Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Tác động của các chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp nhà nước đối với phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001 - 2005 (nghiên cứu trường hợp KC - 153212

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 86 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
____________________________________


VŨ ĐÌNH TRUNG



TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CHƯƠNG TRÌNH
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRỌNG ĐIỂM
CẤP NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI
GIAI ĐOẠN 2001-2005

(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP KC-06)





LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ



















HÀ NỘI – 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
____________________________________


VŨ ĐÌNH TRUNG


TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CHƯƠNG TRÌNH
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRỌNG ĐIỂM
CẤP NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI
GIAI ĐOẠN 2001-2005

(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP KC-06)



CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
MÃ SỐ: 60.34.72

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ





Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHẠM HUY TIẾN











HÀ NỘI – 2009


1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 4
1. Lý do nghiên cứu 6
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 6
3. Mục tiêu nghiên cứu 7
4. Phạm vi nghiên cứu 7
5. Mẫu khảo sát 7
6. Vấn đề nghiên cứu 7
7. Giả thuyết nghiên cứu 7
8. Phương pháp nghiên cứu 7

9. Kết cấu của luận văn 7
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 9
1.1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN 9
1.3. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC ĐÁNH GIÁ CÁC CHƯƠNG TRÌNH KH&CN. 11
1.3.1. Đánh giá phục vụ ra quyết định 11
1.3.2. Đánh giá phục vụ quản lý 11
1.4. THỰC HIỆN ĐÁNH GIÁ CHƯƠNG TRÌNH KH&CN 12
1.4.1. Các dạng đánh giá chương trình KH&CN 12
1.4.2. Phương pháp đánh giá chương trình KH&CN 13
1.4.3. Tiêu chí đánh giá chương trình KH&CN 13
1.5. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG VIỆC ĐÁNH GIÁ CÁC
CHƯƠNG TRÌNH R&D 15
1.5.1. Tại Mỹ 15
1.5.2. Tại Canada. 18
1.5.3. Tại Hàn Quốc 20
1.5.4. Tại Trung Quốc 22
Kết luận chương 1: 26
Chương 2. TÁC ĐỘNG KINH TẾ XÃ HỘI CỦA MỘT SỐ CHƯƠNG TRÌNH
KH&CN TRỌNG ĐIỂM CẤP NHÀ NƯỚC GIAI ĐOẠN 2001-2005 27
2.1. NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH KH&CN CẤP NHÀ NƯỚC
GIAI ĐOẠN 2001-2005 27
2.1.1. Khái quát chương trình 28

2
2.1.2. Phương hướng phát triển KH&CN giai đoạn 2001-2005 28
2.1.3. Mục tiêu phát triển KH&CN giai đoạn 2001-2005 29
2.2. NHIỆM VỤ KH&CN TRONG LĨNH VỰC KHXH&NV 30
2.3. NHIỆM VỤ KH&CN TRONG LĨNH VỰC KHOA HỌC TỰ NHIÊN 30
2.4. NHIỆM VỤ KH&CN TRONG LĨNH VỰC KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 31
2.4.1.Công nghệ thông tin và truyền thông 31

2.4.2. Công nghệ sinh học 31
2.4.3. Công nghệ vật liệu mới 32
2.4.4. Công nghệ tự động hoá 32
2.4.5. Công nghệ chế tạo máy 32
2.4.6. Năng lượng 33
2.4.7. Giao thông vận tải 33
2.4.8.Nông –Lâm – Ngư nghiệp 34
2.4.9. Bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng 34
2.5. CÁC CHƯƠNG TRÌNH KH&CN TRỌNG ĐIỂM CẤP NHÀ NƯỚC
GIAI ĐOẠN 2001-2005. 35
2.5.1. Lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn 35
2.5.2. Lĩnh vực khoa học tự nhiên 36
2.5.3. Lĩnh vực khoa học công nghệ 36
2.6. NHỮNG TÁC ĐỘNG KINH TẾ-XÃ HỘI CHỦ YẾU CỦA CÁC
CHƯƠNG TRÌNH KH&CN TRỌNG ĐIỂM CẤP NHÀ NƯỚC
GIAI ĐOẠN 2001-2005 36
2.6.1. Các tác động KT-XH tích cực từ góc độ các nhà khoa học 37
2.6.2. Các tác động KT-XH tích cực từ góc độ các nhà quản lý KH&CN 46
2.6.3. Các tác động KT-XH tích cực góc độ các chuyên gia đánh giá KH&CN. 50
2.6.4. Các hạn chế trong việc đóng góp cho sự phát triển KT-XH
từ góc độ các nhà nghiên cứu. 52
2.6.5. Các hạn chế trong việc đóng góp cho sự phát triển KT-XH
từ góc độ các nhà quản lý KH&CN. 52
2.6.6. Các hạn chế trong việc đóng góp cho sự phát triển KT-XH
từ góc độ các chuyên gia đánh giá KH&CN 54
Kết luận chương 2: 56

3
Chương 3. CHƯƠNG TRÌNH ”ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ TIÊN TIẾN
TRONG SẢN XUẤT CÁC SẢN PHẨM CHỦ LỰC VÀ SẢN PHẨM

XUẤT KHẨU” (MÃ SỐ KC-06) TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN
KINH TẾ-XÃ HỘI 57
3.1. GIỚI THIỆU VỀ CHƯƠNG TRÌNH KC.06 57
3.1.1. Mục tiêu 57
3.1.2. Nội dung chủ yếu 57
3.1.3. Đầu tư kinh phí cho chương trình KC.06 58
3.1.4. Cơ cấu tổ chức 59
3.1.5. Kết quả khoa học, công nghệ của chương trình: 59
3.2. CÁC KẾT QUẢ CHỦ YẾU CỦA CHƯƠNG TRÌNH KC.06 59
3.2.1. Các kết quả đạt trong lĩnh vực Công nghiệp. 60
3.2.2. Các kết quả đạt trong lĩnh vực Nông nghiệp-Lâm-Thủy sản. 61
3.2.3. Các kết quả đạt trong lĩnh vực nghiên cứu về thể chế chính sách thương mại 62
3.3. TÁC ĐỘNG KT-XH CỦA CHƯƠNG TRÌNH KC-06 62
3.3.1. Tác động KT-XH của chương trình KC-06 từ góc độ các nhà khoa học 62
3.3.2. Tác động KT-XH của chương trình KC-06 từ góc độ các nhà quản lý
KH&CN 71
3.3.3. Tác động KT-XH của chương trình KC-06 từ góc độ các chuyên gia
đánh giá KH&CN 74
Kết luận chương 3: 77
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 78
KẾT LUẬN 78
KHUYẾN NGHỊ 78

Tài liệu tham khảo 82
Phụ lục 84
PHIẾU PHỎNG VẤN SÂU 84


4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

APEC
ASIA-PACIFIC ECONOMIC COOPERATION
DIễN ĐÀN HợP TÁC KINH Tế CHÂU Á – THÁI BÌNH DƯƠNG
CNC
CÔNG NGHệ CAO
CNH-HĐH
CÔNG NGHIệP HÓA, HIệN ĐạI HÓA.
EU
EUROPEAN UNION
LIÊN MINH CHÂU ÂU
GPRA
GOVERNMENT PERFORMANCE AND RESULTS ACT
LUậT Về THựC HIệN VÀ KếT QUả CủA CHÍNH PHủ HOA Kỳ
KH&CN
KHOA HọC VÀ CÔNG NGHệ
KHXH&NV
KHOA HọC XÃ HộI VÀ NHÂN VĂN
KT-XH
KINH Tế - XÃ HộI.
NCCB
NGHIÊN CứU CƠ BảN
NCKH
NGHIÊN CứU KHOA HọC.
NCƯD
NGHIÊN CứU ứNG DụNG
OECD
ORGANIZATION FOR ECONOMIC COOPERATION AND DEVELOPMENT
Tổ CHứC HợP TÁC VÀ PHÁT TRIểN KINH Tế
R&D
RESEARCH AND DEVELOPMENT

NGHIÊN CứU VÀ TRIểN KHAI

NGHIÊN CứU-PHÁT TRIểN (R&D)
SXTN
SảN XUấT THử NGHIệM
WREN
WORLD RESEARCH EVALUATION NETWORK
HIệP HộI ĐÁNH GIÁ NGHIÊN CứU CủA THế GIớI
XHCN
XÃ HộI CHủ NGHĨA.

DANH MỤC CÁC BẢNG

5
Bảng
2.1.
Thống kê số lượng các chương trình KH&CN thực hiện
.
25
Bảng
2.2.
Tổng hợp số lượng đề tài, nhiệm vụ thực hiện từ năm
2001-2005
.
33
Bảng
2.3.
Số lượng sản phẩm do các chương trình tạo ra và số kết
quả
đã được áp dụng vào sản xuất.

.
45
Bảng
2.4.
Số lượng cán bộ có trình độ tiến sỹ được đào tạo thông
qua
các chương trình KH&CN giai đoạn 2001-2005
.
48



Bảng
3.1.
Thống kê các đề tài dự án do chương trình KC.06 tiến
hành.
.
58
Bảng
3.2.
Thống kê các đề tài dự án, đơn vị tham gia chương trình
KC.06
.
58












6
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu
Chương trình KH&CN là một hình thức tổ chức để thực hiện một cách có
hiệu quả các nhiệm vụ KH&CN có nội dung và phạm vi nghiên cứu rộng, để thực
hiện cần thiết phải có sự tham gia của nhiều ngành khoa học và nhiều lĩnh vực hoạt
động khác nhau.
Trong thời gian qua, nhiều chương trình KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước
đã được xây dựng và tổ chức thực hiện với các nguồn lực đáng kể (nhân lực, tài lực,
vật lực, tin lực…). Tuy nhiên việc nghiên cứu tác động/ảnh hưởng của các chương
trình KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước trong thực tiễn sản xuất và đời sống hầu
như mới chỉ được thực hiện một cách độc lập theo từng chương trình và từng lĩnh
vực hoạt động/tác động cụ thể.
Để nâng cao hiệu quả của hình thức tổ chức thực hiện nhiệm vụ KH&CN
này, vấn đề đặt ra cần phải nghiên cứu một cách có hệ thống về tác động của các
chương trình KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước đối với phát triển KT-XH, theo đó
góp phần vào việc nâng cao hiệu quả của các chương trình KH&CN trọng điểm cấp
Nhà nước trong các giai đoạn tiếp theo.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Vấn đề tác động của các chương trình KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước
(giai đoạn 2001-2005) đối với phát triển KT-XH đã có công trình nghiên cứu liên
quan: Đề tài Nghiên cứu tổng quan phương pháp luận đánh giá tác động KT-XH
của chương trình KH&CN và đề xuất áp dụng cho Việt Nam, Nguyễn Việt Hoà,
Viện Nghiên cứu Chiến lược và Chính sách KH&CN [2001]: Nghiên cứu tổng quan
một số phương pháp luận đánh giá tác động KT-XH của chương trình KH&CN và

nghiên cứu phương pháp đánh giá chương trình KH&CN ở Việt Nam qua 3 giai
đoạn.
Tuy nhiên vấn đề tác động của các chương trình KH&CN trọng điểm cấp
Nhà nước (giai đoạn 2001-2005) đối với phát triển KT-XH chưa có công trình
nghiên cứu vì thực chất ở nước ta các công trình nghiên cứu chỉ tập trung vào vấn
đề lý luận là chính.

7
3. Mục tiêu nghiên cứu
Xác định những tác động tích cực, những hạn chế của các chương trình
KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước (giai đoạn 2001-2005) tới một số lĩnh vực
phát triển.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về thời gian: 05 năm, từ năm 2001-2005.
Phạm vi về nội dung: Một số chương trình KH&CN trọng điểm cấp
Nhà nước giai đoạn 2001-2005.
5. Mẫu khảo sát
Kết quả nghiên cứu của 1 số chương trình KH&CN trọng điểm cấp
Nhà nước giai đoạn 2001-2005.
Kết quả nghiên cứu của chương trình mã số KC-06: Ứng dụng công nghệ
tiên tiến trong sản xuất các sản phẩm xuất khẩu và sản phẩm chủ lực.
6. Vấn đề nghiên cứu
Tác động của các chương trình KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước giai đoạn
2001-2005 đối với phát triển KT-XH như thế nào?
7. Giả thuyết nghiên cứu
Các chương trình KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước thời gian 2001-2005 đã
có những tác động tích cực tới một số lĩnh vực phát triển (về kinh tế, xã hội và
KH&CN).
Các chương trình KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước giai đoạn 2001-2005
vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục.

8. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tài liệu: các báo cáo của một số chương trình KH&CN trọng
điểm cấp Nhà nước giai đoạn 2001-2005.
Phỏng vấn sâu đối với 3 nhóm đối tượng: Ban chủ nhiệm các chương trình,
các cán bộ quản lý các chương trình và các chuyên gia đánh giá KH&CN.
9. Kết cấu của luận văn
Phần mở đầu.

8
Chương 1. Cơ sở lý luận.
Chương 2. Tác động KT-XH của một số chương trình KH&CN trọng điểm
cấp Nhà nước giai đoạn 2001-2005.
Chương 3. Chương trình “Ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất các
sản phẩm chủ lực và sản phẩm xuất khẩu” (mã số KC-06) và tác động đối với phát
triển KT-XH.
Kết luận và khuyến nghị.


9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN
Nhiệm vụ KH&CN “là những vấn đề KH&CN cần được giải quyết, được tổ
chức thực hiện dưới hình thức đề tài, dự án, chương trình KH&CN” (theo Nghị định
số 81/2002/NĐ-CP ngày 17/10/2002 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật KH&CN).
Đề tài NCKH: là một nhiệm vụ KH&CN nhằm phát hiện quy luật, mô tả, giải
thích nguyên nhân vận động của sự vật, hiện tượng hoặc sáng tạo nguyên lý, những
giải pháp, bí quyết, sáng chế, được thể hiện dưới các hình thức: đề tài NCCB, đề tài
NCƯD, đề tài triển khai thực nghiệm hoặc kết hợp cả NCCB, NCƯD và triển khai

thực nghiệm.
Dự án SXTN: là một nhiệm vụ KH&CN nhằm ứng dụng kết quả NCKH và
triển khai thực nghiệm để thử nghiệm các giải pháp, phương pháp, mô hình quản lý
KT-XH hoặc sản xuất thử ở quy mô nhỏ nhằm hoàn thiện công nghệ mới, sản phẩm
mới trước khi đưa vào sản xuất và đời sống.
Dự án KH&CN có nội dung chủ yếu tiến hành các hoạt động NCKH, phát
triển công nghệ, ứng dụng công nghệ; áp dụng, thử nghiệm các giải pháp, phương
pháp, mô hình quản lý KT-XH. Dự án có thể độc lập hoặc thuộc chương trình
KH&CN.
Chương trình KH&CN bao gồm một nhóm các đề tài, dự án KH&CN, được
tập hợp theo một mục đích xác định nhằm thực hiện mục tiêu phát triển KH&CN cụ
thể hoặc ứng dụng trong thực tiễn.
Chương trình KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước (theo Quy định tạm thời về
quản lý chương trình KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước giai đoạn 2001-2005 ban
hành kèm theo quyết định số 41/2001/QĐ-BKHCNMT) bao gồm các Đề tài NCKH
và triển khai thực nghiệm (gọi tắt là Đề tài) và Dự án SXTN (gọi tắt là Dự án).
1.2. KHÁI NIỆM VỀ ĐÁNH GIÁ VÀ ĐÁNH GIÁ CHƯƠNG TRÌNH KH&CN

10
Đánh giá được định nghĩa theo nhiều cách. Theo từ điển Oxford English
Dictionary, đánh giá là một hành động xác định, hoặc định giá (hàng hoá, v.v ), một
sự tính toán hoặc tuyên bố về giá trị; là một hành động đánh giá hoặc xác định giá trị
(của một biểu diễn toán học, một số lượng vật chất, v.v ); hoặc của một sự ước tính
hiệu lực (của xác suất, bằng chứng, vv ). Trong bộ môn đánh giá, thuật ngữ này có
những ý nghĩa khác nhau. Trên thực tế, vẫn chưa có một sự nhất trí chung về định
nghĩa thế nào là đánh giá. Khi xem xét về vai trò của ngôn ngữ đối với đánh giá,
Michael Scriven, một trong những nhà sáng lập ra bộ môn đánh giá hiện đại, đã đưa
ra nhận xét rằng có gần sáu mươi thuật ngữ khác nhau đối với việc đánh giá được áp
dụng cho tình huống này hay tình huống khác. Những thuật ngữ này gồm: xét xử
(adjudge), đánh giá (appraise), phân tích (analyze), đánh giá (assess), phê phán

(critique), kiểm tra (examine), xếp hạng (grade), kiểm định (inspect), phán xử
(judge), cho điểm (rate), xếp hạng (rank), xem xét (review), kiểm tra (test).
Theo OECD, đánh giá được định nghĩa: Đánh giá là việc xem xét một cách
có hệ thống và khách quan về một dự án, chương trình hoặc chính sách đang tiến
hành hoặc đã hoàn thành, bao gồm cả việc thiết kế, thực hiện và kết quả của nó.
Mục đích là nhằm xác định tính hợp lý và tính thực hiện của các mục tiêu, hiệu quả
phát triển, tác động và tính bền vững. Quá trình đánh giá phải cung cấp các thông
tin đáng tin cậy, hữu ích, cho phép áp dụng các bài học rút ra vào tiến trình ra quyết
định của các nhà tài trợ và quốc gia nhận tài trợ. Đánh giá cũng nói đến quá trình
xác định giá trị hoặc ý nghĩa của một hoạt động, chính sách hoặc chương trình. Đó
là những nhận định càng hệ thống và khách quan càng tốt, về những can thiệp dự
kiến, đang diễn ra hoặc đã hoàn thành.
Chương trình KH&CN là một tập hợp các hoạt động, các đề tài, dự án có liên
quan đến nhau và có thể liên quan đến một hoặc nhiều ngành, lĩnh vực, nhiều vùng
lãnh thổ, nhiều chủ thể khác nhau nhằm đạt được một số mục tiêu xác định, có thời
hạn thực hiện tương đối dài hoặc theo nhiều giai đoạn, nguồn lực để thực hiện có
thể được huy động từ nhiều nguồn ở những thời điểm khác nhau, với nhiều phương
thức khác nhau.

11
Như vậy, đánh giá chương trình KH&CN là đánh giá một nhóm các hoạt
động có các mục tiêu liên quan với nhau.
1.3. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC ĐÁNH GIÁ CÁC CHƯƠNG TRÌNH
KH&CN.
Đặc thù của các chương trình KH&CN là có tính liên ngành, được đầu tư
kinh phí trong một giai đoạn dài, tập hợp lực lượng từ nhiều cơ quan KH&CN để
thực hiện các mục tiêu lớn về KH&CN của đất nước, do đó việc quản lý và đánh giá
các chương trình đóng vai trò rất quan trọng.
1.3.1. Đánh giá phục vụ ra quyết định
Theo điều tra do APEC thực hiện, lý do chủ yếu để nhiều nước trong tổ chức

này thực hiện việc đánh giá các chương trình quốc gia về KH&CN là hỗ trợ quá
trình ra quyết định. Các Chính phủ đều phải đối mặt với một khó khăn chung, đó là
phân bổ thế nào những nguồn lực hạn chế (như nhân lực, ngân sách, hạ tầng…) để
đạt được hiệu suất cao hơn cho nền kinh tế. Do những đặc thù khác nhau về nhiều
mặt, về quy mô nền kinh tế, về hạ tầng cơ sở, tài nguyên…mà không thể có câu trả
lời chung cho tất cả các Chính phủ của các nước. Thêm vào đó, tốc độ phát triển rất
nhanh của KH&CN làm cho vấn đề trở nên phức tạp hơn. Trong bối cảnh như vậy,
đánh giá sẽ giúp cho việc lựa chọn ra những ưu tiên và giúp Chính phủ giải quyết
vấn đề phân bổ hiệu quả ngân sách và nguồn lực.
1.3.2. Đánh giá phục vụ quản lý
Lý do quan trọng thứ hai của đánh giá là nhu cầu quản lý. Các nhà quản lý
chương trình KH&CN thường rất gần gũi với các dự án và hoạt động cụ thể của
chương trình. Họ có thể liên hệ các thông tin đầu ra, đầu vào với các chi tiết nhỏ
nhất của chương trình. Họ cũng rất nỗ lực để đảm bảo việc triển khai thành công
chương trình. Tuy vậy, họ thường có thể thiếu các thông tin dưới dạng các mẫu biểu
cần thiết để mô tả và ghi lại các lợi ích mà các chương trình họ quản lý tạo ra, đặc
biệt là vào giai đoạn giữa kỳ và giai đoạn về sau khi mà các tác động của tri thức
hay của thị trường được ghi nhận. Những thông tin nhà quản lý chương trình cần
phải biết:

12
- Liệu các hoạt động nghiên cứu đã được thực hiện đúng chưa? (ví dụ:
nghiên cứu có đạt hiệu quả và chất lượng cao hay không?)
- Liệu các nội dung R&D của chương trình đã tập trung vào đúng lĩnh vực
nghiên cứu hay chưa?
- Làm thế nào để tri thức được tạo ra từ các chương trình có thể được ứng
dụng và đem lại nhiều lợi ích cho quốc gia?
- Làm thế nào để các hoạt động do chương trình tạo ra góp phần nâng cao
năng lực R&D của quốc gia?
- Liệu các nỗ lực từ trước đã xứng đáng hay chưa và liệu các sáng kiến mới

có xứng đáng hay không ?
Việc có sẵn các thông tin này bất kể khi nào đều cần thiết và là điều kiện
then chốt để đảm bảo sự thành công dài hạn của chương trình, đồng thời có thể
trang bị cho những nhà quản lý chương trình các thông tin cần thiết để nâng cao
hiệu quả của chương trình và có thể nêu lên một cách rõ ràng toàn bộ lợi ích từ các
hoạt động R&D. Ngoài ra, dựa trên các đánh giá so sánh về hoàn cảnh hiện tại với
mục tiêu ban đầu, cơ quan quản lý chương trình sẽ có những yêu cầu điều chỉnh cần
thiết. Do hoàn cảnh thực tế xung quanh đã thay đổi (đặc biệt khi phát triển KH&CN
toàn cầu đang ở tốc độ nhanh và quá trình toàn cầu hóa tác động lên mọi lĩnh vực)
thì có thể chương trình nên được chấm dứt sớm, hoặc thay đổi mục tiêu, hoặc thay
đổi phương pháp thực hiện.
Những người nộp thuế vào ngân sách có quyền được biết Chính phủ thu thuế
của họ sử dụng như thế nào. Thông qua đánh giá, Chính phủ có thể giải thích việc
chi tiêu đó cho họ. Việc đánh giá cũng chứng minh tính hiệu quả và sự minh bạch
trong việc sử dụng ngân sách cho KH&CN, sẽ làm tăng sự đồng thuận của xã hội,
nhận thức của cộng đồng về vai trò của Chính phủ trong hoạt động NCKH và phát
triển công nghệ .
1.4. THỰC HIỆN ĐÁNH GIÁ CHƯƠNG TRÌNH KH&CN
1.4.1. Các dạng đánh giá chương trình KH&CN
Đánh giá chương trình KH&CN được thực hiện theo 4 giai đoạn:

13
(1) Đánh giá đầu kỳ (hay đánh giá thẩm định – Ex-ante Evaluation): là đánh
giá được tiến hành trước khi thực hiện chương trình. Giai đoạn này đánh giá tính
khả thi và chất lượng thiết kế chương trình.
(2) Đánh giá giữa kỳ (Mid-term Evaluation): là dạng đánh giá được tiến hành
vào giữa thời gian thực hiện chương trình nhằm xem xét quá trình thực hiện từ khi
bắt đầu và đề xuất các điều chỉnh cần thiết.
(3) Đánh giá cuối kỳ (đánh giá kết thúc – Terminal Evaluation): là đánh giá
được thực hiện ngay sau kết thúc thực hiện chương trình, nhằm xem xét các kết quả

đạt được và tổng kết toàn bộ quá trình thực hiện, rút ra các kinh nghiệm cần thiết
làm cơ sở lập báo cáo kết thúc chương trình.
(4) Đánh giá tác động (Impact Evaluation): là đánh giá được thực hiện vào
một thời điểm thích hợp, kể từ khi đưa chương trình vào khai thác, sử dụng nhằm
làm rõ hiệu quả, tính bền vững và tác động KT-XH của chương trình.
1.4.2. Phương pháp đánh giá chương trình KH&CN
Có nhiều phương pháp định tính và định lượng để đánh giá chương trình
KH&CN. Phương pháp tổng hợp kết hợp cả định tính và định lượng được khai thác
tốt nhất. Việc lựa chọn phương pháp nào tuỳ thuộc vào đặc thù của từng chương
trình. Tuy nhiên, khi thiết kế và tổ chức đánh giá các chương trình KH&CN điểm
mấu chốt là làm thế nào để thoả mãn tốt nhất yêu cầu về đánh giá trong điều kiện
hạn chế nguồn lực. Việc lựa chọn phương pháp đánh giá cần phải dựa trên mục tiêu,
kinh phí và thời lượng tương ứng. Các phương pháp thường sử dụng khi đánh giá
chương trình KH&CN gồm:
- Phản biện (đánh giá) của chuyên gia cùng ngành (Peer riview)
- Phân tích trắc lượng thư mục (Bibliometric analysis)
- Nghiên cứu điển hình (Case study)
- So sánh, đối chứng (Benchmaking)
- Điều tra (Servey, questionnaire)
- Phân tích chi phí-lợi ích (Cost-benefit analysis)
- Giám sát, tổng hợp số liệu và sử dụng các chỉ số
1.4.3. Tiêu chí đánh giá chương trình KH&CN

14
Mỗi giai đoạn đánh giá của từng chương trình có yêu cầu và mục tiêu riêng,
do đó các tiêu chí đánh giá cũng được lựa chọn một cách phù hợp để đạt được các
mục tiêu. Nói chung, tiêu chí trong đánh giá là thước đo để đánh giá một chương
trình KH&CN. Có 5 tiêu chí lớn được đề cập dưới đây để đánh giá các chương trình
KH&CN và thường có các tiêu chí phụ kèm theo mỗi tiêu chí lớn:
- Tính hợp lý của chương trình: Đề cập tới mức độ thích hợp của đầu tư cho

chương trình KH&CN đối với các ưu tiên và chính sách, trả lời các câu hỏi: Định
hướng và mục tiêu của chương trình KH&CN có phù hợp với các mục tiêu chiến
lược quốc gia không? Có đáp ứng được các nhu cầu của những đối tượng thụ hưởng
không? Có thể thay đổi để phù hợp với những thay đổi về điều kiện KT-XH chính
trị trong quá trình thực hiện không? Cơ cấu, nội dung của các đề tài, dự án trong
chương trình có hợp lý và xác đáng?
- Hiệu suất (Efficiency): Đo lường mối quan hệ giữa đầu ra (outputs) so với
đầu vào (inputs), cả định tính và định lượng. Đề cập tới việc sử dụng các đầu vào
như: kinh phí, nhân lực, trang thiết bị nghiên cứu để tạo ra các đầu ra như: bài
báo, sáng chế, sách, phần mềm, cán bộ được đào tạo ;tới việc lựa chọn các đề tài,
dự án để đạt được mục tiêu cuối cùng của chương trình
- Hiệu quả (Effectiveness): Là thước đo về mức độ chương trình đạt được so
với mục tiêu đề ra ban đầu, hoặc mức độ mà đầu ra (outputs) đạt được và kết quả
(outcomes) thu được, bao gồm việc thực hiện đề tài, dự án đã (hoặc sẽ) mang lại lợi
ích cho đối tượng hưởng lợi từ chương trình hay cho người sử dụng tiếp theo và
người sử dụng cuối cùng.
- Tác động (Impact): Đề cập tới những ảnh hưởng lâu dài hoặc những thay
đổi do chương trình mang lại, thường là những thay đổi về mặt kinh tế, xã hội và
môi trường. Cũng như những thành quả trung hạn và ngắn hạn, các tác động có thể
là tác động đã dự kiến và không dự kiến, trực tiếp và gián tiếp, tích cực và tiêu cực.
- Bền vững (Sustainability): Đề cập tới liệu những lợi ích mà chương trình
mang lại (như đầu ra, kết quả và tác động) có còn tiếp tục sau khi chương trình kết
thúc hay không?

15
1.5. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG VIỆC ĐÁNH GIÁ CÁC
CHƯƠNG TRÌNH R&D
Trong hai thập kỷ qua, việc đổi mới công nghiệp dựa trên nền tảng là
KH&CN được coi là động lực cho sự phát triển KT-XH. Vấn đề này đã làm cho các
nhà hoạch định chính sách R&D tại các nước phát triển và cả các nước đang phát

triển phải tìm hướng đi phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả và hiệu suất của các
chương trình R&D của các quốc gia. Trong một điều kiện ngân sách cũng như các
nguồn lực khác (con người, hạ tầng cho nghiên cứu) là có hạn, đánh giá trở thành
công cụ hữu hiệu và là tiêu chuẩn để xác định mục đích và kinh phí cho các chương
trình R&D.
Đánh giá là một công cụ thiết yếu cho thực tiễn quản lý hiệu quả. Đánh giá
không những là công cụ để đo lường sự thành công của chương trình mà còn góp
phần vào thành công đó. Đánh giá giúp cho những nhà quản lý chương trình lập kế
hoạch, thẩm định và thể hiện mục tiêu cần đạt là gì, quyết định phân bổ nguồn lực
như thế nào, học làm thế nào để sửa đổi và thiết kế lại chương trình và ước tính kết
quả đầu ra dự kiến; hiệu quả và tác động của chương trình. Đánh giá còn giúp cung
cấp thông tin về mức độ tin cậy của chương trình bằng việc trả lời cho câu hỏi: liệu
chúng ta đã làm những gì mà chúng ta nói là sẽ làm chưa?
1.5.1. Tại Mỹ
Từ những năm 90, Mỹ đã ban bố một loạt các bộ luật và các quy định pháp
lý bắt buộc các cơ quan trong đó có các cơ quan về KH&CN thực hiện việc đánh
giá, đánh giá ở Mỹ là một hoạt động bao trùm lên tất cả các hoạt động của Chính
phủ Mỹ. Ví dụ như Luật về Thực hiện và Kết quả của Chính phủ (GPRA) ban hành
năm 1993 đòi hỏi tất cả các chương trình của Chính phủ Liên bang phải tuân thủ
các yêu cầu về việc đánh giá nhằm tăng tính trách nhiệm, tính hiệu suất và hiệu quả
của các chương trình Chính phủ Liên bang. Căn cứ theo Luật này, việc đánh giá
phải bắt đầu từ lập kế hoạch chiến lược, đặt ra mục tiêu và triển khai thực hiện. Tất
cả các cơ quan Chính phủ Liên bang phải triển khai thực hiện đánh giá tuân thủ theo
Luật về GPRA và báo cáo kết quả đánh giá cho Quốc hội.

16
Ở Mỹ, các hoạt động nghiên cứu được thực hiện trong nhiều loại hình tổ chức:
các trường đại học, các phòng thí nghiệm quốc gia, các doanh nghiệp, có nhiều loại
chương trình nghiên cứu khác nhau được triển khai. Có chương trình hình thành các
đề tài vì mục đích chung, nhưng thường thì căn cứ vào mục đích để xây dựng các

chương trình R&D. Ví dụ: một số chương trình đặt mục tiêu quan trọng là tri thức,
do vậy các nhà quản lý chương trình thực sự phải có trách nhiệm đưa việc tạo ra tri
thức vào chương trình. Quỹ Khoa học Quốc gia của Hoa Kỳ (National Science
Foundation) thực hiện nhiều chương trình với mục tiêu chính là tạo ra tri thức. Ngoài
ra, Viện Sức khoẻ quốc gia, Bộ Năng lượng và Cơ quan Vũ trụ cũng thực hiện những
chương trình này. Các tổ chức nghiên cứu khác cũng hình thành các chương trình với
mục tiêu rất rõ ràng để giải quyết các vấn đề cụ thể của quốc gia: vấn đề năng lượng,
vấn đề nông nghiệp; vấn đề môi trường và quốc phòng. Các chương trình Công nghệ
hướng vào mục tiêu thương mại hoá các sản phẩm và quy trình mới, các chương trình
nguồn lực tập trung vào việc đào tạo những cán bộ nghiên cứu mới để tham gia vào
hệ thống nghiên cứu. Việc hình thành các chương trình cụ thể cũng như tổng thể các
chương trình chính là bức tranh phản ảnh việc xây dựng tiềm lực để bổ sung và tạo ra
các tri thức. Mục tiêu quan trọng nhất của Chính phủ Liên bang là xây dựng nền tảng
tri thức hoặc tạo ra năng lực nghiên cứu cho đất nước.
Luật GPRA yêu cầu tất cả các cơ quan, trong đó có các tổ chức được đầu tư
về KH&CN phải xây dựng kế hoạch chiến lược trong đó nêu rõ mục đích và mục tiêu
cho 5 năm, đệ trình kế hoạch và kết quả hoạt động từng năm. Kế hoạch hoạt động của
từng năm phải được phản ảnh bằng các mục tiêu cụ thể, do vậy báo cáo kết quả hoạt
động hàng năm phải chứng minh được các mục tiêu cụ thể đã đạt được. Văn phòng
Quản lý và Ngân sách là cơ quan trực thuộc Tổng thống sẽ xem xét đánh giá các
chương trình trong quá trình phân bổ kinh phí chủ yếu theo 3 tiêu chí: phù hợp, chất
lượng và kết quả. Tuy nhiên, khi đánh giá các chương trình R&D, các tiêu chí này
bộc lộ một số bất cập, chẳng hạn việc đo lường nghiên cứu, đặc biệt là NCCB.
NCCB là một quá trình, do đó việc đo lường kết quả nghiên cứu hàng năm một
cách trực tiếp là không thực hiện được, vì lợi ích của các tri thức mới vốn dĩ khó đoán

17
trước. Lợi ích của NCCB cần phải được đo bằng cách xem xét theo quá trình lịch sử
trong một thời gian dài. Lịch sử sẽ giúp chúng ta nhận biết một cách rõ ràng qua các
phép đo, rằng lợi ích đối với nước Mỹ trong việc dẫn đầu về NCCB là rất cao - an toàn

sự sống, phát triển các phát minh, tăng việc làm và phúc lợi. Lịch sử cũng chỉ ra rằng
NCCB trong khoa học và kỹ thuật đem đến những kết quả ngoài sự kỳ vọng của chúng
ta hoặc các kết quả có thể xuất hiện sau nhiều năm, thậm chí vài thập kỷ.
Đối với NCƯD thì vấn đề có thể đơn giản hơn: NCƯD thường xác định được
các mốc thời gian để đạt được các kết quả và các đóng góp hàng năm cũng như kết
quả cuối cùng, do đó có thể đo lường kết quả hàng năm. Ví dụ, Bộ Năng lượng đã
xây dựng chương trình R&D với mục đích là sản xuất năng lượng mặt trời có giá rẻ
hơn, như vậy có thể đo lường kết quả nghiên cứu cuối cùng một cách trực tiếp căn
cứ vào giá thành của các pin mặt trời và kết quả hàng năm căn cứ vào tiến độ đã xác
định.
Để giải quyết các vấn đề về đo lường nghiên cứu khi thực hiện đánh giá các
chương trình R&D, Hội đồng Khoa học, Kỹ thuật và Chính sách công của Mỹ đã đề
xuất một số kiến nghị:
Đối với chương trình NCƯD, các tổ chức phải đo lường tiến bộ theo các kết
quả thực tế. Đối với chương trình NCCB, các tổ chức phải đo lường tính xác đáng
(relevance), chất lượng và sự dẫn đầu về trình độ nghiên cứu.
Vì đánh giá NCƯD liên quan trực tiếp đến kết quả thực tế, trong khi đánh giá
NCCB liên quan đến tính hợp lý, chất lượng, sự dẫn đầu về trình độ nghiên cứu rồi
cuối cùng cũng là đưa đến kết quả thực tế, do đó có thể có xu hướng các tổ chức sẽ
nghiêng về chương trình NCƯD mà không chú ý đến NCCB. Cần phải hết sức tránh
điều này và phải duy trì sự cân bằng giữa NCƯD và NCCB.
Các tổ chức Liên bang nên sử dụng đánh giá (suy xét) của chuyên gia để
đánh giá chất lượng của các nghiên cứu mà họ tài trợ, tính xác đáng (sự phù hợp)
của nghiên cứu đối với sứ mạng của các tổ chức, sự dẫn đầu về trình độ nghiên cứu.
Mỗi tổ chức cần phải xây dựng hướng dẫn rõ ràng, nghiêm ngặt về thủ tục và quy
trình thuê các chuyên gia đánh giá.

18
Phương thức đánh giá phổ biến nhất thường được sử dụng theo kiểu đánh giá
(suy xét) của chuyên gia là đánh giá của chuyên gia cùng ngành. Việc này được

thực hiện dựa trên tiền đề là những người có chất lượng nhất chính là các chuyên
gia trong cùng lĩnh vực nghiên cứu sẽ đánh giá chất lượng nghiên cứu. Đánh giá
(suy xét) của chuyên gia bao gồm cả đánh giá chất lượng, đánh giá sự phù hợp và so
sánh, đối chiếu, đồng thời được sử dụng để đánh giá cả các chương trình NCƯD
cũng như NCCB.
Đánh giá của chuyên gia được áp dụng rộng rãi, được sử dụng để giúp các tổ
chức trả lời ba loại câu hỏi liên quan cụ thể đến Luật về GPRA:
- Chất lượng của chương trình nghiên cứu là gì?
- Chương trình nghiên cứu có tập trung vào nội dung phù hợp nhất đối với sứ
mạng của tổ chức không?
- Nghiên cứu được thực hiện có phải là đi đầu trong tri thức KH&CN không?
Các hoạt động đánh giá chương trình R&D ở Mỹ được thực hiện nghiêm
ngặt và có hệ thống.
1.5.2. Tại Canada.
Giới KH&CN thuộc Chính quyền Liên ban Canada đang phải đối mặt với
sức ép giống như chính quyền ở nhiều nước khác trên thế giới, đó là phải cung cấp
thông tin có chất lượng hơn cho người dân về kết quả đạt được của các chương trình
KH&CN.
Ở Canada, chức năng đánh giá chương trình có vai trò và vị trí hết sức vững
chắc trong Chính phủ Liên bang. Hệ thống đánh giá chương trình Liên bang của
Canada được triển khai trong gần 20 năm. Uỷ ban Ngân sách là cơ quan thiết lập chính
sách của Chính phủ Liên bang về đánh giá chương trình. Chính sách đầu tiên về đánh
giá chương trình được ban hành năm 1997, kêu gọi xây dựng năng lực đánh giá ở tất
cả các tổ chức Liên bang và đề nghị các tổ chức đánh giá tất cả các chương trình của
mình theo chu kỳ. Mô hình đánh giá của Liên bang là mô hình phi tập trung. Mỗi tổ
chức chịu trách nhiệm đánh giá sáng kiến của mình theo chính sách của Uỷ ban Ngân
sách, độc lập với bộ phận quản lý, kết quả đánh giá phải được chia sẻ với các cơ quan
bên ngoài có quan tâm, ví dụ như Uỷ ban Ngân sách, các Uỷ ban khác của Quốc hội.
Phần lớn, khuôn khổ đánh giá được thiết lập ngay từ khi chương trình khởi động.


19
Là một lĩnh vực chuyên ngành, đánh giá chương trình KH&CN trong phạm
vi chính quyền Liên bang trở nên phổ biến vào đầu những năm 80, khoảng 5 năm
sau khi đánh giá được thực hiện một cách nề nếp. Chính sách đánh giá đòi hỏi việc
đánh giá phải cung cấp thông tin về ba vấn đề cơ bản liên quan đến các chương
trình, trong đó bao gồm cả chương trình R&D:
- Tính xác đáng (sự phù hợp) của chương trình (liệu chương trình có tiếp tục
phù hợp với các ưu tiên của tổ chức và Chính phủ không, có đáp ứng được nhu cầu
hiện hành không?)
- Thành công của chương trình (liệu các sáng kiến có đáp ứng được mục tiêu
và đạt kết quả như mong đợi không?)
- Hiệu quả chi phí (liệu chương trình có tập hợp được các thiết kế và cách
thức thực hiện hiệu quả nhất không?)
Ở các tổ chức như Hội đồng NCKH tự nhiên và kỹ thuật, Hội đồng Tài
nguyên và Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia Canada, phần lớn các nguồn lực là dành
để thực hiện các chương trình R&D, do đó năng lực đánh giá KH&CN chuyên
nghiệp đã được phát triển. Đánh giá của chuyên gia cùng ngành (peer review) là
phương pháp được sử dụng phổ biến khi đánh giá chất lượng R&D trong các tổ
chức này từ những năm 60. Các phương pháp đánh giá bổ sung, ví dụ như các khảo
sát về khách hàng, khách hàng tiềm năng và đội ngũ nhân viên bắt đầu được áp
dụng cùng với những nghiên cứu tình huống và phân tích chi phí-lợi ích.
Với vai trò là cơ quan điều phối trung ương, Ban Thư ký của Uỷ ban Ngân sách
cung cấp sự hỗ trợ và các hướng dẫn đánh giá KH&CN cho các ban ngành, nâng cao
nhận thức của ban ngành về sự cần thiết phải kết nối các vấn đề đánh giá với chính
sách KH&CN của Chính phủ cũng như các mối quan tâm của riêng họ. Ví dụ, tài liệu
thảo luận năm 1986 đã đưa ra phương pháp đánh giá R&D chung trong phạm vi của
Chính phủ. Tài liệu này mô tả về NCCB và NCƯD định hướng theo nhiệm vụ và phi
nhiệm vụ. Nó đề cập đến hàng loạt chủ đề về đánh giá, từng chủ đề liên quan đến các
tiêu chuẩn đánh giá về tính xác đáng, quản lý chương trình, kết quả và sự lựa chọn.
Kể từ khi hoạt động đánh giá được đưa vào thực hiện trong các cơ quan ở

Canada, có nhiều nghiên cứu tập trung vào việc nâng cao hoạt động chương trình,
giảm chi phí hoặc làm cho các chương trình hiệu quả hơn. Thông tin thu được từ

20
khảo sát khách hàng cho phép nhà quản lý nắm bắt được sâu hơn các mối quan tâm
và ý kiến khách hàng để có thể trợ giúp việc thiết kế lại chương trình phù hợp hơn
với nhu cầu của khách hàng. Các nghiên cứu cũng xác định những khó khăn của Ban
quản lý và đội ngũ cán bộ trong phạm vi bộ máy Chính phủ nhằm tạo ra môi trường
tích cực và những ưu đãi thích hợp cho tiến bộ khoa học và chuyển giao công nghệ.
1.5.3. Tại Hàn Quốc
Năm 1982, Hàn Quốc xây dựng chương trình R&D đầu tiên của đất nước.
Trước đó nghiên cứu R&D chỉ ở mức độ các dự án và do Bộ KH&CN quản lý.
Đầu những năm 90, ngoài Bộ KH&CN thì Hàn Quốc bắt đầu phát triển nhiều
chương trình nghiên cứu R&D ở các Bộ ngành khác nhau và đến giữa những năm
90 việc đánh giá các chương trình R&D mới được bắt đầu. Tuy nhiên, các Bộ ngành
tự tổ chức điều phối thực hiện chương trình R&D do mình quản lý.
Trong vòng 15 năm qua, ngân sách quốc gia của Hàn Quốc dành cho R&D
tăng gấp 10 lần. Với số tiền 5% ngân sách chi cho R&D lên đến 7,7 tỷ đôla Mỹ như
hiện nay và số lượng các chương trình cũng như số các đơn vị tham gia thực hiện
nghiên cứu càng tăng thì yêu cầu bảo đảm tính hiệu quả và minh bạch trong việc
phân bổ và sử dụng ngân sách R&D của Chính phủ được chú trọng đặc biệt. Để đạt
được điều này, cần thiết phải tiến hành đánh giá quá trình thực hiện các chương
trình R&D. Đánh giá chương trình R&D ở Hàn Quốc được thực hiện hàng năm để
kết luận về tính hợp lý và kết quả thực hiện chương trình trong năm qua, qua đó sẽ
có định hướng tiếp tục đầu tư cho chương trình như thế nào trong năm tới, đưa ra
những kiến nghị để cải tiến phương pháp thực hiện chương trình. Ví dụ một chương
trình mà 2 năm liền bị đánh giá là kém thì Hội đồng KH&CN Quốc gia (cơ quan
quyền lực cao nhất về KH&CN của Hàn Quốc) sẽ quyết định dừng chương trình, từ
đó Bộ Kế hoạch và Ngân sách không cấp tiền tiếp.
Tháng 5 năm 1997, Chính phủ Hàn Quốc đã ban hành “Luật về cải cách

KH&CN” và bắt đầu thực hiện các công tác “điều tra, phân tích và đánh giá” các
chương trình R&D quốc gia theo tinh thần của Bộ luật trên. Năm 1999, thành lập
Hội đồng KH&CN Quốc gia để chỉ đạo về khoa học & công nghệ, đặc biệt trong
vai trò giám sát điều hành các hoạt động liên quan đến đánh giá và điều chỉnh trước
đối với các chương trình R&D quốc gia có nguồn vốn từ ngân sách của Nhà nước.

21
Trong các quốc gia thuộc OECD, Hàn Quốc được coi là nước đang tiến
vững chắc trên con đường đến giám sát đánh giá, có mô hình triển khai hoạt động
đánh giá các chương trình R&D đồng bộ và nhất quán. Hệ thống đánh giá chương
trình R&D ở Hàn Quốc là duy nhất, không giống với hệ thống đánh giá của nước
nào, không có nước nào trên thế giới tập trung tất cả chương trình R&D để Hội
đồng cấp quốc gia đánh giá như ở Hàn Quốc. Viện Đánh giá và Lập kế hoạch
KH&CN Hàn Quốc (KISTEP) được thành lập năm 1998, có chức năng lập kế hoạch
và tổ chức điều tra, phân tích đánh giá các chương trình R&D quốc gia.
Các chương trình KH&CN ở Hàn Quốc được phân loại theo đặc tính kinh tế
xã hội (không phân loại theo chuyên ngành công nghệ) và được chia thành 10 nhóm:

Công nghệ cơ bản (nền): (BT, NT, thiên văn học, …)
Công nghệ công cộng (năng lượng, giao thông, vũ trụ, biển,
Xây dựng…)
Công nghệ phúc lợi (môi trường, y tế…)
Công nghệ công
nghiệp
Công nghệ công nghiệp ngắn hạn
Công nghệ công nghiệp trung & dài hạn
Hạ tầng phục vụ
nghiên cứu
Hợp tác quốc tế, phát triển nguồn nhân lực
Hỗ trợ thiết bị phục vụ nghiên cứu

Phát triển môi trường nghiên cứu (xây dựng cơ bản)
Viện nghiên cứu
quốc gia
Hỗ trợ các viện nghiên cứu quốc gia (chi phí hoạt động)
Quốc phòng
Công nghệ quốc phòng
Hội đồng KH&CN quốc gia (NSTC) không đánh giá các chương trình Khoa
học xã hội & nhân văn, nghiên cứu chính sách và chương trình quốc phòng được
xếp loại là bí mật. Các chương trình này do các cơ quan khác thực hiện đánh giá. Để
tiết kiệm thời gian và đầu tư vào đánh giá chương trình, Hàn Quốc chỉ đánh giá
những chương trình R&D đáp ứng 2 điều kiện sau:
- Kinh phí trên 10 triệu US$ cho một chương trình.
- Có tầm quan trọng đặc biệt với chiến lược phát triển KH&CN quốc gia.

22
Hàn Quốc vẫn luôn tìm cách cải tiến hệ thống đánh giá KH&CN của mình,
học tập kinh nghiệm của các nước phát triển, tham gia Hiệp hội đánh giá nghiên cứu
của thế giới (WREN)… nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đánh giá nói chung và
đánh giá chương trình R&D nối riêng.
1.5.4. Tại Trung Quốc
Năm 1994, Bộ KH&CN Trung Quốc đã thành lập Trung tâm Đánh giá
KH&CN Quốc gia (NCSTE). Trung tâm đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp
nội dung và đánh giá khách quan nhằm giúp các cơ quan Nhà nước, các công ty và
các tổ chức đầu tư ra quyết định liên quan đến việc phát triển KH&CN. Một trong
những nhiệm vụ chính của Trung tâm là đánh giá các đề tài, chương trình KH&CN
do Chính phủ tài trợ, bao gồm đánh giá trước, đánh giá giữa kỳ và đánh giá kết thúc.
Trung tâm Đánh giá KH&CN quốc gia Trung Quốc đã xây dựng bộ “Tiêu
chuẩn để đánh giá KH&CN”, bộ Tiêu chuẩn này được ban hành năm 2001. Trong
phần chính của bộ Tiêu chuẩn, tiêu chuẩn được hình thành theo 3 cấp độ. Cấp độ
đầu tiên là tiêu chuẩn cơ bản, bao gồm các nguyên tắc chính, quy tắc đạo đức và các

thuật ngữ về đánh giá KH&CN. Cấp độ thứ hai là các tiêu chuẩn kỹ thuật, bao gồm
các quy trình, nghĩa vụ và quyền hạn chính của các bên liên quan trong đánh giá.
Cấp độ thứ ba, bao gồm các cam kết đối với tiêu chuẩn, như làm thế nào để duy trì
tính độc lập, khách quan và công bằng. Tiêu chí đánh giá theo bộ Tiêu chuẩn:
- Tiêu chí về chính sách: Các hoạt động R&D có chú ý đến chính sách phát
triển của quốc gia không?
- Tiêu chí mục tiêu: Chương trình có phù hợp với mục tiêu R&D không?
- Tiêu chí kết quả: Các đầu ra/kết quả có theo đúng mục tiêu không?
- Tiêu chí hiệu suất: Các đầu ra có tối đa bởi đầu vào?
- Tiêu chí tác động: Tác động tích cực/tiêu cực dài hạn của R&D?
- Tiêu chí hiệu quả: Hoạt động R&D có hỗ trợ một cách hiệu quả không?
- Tiêu chí công bằng: Liệu hoạt động R&D có mang lại sự phân bổ không
công bằng về nguồn lực, lợi ích hoặc chi phí không?
NCSTE đã tiến hành đánh giá chương trình R&D CNC - 863 sau 15 năm
thực hiện theo các lĩnh vực: công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, năng lượng,

23
vật liệu tiên tiến và hải dương. Xác định và khai thác thông tin từ nhiều nguồn khác
nhau là một nhân tố quan trọng trong việc đánh giá. Thông tin thu thập được chia
thành 3 loại:
- Loại A: Thông tin nội bộ do các Văn phòng quản lý chương trình cung cấp
- Loại B: Thông tin do các nhóm đánh giá thu thập độc lập, gồm phiếu điều tra,
thảo luận tại các hội thảo, điều tra hiện trường, hội nghị bàn tròn của các bên liên quan.
- Loại C: Thông tin và dữ liệu phù hợp với quy trình đánh giá và nghiên cứu.
Việc đánh giá Chương trình 863 được tiến hành theo phương thức hội nghị bàn
tròn để thảo luận công khai trên cơ sở tìm kiếm để đi đến sự thống nhất, đồng thuận từ
các quan điểm khác nhau thông qua đối thoại và tìm ra những sự khác nhau đó. Thành
phần chính tham gia vào hội nghị bàn tròn là những người có liên quan, đó là những
người chịu trách nhiệm quản lý chương trình hoặc những người liên quan trực tiếp đến
chương trình. Nguyên tắc của hội nghị bàn tròn: (1) đối thoại bình đẳng giữa các bên

tham gia, không phân biệt địa vị, chức danh; (2) Thảo luận những vấn đề đã được
chuẩn bị trước; (3) Khuyến khích mọi người trao đổi với các quan điểm khác nhau; (4)
Thảo luận kết quả, cả đồng thuận hoặc khác biệt, phải có Biên bản hội nghị. Những
nguyên tắc này phải được thông báo trước cho tất cả những người tham dự.
Kết quả đánh giá cho thấy, Chương trình 863 đã huy động được thế mạnh
trong giới khoa học Trung Quốc, do đó hình thành nên được đội ngũ R&D CNC ở
tầm quốc gia, tuy nhiên mới chỉ có các viện trong khu vực công và trường đại học
tham gia là chủ yếu, khu vực doanh nghiệp tham gia với mức độ rất thấp (chiếm
5%), lực lượng tham gia chủ yếu tập trung ở Bắc Kinh và Thượng Hải. Chương
trình 863 đã đào tạo được một số lượng lớn các nhà khoa học CNC có năng lực, do
đó đã xây dựng được đội ngũ cán bộ cốt lõi cho công tác R&D CNC của đất nước,
đã thúc đẩy sự hợp tác và trao đổi quốc tế về CNC của Trung Quốc.
Điểm đặc biệt khi đánh giá Chương trình 863 là đã tổ chức cho các nhà
nghiên cứu sau tiến sĩ đưa ra các đề xuất cho việc đánh giá chương trình để nhằm
thấy được quan điểm và dự báo của họ là gì đối với sự phát triển CNC ở Trung
Quốc từ góc độ của các nhà khoa học trẻ. Các điều tra khảo sát cho thấy Chương

×