Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Tính cộng đồng của nông dân Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ( Qua nghiên cứu khu vực đồng bằng Sông Hồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 108 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
==================








PHẠM THỊ HƢỜNG








TÍNH CỘNG ĐỒNG CỦA NÔNG DÂN VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG HIỆN NAY
(Qua nghiên cứu khu vực đồng bằng sông Hồng)



LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học





Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
==================




PHẠM THỊ HƢỜNG





TÍNH CỘNG ĐỒNG CỦA NÔNG DÂN VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG HIỆN NAY
(Qua nghiên cứu khu vực đồng bằng sông Hồng)


Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60.22.85



Người hướng dẫn khoa học: TS Ngô Thị Phượng






Hà Nội - 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn thạc sỹ với đề tài “Tính cộng đồng của
nông dân Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trƣờng hiện nay (Qua
nghiên cứu khu vực đồng bằng sông Hồng) là công trình nghiên cứu của
riêng cá nhân tôi và những kết quả nghiên cứu trong luận văn này hoàn
toàn trung thực.


Hà Nội, tháng 9 năm 2014
Tác giả Luận văn


Phạm Thị Hƣờng







LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian nghiên cứu và thực hiện luận văn, bên cạnh những nỗ lực

của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá nhân và tập
thể. Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc nhất đến tất cả các cá nhân, tập thể đã tạo
điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn này.
Trước tiên, với lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất, tôi xin trân trọng
cảm ơn cô giáo – TS. Ngô Thị Phượng đã trực tiếp chỉ bảo, hướng dẫn khoa
học và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu, quý thầy cô, các cán
bộ, công chức của Phòng, Ban, Khoa, Thư viện trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn tất cả bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ
nhiệt tình và đóng góp nhiều ý kiến quý báu giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Do thời gian nghiên cứu còn hạn chế, luận văn không tránh khỏi những thiếu
sót, tôi rất mong nhận được sự đóng góp của quý thầy cô cùng toàn thể bạn đọc.
Xin trân trọng cảm ơn!

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Thị Hường

1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 2
NỘI DUNG 8
Chƣơng 1: TÍNH CỘNG ĐỒNG CỦA NÔNG DÂN VIỆT NAM KHU VỰC
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG - CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ BIỂU HIỆN CƠ
BẢN CỦA NÓ TRONG LỊCH SỬ 8
1.1. Quan niệm về tính cộng đồng và cơ sở hình thành tính cộng đồng của
nông dân Việt Nam khu vực đồng bằng sông Hồng 8
1.2. Những biểu hiện cơ bản tính cộng đồng của nông dân Việt Nam khu
vực đồng bằng sông Hồng trong lịch sử 26

Chƣơng 2: TÍNH CỘNG ĐỒNG CỦA NÔNG DÂN VIỆT NAM KHU VỰC
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ
TRƢỜNG HIỆN NAY: BIẾN ĐỔI CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP 45
2.1. Khái quát về kinh tế thị trƣờng và sự tác động của nó đối với nông
thôn Việt Nam hiện nay 45
2.2. Biến đổi cơ bản tính cộng đồng của nông dân Việt Nam khu vực đồng
bằng sông Hồng trong điều kiện kinh tế thị trƣờng hiện nay 62
2.3. Một số giải pháp nhằm tiếp tục phát huy tính cộng đồng, hạn chế chủ
nghĩa cá nhân của nông dân Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trƣờng
hiện nay 82
KẾT LUẬN 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 98

2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Một trong những nội dung căn bản trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
là bước chuyển biến từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường,
cụ thể là kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa). Sau gần ba mươi năm xây dựng và phát triển, kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã có ảnh hưởng lớn đến mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, trước hết là kinh tế đến văn hóa, xã hội và con người Việt
Nam.
Một mặt kinh tế thị trường đã đem đến sự tăng trưởng kinh tế với tốc độ
cao, đời sống nhân dân được cải thiện, vị thế của Việt Nam không ngừng được
nâng cao trên trường quốc tế. Mặt khác, kinh tế thị trường cũng nảy sinh những
tác động tiêu cực đến sự phát triển của xã hội. Khoảng cách giàu nghèo giữa các
tầng lớp nhân dân có xu hướng gia tăng, một số giá trị văn hóa, đạo đức có nguy
cơ bị xói mòn. Những giá trị truyền thống như lòng yêu nước, tinh thần nhân

văn, tinh thần cộng đồng vốn là khuôn mẫu cho mọi hành vi của con người Việt
Nam, đang đứng trước những thách thức. Do chạy theo lợi nhuận, một bộ phận
không nhỏ người Việt Nam đã lấy đồng tiền làm thước đo cho mọi giá trị, vì tiền
mà họ sẵn sàng đánh mất lương tri, phẩm giá, trà đạp lên những tình cảm tốt đẹp
trong quan hệ giữa người với người. Trong Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban
Chấp hành Trung ương khóa VIII, Đảng ta đã nhận định: “ về khách quan mà
nói, kinh tế thị trường với sức mạnh tự phát ghê gớm của nó đã khuyến khích chủ
nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng làm cho người ta chỉ chú ý đến vật chất mà coi
nhẹ tinh thần, chỉ chú ý lợi ích cá nhân mà coi nhẹ lợi ích cộng đồng, chỉ chú ý
lợi ích trước mắt mà coi nhẹ lợi ích lâu dài” [14, tr.29 - 30]. Có thể thấy rằng,
kinh tế thị trường tạo cho con người Việt Nam những cơ hội mới để phát triển,
nhưng cũng đặt con người Việt Nam trước những thách thức lớn. Cơ hội và thách
thức đan xen nhau, tác động tổng hợp và có những diễn biến phức tạp.

3
Đồng bằng sông Hồng là một trong những trọng điểm kinh tế và biểu
trưng cho nền kinh tế trồng lúa nước của Việt Nam. Văn hóa vùng đồng bằng
sông Hồng là đặc thù của văn hóa Việt Nam. Ở đây, có những đặc trưng mà ở
các vùng khác không có hoặc không đậm nét. Một trong những đặc trưng văn
hóa ấy là tính cộng đồng của người Việt Nam nói chung và nông dân Việt Nam
nói riêng. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, tính cộng đồng ấy có nhiều biến đổi theo những chiều hướng khác
nhau, trong đó, có những yếu tố tiếp tục được duy trì và phát triển nhưng có
những biểu hiện mới. Có những yếu tố đã bị lu mờ, xói mòn và bị thay thế bởi
chủ nghĩa cá nhân.
Nghiên cứu những biến đổi đó góp phần không nhỏ vào việc tìm ra những
giải pháp hữu hiệu nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực trong tính
cộng đồng của nông dân Việt Nam, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc. Do vậy, tôi chọn vấn đề “Tính cộng đồng của nông dân
Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay (Qua nghiên cứu khu vực

đồng bằng sông Hồng)” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, tính cộng đồng của người Việt Nam nói chung
và nông dân Việt Nam nói riêng trở thành một trong những vấn đề được quan
tâm hàng đầu trong nghiên cứu của các ngành xã hội và nhân văn. Các công trình
nghiên cứu đó thể hiện những góc nhìn và quan điểm khác nhau về tính cộng
đồng. Kết quả của các nghiên cứu đó được phân chia thành các nhóm sau:
- Nhóm công trình nghiên cứu, tìm hiểu về biến đổi giá trị văn hóa truyền
thống của người Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hay
trước những thách thức của toàn cầu hóa như:
+ Chương trình khoa học và công nghệ cấp Nhà nước KX - 07. Đề tài KX
07 - 02, Phan Huy Lê - Vũ Minh Giang (chủ biên) (1994), “Các giá trị truyền
thống và con người Việt Nam hiện nay” (1994), Công trình khoa học công nghệ
cấp nhà nước, KX.07.

4
+ Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm,
Nxb. Văn hóa dân tộc, Tạp chí văn hóa nghệ thuật.
+ Đỗ Huy (2001), Giá trị truyền thống Việt Nam trước thách thức của
toàn cầu hóa, Nxb. Chính trị quốc Gia, Hà Nội.
+ Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức, Hồ Sĩ Quý (chủ biên) (2002),
Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại
hóa, Nxb. Chính trị quốc Gia, Hà Nội.
+ Phan Đại Doãn (2004), Mấy vấn đề về văn hóa làng xã Việt Nam trong
lịch sử, Nxb. Chính trị quốc Gia, Hà Nội.
+ Dương Phú Hiệp (2010), Nghiên cứu về văn hóa và con người Việt Nam
hiện nay, Nxb. Chính trị quốc Gia, Hà Nội.
+ Đặng Vũ Cảnh Linh (chủ biên) (2010), Con người Việt Nam truyền
thống - những giá trị đối với sự phát triển, Nxb. Lao động, Hà Nội.
+ Nguyễn Ngọc Hà (2011), Đặc điểm tư duy và lối sống của con người

Việt Nam hiện nay - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Khoa học xã hội.

- Nhóm công trình, bài viết nghiên cứu đề cập đến tính cộng đồng và sự
biến đổi tính cộng đồng của người Việt Nam và nông dân vùng đồng bằng sông
Hồng:
+ Vũ Tự Lập (chủ biên) (1991), Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Hồng,
Nxb. Khoa học xã hội.
+ Lê Hữu Xanh (chủ biên) (1998), Tâm lý của nông dân vùng đồng bằng
Bắc Bộ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông dân
hiện nay, Nxb. Chính trị quốc Gia, Hà Nội.
+ Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Dân tộc học
(2000), Người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
+ Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Xã hội học,
Tô Duy Hợp (chủ biên) (2000), Sự biến đổi của làng - xã Việt Nam ngày nay ở
đồng bằng sông Hồng, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

5
+ Đỗ Long - Phan Thị Mai Hương (chủ biên), (2002), Tính cộng đồng -
Tính cá nhân và “cái tôi” của người Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị quốc
Gia, Hà Nội.
+ Lê Văn Hảo (2004), “Về khái niệm tính cộng đồng và tính cá nhân”,
Tạp chí Tâm lý học, số 9, tr.11.
+ Lê Văn Hảo (2005), Nghiên cứu tính cộng đồng và tính cá nhân của
người dân xã Tam Hiệp, Thanh Trì, Hà Nội (2005), Luận án tiến sĩ Tâm lý học,
Viện Tâm Lý học, Hà Nội.
+ Nguyễn Bá Dương (2006), “Tính cộng đồng tự quản và vai trò của nó
đối với hoạt động của các tổ chức cộng đồng tự quản các khu dân cư ở nước ta
hiện nay” (2006), Tạp chí Tâm lý học, số 6, tr.31.
+ Phan Thanh Khôi - Lương Xuân Hiến (2006), Một số vấn đề kinh tế - xã
hội trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng đồng bằng sông Hồng,

Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.
+ Ngô Thị Phượng (2014), Lối sống của nông dân Việt Nam do ảnh
hưởng của chuyển đổi mục đích sử dụng đất (trường hợp nghiên cứu tỉnh Ninh
Bình), Nxb. Đại học quốc Gia, Hà Nội.

Các công trình và bài viết trên đã nghiên cứu về những giá trị văn hóa
truyền thống, tính cộng đồng và sự biến đổi của tính cộng đồng của người Việt
Nam. Tuy nhiên, trong các công trình đã liệt kê ở trên thì có rất ít các công trình
đi sâu vào nghiên cứu những thay đổi trong tính cộng đồng của người nông dân
Việt Nam hiện nay. Mặt khác, các tác giả cũng chưa đưa ra những giải pháp tăng
cường mặt tích cực cũng như nhằm hạn chế những yếu tố tiêu cực của tính cộng
đồng. Vì thế, tác giả luận văn hy vọng đem lại cái nhìn mới, cái nhìn sâu sắc và
toàn diện hơn về tính cộng đồng của nông dân Việt Nam trong truyền thống và
hiện nay với mong muốn đưa ra những giải pháp tăng cường hơn nữa mặt tích
cực và hạn chế mặt tiêu cực trong tính cộng đồng của nông dân Việt Nam hiện
nay.

6
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích:
Luận văn làm rõ những biến đổi cơ bản từ đó đề xuất những giải pháp
nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực trong tính cộng đồng của nông
dân Việt Nam khu vực đồng bằng sông Hồng dưới tác động của kinh tế thị
trường hiện nay.
- Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
+ Khái quát quan niệm về tính cộng đồng
+ Trình bày cơ sở hình thành và những biểu hiện tính cộng đồng của nông
dân Việt Nam khu vực đồng bằng sông Hồng trong lịch sử.
+ Phân tích những biến đổi cơ bản trong tính cộng đồng của nông dân

Việt Nam khu vực đồng bằng sông Hồng dưới tác động của nền kinh tế thị
trường hiện nay.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy tính cộng đồng và hạn chế chủ
nghĩa cá nhân của nông dân Việt Nam trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tính cộng
đồng của nông dân Việt Nam khu vực đồng bằng sông Hồng.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tìm hiểu tính cộng đồng của nông dân
Việt Nam trong lịch sử và những biến đổi của nó trong nền kinh tế thị trường
hiện nay ở khu vực đồng bằng sông Hồng.
5. Cơ sở lý luận và thực tiễn
- Cơ sở lý luận: Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan
điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng Sản Việt Nam về nông
dân.
- Cơ sở thực tiễn: Quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và
những tài liệu phản ánh về tính cộng đồng của nông dân Việt Nam hiện nay.

7
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử và các phương pháp cụ thể như: phân tích, tổng hợp, thống kê…
để thực hiện mục đích và nhiệm vụ đặt ra.
7. Đóng góp của luận văn
- Luận văn trình bày cơ sở hình thành tính cộng đồng của nông dân Việt
Nam trong truyền thống và những biểu hiện của tính cộng đồng của nông dân
Việt Nam.
- Luận văn bước đầu phân tích một số biến đổi trong tính cộng đồng của
nông dân Việt Nam khu vực đồng bằng sông Hồng dưới tác động của kinh tế thị
trường hiện nay.

8. Ý nghĩa của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm rõ hơn tính cộng đồng của nông
dân trong giai đoạn hiện nay.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các
chuyên đề về tính cộng đồng của nông dân Việt Nam, đặc biệt có thể làm tài liệu
tham khảo cho các nhà lãnh đạo, các nhà quản lý để xây dựng thành công mô
hình nông thôn mới hiện nay.
9. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương 5 tiết.


8
NỘI DUNG
Chƣơng 1: TÍNH CỘNG ĐỒNG CỦA NÔNG DÂN VIỆT NAM KHU VỰC
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG - CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ BIỂU HIỆN CƠ
BẢN CỦA NÓ TRONG LỊCH SỬ
1.1. Quan niệm về tính cộng đồng và cơ sở hình thành tính cộng đồng
của nông dân Việt Nam khu vực đồng bằng sông Hồng
1.1.1. Quan niệm về tính cộng đồng
“Tính cộng đồng” là khái niệm được nhiều nhà khoa học thuộc các lĩnh
vực khác nhau như: tâm lý học, văn hóa học, xã hội học… quan tâm, nghiên cứu
và có cách tiếp cận, theo các cấp độ khác nhau. Do đó, khái niệm này được hiểu
rất rộng và không hoàn toàn thống nhất.
Ở góc độ tâm lý học, tính cộng đồng được nghiên cứu như là một đặc
điểm tâm lý của con người. Theo tác giả Đỗ Long, “Tính cộng đồng là một đặc
trưng tâm lý của nhóm, thể hiện năng lực phối hợp, kết hợp ở sự thống nhất các
thành viên trong hành động và làm cho các mối quan hệ qua lại của các hoạt
động diễn ra một cách nhịp nhàng nhất” [48, tr.46 – 47]. Cùng cách tiếp cận này,
tác giả Hofstede cho rằng: “Tính tập thể/ cộng đồng là một mô thức văn hóa theo

đó người ta đặt một tập thể/ cộng đồng (ví dụ gia đình, bộ tộc, đất nước) vào
trung tâm của trường tri giác, ưu tiên cho các mục đích của tập thể/ cộng đồng đó
cao hơn mục đích của cá nhân, hành động theo các thái độ của họ (tập thể) và
chú ý tới các nhu cầu của những người khác nhiều hơn là cái được và mất rút ra
từ các quan hệ liên cá nhân” [Dẫn theo 29, tr.13].
Cũng nghiên cứu tính cộng đồng với tư cách là một đặc điểm tâm lý của
nhân cách, tác giả Triandis thì cho rằng: “tính tập thể/ cộng đồng là xu hướng của
con người nhấn mạnh đến: Cách nhìn nhận, nhu cầu và mục đích của nhóm nội
hơn là bản thân; chuẩn mực xã hội và bổn phận do nhóm nội xác định hơn là
hành vi tạo sự vui sướng cho bản thân; niềm tin làm mình hòa chung với nhóm
nội hơn là niềm tin phân biệt mình với nhóm nội; sự sẵn sàng hợp tác với thành
viên nhóm nội; gắn bó về mặt cảm xúc với nhóm nội” [Dẫn theo 29, tr.13 - 14].

9
Khi nghiên cứu về tính cộng đồng của người Nhật, tác giả Yamaguchi
định nghĩa: “Tính cộng đồng là xu hướng coi trọng các mục đích của nhóm hơn
các mục đích của cá nhân khi các mục đích này có mâu thuẫn” [Dẫn theo 29,
tr.14].
Tác giả Lê Văn Hảo khi nghiên cứu về tính cộng đồng đã cho rằng tính
cộng đồng là xu hướng hành động của con người, xu hướng “Đặt người khác, tập
thể/ cộng đồng vào vị trí ưu tiên trong nhận thức của cá nhân (cái tôi phụ thuộc
lẫn nhau được ưu tiên). Ưu tiên, coi trọng các giá trị tập thể/ cộng đồng hơn là
định hướng vào các giá trị cá nhân. Hành động, ứng xử vì tập thể/ cộng đồng hơn
là vì cá nhân” [29, tr.14].
Ở góc độ văn hóa học, tính cộng đồng được xem xét như là một giá trị văn
hóa, giá trị xã hội. Ở góc độ này, tác giả Nguyễn Hồng Phong cho rằng tâm lý tập
thể - cộng đồng là một biểu hiện rất nổi bật của người Việt Nam truyền thống.
Tuy không đưa ra định nghĩa về tính cộng đồng nhưng tác giả cho rằng tâm lý
cộng đồng biểu hiện ở năm nội dung sau: “Tinh thần tương trợ, hào hiệp, tình
nghĩa trung hậu, vị tha; tinh thần hàng hội; sự quan tâm nhiệt tình đến công việc

công ích, ý thức dân chủ làng xã; tình yêu quê hương đất nước, ý thức cộng đồng
dân tộc và tinh thần đại đoàn kết; truyền thống hợp tác tương trợ, tinh thần tập
thể - cộng đồng trong cách mạng và kháng chiến chống giặc ngoại xâm” [63,
tr.46]. Cách tiếp cận này cho thấy, mục tiêu, lợi ích của cộng đồng, sự gắn kết,
hợp tác tương trợ trong cộng đồng được coi trọng.
Theo cách tiếp cận này, tác giả Trần Ngọc Thêm định nghĩa: “Tính cộng
đồng là một sự liên kết các thành viên trong làng lại với nhau, mỗi người đều
hướng tới những người khác - nó là đặc trưng dương tính, hướng ngoại” [76,
tr.96].
Những quan niệm trên về tính cộng đồng đã phản ánh tính chất phức tạp
của khái niệm tính cộng đồng. Mỗi quan niệm đã chỉ ra được một hoặc một vài
đặc điểm nào đó của tính cộng đồng. Một số đề cập đến tính cộng đồng với tư
cách là một đặc điểm tâm lý của nhóm, số khác lại đề cập với tư cách là một đặc
điểm tâm lý của nhân cách. Điểm tương đồng trong quan niệm về tính cộng đồng

10
của các tác giả vừa nêu là ở chỗ, họ đều khẳng định tính cộng đồng là đặc điểm
tâm lý dân tộc, là một giá trị văn hóa, là tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn
nhau. Tuy nhiên, điểm khác biệt trong các quan niệm trên ở chỗ, trong khi một số
nhà khoa học nhấn mạnh tính cộng đồng ở góc độ tâm lý dân tộc, số khác lại
nhấn mạnh khía cạnh là đặc điểm tâm lý của nhân cách. Trong nghiên cứu này,
tính cộng đồng được tiếp cận chủ yếu với tư cách là một giá trị văn hóa với mục
đích tìm hiểu tính cách dân tộc Việt Nam.
Nghiên cứu tính cộng đồng của nông dân Việt Nam là một công việc
không dễ, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng đối với việc hoàn thiện nhân
cách con người Việt Nam. Tính cộng đồng tạo nên tinh thần đoàn kết, tương
thân, tương ái là một trong những truyền thống quý báu nhất của dân tộc Việt
Nam. Truyền thống ấy đã góp phần tạo nên những kỳ tích trong lịch sử dựng
nước và giữ nước của nhân dân Việt Nam. Giá trị, truyền thống này có cội rễ sâu
xa từ phương thức sinh tồn và tổ chức xã hội truyền thống. Trải qua hàng nghìn

năm dựng nước và giữ nước, ý thức cộng đồng và truyền thống đoàn kết, tương
thân, tương ái đã được hun đúc, trở thành một giá trị văn hóa chủ đạo, một truyền
thống quý báu, một bệ đỡ quan trọng nhất của chủ nghĩa yêu nước. Chính vì thế,
nó là cơ sở, là nội lực phát triển của dân tộc Việt Nam.
Để lý giải cơ sở hình thành tính cộng đồng của dân tộc Việt Nam nói
chung và của nông dân Việt Nam nói riêng cần dựa vào những quan điểm mang
tính khoa học cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Với quan niệm duy vật về
lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã giải quyết một cách khoa học vấn đề hình
thành và phát triển tâm lý, ý thức xã hội. Các ông đã chứng minh rằng, đời sống
tinh thần của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất,
không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó, mà phải
tìm trong hiện thực vật chất. Nhận thức về nguyên lý mối quan hệ giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, C.Mác đã viết:
“Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức cái
cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị
và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”.

11
“Không phải ý thức con người quyết định tồn tại của họ, trái lại, tồn tại xã hội
quyết định ý thức của họ”, “phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của
đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa lực lượng sản xuất xã hội và
những quan hệ sản xuất xã hội” [50, tr.15]. Lý giải cơ sở hình tính cộng đồng của
người Việt Nam, các nhà văn hóa học ở Việt Nam như GS. Phan Ngọc, Hữu Ngọc,
Trần Ngọc Thêm …có những ý kiến khác nhau, nhưng đều có xu hướng chung,
khẳng định rằng: “do lịch sử thường xuyên phải chống giặc ngoại xâm của dân tộc
ta; do đặc điểm khí hậu nước ta luôn xảy ra thiên tai: lụt, bão, hạn hán, đòi hỏi nhân
dân ở các cộng đồng từ quy mô nhỏ như làng, xã đến cộng đồng lớn hơn và cả dân
tộc phải cùng nhau hợp tác, gắn bó để tạo nên sức mạnh chống các thế lực ngoại
xâm, bảo vệ đất nước, chống thiên tai để duy trì cuộc sống, bảo vệ mùa màng, bảo
vệ thành quả sản xuất, xây dựng đất nước” [49, tr.232].

Như vậy, cơ sở hình thành tính cách nói chung và tính cộng đồng của con
người Việt Nam nói riêng chính là tồn tại xã hội của con người Việt Nam. Tồn
tại xã hội ấy là những điều kiện tự nhiên, điều kiện lịch sử, điều kiện kinh tế - xã
hội của Việt Nam.
Với những nhận thức trên chúng tôi quan niệm tính cộng đồng là sự liên
kết, hòa đồng, đoàn kết giữa người và người, tạo nên những cộng đồng (hay tập
thể nhất định), hoạt động với những mục đích và lợi ích chung. Tính cộng đồng
vừa phản ánh đặc điểm nhân cách, cách thức tổ chức của con người trong xã hội,
đồng thời phản ánh một đặc điểm trong quan hệ xã hội. Tính cộng đồng, một mặt
tạo nên sức mạnh để con người vừa có khả năng chống chọi với thiên nhiên, vừa
chống chọi với chính con người. Mặt khác, chính tính cộng đồng đó lại tạo nên
sự biệt lập nhất định giữa các cộng đồng người với nhau và, đôi khi, tính cộng
đồng lại thủ tiêu chính vai trò của cá nhân trong xã hội.
1.1.2. Cơ sở hình thành tính cộng đồng của nông dân Việt Nam khu vực
đồng bằng sông Hồng
Điều kiện tự nhiên
Đồng bằng sông Hồng là một châu thổ được bồi đắp nên bởi hai con sông
lớn của Việt Nam: sông Hồng và sông Thái Bình, bao gồm một số huyện của Phú

12
Thọ, Quảng Ninh, Thái Nguyên, Hòa Bình và các tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Giang,
Bắc Ninh, Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định,
Ninh Bình. Đặc trưng cơ bản về địa hình của đồng bằng sông Hồng là đất tương
đối thấp và cơ bản là bằng phẳng, dốc thoải từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Tuy
nhiên, mỗi vùng cụ thể, địa hình cao thấp không đồng đều. Vùng địa hình cao vẫn
có những nơi trũng thấp, vùng địa hình thấp vẫn có những dải cồn cát nổi lên cao.
Khí hậu đồng bằng sông Hồng thuận lợi cho việc trồng lúa nước. Tuy
nhiên, so với đồng bằng miền Trung và miền Nam, khí hậu đồng bằng sông
Hồng có nét độc đáo riêng, với bốn mùa khá rõ nét và cũng rất thất thường. Mùa
đông thì lạnh giá, khô hạn, gây nên các trận hạn hán, đồng ruộng khô nẻ, có thể

thiếu nước trầm trọng. Mùa hạ thì nóng bức, mưa nhiều gây lũ lụt, bão tố, lở đất,
xói mòn. Do phù sa lắng đọng khiến lòng sông ngày càng nâng cao, đặc biệt là
sông Hồng nên chúng thường gây ra những trận lụt lớn, vỡ đê dẫn đến mất mùa,
đói kém. Hơn nữa, nền khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa cũng là điều kiện thuận lợi
làm phát sinh dịch bệnh phá hoại mùa màng, cây cối, cướp đi cuộc sống của biết
bao con người cũng như vật nuôi. Chính điều đó làm cho cuộc sống của người
Việt khu vực này không mấy thuận lợi, đặc biệt là người nông dân với nguồn thu
nhập chính là từ sản xuất nông nghiệp. Nạn mất mùa, đói kém, dịch bệnh xảy ra
liên miên, đời sống của nhân dân không ổn định.
Với phương thức sản xuất hết sức lạc hậu, tự cấp tự túc, phụ thuộc nhiều
vào tự nhiên, con người bắt đầu tìm cách chế ngự thiên nhiên, hạn chế những
thiên tai do thiên nhiên mang lại. Công cuộc chinh phục thiên nhiên của con
người được bắt đầu bằng sự liên kết của những người Việt cổ. Họ nhận thấy sự
cần thiết phải sống tập trung lại với nhau, nương tựa vào nhau và sự cần thiết
phải có sức mạnh của một tập thể để đối phó với thiên nhiên khắc nghiệt ấy. Việc
trồng lúa nước vốn coi trọng nước và có tính thời vụ sát sao, nên để đảm bảo sản
xuất, người Việt vùng đồng bằng sông Hồng không thể không coi trọng đắp đê
chống lụt và đào mương phục vụ tưới tiêu. Hàng năm, con người thường xuyên
phải quai đê, hộ đê, trồng rừng ven biển. Những công việc ấy không chỉ vì một

13
cá nhân, mà còn vì cộng đồng, tập thể. Nó đòi hỏi sự cộng tác chặt chẽ, thống
nhất của nhiều người, nhiều gia đình mới có thể làm được. Giáo sư Vũ Khiêu
khẳng định: “Xây đắp hàng vạn cây số đê và thường xuyên chống lụt, chống hạn
và tiếp sau đó là đẩy mạnh việc khẩn hoang, khai phá vùng đất phía Nam, tăng
gấp hai lần diện tích đất canh tác cho đất nước. Sự nghiệp vĩ đại đó sao có thể
thành công nếu như không có sức mạnh của cộng đồng?” [42, tr.64]. Nhà nghiên
cứu Đặng Vũ Cảnh Linh khi nghiên cứu con người Việt Nam truyền thống cũng
khẳng định: “Những con đê dài tít tắp, sừng sững hai bên bờ sông Hồng, những
kè, những đập ngăn lũ lụt; những mương, những máng chạy dọc, chạy ngang tắm

mát những cánh đồng nhiều làng; những vùng đất mênh mông lấn ra biển cả…tất
cả chẳng là biểu tượng sáng ngời của tính cộng đồng dân tộc?” [45, tr.151]. Và
như vậy “đê là một công trình tập thể vĩ đại, một sản phẩm của quan hệ cộng
đồng làng xã ở Việt Nam” [87, tr.180].
Đê điều, hệ thống thủy lợi đòi hỏi sức lao động chung của nhiều người,
của nhiều cộng đồng mà trước hết là của những người dân làng: “Chúng đòi hỏi
sức lao động không phải của một người mà của nhiều người, hoặc trước hết là
của một tập thể xã dân nhất định. Điều đó không phải chỉ do khối lượng to lớn
phải hoàn thành của nó quyết định, mà còn do tác dụng của nó ảnh hưởng tới
quyền lợi không phải của một người mà của rất nhiều người kế tiếp nhau quyết
định” [87, tr.180 – 181]. Công việc này không chỉ làm một lần là xong mà phải
không ngừng đắp mới, tu bổ, sửa chữa từ năm này qua năm khác, từ thế hệ này
đến thế hệ khác, đời nối đời kế tiếp nhau. Vì vậy, từ bao đời nay, việc trị thủy
luôn là công việc quan trọng của nhà nông và của cả dân tộc. Là người Việt,
chúng ta đã rất quen với những kinh nghiệm mà cha ông để lại: Nước - Phân -
Cần - Giống hoặc nói một cách khẳng định hơn, văn vẻ hơn đó là “Nhất Nước,
nhì Phân, tam Cần, tứ Giống”. Vì thế, trong dân gian, “giặc thủy” luôn được xếp
là nạn lớn số một, truyện Sơn Tinh Thủy Tinh chính là kết quả của sự hình tượng
hóa công việc trị thủy vô cùng khắc nghiệt, một mất một còn của con người Việt
Nam nói chung và nông dân Việt Nam khu vực đồng bằng sông Hồng nói riêng.

14
Thực tế cho thấy, để tồn tại, điều kiện đầu tiên là con người phải gắn bó
với nhau trong lao động, trong cuộc sống hàng ngày. Do vậy, người dân Việt
Nam ở đây, từ xưa đến nay đã phải lao động trong những hoàn cảnh khó khăn,
đồng cam cộng khổ, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau để vượt qua hoàn cảnh sống khắc
nghiệt. Lịch sử phát triển Việt Nam từ Bắc tới Nam cho thấy, nếu con người
không đùm bọc nhau, không yêu thương nhau thì không thể tồn tại. Trong gian
khổ, con người càng phải nương tựa vào nhau để sống, đấu tranh bảo vệ thành
quả lao động của mình. Gắn bó với nhau trong lao động như vậy, con người càng

thấy được thành quả lao động không phải chỉ là của riêng mình, mà đó còn là của
những người lao động khác cùng với mình nữa. Chính nhờ vậy, họ ý thức được mình
là thành viên của cộng đồng, ý thức được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với
cộng đồng, từ đó ý thức cộng đồng dân tộc hình thành và ngày càng trở nên bền chặt.
Lịch sử đã chứng minh ý thức cộng đồng dân tộc Việt Nam được hình
thành từ rất sớm, đặc biệt, là sự ra đời của nhà nước Văn Lang: “Xuất phát từ nhu
cầu cố kết con người thành cộng đồng để vừa chống thiên tai, làm thủy lợi vừa
tăng cường sức mạnh chống ngoại xâm” [58, tr.36]. Công cuộc chống chọi với
thiên nhiên khắc nghiệt để tồn tại làm cho nhu cầu của con người về đoàn kết, cố
kết với nhau tạo thành nguồn sức mạnh to lớn vượt qua mọi khó khăn.
Như vậy, xuất phát từ nhu cầu của sản xuất, việc trị thủy, thủy lợi đòi hỏi
sự đoàn kết, hợp tác bền vững giữa những người dân làng. Hay nói cách khác,
chính điều kiện tự nhiên đã góp phần hình thành nên tính cộng đồng của người
nông dân Việt Nam, đã gắn kết những con người riêng lẻ thành cộng đồng, đã
gộp sức yếu ớt của từng người thành sức mạnh cộng đồng, đã hòa ý thức của
những người riêng lẻ thành ý thức chung của cộng đồng. Từ đây, những con
người riêng lẻ, yếu ớt đã biết nương tựa vào nhau, cùng đồng sức, cùng đồng
lòng đấu tranh khắc phục thiên tai, dựng xây nên những công trình trị thủy mà
cho đến tận ngày nay tinh thần đó, ý thức đó vẫn đang được người Việt Nam phát
huy. Có thể nói, điều kiện địa lý - tự nhiên không những đã góp phần thúc đẩy
người Việt sống quây quần với nhau thành xóm làng mà chúng còn trở thành

15
những nhân tố trực tiếp và gián tiếp thúc đẩy sự hình thành tính cộng đồng của
người Việt trong làng, mà chủ yếu là người nông dân. Nói về vai trò của điều
kiện địa lý - tự nhiên đối với con người Việt Nam, giáo sư Trần Văn Giàu đã
viết: “Hoàn cảnh địa lý - tự nhiên quả đã góp phần nhào nặn các đức tính lớn của
người Việt Nam ngay từ thời thượng cổ” [22, tr.64]. Chính sự đe dọa thường
xuyên của bão, lụt, lốc, hạn hán là tiền đề tự nhiên đầu tiên thúc đẩy những người
Việt cổ tổ chức cuộc sống thành những xóm làng, thúc đẩy họ tiến hành các hoạt

động trị thủy, thủy lợi chung. Trên cơ sở cuộc sống cộng đồng xóm làng và
những hoạt động chung này, tính cộng đồng của nông dân được hình thành và
củng cố trong lịch sử.
Điều kiện lịch sử
Việt Nam nằm ở ngã ba của khu vực Đông Nam Á, nối liền hai đại dương
là Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, đồng thời là đầu cầu để mở vào Đông
Nam Á theo hướng Ấn Độ và Trung Quốc. Đây là điều kiện thuận lợi để phát
triển, mở rộng giao lưu với nhiều nước trong khu vực và quốc tế. Từ vị trí địa lý
đặc biệt quan trọng như vậy nên Việt Nam thường xuyên bị các thế lực ngoại xâm
đe dọa thôn tính. Dân tộc Việt Nam luôn phải gồng mình đối phó, đấu tranh chống lại
các thế lực ngoại xâm từ phương Bắc và sau đó là chống các đế quốc hùng mạnh khác
từ phương Tây.
Một đất nước đất không rộng, người không đông, muốn đánh thắng được
những đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thế giới thì trước hết phải có tinh thần
đoàn kết, tính cộng đồng dân tộc cao. Điều đó đã trở thành một truyền thống quý
báu, không chỉ trong công cuộc dựng nước mà còn là truyền thống trong công
cuộc giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Sống trong điều kiện một đất nước luôn luôn phải có ý thức thường trực
chống nạn ngoại xâm, người Việt Nam nói chung và người Việt vùng đồng bằng
sông Hồng nói riêng luôn tìm sức mạnh vật chất và tinh thần qua tính cộng đồng,
thể hiện tập trung cao độ của tính cộng đồng là tình đoàn kết. Do vậy, tính cộng
đồng, tinh thần đoàn kết dân tộc của người Việt Nam được hình thành từ rất sớm,

16
trong quá trình phát triển của lịch sử. Tinh thần ấy ngày càng được phát triển,
củng cố vững chắc, tạo nên truyền thống bền vững thấm sâu vào tình cảm, tâm
hồn của mỗi con người xứ Việt. Tinh thần ấy, ý thức ấy tạo nên sức mạnh vô địch
của dân tộc để chiến thắng mọi thiên tai, địch họa. Điều này đã được đúc kết và thể
hiện trong triết lý: “Một cây làm chẳng lên non, Ba cây chụm lại lên hòn núi cao”.
Cơ sở của tính cộng đồng là tinh thần đoàn kết trong chiến đấu chống

ngoại xâm, bởi nước mất thì nhà tan. Do vậy, mọi người dân đều có ý thức đoàn
kết nhau, chống lại những cuộc xâm lăng của kẻ thù bên ngoài, để bảo vệ đất
nước, gia đình và bản thân. Ở Việt Nam, khi có giặc ngoại xâm thì tất cả mọi
tầng lớp, mọi giai cấp luôn luôn nâng cao ý thức chung vì dân tộc, phải đoàn kết
thống nhất với nhau vì mục tiêu đánh đuổi quân xâm lược, bảo vệ chủ quyền lãnh
thổ. Các giai cấp, tầng lớp dù khác nhau, thậm chí có mâu thuẫn, nhưng khi có
giặc ngoại xâm thì họ lại cố kết lại với nhau, đặt lợi ích cá nhân xuống sau lợi ích
Tổ Quốc, của dân tộc. Như vậy, ngay từ thời xa xưa, trên mảnh đất Việt Nam này
đã hình thành một triết lý vì lợi ích chung mà tạm gác lợi ích riêng.
Trong lịch sử lập quốc của dân tộc Việt, ý thức cộng đồng đã thể hiện sâu
sắc qua “sự hợp nhất một cách tự nguyện của 15 bộ lạc anh em thành một Nhà
nước Văn Lang thống nhất là một minh chứng hùng hồn về sự đoàn kết của cộng
đồng dân tộc” [58, tr. 55]. Giang sơn chính là lòng dân, thống nhất giang sơn
bằng thống nhất lòng người là điều hiếm thấy từ xưa đến nay. Đó cũng là điều
kiện để hình thành nên một tâm lý chung, một tính cách dân tộc chung thể hiện
bản sắc văn hóa Việt Nam, một nền văn hóa dân tộc phản ánh và kết tinh truyền
thống lịch sử dân tộc. Nó nổi bật ở truyền thống khắc phục thiên tai, chinh phục
tự nhiên và chống giặc ngoại xâm. Đứng trước vận mệnh dân tộc, mỗi cá nhân đã
quên đi lợi ích riêng của mình để cố kết nhau lại tạo nên sức mạnh toàn dân tộc.
Sự cố kết đó có cả sự kết tinh xương máu của biết bao thế hệ. Trải qua hàng
nghìn năm, sự cố kết ấy đã ăn sâu vào nếp nghĩ, phương cách ứng xử của mọi
thành viên trong xã hội, một giá trị thiêng liêng trong tâm thức của mỗi người
con nước Việt. Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng đã trở thành lẽ sống của

17
mỗi người Việt Nam và của cả dân tộc không chỉ trong công cuộc dựng nước mà
cả trong công cuộc giữ nước. Để giữ nước, nhân dân ta phải thường xuyên ý thức
được sự đoàn kết với nhau vì một dân tộc độc lập để đương đầu với những kẻ thù
lớn mạnh, phải chiến đấu và chiến thắng trong những điều kiện ác liệt. Cuộc đấu
tranh lâu dài chống giặc ngoại xâm đã ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt của đời

sống, làm nảy sinh ý thức và tình cảm đối với dân tộc, sớm phát triển chủ nghĩa
yêu nước, chủ nghĩa anh hùng dân tộc, ý chí độc lập dân tộc, ý thức cộng đồng
dân tộc và tinh thần quật cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam nói chung và
người nông dân Việt Nam khu vực đồng bằng sông Hồng nói riêng.
Từ thuở Hùng Vương, khi cùng lúc phải chống trọi và thích nghi với thiên
nhiên nghiệt ngã vừa liên tiếp đương đầu với nhiều kẻ thù xâm lược, người Việt
nói chung và người nông dân nói riêng đã có ý thức cộng đồng dân tộc và chủ
quyền đất nước. Đúng như một nhà nghiên cứu đã viết: “Thời Bắc thuộc, ý thức
cộng đồng dân tộc ngày càng trở nên rõ nét, nhất là trong bối cảnh nước ta có
nguy cơ bị đồng hóa một cách vĩnh viễn. Không phải ngẫu nhiên mà truyền
thuyết trăm bọc trăm trứng, các dân tộc Việt đều từ cùng một bọc mà ra (đồng
bào) lúc này xuất hiện” [30, tr.44]. Đó chính là nhờ con người Việt Nam đã sớm
có lòng tự hào dân tộc, có ý thức về chủ quyền dân tộc, ý thức về văn hóa, về
lãnh thổ, về truyền thống dân tộc. Những yếu tố này đã thấm sâu vào tư tưởng
của mỗi con người Việt Nam hình thành nên bản lĩnh dân tộc. Mặc dù phong
kiến phương Bắc có nền văn hóa và trình độ cao hơn, luôn muốn bành trướng
xâm lược, đồng hóa cưỡng bức các dân tộc khác. Trong thực tế, các thế lực
phương Bắc đã đồng hóa được nhiều dân tộc cổ đại, duy chỉ có dân tộc Việt
Nam, sau hơn 1.000 năm đô hộ mà vẫn không hề bị đồng hóa. Việt Nam là điểm
dừng trong sự nghiệp mở rộng bờ cõi của đế chế Trung Hoa về phía Nam, đã
vượt qua những thảm họa lớn mà có lúc tưởng chừng như không thể vượt qua để
trở về với chính mình, bảo tồn toàn vẹn bờ cõi, bảo tồn toàn vẹn nền văn hóa và
tâm hồn người Việt.

18
Tinh thần yêu nước, ý thức cộng đồng của con người Việt Nam được biểu
hiện mạnh mẽ trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, không chỉ trong 1.000 năm
Bắc thuộc, mà còn đến cả các triều đại phong kiến về sau, đặc biệt hơn cả là
trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ giành lại nền độc lập dân tộc.
Suốt 4.000 năm lịch sử, đã có thế kỷ nào dân tộc Việt Nam lại ngừng đấu tranh vì

nền độc lập? Có thế kỷ nào vắng bóng những anh hùng? Dân tộc Việt Nam chưa
bao giờ khuất phục trước ngoại bang, chưa bao giờ quỳ gối trước kẻ thù. Bởi ở
đó có những con người luôn ý thức về chủ quyền đất nước, về toàn vẹn lãnh thổ;
có những con người luôn tự hào về giống nòi, về nền văn hóa, về truyền thống
lịch sử hào hùng của dân tộc; có những con người luôn yêu quê hương tha thiết,
yêu con người, yêu làng xóm, yêu “cây tre, bến nước, sân đình”; có những con
người có ý thức trách nhiệm với cộng đồng, có ý thức cố kết, đoàn kết nhau lại
để bảo vệ nền độc lập dân tộc, giữ gìn cuộc sống bình yên. Họ hiểu rằng, chỉ có
kết hợp ý chí, sức lực của một tập thể, của cộng đồng, phải “đồng lòng góp sức”
mới đem lại sức mạnh chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Tinh thần ấy, ý thức ấy
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, “từ trong khó khăn và thử thách khắc
nghiệt, ý thức cộng đồng được hình thành và qua thời gian nó phát triển thành ý
thức đại đoàn kết dân tộc” [58, tr.30].
Điều kiện kinh tế
Một trong những đặc thù của xã hội phương Đông đó là sự tồn tại lâu dài
của chế độ công hữu về ruộng đất - chế độ ruộng đất công làng xã. Chế độ sở
hữu này có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành tâm lý của con người Việt Nam
nói chung và của người nông dân nói riêng. Trong “Thư Ăngghen gửi Mác ở
Luân Đôn, Mansextơ, 6 tháng Sáu 1858” đã khẳng định: “Việc không có chế độ
tư hữu về ruộng đất quả thật là chìa khóa để hiểu toàn bộ phương Đông. Đó là cơ
sở của toàn bộ chính trị và tôn giáo của phương Đông” [55, tr.345]. Tiếp thu
những chỉ dẫn trong nghiên cứu phương thức sản xuất châu Á, khi lý giải cơ sở
hình thành tâm lý tập thể - cộng đồng của con người Việt Nam trong tác phẩm
“Tìm hiểu tính cách dân tộc”, tác giả Nguyễn Hồng Phong đã nhận định: “Chính

19
trên cơ sở chế độ sở hữu công xã ấy mà các phong tục, tập quán, các hình thức tổ
chức và sinh hoạt của công xã thị tộc và công xã nông thôn đã được duy trì, phát
triển và thích ứng với xã hội có giai cấp. Tâm lý tập thể - cộng đồng trên kia tự
đấy mà hình thành” [63, tr.120].

Chế độ ruộng công làng xã có nguồn gốc lâu đời, gắn với quá trình hình
thành và phát triển của làng Việt. Giai đoạn đầu, khi tổ tiên người Việt tiến
xuống định cư ở miền đồng bằng, thì lúc ấy ruộng đất vẫn thuộc về toàn bộ dân
làng. Thời kỳ đầu, việc chế tác công cụ còn ở trình độ rất thấp, lao động sản xuất
được tiến hành như những hoạt động chung, trên những ruộng đất chung thì ý
thức cộng đồng và tâm lý cộng đồng làng biểu hiện rất mạnh. Thời kỳ Văn Lang
- Âu Lạc, mặc dù thư tịch cổ cho biết có “ruộng lạc” và “dân lạc”; có “lạc dân
cày ruộng”, “lạc hầu ăn ruộng”; và có dấu hiệu của chế độ nô tỳ sơ khai, nhưng
trên thực tế, làng vẫn là chủ sở hữu của hầu hết ruộng đất. Ruộng đất của làng được
chia cho dân làng cày cấy theo nguyên tắc bình đẳng. Làng giữ lại một phần ruộng đất
cày cấy chung phục vụ những nhu cầu công cộng và đóng góp để nuôi lạc hầu, lạc
tướng. Tình hình sở hữu làng xã đó kéo dài mãi sang thời kỳ đầu Bắc thuộc.
Trong thời Bắc thuộc, về danh nghĩa, toàn bộ đất đai trong cả nước thuộc
về nhà vua xâm lược. Tuy nhiên, do không can thiệp được vào đời sống làng xã
nên hầu như quyền sở hữu thực sự đối với ruộng đất vẫn thuộc về làng. Chế độ
ruộng đất công của làng Việt về cơ bản không có gì thay đổi. Việc cùng nhau
chiếm hữu toàn bộ ruộng đất, cùng nhau phân chia quyền sử dụng cũng như
quyền cày cấy trên mảnh đất tổ tiên làng để lại, hưởng những hoa lợi trên mảnh
đất chung đó đã góp phần tạo nên tính cộng đồng giữa những người nông dân từ
đời này sang đời khác, kéo dài hàng mấy nghìn năm.
Sau khi đất nước giành độc lập, nhà nước trung ương tập quyền đứng đầu
là nhà vua tuyên bố quyền sở hữu tối cao của mình đối với ruộng đất. Nhưng trên
thực tế, nhà vua vẫn phải thông qua làng để thực hiện quyền sở hữu tối cao đó.
Nhà nước vẫn phải để cho làng những quyền khá lớn trong việc quản lý và phân
phối ruộng đất. Ngoại trừ ruộng quốc khố là ruộng do nhà nước trực tiếp quản lý

20
và tổ chức sản xuất, làng vẫn là người phân chia ruộng đất công làng xã theo tục
lệ của mình. Trong quá trình cai trị, nhà nước phong kiến nhận thức được vai trò
quan trọng của ruộng đất công trong việc giữ gìn sự thống nhất quốc gia, chống

lại khuynh hướng cát cứ, phân quyền. Hơn nữa, chế độ ruộng đất công có vai trò
to lớn trong nuôi dưỡng bộ máy quan liêu phong kiến đồ sộ (trả lương bằng
ruộng là cách trả lương phổ biến nhất trong xã hội phong kiến Việt Nam). Vì thế,
nhà nước phong kiến luôn có xu hướng duy trì, bảo vệ chế độ ruộng công.
Nền kinh tế hàng hóa bắt đầu phát triển ở nông thôn Việt Nam từ thế kỷ
XVI. Song song với nó là quá trình tư hữu hóa ruộng đất. Việc chấp chiếm ruộng
đất công thành ruộng đất tư trở nên phổ biến. Nhà nước đã có nhiều chính sách
ngăn chặn nhưng cũng không thể cưỡng lại xu thế tất yếu này. Đến trước cách
mạng tháng Tám, ruộng đất tư đã lấn át ruộng đất công. Theo điều tra của Ivơ
Hăngry thì “vào những năm 1930 - 1932 ruộng công có nhiều nhất ở Trung bộ
chiếm khoảng 25% tổng số ruộng đất, ở Bắc bộ chiếm khoảng 20% còn ở Nam
bộ chỉ còn khoảng 3% tổng số ruộng đất” [ Dẫn theo 67, tr.29]. Cùng với quá
trình thu hẹp ruộng đất công là sự đẩy mạnh quá trình phong kiến hóa cách phân
chia ruộng đất đó. Nếu như ở thời kỳ đầu của chế độ ruộng công làng xã, ruộng
công được chia theo nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đẳng cấp cao thấp,
thì trong chế độ phong kiến sự phân biệt đó ngày càng rõ nét. Đến thời kỳ phong
kiến thực dân thì người ở đẳng cấp cao nhất có thể nhận phần ruộng công cao
gấp 10 lần phần ruộng của người ở đẳng cấp thấp nhất. Tất nhiên sự phân biệt
này tùy theo từng làng có khác nhau, nhưng khuynh hướng đẳng cấp hóa trong
việc phân chia ruộng đất công có khuynh hướng bao trùm. Đặc biệt, vào thời kỳ
này, việc được chia ruộng đất công, dù là ít ỏi nhưng nó là cái cớ để nhà nước
tăng thêm phần sưu thuế. Do vậy mà trong thời phong kiến thực dân, ở phần lớn
làng Việt ruộng đất công không còn là cơ sở kinh tế quan trọng nhất của sự gắn
kết cộng đồng làng. Tuy nhiên, sự tồn tại của một bộ phận ruộng đất công do
làng quản lý và những ruộng đất thuộc sở hữu của làng cho phép làng bằng cách
này hay cách khác tạo ra một nguồn quỹ làng, không những để hỗ trợ cho những

21
người dân làng nộp sưu thuế mà còn là nguồn tài chính để tổ chức và hỗ trợ các sinh
hoạt cộng đồng trong làng.

Ngoài ruộng đất công thuộc sở hữu của nhà nước do làng quản lý, làng
còn có một loại ruộng khác thuộc toàn quyền sở hữu của làng. Đó là bản xã công
điền công thổ. Ở miền Bắc trước đây, hầu như làng nào cũng có loại ruộng này
(trừ làng làm nghề đánh cá), với số lượng không nhiều từ vài mẫu đến vài ba
chục mẫu. Nguồn gốc của bản xã công điền công thổ có thể là ruộng của vua ban
cho làng khi sắc phong Thành Hoàng để làng dùng vào việc tế lễ; có thể làng tự ý
trích một phần ruộng công của nhà nước, những ruộng đó lâu dần trở thành ruộng
của làng; có thể là ruộng tư nhân cúng cho làng để được làng khói hương sau khi
chết (ruộng hậu); có thể do dân làng góp tiền mua, hoặc làng lấy tiền bán chức
sắc để mua…Ngoài ra, trong làng thường có một bộ phận đất đai không ghi trong
sổ điền bạ như đất bến, bãi, đất chợ, ao, đầm, khe, suối, gò đồi…Số ruộng đất
này thường cho thuê hoặc bán đấu giá lấy tiền dùng vào việc chung.
Sự tồn tại lâu dài của chế độ ruộng công làng xã, bao gồm sự thừa nhận
trên thực tế quyền lực khá lớn của làng trong việc sử dụng số ruộng đất thuộc
quyền sở hữu của làng và của nhà nước theo cách riêng của mình, trong đó làng
dựa vào tục lệ của mình nhiều hơn là dựa vào pháp luật của nhà nước. Đây là cơ
sở kinh tế quan trọng góp phần hình thành và củng cố tính cộng đồng làng.
Một vấn đề nữa mà chúng ta nói đến đó là nền kinh tế tự cấp, tự túc.
Nông dân là lực lượng lao động trong nông nghiệp. Khi nói đến phương thức lao
động của nông dân tức là nói đến tính chất, trình độ lao động và cả những loại
hình lao động, sản xuất mà nông dân thực hiện để tạo ra của cải, duy trì sự tồn tại
của chính mình. Trong lịch sử của dân tộc Việt Nam, lao động của người nông
dân luôn mang tính chất cá thể, với kỹ thuật canh tác lạc hậu, dựa vào kinh
nghiệm và thói quen. Điều này có phần nào cho thấy, nông dân Việt Nam có
điểm giống với nông dân các nước phương Tây, trong nhận định của C.Mác:
“Mảnh đất cỏn con, người nông dân và gia đình anh ta; cạnh đó lại một mảnh đất
cỏn con khác, một nông dân khác và một gia đình khác. Một nhóm những đơn vị

×