triển ở các vị trí then chốt
của nền kinh tế, các lĩnh vực dịch vụ xã hội cần thiết cũng như an ninh quốc
phòng mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện hoặc không muốn
đầu tư vì không có lãi hoặc ít lãi.

×