TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
______________________________
PHAN CẨM TÚ
TÍNH THÍCH ỨNG CỦA THIẾT CHẾ QUẢN LÝ
ĐỐI VỚI VIỆC THÚC ĐẨY ỨNG DỤNG
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
VÀ HÌNH THÀNH CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ
TẠI BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
LUẬN VĂN THAC SĨ
Chuyên ngành: Khoa học quản lý
Hà Nội - 2009
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
______________________________
PHAN CẨM TÚ
TÍNH THÍCH ỨNG CỦA THIẾT CHẾ QUẢN LÝ
ĐỐI VỚI VIỆC THÚC ĐẨY ỨNG DỤNG
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
VÀ HÌNH THÀNH CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ
TẠI BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Chuyên ngành: Khoa học quản lý
Mã số: 60.34.72
Người hướng dẫn khoa học: TS. Mai Hà
Hà Nội - 2009
2
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN 1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 4
PHẦN MỞ ĐẦU 5
1. Lý do nghiên cứu 5
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 7
3. Mục tiêu nghiên cứu 9
4. Phạm vi nghiên cứu 9
5. Mẫu khảo sát 10
6. Vấn đề nghiên cứu 10
8. Phương pháp chứng minh giả thuyết 12
9. Kết cấu luận văn 12
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 14
1.1. Các khái niệm liên quan 14
1.1.1 Khái niệm quản lý 14
1.1.2 Khái niệm quản lý nhà nước 14
1.1.3 Khái niệm quản lý hành chính nhà nước 15
1.1.4 Khái niệm thiết chế xã hội 16
1.1.5 Khái niệm cải cách hành chính 18
1.1.6 Khái niệm dịch vụ công và dịch vụ công trực tuyến 19
1.1.7 Khái niệm CNTT 21
1.1.8 Khái niệm HTTT 21
1.1.9 Khái niệm CPĐT 23
1.2 Tin học hoá quản lý nhà nước hướng tới "nền hành chính điện tử" 24
1.3 Các nội dung ứng dụng CNTT phục vụ quản lý hành chính nhà nước 26
Kết luận Chương 1 27
CHƯƠNG 2. HIỆN TRẠNG, XU THẾ TRIỂN KHAI ỨNG DỤNG
CNTT TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VÀ ĐỊNH
HƯỚNG HÌNH THÀNH CPĐT 29
2.1. Tình hình triển khai ứng dụng CNTT và CPĐT tại một số nước trên thế
giới 29
2.1.1 Tại Ấn Độ 30
2.1.2 Tại Hàn Quốc 31
2.1.3 Tại Singapore 31
2.1.4 Bàn luận về kết quả 33
3
2.2. Tình hình triển khai ứng dụng CNTT, định hướng hình thành CPĐT
trong các cơ quan nhà nước của Việt Nam 35
2.2.1 Các giai đoạn ứng dụng CNTT trong cơ quan nhà nước 35
2.2.2. Ứng dụng CNTT trong công tác quản lý, điều hành 39
2.2.3 Ứng dụng CNTT phục vụ người dân và doanh nghiệp 40
2.2.4 Hạ tầng kỹ thuật CNTT 41
2.2.5. Nguồn nhân lực ứng dụng CNTT 41
2.2.6. Bàn luận về kết quả 44
2.3. Tình hình ứng dụng CNTT, triển khai CPĐT ở một số Bộ, ngành tiêu
biểu 45
2.3.1. Tại Bộ Công Thương 45
2.3.2 Tại Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh 50
2.4. Hiện trạng phát triển ứng dụng CNTT và CPĐT tại Bộ KH&CN 54
2.4.1. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật CNTT 54
2.4.2. Các phần mềm hệ thống và dịch vụ mạng 57
2.4.3. Các ứng dụng CNTT phục vụ công tác quản lý, tác nghiệp, người
dân và doanh nghiệp 58
2.4.4. Nguồn nhân lực CNTT 62
2.4.5. Bàn luận về kết quả 63
Kết luận Chương 2 68
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢP PHÁP ĐỂ THIẾT CHẾ QUẢN LÝ CÓ THỂ
THÚC ĐẨY ỨNG DỤNG CNTT TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ
HÌNH THÀNH CPĐT TẠI BỘ KH&CN 69
3.1 Tính thích ứng của thiết chế quản lý đối với việc thúc đẩy ứng dụng
CNTT trong công tác quản lý và định hướng hình thành CPĐT tại Bộ
KH&CN 69
3.1.1 Ảnh hưởng của các văn bản quản lý chung của nhà nước đối với
việc thúc đẩy ứng dụng CNTT, CPĐT tại Bộ KH&CN 69
3.1.2 Ảnh hưởng của các văn bản quản lý do Bộ KH&CN đối với việc
thúc đẩy ứng dụng CNTT, CPĐT tại Bộ KH&CN 75
3.2. Các giải pháp thúc đẩy ứng dụng CNTT trong công tác quản lý và hình
thành CPĐT tại Bộ KH&CN 82
3.2.1. Nhóm giải pháp liên quan đến việc hoàn thiện môi trường pháp lý
đảm bảo việc ứng dụng CNTT phục vụ quản lý hành chính nhà nước và
định hướng hình thành CPĐT 83
3.2.2 Nhóm các giải pháp về phát triển nguồn nhân lực 85
3.2.3 Nhóm giải pháp liên quan đến phương thức tổ chức điều hành thực
hiện các dự án CNTT 86
KẾT LUẬN 88
KHUYẾN NGHỊ 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
4
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1
Công nghệ thông tin
CNTT
2
Công nghệ thông tin và Truyền thông
CNTT-TT
3
Chính phủ điện tử
CPĐT
4
Cơ sở dữ liệu
CSDL
5
Cải cách hành chính
CCHC
6
Khoa học và Công nghệ
KH&CN
7
Hệ thống thông tin
HTTT
8
Uỷ ban nhân dân
UBND
9
Văn bản quy phạm pháp luật
VBQPPL
5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu
Cuộc cách mạng CNTT-TT, đặc biệt là xu thế triển khai CPĐT
cùng với quá trình toàn cầu hóa đang tác động mạnh mẽ, sâu sắc và toàn
diện đến mọi mặt trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trên
toàn thế giới. Cuộc cách mạng KH&CN này đã và đang tạo ra cơ hội
cho những biến đổi cơ bản và những thành công to lớn của các nước
trên thế giới. Trong hai thập kỷ gần đây, nhiều nước trên thế giới đã nắm
bắt được cơ hội ứng dụng CNTT, phát huy thế mạnh, tăng cường năng
lực kinh tế - xã hội để tạo ra những biến đổi vượt bậc, đưa đất nước tiến
mạnh lên phía trước.
CNTT-TT đã trở thành một trong những động lực chủ yếu thúc
đẩy KH&CN phát triển. Sự phát triển nhanh chóng của các công nghệ
hiện đại trong lĩnh vực CNTT-TT, đặc biệt là mạng Internet đang tạo ra
những thay đổi đáng kể trong việc tổ chức và quản lý công tác nghiên
cứu triển khai nói riêng và trong cả hệ thống ngành KH&CN nói chung.
Trong những năm gần đây, nhiều quốc gia trên thế giới đã tập
trung tiến hành cải cách khu vực hành chính công với mục tiêu xây
dựng bộ máy hành chính công năng động, hiệu quả, minh bạch và đặc
biệt là hướng nhiều hơn đến cung cấp dịch vụ công cho người dân, tổ
chức, doanh nghiệp theo mô hình CPĐT.
Thực tiễn đã và đang khẳng định CPĐT là công cụ để tăng cường
năng lực của chính phủ, làm cho chính phủ hoạt động hiệu lực, hiệu quả
hơn, minh bạch hơn, phục vụ nhân dân tốt hơn và phát huy dân chủ
mạnh mẽ hơn. CPĐT chính là xu thế chuyển đổi từ một chính phủ quản
lý hành chính sang một chính phủ cung cấp dịch vụ công cho xã hội và
là xu thế phát triển chung hiện nay trên toàn thế giới.
Để hội nhập với xu thế phát triển chung của thế giới và khu vực,
6
Chính phủ Việt Nam đã ký kết Hiệp định khung ASEAN điện tử (E-
ASEAN) từ năm 2000 về cam kết thực hiện mục tiêu xây dựng CPĐT.
Đặc biệt, Chỉ thị số 58-CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ Chính trị về
đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đã khẳng định “Ứng dụng và phát triển CNTT ở nước
ta nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của
toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại
hoá các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo an ninh,
quốc phòng và tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Do vậy, từ năm 2000 đến nay,
một loạt các Chương trình, Đề án, Dự án về tin học hóa hoạt động quản
lý của các cơ quan Đảng, Chính phủ, Quốc hội, các Bộ, ngành và địa
phương đã được Nhà nước đầu tư triển khai thực hiện. Đặc biệt, việc
đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước và
định hướng hình thành CPĐT đã được Thủ tướng Chính phủ thể chế hóa
tại Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 về ứng dụng CNTT
trong hoạt động của cơ quan nhà nước nhằm nâng cao chất lượng, hiệu
quả trong hoạt động của cơ quan nhà nước và giữa các cơ quan nhà
nước, trong giao dịch điện tử của cơ quan nhà nước với các tổ chức và
cá nhân; hỗ trợ cải cách thủ tục hành chính và cung cấp dịch vụ công
bảo đảm công khai, minh bạch.
Là một cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về
KH&CN, từ năm 1996 đến nay, để thực hiện các chủ trương, chính sách
về phát triển CNTT của Đảng và Nhà nước, Bộ KH&CN đã tổ chức
triển khai thực hiện một số dự án phát triển ứng dụng CNTT theo hướng
dẫn chung của Chương trình quốc gia về CNTT (1996-2000), Chương
7
trình Tin học hóa quản lý nhà nước (2001-2005), Nghị định
64/2007/NĐ-CP về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà
nước, Quyết định số 43/2008/QĐ-TTg về việc phê duyệt kế hoạch ứng
dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước năm 2008 và gần
đây nhất là Quyết định số 48/2009/QĐ-TTg về việc phê duyệt kế hoạch
ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2009-
2010.
Tuy đã đạt được một số kết quả nhất định, nhưng vẫn còn tồn tại
nhiều vấn đề bất cập cần giải quyết trong việc triển khai các ứng dụng
CNTT hỗ trợ công tác điều hành tác nghiệp theo nhiệm vụ được giao và
nhất là việc cung cấp dịch vụ công định hướng hình thành CPĐT tại Bộ
KH&CN.
Việc đánh giá đúng thực trạng ứng dụng CNTT, xác định mức độ
ảnh hưởng trong mối quan hệ giữa thiết chế quản lý với việc triển khai
ứng dụng CNTT, định hướng hình thành CPĐT tại Bộ KH&CN sẽ là cơ
sở quan trọng cho việc đề xuất những giải pháp tổ chức, quản lý, điều
hành để nâng cao một bước hiệu quả việc ứng dụng CNTT vào công tác
quản lý nhà nước về KH&CN theo hướng hình thành Bộ KH&CN điện
tử, góp phần đưa KH&CN trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chính phủ của nhiều nước trên thế giới đã xây dựng các HTTT từ
những 1970 và 1980. Từ những năm 1990, mạng Internet phát triển
thành xa lộ thông tin toàn cầu, nhiều nước đã thực hiện tin học hoá các
hoạt động của Chính phủ - sau này phát triển thành khái niệm CPĐT:
Chính phủ Mỹ từ năm 1993 đã đề xướng chương trình “Đổi mới chính
phủ”; Singapore có chương trình “Chính phủ nối mạng” từ năm 1995;
người Anh thực hiện dự án “Chính phủ hiện đại” từ năm 1997; Hàn
quốc có chương trình “Người điều khiển Hàn quốc thế kỷ XXI” từ 1998;
8
nước Nhật có dự án “Thiên niên kỷ” từ năm 1999 Hiệp định ASEAN
điện tử năm 2000 là quyết tâm mới của các nhà lãnh đạo ASEAN nhằm
thực hiện chính phủ điện tử trong 10 nước thành viên. Ứng dụng CNTT
trong công tác quản lý hành chính nhà nước và CPĐT đã được nhiều
nước trên thế giới quan tâm triển khai từ lâu, ở nước ta việc ứng dụng
CNTT thực chất mới được đẩy mạnh từ giữa những năm 90 của thế kỷ
trước cho đến nay. Đây là quá trình vận dụng có chọn lọc những thành
tựu và kinh nghiệm của nước ngoài vào thực tiễn nước ta. Do đặc thù
của điều kiện kinh tế - xã hội và thể chế chính trị nước ta, quá trình vận
dụng này khá phức tạp. Có thể tổng kết tóm tắt quá trình này qua những
giai đoạn sau:
+ Giai đoạn 1996-2000: Thực hiện Kế hoạch tổng thể phát triển
CNTT trong Chương trình quốc gia về CNTT;
+ Giai đoạn 2001- 2005: Thực hiện Đề án tin học hoá quản lý
hành chính nhà nước;
+ Giai đoạn: 2006 - nay: Thực hiện chiến lược phát triển CNTT-
TT Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, thực hiện
ứng dụng CNTT trong các cơ quan nhà nước.
Ứng dụng CNTT phục vụ công tác nghiệp vụ, quản lý, điều hành
trong các cơ quan nhà nước, bộ, ngành, tỉnh, thành là nhiệm vụ đã được
xác định rõ ràng, quán triệt từ nhiều năm nay, thông qua các chỉ thị, nghị
định, quyết định quan trọng của Nhà nước và Chính phủ. Nghị định 64
của Chính phủ ban hành năm 2007 là định hướng mới nhất cho con
đường ứng dụng CNTT trong các cơ quan nhà nước, tiến tới hình thành
CPĐT ở VN.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về kết quả thực hiện của từng
giai đoạn. Qua đó có thể thấy mỗi giai đoạn đều đạt được những thành
9
tựu nhất định, song cũng nẩy sinh nhiều vấn đề làm hạn chế kết quả của
việc sử dụng CNTT trong công tác quản lý hành chính nhà nước.
Việc xác định những khó khăn trong việc ứng dụng CNTT, định
hướng hình thành CPĐT, đồng thời phân tích ảnh hưởng của thiết chế
quản lý có liên quan đến hoạt động ứng dụng CNTT, đề xuất các giải
pháp phù hợp vẫn chưa được nghiên cứu một cách cơ bản và hệ thống
tại Bộ KH&CN.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu ảnh hưởng của các thiết chế quản lý đến việc triển
khai, phát triển các ứng dụng CNTT trong công tác quản lý nhà nước và
định hướng hình thành CPĐT tại Bộ KH&CN.
Đề xuất các giải pháp về tổ chức, quản lý, điều hành của Bộ
KH&CN để thúc đẩy việc ứng dụng CNTT trong công tác quản lý điều
hành nội bộ và quản lý KH&CN nói chung, định hướng hình thành
CPĐT tại Bộ.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian:
Tại Bộ KH&CN và một số Bộ, ngành tiêu biểu
Phạm vi thời gian:
Nghiên cứu các thiết chế quản lý có liên quan đến CNTT cho đến
thời điểm hiện nay.
Phạm vi nội dung:
- Phân tích xu thế triển khai ứng dụng CNTT, CPĐT trong quản
lý nhà nước;
- Đánh giá hiện trạng ứng dụng CNTT trong công tác quản lý
hành chính nhà nước, triển khai CPĐT tại Bộ KH&CN;
10
- Đánh giá ảnh hưởng của thiết chế quản lý có liên quan đến
CNTT đối với việc ứng dụng CNTT và triển khai CPĐT tại Bộ
KH&CN;
- Đề xuất các giải pháp về tổ chức, quản lý, điều hành của Bộ
KH&CN nhằm thúc đẩy việc ứng dụng CNTT, định hướng hình thành
CPĐT tại Bộ.
5. Mẫu khảo sát
- Các đơn vị trực thuộc Bộ KH&CN;
- Kết quả triển khai ứng dụng CNTT vào công tác quản lý hành
chính nhà nước tại một số Bộ, ngành, địa phương;
- Mô hình triển khai CPĐT của một số nước trên thế giới.
6. Vấn đề nghiên cứu
Hiện trạng ứng dụng CNTT trong công tác quản lý hành chính nhà
nước của Bộ KH&CN hiện nay như thế nào?
Ảnh hưởng của các thiết chế quản lý (của nhà nước nói chung và
của Bộ KH&CN nói riêng) đối với việc thúc đẩy ứng dụng CNTT và
triển khai CPĐT tại Bộ KH&CN là như thế nào?
Những giải pháp tổ chức, quản lý, điều hành nào của Bộ KH&CN
được đề xuất để góp phần nâng cao một bước hiệu quả việc đưa CNTT
vào công tác quản lý điều hành nội bộ và quản lý KH&CN nói chung,
định hướng hình thành CPĐT tại Bộ.
7. Giả thuyết nghiên cứu
Hiện trạng ứng dụng CNTT tại Bộ KH&CN:
Hạ tầng cơ sở kỹ thuật có khả năng đáp ứng cơ bản cho việc triển
khai các dự án CNTT; Nhiều ứng dụng CNTT đã được triển khai thực
hiện phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo Bộ cũng
như hỗ trợ công tác chuyên môn, nghiệp vụ của chuyên viên; Một số
11
dịch vụ công đã được xây dựng tuy mới ở mức sơ khai; Nhận thức của
cán bộ, công chức về vai trò và tác dụng của CNTT được nâng cao.
Tuy nhiên, việc ứng dụng CNTT để nâng cao năng lực điều hành,
quản lý, phục vụ người dân và doanh nghiệp tại Bộ KH&CN chưa đạt
được các mong muốn của người dân , doanh nghiệp và các yêu cầu của
Chính phủ quy định.
Ảnh hưởng của các thiết chế quản lý đối với việc thúc đẩy ứng
dụng CNTT và định hướng hình thành CPĐT tại Bộ KH&CN:
Ngoài việc tổ chức thực hiện theo các thiết chế quản lý chung của
Nhà nước trên phạm vi toàn quốc về phát triển ứng dụng CNTT đã ban
hành, dựa trên các chính sách thúc đẩy phát triển ứng dụng CNTT của
Nhà nước, Bộ KH&CN đã ban hành được một số văn bản quy định cụ
thể về sử dụng tài nguyên mạng máy tính, cung cấp thông tin trong các
HTTT quản lý và trên mạng nội bộ, thiết lập đơn vị chuyên trách về
CNTT… Những thiết chế quản lý đó đã phát huy tác dụng thúc đẩy quá
trình triển khai ứng dụng CNTT và CPĐT tại Bộ KH&CN. Nhưng do
chưa có chiến lược và kế hoạch tổng thể về ứng dụng CNTT của Bộ,
thiếu cơ sở pháp lý triển khai các ứng dụng CNTT trong Bộ (Phân cấp
quản lý, khai thác sử dụng , chia sẻ, cập nhật thông tin, sự phối hợp
giữa các đơn vị, hoạt động của Ban chỉ đạo ứng dụng CNTT, qui định
chức năng của đơn vị chịu trách nhiệm về phát triển ứng dụng CNTT
…), dẫn tới việc ứng dụng CNTT trong Bộ chưa thực sự hiệu quả, chưa
đạt được mục tiêu đề ra của Chính phủ.
Giải pháp tổ chức, quản lý, điều hành để thúc đẩy ứng dụng
CNTT, hình thành CPĐT tại Bộ KH&CN
- Nhóm giải pháp liên quan đến việc hoàn thiện môi trường pháp
lý: Cụ thể hóa các cơ chế, chính sách về phát triển công nghệ thông tin
12
chung của nhà nước tại Bộ KH&CN, các quy định về việc quy trình làm
việc, chia sẻ thông tin, giám sát, kiểm tra, đánh giá ;
- Nhóm các giải pháp về phát triển nguồn nhân lực và nâng cao
năng lực ứng dụng CNTT và CPĐT tại Bộ KH&CN;
- Nhóm giải pháp liên quan đến phương thức tổ chức thực hiện
các dự án CNTT.
8. Phương pháp chứng minh giả thuyết
Đề thực hiện các nội dung nghiên cứu, các phương pháp nghiên
cứu sau đã được sử dụng:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: đề tài đã thu thập và nghiên cứu
các liệu liên quan như: các tài liệu giảng dạy lý thuyết về khoa học
chính sách, kết quả nghiên cứu các đề tài, dự án liên quan đến việc triển
khai ứng dụng CNTT vào công tác quản lý nhà nước, các bài báo khoa
học, văn bản quy phạm pháp luật liên quan.
Phương pháp điều tra: Để xác định thực trạng việc ứng dụng
CNTT trong công tác quản lý nhà nước tại Bộ KH&CN, đề tài đã tiến
hành điều tra khảo sát 29 đơn vị trực thuộc Bộ KH&CN thuộc các khối
quản lý nhà nước và đơn vị sự nghiệp.
Đề tài cũng có tham khảo ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh
vực CNTT và trên cơ sở các nguồn thông tin để phân tích và đề xuất các
giải pháp thúc đẩy ứng dụng CNTT và triển khai CPĐT tại Bộ KH&CN.
9. Kết cấu luận văn
Bản Luận văn gồm những nội dung chính sau:
Phần mở đầu;
Chương 1: Cơ sở lý luận;
1.1 Các khái niệm liên quan
1.2 Tin học hóa quản lý nhà nước hướng tới “nền hành chính điện
tử
13
1.3 Các nội dung ứng dụng CNTT phục vụ quản lý hành chính nhà
nước
Kết luận Chương 1
Chương 2: Hiện trạng, xu thế triển khai ứng dụng CNTT trong
công tác quản lý nhà nước và định hướng high thành CPĐT;
2.1 Tình hình triển khai ứng dụng CNTT, CPĐT tại một số nước
trên thế giới
2.2 Tình hình triển khai ứng dụng CNTT, CPĐT trong các cơ quan
nhà nước của Việt Nam
2.3 Tình hình triển khai ứng dụng CNTT, CPĐT ở một số Bộ,
ngành tiêu biểu
2.4 Hiện trạng triển khai ứng dụng CNTT, CPĐT tại Bộ KH&CN
Kết luận Chương 2
Chương 3: Các giải pháp để thiết chế quản lý có thể thúc đẩy ứng
dụng CNTT trong công tác quản lý và hình thành CPĐT tại Bộ
KH&CN;
3.1 Tính thích ứng của thiết chế quản lý đối với việc thúc đẩy ứng
dụng CNTT, CPĐT tại Bộ KH&CN
3.2 Các giải pháp thúc đẩy phát triển ứng dụng CNTT, hình thành
CPĐT tại Bộ KH&CN
Kết luận;
Khuyến nghị;
14
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Các khái niệm liên quan
1.1.1 Khái niệm quản lý
Theo cách quan niệm chung nhất thì “quản lý là việc đạt được
mục tiêu thông qua người khác”. Nhu cầu quản lý gắn với tổ chức. Tổ
chức có thể được xem là một tập hợp từ hai người trở lên, phải phối hợp
với nhau theo một cách thức nhất định để đạt được mục tiêu chung đã
đặt ra. Như vậy, tổ chức, cho dù đó là chính thức hay không chính thức,
cho dù có thể rất khác biệt về quy mô, phạm vi tác động hay cách thức
hành động, đều có chung một yếu tố căn bản, đó là mục tiêu. Mọi tổ
chức đều cần phân công lao động một cách khoa học và tinh thần hợp
tác cao để đạt được mục tiêu chung. Quản lý là một điều kiện không thể
thiếu được để tạo nên các yếu tố đó. Điều này càng đúng hơn trong bối
cảnh thay đổi hiện nay, khi thách thức về năng lực về năng lực khảng
định diện mạo, uy tín và tính chuyên môn hóa của từng tổ chức càng trở
nên cao hơn bao giờ hết
Quản lý còn có thể hiểu là hoạt động nhằm tác động một cách có
tổ chức và có định hướng của chủ thể quản lý vào một đối tượng nhất
định để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi con người nhằm duy
trì tính ổn định và phát triển của đối tượng theo những mục tiêu đã
định.[7, tr 7)
1.1.2 Khái niệm quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính
quyền lực nhà nước, sử dụng pháp luật nhà nước để điều chỉnh hành vi
hoạt động của con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, do
các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm thỏa mãn nhu cầu
hợp pháp của con người, duy trì sự ổn định và phát triển xã hội. [7, tr 8]
15
1.1.3 Khái niệm quản lý hành chính nhà nước
Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động quan trọng, chủ yếu
của quản lý nhà nước. Đó là hoạt động thực thi quyền hành pháp của
Nhà nước, là hoạt động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà
nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của các cá nhân
do các cơ quan trong hệ thống hành chính từ chính quyền trung ương tới
cơ sở tiến hành để thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà
nước, nhằm duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp
luật, thỏa mãn các nhu cầu hợp pháp của con người trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. [7, tr 9]
Nội dung quy trình quản lý hành chính nhà nước
- Lập kế hoạch
Nhiệm vụ này liên quan đến việc xác định được các mục tiêu cần
đạt được trong tương lai và các thức, lịch trình để đạt được mục tiêu đó.
Nội dung và phạm vi kế hoạch được quy định theo thẩm quyền.
- Xây dựng và vận hành cơ cấu tổ chức để thực hiện nhiệm vụ
Nhiệm vụ này liên quan đến cả nhu cầu thành lập mới (hoặc điều
chỉnh) các đơn vị, hay cơ quan và việc đưa chúng vào hoạt động. Chức
năng, nhiệm vụ của cả tổ chức hay của từng đơn vị, thành viên và đặc
biệt là mối quan hệ giữa chúng cần được quy định cụ thể, hợp lý và rõ
ràng. Đây là cơ sở cho việc thực thi, đôn đốc, kiểm tra, đánh giá (cán bộ,
tổ chức và đặc biệt là các nhà quản lý) và điều chỉnh cơ cấu tổ chức.
- Quản lý và phát triển đội ngũ công chức, viên chức
Khâu này liên quan đến việc xây dựng và thực hiện một hệ thống chính
sách có thể thu hút được những người tốt nhất về làm việc cho cơ quan
hành chính nhà nước, hay cho Chính phủ nói chung. Quan trọng hơn, để
có thể thu hút thêm nhân tài thì một đòi hỏi rõ ràng, trước mắt là phải sử
dụng tốt đội ngũ mà chúng ta đang có.
16
- Phối hợp hoạt động
Khâu này liên quan đến nhiệm vụ tổ chức giao tiếp trong nội bộ
cơ quan, hệ thống và bên ngoài. Ngoài điều kiện về chức năng, nhiệm
vụ của từng đơn vị, thành viên và đặc biệt là mối quan hệ giữa chúng
được quy định cụ thể, hợp lý và rõ ràng, còn đòi hỏi phải có một hệ
thống hành chính, quy trình, thủ tục nội bộ.
- Sử dụng có hiệu quả các nguồn lực (công sở, công sản, tài chính
công…)
- Giám sát, kiểm tra và đánh giá
Giám sát kiểm tra là yêu cầu không thể thiếu nhằm cho phép các
nhà quản lý hành chính nhà nước đánh giá kịp thời và đầy đủ chính
sách, các quyết định quản lý, năng lực của nhân viên và tổ chức cũng
như tác động của môi trường
1.1.4 Khái niệm thiết chế xã hội
Thiết chế xã hội là một khái niệm xã hội học [16, tr 45]
Theo J.H.Fichter, “Đó là một phần của văn hóa, một đoạn đã
được khuôn mẫu hóa trong nếp sống của một dân tộc”, “…Những khuôn
mẫu tác phong công khai và tiềm ẩn tự biến thành những vai trò xã hội
do những con người đảm nhiệm và nhiều loại tương quan khác nữa giữa
những con người với nhau, đứng đầu những tương quan đó là những
diến tiến xã hội.”
Fichter còn viết: “Những tương quan xã hội và những vai trò xã
hội hợp thành những yếu tố chủ yếu của thiết chế.”
Fichter khảng định thiết chế là một “hình trạng hoặc một sự phối
hợp giữa những khuôn mẫu tác phong được một đa số chấp nhận và tập
chung vào sự thỏa mãn một nhu cầu cơ bản của cộng đồng:
Gidden A, xác định rõ: “Thiết chế bao gồm những chuẩn mực và
những giá trị”.
17
Tóm lại, có thể hiểu thiết chế là một phần của văn hóa, bao gồm
chuẩn mực và giá trị, tạo thành một hệ thống các quan hệ ổn định, một
khuôn mẫu xã hội biểu hiện sự thống nhất được xã hội thừa nhận nhằm
mục đích thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của xã hội.
Chính sách làm một thiết chế xã hội, nó bao gồm những chuẩn
mực và những giá trị được cấu trúc thành những khuôn mẫu tác phong,
được xã hội thừa nhận, và đóng vai trò những công cụ nhằm thỏa mãn
những nhu cầu cơ bản của xã hội.
Trước đây, trong giới nghiên cứu ở Việt Nam, người ta sử dụng
hệ thống khái niệm của khoa học quản lý của Liên Xô và các nước
XHCN, trong đó có khái niệm “cơ chế” (mechanism) và được định
nghĩa là “Hệ thống xác định một trật tự các dạng hoạt động.”
Chúng ta hoàn toàn có thể nghĩ rằng, khái niệm này rất có thể có
xuất phát từ lĩnh vực cơ học. Nó có thể đã ra đời sau những cuộc cách
mạng kỹ thuật. Con người khi đó đã xem máy móc là một thành quả cao
nhất trong tư duy của nhân loại, và những khái niệm cơ học đó đã được
sử dụng để mô tả các hiện tượng xã hội, và thậm chí cả các hiện tượng
sinh học, cũng được mô tả bằng khái niệm cơ học, chẳng hạn bộ máy
hành chính, bộ máy tiêu hóa, cơ chế quản lý, v.v
Với sự xuất hiện xã hội học, khái niệm mang bản chất xã hội về
“thiết chế” của xã hội học hoàn toàn có thể thay thế khái niệm “cơ chế”
của cơ học. Ý nghĩa của nó có thể sẽ mềm dẻo và linh hoạt hơn về mặt
xã hội nhiều hơn, vì chính sách không phải là phạm trù mang bản chất
cơ học, mà mang bản chất xã hội.
Hệ thống thiết chế quản lý
Thiết chế quản lý là phương thức tổ chức và nguyên tắc vận hành
phân hệ chủ thể quản lý được thể hiện bởi hệ thống các vị thế, các vai
trò, các chuẩn mực, các giá trị của hệ thống trong việc vận hành hệ
18
thống nhằm đạt tới mục đích và mục tiêu đặt ra của hệ thống. Chức năng
của thiết chế quản lý là nhằm thực hiện các nhiệm vụ quản lý đề ra, nó
bao gồm các chức năng tổ chức, kiểm soát, và điều tiết toàn bộ các hoạt
động của hệ thống. Đây cũng chính là chức năng của người đứng đầu và
các cán bộ lãnh đạo trong quản lý.
Thiết chế quản lý bao gồm: chính sách, chiến lược và pháp luật
[16, tr 47
1.1.5 Khái niệm cải cách hành chính
Có nhiều cách tiếp cận về cải cách hành chính nhà nước nên có
nhiều định nghĩa khác nhau về cải cách hành chính nhà nước. Có tác giả
đưa ra định nghĩa nhấn mạnh tính kế hoạch, tính mục tiêu, tính tiến bộ
của cải cách hành chính; lại có tác giả nhấn mạnh sự phù hợp giữa các
mục tiêu cải cách với yêu cầu đất nước…
Cải cách hành chính nhà nước là cải cách nền hành chính nhà
nước. Nhưng tùy thuộc vào từng quốc gia, tùy thuộc vào từng thời kỳ
lịch sử, cải cách hành chính nhà nước có thể hướng tới việc hoàn thiện
một hoặc một số nội dung của nền hành chính nhà nước.
Theo các nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam, cải cách hành
chính nhà nước ở nước ta là trọng tâm của công cuộc xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm những
thay đổi có chủ định của Nhà nước, các cơ quan nhà nước nhằm hoàn
thiện thể chế của nền hành chình nhà nước… để nâng cao năng lực, hiệu
lực, kết quả hoạt động của nền hành chính nhà nước phục vụ nhân
dân.[7. trang 77]
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn
2001-2010 xác định nội dung cải cách bao gồm:
- Cải cách thể chế
- Cải cách tổ chức bộ máy hành chính;
19
- Cải cách hành chính công
Theo chúng tôi, ngoài các tiêu chí nêu trên, việc cải cách hành
chính còn phải định hướng ứng dụng được CNTT và truyền thông nhằm
làm tốt hơn việc cung cấp dịch vụ hành chính công cho người dân và
doanh nghiệp nhờ CNTT.
1.1.6 Khái niệm dịch vụ công và dịch vụ công trực tuyến
Dịch vụ công được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, dịch vụ công là những hàng hoá, dịch vụ mà
Chính phủ can thiệp vào việc cung cấp nhằm mục tiêu hiệu quả và công
bằng. Theo đó, dịch vụ công là tất cả những hoạt động nhằm thực hiện
các chức năng vốn có của Chính phủ, bao gồm từ các hoạt động bah
hành chính sách, pháp luật, toà án… cho đến những hoạt động y tế, giáo
dục, giao thông công cộng
Theo nghĩa hẹp, dịch vụ công được hiểu là những hàng hoá, dịch
vụ phục vụ trực tiếp nhu cầu của các tổ chức và công dân mà Chính phủ
can thiệp vào việc cung cấp nhằm mục tiêu hiệu quả và công bằng.
Trong điều kiện hiện nay của nước ta, khái niệm dịch vụ công
được hiểu theo nghĩa hẹp [15, trang 125].
Các dịch vụ công có các đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, đó là những hoạt động phục vụ cho lợi ích chung thiết
yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân
Thứ hai, do Nhà nước chịu trách nhiệm trước xã hội (trực tiếp
cung ứng hoặc uỷ nhiệm việc cung ứng). Ngay cả khi Nhà nước chuyển
giao dịch vụ này cho tư nhân cung ứng thì Nhà nước vẫn có vai trò điều
tiết đặc biệt nhằm đảm bảo sự công bằng trong phân phối các dịch vụ
này, khắc phục các điểm khuyền khuyết của thị trường.
20
Thứ ba, là các hoạt động có tính chất phục vụ trực tiếp, đáp ứng
nhu cầu, quyền lợi hay nghĩa vụ cụ thể và trực tiếp của các tổ chức và
công dân.
Thứ tư, mục tiêu nhằm bảo đảm tính công bằng và tính hiệu quả
trong cung ứng dịch vụ.
Có thể hiểu dịch vụ công trực tuyến là dịch vụ công được đưa lên
mạng. Với dịch vụ công trực tuyến, công dân, doanh nghiệp có thể thực
hiện giao nộp các Hồ sơ hành chính cho cơ quan chính quyền, sau đó có
thể theo dõi tiến độ xử lý và nhận thông báo trả kết quả xử lý thông qua
Cổng thông tin điện tử của chính quyền.
Mô hình 4 mức độ phát triển của các dịch vụ công trực tuyến
được áp dụng đối với Việt Nam , bao gồm:
Mức độ 1: Cổng thông tin điện tử có đầy đủ thông tin về quy trình
thủ tục thực hiện dịch vụ, các giấy tờ cần thiết, các bước tiến hành, thời
gian thực hiện, chi phí thực hiện dịch vụ.
Mức độ 2: Ngoài thông tin đầy đủ như mức độ 1, cổng thông tin
điện tử cho phép người sử dụng tải về các mẫu đơn, hồ sơ để người sử
dụng có thể in ra giấy, hoặc điền vào các mẫu đơn. Việc nộp lại hồ sơ
sau khi hoàn thành được thực hiện qua đường bưu điện hoặc người sử
dụng trực tiếp mang đến cơ quan thụ lý hồ sơ.
Mức độ 3: Ngoài thông tin đầy đủ như ở mức độ 1 và các mẫu
đơn, hồ sơ cho phép tải về như ở mức độ 2, cổng thông tin điện tử cho
phép người sử dụng điền trực tuyến vào các mẫu đơn, hồ sơ và gửi lại
trực tuyến các mẫu đơn, hồ sơ sau khi điền xong tới cơ quan và người
thụ lý hồ sơ. Các giao dịch trong quá trình thụ lý hồ sơ và cung cấp dịch
vụ được thực hiện qua mạng. Tuy nhiên, việc thanh toán chi phí và trả
kết quả sẽ được thực hiện khi người sử dụng dịch vụ đến trực tiếp cơ
quan cung cấp dịch vụ.
21
Mức độ 4: Ngoài thông tin đầy đủ như ở mức độ 1, các mẫu đơn,
hồ sơ cho phép tải về như ở mức độ 2, gửi trực tuyến hồ sơ và thực hiện
các giao dịch qua mạng như ở mức độ 3, việc thanh toán chi phí sẽ được
thực hiện trực tuyến, việc trả kết quả có thể thực hiện trực tuyến hoặc
gửi qua đường bưu điện.
1.1.7 Khái niệm CNTT
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của tin học và vai trò ngày
càng nổi trội của thông tin sau cuộc cách mạng về quản lý, từ hai thập
kỷ nay, thế giới đã bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của CNTT.
CNTT được định nghĩa là công nghệ tổng hợp của 3 lĩnh vực: máy tính
(của Tin học), truyền thông (đặc biệt là viễn thông) và các nguồn lực
đảm bảo và phục vụ cho hoạt động của hệ thống trang thiết bị máy tính
và truyền thông [14, tr 443].
CNTT đã và đang tham gia đóng góp tích cực cho sự phát triển
của tất cả các lĩnh vực khoa học - kỹ thuật, kinh tế - xã hội trên phạm vi
toàn thế giới. Đồng thời bản thân CNTT cũng đã xây dựng nên một
ngành công nghiệp mới, mà trên thực tế, tỷ trọng của ngành công nghiệp
này ở các nước phát triển đã tăng lên rất nhanh, có khả năng vượt qua
nhiều ngành công nghiệp truyền thống khác.
1.1.8 Khái niệm HTTT
HTTT quản lý vừa là một công cụ không thể thiếu được để điều
hành công sở hiệu quả, lại vừa là một sản phẩm của điều hành, trên cơ
sở đó, người ta có thể đánh giá được năng lực điều hành của đội ngũ
quản lý.
Khái niệm thông tin: “Thông tin là những gì có thể giúp cho con
người hiểu được đối tượng mà mình quan tâm”.
Thông tin được thể hiện qua nhiều dạng khác nhau, bao gồm: văn
bản, âm thanh, hình ảnh động. Thông tin là một trong những nguồn lực
22
quan trọng nhất của tổ chức. Nó đồng thời cũng là công cụ không thể
thiếu được của điều hành. Tuy nhiên, thông tin chỉ thực hiện tốt được
vai trò của mình đối với quản lý khi chúng được tổ chức một cách có hệ
thống, phù hợp với nhu cầu của các nhiệm vụ quản lý cụ thể.
Khái niệm HTTT quản lý: HTTT quản lý là một tập hợp các
CSDL và dòng thông tin được hình thành, truyền đạt, lưu trữ và sử dụng
nhằm cung cấp các thông tin chính xác và kịp thời cho quá trình ban
hành và tổ chức thực hiện các quyết định quản lý. [7, tr 159]
Vai trò của HTTT quản lý trong điều hành công sở:
- Cung cấp cơ sở dữ liệu đầy đủ, thống nhất, chính xác, đáng tin
cậy cho việc ban hành các quyết định hành chính.
- Cung cấp cơ sở cho việc tổ chức thực hiện các quyết định hành
chính
- Là công cụ đề xây dựng, duy trì và phát triển quá trình giao tiếp
trong công sở được liên tục và hợp lý.
- Giúp cho các nhà quản lý, lãnh đạo thích ứng được với những
thay đổi của quá trình xử lý thông tin.
- Đảm bảo tính an toàn, toàn vẹn dữ liệu
Ngày nay, máy tính đóng vai trò rất quan trọng trong việc xây
dựng các HTTT. Nói HTTT là nói đến HTTT có sử dụng máy tính.
HTTT sử dụng máy tính trong các hoạt động nhờ các chương trình phần
mềm thích hợp.
Xây dựng HTTT bao gồm việc xây dựng bộ chương trình phần
mềm và sử dụng phần mềm này để xử lý, chế biến các dữ liệu thành
thông tin (tức là xây dựng HTTT) hỗ trợ cho các hoạt động nghiệp vụ.
Việc xây dựng các HTTT phục vụ cho quản lý chính nhà nước là nội
dung chủ yếu của quá trình tin học hoá quản lý"
Các HTTT phục vụ QLHCNN có thể chia làm 2 nhóm chính:
23
Nhóm 1: Các hệ thống phục vụ điều hành quản lý trong các
CQNN
Nhóm 2: Các HTTT phục vụ dịch vụ công
1.1.9 Khái niệm CPĐT
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau cho nên cũng có nhiều định
nghĩa về CPĐT. Ta xem xét 2 cách tiếp cận sau:
Cách tiếp cận 1: Theo định nghĩa của Ngân hàng thế giới:
CPĐT là việc các cơ quan của Chính phủ sử dụng một cách có hệ
thống CNTT và viễn thông để thực hiện các quan hệ với công dân, với
doanh nghiệp và các tổ chức xã hội. Nhờ đó, giao dịch của các cơ quan
Chính phủ với công dân và các tổ chức sẽ được cải thiện, nâng cao chất
lượng. Lợi ích thu được sẽ là giảm thiểu tham nhũng, tăng cường tính
công khai, sự tiện lợi, góp phần vào sự tăng trưởng và giảm chi phí. [14,
tr 455]
Với cách tiếp cận này CPĐT bao hàm ba yếu tố:
- Vận dụng CNTT và truyền thông
- Nhằm cải thiện giao dịch giữa nhà nước với công dân và doanh
nghiệp
- Giảm chi phí và bớt tham nhũng thông qua tăng cường công
khai và minh bạch
Cách tiếp cận 2. CPĐT là sự tối ưu hoá liên tục việc chuyển giao
các dịch vụ, sự tham gia của các thành phần và sự cai quản của nhà
nước bởi việc chuyển đổi các quan hệ bên trong và bên ngoài thông qua
công nghệ, Internet và các phương tiện mới [14, tr 456].
Các thành phần bên ngoài ở đây chỉ các dịch vụ trực tuyến (online
services) đối với công dân hay doanh nghiệp; còn quan hệ bên trong để
chỉ các hoạt động của chính phủ từ các công chức của bộ máy nhà nước.
24
Cách tiếp cận thứ 3. Theo nhiều tài liệu kinh điển được các quốc
gia chấp nhận, CPĐT gồm 2 vấn đề :
- Đưa CNTT vào ứng dụng trong nội bộ các cơ quan công quyền
và giữa cá cơ quan công quyền nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
nội bộ các cơ quan công quyền.
- Ứng dụng CNTT trong việc cung cấp dịch vụ công, hình thành
hệ thống cung cấp dịch vụ công trực tuyến nhằm nâng cao mối quan hệ
giữa người dân, doanh nghiệp với chính phủ, và qua đó người dân có
điều kiện tốt hơn tham gia vào ác hoạt động của CP nhất là việc hoạch
định chính sách.
Từ đó CPĐT hướng tới mục tiêu phục vụ và giải quyết các mối
quan hệ:
- Nội bộ các cơ quan chính phủ (G2G): Government to
Government;
- Chính phủ với doanh nghiệp, tổ chức (G2B): Government to
Business;
- Chính phủ với công dân (G2C): Government to Citizen và
- Chính phủ với các nhân viên của mình (G2E): Government to
Employee.
Việc ứng dụng CNTT để dần hình thành CPĐT tại Bộ KHCN cũng
phải tuân theo các định hướng chung này.
1.2 Tin học hoá quản lý nhà nước hướng tới "nền hành chính
điện tử"
Quá trình tin học hoá quản lý hành chính nhà nước chính là quá
trình hướng đến "nền hành chính điện tử". Đầu tiên tin học hoá quản lý
hành chính nhà nước nhằm phục vụ việc nâng cao hiệu quả của các hoạt
động bên trong của các cơ quan Chính phủ (tin học hoá hướng vào
trong). Song tin học hoá không chỉ đơn giản là sử dụng CNTT để hỗ trợ