LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài:
Doanh nghiệp nhỏ và vừa là loại hình doanh nghiệp không những phù hợp
với các nước công nghiệp phát triển mà còn đặc biệt thích hợp với các quốc gia
đang phát triển. Ở nước ta trước đây, các DNNVV sớm đã được quan tâm phát triển
song từ khi có đường lối đổi mới hội nhập, đặc biệt từ khi Việt Nam gia nhập WTO
thì loại hình này phát triển nhanh chóng về cả số lượng cũng như chất lượng. Khu
vực DNNVV đã đóng góp một phần to lớn vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
giải quyết việc làm và hạn chế lạm phát. Hiện nay, trong số gần 350.000 doanh
nghiệp tại Việt Nam thì các DNNVV chiếm khoảng 95%, đóng góp khoảng 30%
vào GDP và đã giải quyết việc làm cho trên 26% tổng số lao động của cả nước. Do
đó có thể khẳng định việc đẩy mạnh và phát triển DNNVV là bước đi hợp với quy
luật, đồng thời là một động lực mạnh mẽ tạo nên sự tăng trưởng liên tục của nền
kinh tế.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các DNNVV
Việt Nam như bước ra biển lớn, cơ hội kinh doanh mở rộng nhưng sóng gió cạnh
tranh cũng không nhỏ, ít nhiều ảnh hưởng tới việc phát huy vai trò của mình. Vấn
đề đặt ra ở đây là các DNNVV phải biết tận dụng những lợi thế của mình, nắm bắt
những cơ hội và đương đầu với những thách thức. Song hiện nay thách thức lớn
nhất của các DNNVV là vấn đề nguồn vốn để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh
đang còn nhỏ hẹp của mình. Thế nhưng, các doanh nghiệp không thể tự trang trải
cho mình mà chủ yếu phải đi xin vay vốn của các NHTM, lúc này ngân hàng không
thể đáp ứng được hết nhu cầu vay vốn thực tế của các DNNVV. Đến nay, cũng chỉ
có trên 60% DNNVV tiếp cận được nguồn vốn tín dụng của ngân hàng. Điều này
làm nhiều DNNVV lâm vào cảnh thiếu vốn, không có đủ điều kiện nâng cao tay
nghề cho người lao động hay mua sắm máy móc tài sản cố định, mở rộng hoạt động
sản xuất kinh doanh…làm hạn chế năng lực cạnh tranh của các DNNVV. Một số
khác, tuy đã tiếp cận được nguồn vốn của ngân hàng thì lại chưa biết cách sử dụng
vốn một cách hợp lý, hiệu quả, dẫn đến tình trạng lãng phí nguồn lực cũng như
không đạt hiệu quả sản xuất như mong đợi, và làm thất thoát một nguồn chi phí lớn
gây ảnh hưởng không nhỏ đến ngân hàng, đến nền kinh tế. Vậy vấn đề đặt hiện nay
là các NHTM phải nâng cao hơn nữa hiệu quả cho vay đối với DNNVV, góp phần
hỗ trợ các doanh nghiệp về vốn.
Xuất phát từ quan điểm và thực tiễn nêu trên, với những kiến thức được tích
lũy trong trời gian học tập tại trường và trong khoảng thời gian thực tập tại
NHTMCPNTVN Chi nhánh Thăng Long em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp nâng
cao hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng TMCP
Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long”.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Hiệu quả cho vay đối với DNNVV
- Phạm vi nghiên cứu: Tại NHTMCPNTVN Chi nhánh Thăng Long, với số
liệu từ 2008 – 2010.
3. Mục đích nghiên cứu:
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả cho vay DNNVV của
NHTM.
- Phân tích thực trạng hiệu quả cho vay đối với DNNVV tại
NHTMCPNTVN Chi nhánh Thăng Long trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, khoá
luận chỉ ra những kết quả đạt được, những tồn tại cần khắc phục và nguyên nhân
của nó.
- Đề xuất những giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả cho vay DNNVV tại
NHTMCPNTVN Chi nhánh Thăng Long.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình thực hiện khóa luận, các phương pháp thống kê, điều tra
chọn mẫu, tổng hợp so sánh…được sử dụng để nghiên cứu.
5. Kết cấu đề tài khóa luận:
Ngoài lời mở đầu và kết luận, khóa luận được chia làm 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Hiệu quả hoạt động cho vay đối với DNNVV tại NHTM.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả cho vay đối với DNNVV tại NHTMCPNTVN
Chi nhánh Thăng Long.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay đối với DNNVV tại
NHTMCPNTVN Chi nhánh Thăng Long.
CHƯƠNG 1
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNNVV TẠI NHTM
1.1.Hoạt động cho vay đối với DNNVV của NHTM
1.1.1.Tổng quan về DNNVV trong nền kinh tế
1.1.1.1. Khái niệm
Khái niệm DNNVV đã được biết đến trên thế giới từ đầu những năm đầu của
thế kỷ XX và được quan tâm phát triển từ những năm 50 của thế kỷ XX. Tuy nhiên,
ở mỗi quốc gia khác nhau thì có một khái niệm khác nhau và tiêu chuẩn khác nhau
để phân loại một DNNVV.
Theo định nghĩa chung thì “DNNVV là những cơ sở sản xuất kinh doanh có
tư cách pháp nhân kinh doanh vì mục đích lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong
những giới hạn nhất định tính theo các tiêu chí vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia
tăng thu được trong từng thời kỳ theo quy định của từng quốc gia”.
Tại Mỹ, DNNVV được định nghĩa như sau: “Là một doanh nghiệp có quyền
sở hữu độc lập, hoạt động độc lập và không phải là thành phần nổi trội của một
ngành công nghiệp”. Tiêu chuẩn cụ thể của DNNVV của Mỹ phụ thuộc vào ngành
hoạt động. Ví dụ:
- Ngành chế tạo máy: doanh nghiệp nhỏ nếu số lượng công nhân nhỏ hơn
hoặc bằng 250 người, vừa nếu 250-1000, lớn nếu trên 1000 người.
- Những ngành khác thì có những tiêu chuẩn khác như: doanh nghiệp nhỏ là
doanh nghiệp có doanh số không chiếm quá 5% tổng số thương vụ đối với những
ngành công nghiệp ít cạnh tranh; có doanh số không quá 5 triệu USD hàng năm đối
với doanh số bán sỉ; không quá 1 triệu USD đối với doanh nghiệp bán lẻ. [7]
1.1.1.2. Phân loại
Theo tiêu chí của Ngân hàng Thế giới (World Bank) thì loại hình DNNVV
lại được chia nhỏ ra thành 3 loại dựa trên tiêu chí chỉ số người lao động và doanh
thu hàng năm.
Bảng 1.1: Phân loại DNNVV của World Bank
Loại hình doanh nghiệp
Số người lao động
(người)
Doanh thu hàng năm
(triệu USD)
Doanh nghiệp siêu nhỏ 1-9 <0.1
Doanh nghiệp nhỏ 10-49 <3
Doanh nghiệp vừa 50-300 <15
(Nguồn: Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa: Kinh nghiệm nước ngoài và phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam –Vũ Quốc Tuấn chủ biên) [7]
Đối với Việt Nam, theo nghị định số 56/2009/NĐ-CP ban hành ngày
30/06/2009 thì DNNVV chính thức được định nghĩa như sau: “DNNVV là cơ sở
kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp:
siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng
tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao
động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên)”. Cụ thể như sau:
Bảng 1.2: Phân loại DNNVV của Việt Nam
Quy mô Doanh
nghiệp
siêu nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Số lao
động
Tổng
nguồn vốn
Số lao
động
Tổng
nguồn vốn
Số lao
động
1.Nông,
lâm nghiệp
và thủy sản
10 người
trở xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
Từ trên 10
người đến
200 người
Từ trên 20
tỷ đồng đến
100 tỷ đồng
Từ trên 200
người đến
300 người
2. Công
nghiệp và
xây dựng
10 người
trở xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
Từ trên 10
người đến
200 người
Từ trên 20
tỷ đồng đến
100 tỷ đồng
Từ trên 200
người đến
300 người
3. Thương
mại và dịch
vụ
10 người
trở xuống
10 tỷ đồng
trở xuống
Từ trên 10
người đến
50 người
Từ trên 10
tỷ đồng đến
50 tỷ đồng
Từ trên 50
người đến
100 người
(Nguồn: Văn bản Pháp luật – Nghị định số 56/2009/NĐ-CP) [12]
1.1.1.3. Đặc điểm của DNNVV
DNNVV là một loại hình doanh nghiệp nên nó mang đầy đủ đặc điểm của
một doanh nghiệp. Ngoài ra nó còn mang những đặc điểm riêng thể hiện ưu thế của
mình trên thị trường đó là:
+ DNNVV tồn tại và phát triển ở mọi thành phần kinh tế; vốn đầu tư ban đầu
thấp, khả năng thu hồi nhanh và có bộ máy tổ chức sản xuất và quản lý gọn nhẹ,
nhạy bén với thay đổi của thị trường có hiệu quả cao.
+ DNNVV có tính năng động và linh hoạt cao, doanh nghiệp có thể dễ dàng
phát hiện thay đổi nhu cầu của thị trường, nhanh chóng chuyển đổi hướng kinh
doanh, phát huy tính năng động sáng tạo, tự chủ, nhạy bén trong lựa chọn thay đổi
mặt hàng. Từ đó doanh nghiệp sẽ tạo ra sự sống động trong phát triển kinh tế.
+ Cạnh tranh giữa những DNNVV là cạnh tranh hoàn hảo; tạo nên một môi
trường kinh doanh lành mạnh, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
+ Quan hệ nội bộ trong doanh nghiệp dễ hòa hợp, ít xung đột tạo không khí
làm việc thuận lợi cho người lao động. Quy mô DNNVV tất nhiên là không lớn
lắm. Số lượng lao động trong một doanh nghiệp không nhiều, sự phân công lao
động trong xí nghiệp chưa quá mức rõ rệt. Nếu xảy ra xung đột, mâu thuẫn thì dễ
dàn xếp. Điều này có tác động tích cực tới năng suất lao động trong quá trình sản
xuất và cung ứng dịch vụ.
Bên cạnh những đặc điểm thể hiện ưu điểm của DNNVV thì còn một số
điểm hạn chế là:
+ DNNVV có vị thế trên thị trường thấp, tiềm lực tài chính nhỏ nên khả năng
cạnh tranh thấp. Mặt khác điều kiện cơ sở hạ tầng không đủ để dự trữ nguyên liệu
mà doanh nghiệp đa phần mua từ bên ngoài nên chi phí sản xuất cao.
+ DNNVV ít có khả năng huy động vốn để đầu tư đổi mới công nghệ giá trị
cao. Do quy mô nhỏ và năng lực sử dụng vốn còn hạn chế nên doanh nghiệp gặp
khó khăn trong việc vay trung và dài hạn từ NH và các TCTD.
+ Khả năng tiếp cận thông tin của DNNVV còn hạn chế và gặp nhiều khó
khăn. Do trình độ kỹ năng của nhà lãnh đạo doanh nghiệp cũng như người lao động
còn hạn chế, nhiều đối tượng lao động của doanh nghiệp chưa từng qua trường lớp
chính quy nào, thiếu những kiến thức cơ bản về kinh tế và pháp luật.
+ DNNVV thường khó thu hút được cán bộ quản lý giỏi và các nhân công có
tay nghề cao do chế độ đãi ngộ và điều kiện làm việc mà họ cung cấp không thể
bằng các doanh nghiệp lớn.
+ DNNVV thường bị động vì bị phụ thuộc vào hướng phát triển của các
doanh nghiệp lớn và tồn tại như một bộ phận của doanh nghiệp lớn và gặp nhiều
khó khăn trong việc thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác với các đơn vị kinh tế bên
ngoài địa phương doanh nghiệp đó đang hoạt động cũng như hợp tác quốc tế.
Tóm lại ta có thể thấy với một số ưu điểm của mình và việc được đánh giá là
động lực thúc đẩy kinh tế phát triển nhưng các DNNVV hiện nay vẫn đang phải đối
mặt với nhiều khó khăn và thách thức mà hầu hết chúng bắt nguồn từ vấn đề thiếu
vốn. [4] [7]
1.1.1.4.Vai trò của các DNNVV đối với nền kinh tế
Các DNNVV là một bộ phận cấu thành lên nền kinh tế của một quốc gia, với
những đặc điểm nêu trên thì vai trò của tổ chức kinh tế này thể hiện ở một số mặt
như sau:
+ DNNVV giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế: các DNNVV thường
chiếm tỷ trọng lớn, thậm chí áp đảo trong tổng số doanh nghiệp (ở Việt Nam chỉ xét
các doanh nghiệp có đăng ký thì tỷ lệ này là trên 95%). Vì thế, đóng góp của họ vào
tổng sản lượng và tạo việc làm là rất đáng kể (các DNNVV Việt Nam đã và đang
đóng góp từ 30-40% vào doanh số xuất khẩu hàng năm và đóng góp gần 30% GDP
cả nước).
+ Ồn định nền kinh tế: ở phần lớn các nền kinh tế, các DNNVV là những nhà
thầu phụ thuộc cho các doanh nghiệp lớn. Sự điều chỉnh hợp đồng phụ tại các thời
điểm cho phép nền kinh tế có được sự ổn định. Vì thế, DNNVV được ví là thanh
giảm sốc cho nền kinh tế.
+ Làm cho nền kinh tế năng động: vì DNNVV có quy mô nhỏ, bộ máy linh
hoạt gọn nhẹ nên dễ điều chỉnh (xét về mặt lý thuyết) hoạt động, thích nghi với môi
trường kinh doanh mới một cách nhanh chóng và hiệu quả từ đó góp phần tạo nên
một nền kinh tế năng động.
+ Tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng: DNNVV
thường chuyên môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết được dùng để lắp ráp thành
một sản phẩm hoàn chỉnh.
+ Là trụ cột của kinh tế địa phương: nếu như doanh nghiệp lớn thường đặt cơ
sở ở những trung tâm kinh tế của đất nước, thì DNNVV lại có mặt ở khắp các địa
phương và là người đóng góp quan trọng vào thu ngân sách, vào sản lượng và tạo
công ăn việc làm ở địa phương.
Ở Việt Nam, các DNNVV đóng góp khoảng 26% việc làm cho người lao
động. Vấn đề lao động việc làm hiện nay rất là cấp thiết do suy thoái toàn cầu buộc
các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV phải cắt giảm sản xuất kinh doanh và
nhiều chi phí khác của doanh nghiệp trong đó có cả chi phí nhân công. Tuy nhiên
trong gói giải pháp kế hoạch phát triển DNNVV giai đoạn 2007-2011 dự tính các
DNNVV Việt Nam sẽ giải quyết đến 2,7 triệu việc làm mới cho cả nước, trong đó
có thêm 165.000 lao động được đào tạo kỹ thuật làm việc tại các DNNVV.
Tạo một thị trường rộng lớn cho các NHTM: Một trong những nguồn vốn để
tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNVV là nguồn vốn tín dụng
của các NHTM. Trong bối cảnh hiện nay, khi các DNNVV ngày càng tăng, nhu cầu
vốn cho sản xuất ngày càng lớn thì càng tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh cho các
NHTM. Thực tế cho thấy các DNNVV chiếm tới 95% tổng số các doanh nghiệp,
trong khi đó các NHTM mới chỉ đáp ứng được chưa đến 60% nhu cầu vay vốn.
Điều này cho thấy các DNNVV vẫn còn là thị trường rất tiềm năng của các ngân
hàng. [4] [7] [9]
1.1.2. Hoạt động cho vay của NHTM đối với DNNVV
1.1.2.1. Hoạt động cho vay của NHTM
Cho vay là một mặt hoạt động tín dụng ngân hàng, thông qua hoạt động cho
vay ngân hàng thực hiện điều hòa vốn trong nền kinh tế dưới hình thức phân phối
nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi huy động được từ trong xã hội để đáp ứng nhu cầu về
vốn cho phục vụ sản xuất kinh doanh. [2]
Theo Điều 3 khoản 1 QĐ 1627/2001/QĐ-NHNN về quy chế cho vay của các
TCTD với khách hàng thì cho vay được định nghĩa như sau: “cho vay là một hình
thức cấp tín dụng, trong đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để
sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có
hoàn trả gốc và lãi”. [12]
1.2.1.2. Phân loại cho vay
Như chúng ta đã biết hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động chính
của các NHTM, hoạt động cho vay của các NHTM rất đa dạng và phong phú với
nhiều loại hình khác nhau. NHTM áp dụng từng loại cho vay tùy thuộc vào đặc
điểm kinh tế của từng loại đối tượng khách hàng.
Có rất nhiều tiêu chí để phân loại cho vay, sau đây là một số tiêu chí phân loại
thường gặp:
- Phân loại theo kỳ hạn
- Phân loại theo đối tượng cho vay
- Phân loại theo loại tiền
- Phân loại theo hình thức bảo đảm tiền vay
- Phân loại theo mục đích sử dụng
- Phân loại theo mức xuất xứ tín dụng
- Phân loại theo phương pháp hoàn trả
Tuy nhiên, trên thực tế người ta thường chỉ phân loại cho vay dựa theo 4 tiêu
thức sau:
- Phân loại theo kỳ hạn gồm: cho vay ngắn hạn và cho vay trung, dài hạn.
Trong đó cho vay ngắn hạn là loại cho vay có thời hạn dưới 12 tháng, cho vay trung
hạn từ 12- 60 tháng, và cho vay dài hạn có thời hạn là trên 60 tháng. Cách phân loại
này giúp cho NHTM dễ dàng quản lý nguồn vốn của mình theo một thời gian nhất
định.
- Phân loại theo đối tượng cho vay có 2 loại: cho vay cá nhân và cho vay
doanh nghiệp. Trong đó cho vay doanh nghiệp có thể phân ra làm 2 loại: cho vay
doanh nghiệp lớn và cho vay DNNVV. Với cách phân loại này NHTM có thể dễ
dàng quản lý khoản mục cho vay theo đối tượng vay mượn. Hình thức này đặc biệt
giúp ngân hàng dễ tiếp cận, dễ khai thác tiềm năng của từng đối tượng khách hàng,
đồng thời tạo mối quan hệ tín dụng bền lâu.
- Phân loại theo loại tiền gồm: cho vay bằng đồng ngoại tệ và cho vay bằng
đồng nội tệ. Với hình thức này ngân hàng dễ quản lý được lượng ngoại tệ tồn tại
trong NH, kiểm soát được lượng tiền cung ứng ra nền kinh tế nhằm hạn chế tình
trạng đô la hóa của nền kinh tế.
- Phân loại theo hình thức đảm bảo tiền vay có 2 loại: cho vay có tài sản đảm
bảo và cho vay không có tài sản đảm bảo. [1] [2] [3]
1.1.2.3. Nguyên tắc cho vay:
Để đảm bảo sự tồn tại và phát triển ổn định các NHTM phải hoạt động lành
mạnh và có hiệu quả. Các NHTM phải thực hiện tốt việc kiểm tra khả năng hoàn trả
và tình hình kinh doanh của người đi vay trước khi cho vay, đảm bảo tính độc lập
trong quá trình kiểm tra tuân thủ quy trình cho vay và đảm bảo việc cho vay chỉ tiến
hành trên cơ sở có đảm bảo theo đúng quy định. Ngân hàng sẽ ký duyệt cho vay khi
khách hàng đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Sử dụng vốn vay theo đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín
dụng. Nguyên tắc này nhằm hạn chế rủi ro đạo đức và hạn chế khả năng khách hàng
dùng khoản vốn vay để thực hiện hành vi mà pháp luật cấm.
- Nguyên tắc hoàn trả gốc và lãi theo đúng thời hạn. Nguyên tắc này đảm bảo
phương châm hoạt động của NHTM là “đi vay để cho vay” và thực hiện nguyên tắc
trong hoạch toán kinh doanh lấy thu bù chi và có lãi. [3]
1.1.2.4. Phương thức cho vay:
Nhằm đáp ứng những nhu cầu đa dạng và ngày càng cao của khách hàng các
NHTM đã và đang triển khai rất nhiều phương thức cho vay khác nhau, bao gồm:
cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay theo dự án đầu tư, cho vay trả
góp, cho vay theo hạn mức tín dụng sự phòng, cho vay theo hạn mức thấu chi…và
một số phương thức cho vay khác tùy thuộc vào tiêu chí mục đích của ngân hàng
nhưng không trái quy định của pháp luật. Cho đến nay , các ngân hàng thường sử
dụng các phương thức cho vay phổ biến trên cơ sở thỏa thuận với khách hàng gồm:
+ Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng thực
hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng: Tổ chức tín dụng và khách hàng xác định
và thỏa thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.
+ Cho vay theo dự án đầu tư: TCTD cho khách hàng vay vốn để thực hiện
các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục
vụ đời sống.
+ Cho vay hợp vốn: Một nhóm TCTD cùng cho vay đối với một dự án vay
vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng; trong đó, một TCTD làm đầu mối
dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác.
+ Cho vay trả góp: Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và
thỏa thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo
nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: TCTD cam kết đảm bảo sẵn
sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. TCTD và
khách hàng thỏa thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí
trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.
+ Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ chức
tín dụng chấp nhận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi mức tín
dụng để thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự
động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng. Khi cho vay phát hành
và sử dụng thẻ tín dụng, tổ chức tín dụng và khách hàng phải tuân theo các quy định
của pháp luật về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
+ Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà TCTD thỏa thuận
bằng văn bản chấp thuận cho KH chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của
KH phù hợp với các quy định của pháp luật về hoạt động thanh toán qua các tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Và các phương thức cho vay khác mà pháp luật không cấm, phù hợp với quy
định tại Quy chế này và điều kiện hoạt động kinh doanh của TCTD và đặc điểm của
khách hàng vay. [1]
1.1.2.5. Quy trình cho vay đối với DNNVV:
Bước 1: Tiếp xúc khách hàng
Bước 2: Xử lý yêu cầu vay vốn
Bước 3: Phân tích tín dụng
Bước 4: Ra quyết định tín dụng
Bước 5: Giải ngân
Bước 6: Kiểm soát khoản cho vay
Bước 7: Xử lý khoản vay có vấn đề
Bước 8: Thanh lý hợp đồng tín dụng [6]
1.2. Hiệu quả hoạt động cho vay đối với DNNVV tại NHTM:
1.2.1. Quan niệm hiệu quả cho vay:
Hiệu quả là một chỉ tiêu phản ánh tương quan giữa kết quả đạt được so với
hao phí lao động, vật tư, tài chính. Đây là chỉ tiêu phản ánh trình độ và chất lượng
sử dụng các yếu tố của sản xuất, kinh doanh, nhằm đạt được kết quả tối đa so với
chi phí tối thiểu.
Thu nhập từ lãi vay chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng thu nhập của NHTM. Tuy
nhiên, với mỗi đồng vốn bỏ ra thì hiệu quả không chỉ đánh giá dựa trên lợi ích của
ngân hàng mà còn được xem xét từ góc độ tiện ích mà khách hàng nhận được khi sử
dụng sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp.
Như vậy, hiệu quả hoạt động cho vay của NHTM được hiểu là việc đáp ứng
nhu cầu vốn vay của khách hàng phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của
đất nước, phù hợp với chiến lược, phát triển của ngân hàng và mang lại hiệu quả
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, trên cơ sở đảm bảo an toàn
và sinh lợi cho ngân hàng.
Hiệu quả cho vay là sự thống nhất lợi ích giữa khách hàng, ngân hàng và nền
kinh tế quốc dân. Điều này biểu hiện ở:
- Đối với khách hàng thì hiệu quả cho vay là việc sử dụng vốn có hiệu quả
trong sản xuất kinh doanh, trong mục đích vay vốn
- Đối với ngân hàng thì hiệu quả cho vay là việc thu nợ đúng hạn, giảm thiểu
tối đa rủi ro tín dụng, hoạt động cho vay đạt được các tiêu chuẩn về hiệu quả đặt ra
và phù hợp với mục tiêu phát triển của ngân hàng.
- Đối với nền kinh tế quốc dân thì hiệu quả cho vay phải gắn liền với mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Do vậy, hiệu quả cho vay đối với DNNVV của NHTM là việc ngân hàng đáp
ứng được nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp một cách phù hợp với khả năng của
ngân hàng và đảm bảo cho sự phát triển của ngân hàng. Điều này thể hiện ở mức độ
an toàn của các khoản vay, mức độ hài lòng của doanh nghiệp. Hiệu quả cho vay
được đảm bảo trên nguyên tắc khoản vay được hoàn trả đúng hạn, hạn chế rủi ro và
tăng khả năng cạnh tranh, đồng thời phải mang lại lợi nhuận và bảo đảm tính thanh
khoản cho ngân hàng.
1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả cho vay đối với DNNVV
Để đánh giá hiệu quả cho vay của NHTM, người ta thương dùng một tập hợp
các chỉ tiêu như:
Thứ nhất, doanh số cho vay và tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay
- Doanh số cho vay phản ánh tổng số tiền mà ngân hàng đã giải ngân cho
DNNVV theo hợp đồng tín dụng, được tính bằng cách cộng dồn trên giá trị các
khoản cho vay trong một thời gian nhất định. Doanh số cho vay có thể được xác
định theo tháng, theo quý hoặc theo năm. Doanh số cho vay đánh giá khả năng luân
chuyển vốn của ngân hàng cũng như cho biết quy mô tuyệt đối của hoạt động cho
vay, thể hiện xu hướng hoạt động cho vay đối với DNNVV. Doanh số cho vay càng
lớn càng chứng tỏ khả năng mở rộng cho vay đối với đối tượng DNNVV càng tốt.
- Tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay phản ánh số tương đối, tốc độ tăng
doanh số cho vay DNNVV năm nay so với năm trước, kì trước hoặc so với kế
hoạch, cho biết khả năng mở rộng tín dụng với DNNVV qua từng thời kì.
Doanh số cho vay kỳ này
Tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay =
Doanh số cho vay kỳ trước
Thứ hai, dư nợ cho vay và tốc độ tăng dư nợ cho vay của DNNVV
- Dư nợ cho vay phản ánh số vốn mà doanh nghiệp còn nợ ngân hàng tại một
thời điểm cụ thể, được tính bằng số dư cuối kì trên bảng cân đối kế toán của ngân
hàng. Cuối mỗi tháng, mỗi quý, ngân hàng thường phải tính dư nợ của doanh
nghiệp để theo dõi và điều chỉnh.
- Tốc độ tăng dư nợ cho vay phản ánh một số tương đối, tốc độ tăng của dư
nợ so với năm trước, kỳ trước.
Dư nợ đối với DNNVV kỳ này
Tốc độ tăng dư nợ (T) =
Dư nợ đối với DNNVV kỳ trước
Trong đó: T>1 thể hiện sự tăng trưởng cho vay ngắn hạn với DNNVV so với
kỳ trước . Nếu T≤ 1 chứng tỏ hoạt động cho vay DNNVV của ngân hàng chưa hiệu
quả. Việc không cho phép tăng trưởng quá nóng trong hoạt động cho vay để tập
trung phân tích và đánh giá, sang lọc doanh nghiệp đòi hỏi các NHTM phải duy trì
T>1 và ổn định.
Thứ ba, hệ số sử dụng vốn vay
Hệ số này phản ánh kết quả sử dụng vốn của NHTM, được tính như sau:
Tổng dư nợ đối với DNNVV
Hệ số sử dụng vốn vay DNNVV =
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này nhằm đánh giá tỷ trọng cho vay đối với DNNVV đã phù hợp
với khả năng đáp ứng của ngân hàng cũng như đòi hỏi về vốn vay của nền kinh tế
hay chưa.
Nhóm chỉ tiêu phản ánh quy mô cho vay cho thấy khả năng của ngân hàng
trong việc đáp ứng nhu cầu vốn vay của DNNVV, thể hiện khả năng cạnh tranh
cũng như thu hút khách hàng của ngân hàng, từ đó tăng lợi nhuận từ hoạt động cho
vay. Điều này thể hiện phần nào hiệu quả hoạt động cho vay đối với DNNVV của
ngân hàng. Tuy nhiên, khi đánh giá các chỉ tiêu trong nhóm này không thể xem xét
trong một thời kì riêng rẽ mà phải đặt trong một quá trình liên tục để có được sự
đánh giá chính xác nhất. Tổng dư nợ cao chưa chắc hiệu quả cho vay đã cao. Vì thế,
để đánh giá hiệu quả không thể chỉ dựa vào tăng trưởng các khoản cho vay mà cần
phải xem xét đến khả năng sinh lời và an toàn của các món vay.
Thứ tư, nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn của DNNVV
- Nợ quá hạn là khoản nợ mà người vay không trả được khi đến hạn mà bên
cho vay và bên đi vay đã xác định rõ trong khế ước vay nợ, giấy nhận nợ hoặc trong
hợp đồng tín dụng. Chỉ tiêu này càng lớn, thể hiện sự thâm hụt vốn của ngân hàng
càng nhiều do chất lượng tín dụng giảm sút.
- Tỷ lệ nợ quá hạn là chỉ tiêu phản ánh chất lượng nghiệp vụ cho vay đối với
DNNVV tại ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn được tính như sau:
Dư nợ quá hạn đối với DNNVV
Tỷ lệ nợ quá hạn đối với DNNVV =
Tổng dư nợ đối với DNNVV
Tỷ lệ này cho biết khả năng rủi ro ngân hàng gặp phải trong cho vay đối với
DNNVV. Tỷ lệ này nếu cao chứng tỏ ngân hàng đang phải đối mặt với rủi ro cao do
những khoản nợ không thu hồi được đúng hạn, gây khó khăn cho việc luân chuyển
vốn vào ra, hơn thế nữa, nếu tỷ lệ này là quá cao thì có thể dẫn đến việc ngân hàng
mất khả năng thanh toán. Thông thường, tỷ lệ này duy trì dưới mức 5% thì hoạt
động cho vay của ngân hàng được xem là có hiệu quả, còn nếu trên 7% thì hoạt
động cho vay được xem là yếu kém.
Thứ năm, thu nhập và tỷ trọng thu nhập từ hoạt động cho vay DNNVV
- Thu lãi từ hoạt động cho vay: là tổng số tiền lãi thu được từ việc cho doanh
nghiệp vay tiền. Chỉ tiêu này phản ánh giá trị tuyệt đối mà ngân hàng có được từ
hoạt động cho vay DNNVV. Lãi từ hoạt động cho vay càng lớn thì lợi nhuận ngân
hàng thu được sẽ càng cao, hiệu quả của hoạt động cho vay đối với DNNVV cũng
sẽ càng cao.
- Tỷ trọng thu nhập từ hoạt động cho vay DNNVV là chỉ tiêu phản ánh tỷ lệ
thu nhập từ hoạt động cho vay DNNVV so với tổng doanh thu từ hoạt động cho vay
của ngân hàng. Công thức tính chỉ tiêu này:
Thu nhập từ hoạt động cho vay DNNVV
Tỷ trọng thu nhập từ cho vay DNNVV =
Tổng thu nhập từ hoạt động cho vay
Có thể nói rằng, lợi nhuận từ hoạt động cho vay là nguồn thu nhập quan
trọng của ngân hàng và chỉ tiêu lợi nhuận là chỉ tiêu rất quan trọng trong việc đánh
giá hiệu quả của hoạt động cho vay. Nếu chỉ tiêu này được duy trì ở mức cao và ổn
định thì chứng tỏ rằng ngân hàng đó đang cho vay có hiệu quả.
Việc phân tích, tổng hợp và đánh giá các chỉ tiêu nói trên trong mối liên hệ
giữa chúng sẽ làm nổi bật hiệu quả của hoạt động cho vay đối với DNNVV. [1] [3]
1.2.2.2.Nhóm các chỉ tiêu định tính.
Tính toán và đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay thông qua các chỉ tiêu
định lượng là hết sức trực quan song bên cạnh đó cũng không thể phủ nhận sự cần
thiết của việc xem xét các chỉ tiêu định tính. Những chỉ tiêu định tính thường được
các ngân hàng thương mại xem xét thêm thường là
- Sự tuân thủ các nguyên tắc tín dụng
- Uy tín của ngân hàng trong việc cung cấp các dịch vụ
- Chất lượng, trình độ của cán bộ tín dụng
- Quy trình nghiệp vụ của ngân hàng
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay đối với DNNVV của NHTM
1.3.1. Các nhân tố chủ quan:
Các nhân tố chủ quan là các nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng, các ngân
tố này hoàn toàn có thể điều chỉnh và khắc phục được. Các nhân tố chủ quan bao
gồm những nhân tố sau:
Thứ nhất, chính sách cho vay đối với DNNVV: Chính sách cho vay đối với
DNNVV là một thiết chế đồng nhất bằng văn bản, nhằm xác định phương hướng sử
dụng vốn, phản ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng. Chính sách cho vay là
một bản hướng dẫn chung cho các cán bộ tín dụng và các nhân viên trong ngân
hàng, tăng cường chuyên môn hóa trong phân tích các khoản cho vay để tạo sự
thống nhất chung trong hoạt động cho vay. Một chính sách cho vay bao gồm: chính
sách khách hàng, chính sách về giới hạn và quy mô tín dụng, chính sách về lãi suất
và phí suất tín dụng, chính sách về kì hạn nợ và thời hạn cho vay, chính sách về các
khoản đảm bảo và chính sách đối với các khoản cho vay có vấn đề.
Chính sách cho vay tác động lớn tới hiệu quả cho vay đối với DNNVV của
ngân hàng. Nếu chính sách cho vay phù hợp, sẽ giúp ngân hàng mở rộng các khoản
cho vay khi tình hình thuận lợi để tăng lợi nhuận và thu hẹp các khoản cho vay khi
tình hình bất lợi nhằm giảm thiểu tối đa rủi ro ngân hàng.
Trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng như hiện nay, các
ngân hàng thường đưa ra nhiều chính sách để thu hút khách hàng đến với mình. Đối
tượng mục tiêu, tiềm năng mà các ngân hàng hướng đến là khác nhau, phụ thuộc
vào chiến lược kinh doanh và khả năng của các ngân hàng. Các DNNVV tuy có quy
mô không lớn, quy mô các khoản vay thường không lớn bằng các doanh nghiệp lớn,
tuy nhiên tổng số lượng DNNVV lại là rất lớn. Vì thế, nhiều ngân hàng đã hướng
tới đối tượng này và đặt ra nhiều chính sách ưu tiên cho các DNNVV. Việc này làm
cho các DNNVV dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng hơn cũng từ đó qui
mô cho vay đối với DNNVV của ngân hàng cũng sẽ lớn hơn và đây cũng là một chỉ
tiêu để nâng cao hiệu quả của hoạt động cho vay tại ngân hàng.
Thứ hai, qui trình cho vay đối với DNNVV: Qui trình cho vay đối với
DNNVV là bảng tổng hợp mô tả các bước đi cụ thể từ khi tiếp nhận nhu cầu vay
vốn của khách hàng cho đến khi Ngân hàng ra quyết định giải ngân và thanh lý hợp
đồng tín dụng đối với doanh nghiệp. Qui trình cho vay được soạn thảo giúp cho quá
trình cho vay diễn ra một cách thống nhất, khoa học, hạn chế và phòng ngừa rủi ro,
đáp ứng được nhu cầu vay vốn của khách hàng. Việc thiết lập và không ngừng hoàn
thiện qui trình cho vay có ỹ nghĩa hết sức quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả
của hoạt động cho vay đối với DNNVV.
Qui trình cho vay là cơ sở cho việc phân định trách nhiệm, quyền hạn của
từng bộ phận liên quan đến hoạt động cho vay và chỉ ra một cách cụ thể mối liên hệ
giữa các bộ phận đó. Ngoài ra, qui trình cho vay còn là cơ sở để các các bộ tín dụng
thiết lập các hồ sơ và thủ tục vay vốn về mặt hành chính. Qui trình cho vay hợp lý
còn giúp việc trả lời đơn xin vay và việc giải ngân một cách có căn cứ, nhanh chóng
hơn, góp phần nâng cao uy tín và giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Nếu các trình tự
của qui trình là hợp lý thì hoạt động cho vay sẽ được vận hành một cách trôi chảy
và nhanh chóng, như thế sẽ mang lại lợi ích cho cả doanh nghiệp lẫn ngân hàng.
Nếu ngược lại, ngân hàng sẽ có nguy cơ bị mất uy tín, có khả năng phá sản do các
khoản cho vay không mang lại hiệu quả, doanh nghiệp sẽ tìm đến ngân hàng khác.
Thứ ba, quy mô - cơ cấu vốn của ngân hàng: Nguồn vốn là cơ sở cần thiết
cho sự tồn tại và hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Bất kỳ một ngân hàng nào
khi muốn thực hiện nghiệp vụ cho vay hay cung cấp các sản phẩm dịch vụ khác đều
phải chuẩn bị cho mình một số lượng vốn đủ lớn và đảm bảo. Đây là yếu tố hết sức
quan trọng quyết định đến quy mô cho vay của ngân hàng cũng như cơ cấu danh
mục các khoản vay của ngân hàng. Đặc biệt là quy mô vốn chủ sở hữu của ngân
hàng đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động cho vay của ngân hàng mặc dù số
vốn này chiếm một tỷ trọng nhỏ. Quy mô vốn chủ sở hữu là căn cứ để xác định tỷ lệ
đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng và quyết định giới hạn của khoản vay.
Bên cạnh đó, nguồn vốn huy động cũng đóng vai trò quan trọng không kém,
có ảnh hưởng trực tiếp đến kết cấu của khoản mục cho vay. Quy mô của nguồn này
lớn sẽ làm cho các ngân hàng có khả năng cho vay tăng lên, đặc biệt là các khoản
cho vay đối với DNNVV. Thời hạn, cơ cấu, lãi suất của nguồn vốn huy động cũng
quyết định phần nào đến thời hạn, cơ cấu, lãi suất của các khoản cho vay.
Thứ tư, hoạt động quản lý rủi ro đối với các khoản cho vay: Hoạt động
quản lý rủi ro đối với các khoản cho vay là một hoạt động ẩn chứa nhiều rủi ro, vì
thế việc quản lý rủi ro cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả cho vay của ngân
hàng. Mỗi một ngân hàng khác nhau sẽ có những cách quản lý rủi ro cho các khoản
vay của mình khác nhau. Điều này thể hiện ở thứ tự ưu tiên khi đánh giá vùng an
toàn xung quanh các khoản cho vay.
Biểu 1.1. Vùng an toàn xung quanh khoản cho vay của ngân hàng
Bảo lãnh cá nhân
Các nguồn trên bảng cân đối kế toán của người vay
Doanh thu và lợi nhuận dự tính của khách hàng
Khoản tiền mà Ngân hàng phải chịu
rủi ro bằng khoản tiền vay gốc cộng
với khoản tiền lãi trừ đi tiền gửi của
khách hàng tại ngân hàng
Hoặc dòng tiền
Hoặc tài sản thế chấp
Hoặc của doanh nghiệp
(Nguồn: Quản trị ngân hàng thương mại – Peter Rose) [3]
Có ngân hàng cho rằng, việc sử dụng tài sản đảm bảo cho món vay của
khách hàng là quan trọng nhất vì khi người đi vay không có khả năng trả nợ thì
ngân hàng có thể siết nợ từ chính tài sản đó. Trong điều kiện các ngân hàng đang
tăng mạnh về số lượng như hiện nay thì cách này được xem như là không hữu hiệu
trong việc tăng hiệu quả cho vay. Có thể vì một lý do nào đó mà doanh nghiệp gặp
khó khăn, không đủ trả nợ cho ngân hàng đúng hạn và nếu ngân hàng lập tức siết nợ
tài sản đảm bảo của khách hàng thì chỉ làm cho tình hình sẽ trở nên xấu hơn và khả
năng mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp sẽ bị phá bỏ. Điều này đồng
nghĩa với việc ngân hàng sẽ mất đi nguồn khách hàng của mình, ngoài ra việc này
sẽ còn kéo theo sự dè chừng, cân nhắc thận trọng của các doanh nghiệp khác khi
muốn đặt quan hệ vay mượn tại ngân hàng. Do đó, việc quản lý rủi ro như thế nào
cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả cho vay nói chung và với đối tượng là
DNNVV nói riêng.
Thứ năm, chất lượng, năng lực, trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng.
Cán bộ tín dụng đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động cho vay của tất cả các
ngân hàng, là hình ảnh đại diện cho chính ngân hàng đó. Một ngân hàng có đội ngũ
cán bộ trình độ nghiệp vụ vững chắc sẽ có khả năng phân tích, nhìn nhận, đánh giá
đúng năng lực tài chính của doanh nghiệp, đánh giá đúng khả năng hoàn trả các
khoản vay của doanh nghiệp, khiến cho các khoản vay trở nên có chất lượng hơn,
khả năng hoàn trả cao hơn, đem lại lợi nhuận lớn hơn cho ngân hàng. Bên cạnh đó,
nếu cán bộ tín dụng có thái độ phục vụ khách hàng tận tụy, có kinh nghiệm thực tế,
năng động, hiểu sâu sắc về sản phẩm dịch vụ cho vay của ngân hàng, sẽ có khả
năng tư vấn cho khách hàng một cách tốt nhất, điều này sẽ gia tăng ấn tượng tốt cho
khách hàng và thu hút khách hàng đến với ngân hàng sẽ cao hơn.
Yếu tố con người luôn là một yếu tố được rất mực chú trọng trong các ngân
hàng, đó được xem như là một vốn quý của ngân hàng. Một cán bộ tín dụng có năng
lực sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro, có thể sáng tạo, phát hiện những sản phẩm
cho vay mới đáp ứng nhu cầu của thị trường. Điều này sẽ làm tăng khả năng cạnh
tranh và nâng cao hiệu quả của hoạt động cho vay nói chung và đối với DNNVV
nói riêng.
Thứ sáu, trình độ công nghệ, cơ sở vật chất kỹ thuật của ngân hàng: Trình
độ công nghệ, cơ sở vật chất kỹ thuật của ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến tất cả
các hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay của ngân hàng nói
riêng. Sự phát triển của trình độ công nghệ, thông tin, cơ sở vật chất kỹ thuật sẽ tạo
ra nhiều kênh huy động mới, góp phần đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, từ đó đẩy
mạnh hoạt động cho vay đối với khách hàng. Công nghệ, kỹ thuật hiện đại giúp kết
nối giữa các ngân hàng với nhau, giữa ngân hàng và khách hàng, tạo điều kiện cho
các giao dịch diễn ra nhanh chóng hơn, chính xác, tính bảo mật cao, thuận tiện hơn.
Điều này làm cho việc mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay được thực hiện tốt
hơn. Công nghệ thông tin phát triển, hiện đại hỗ trợ cho cán bộ tín dụng có thể tìm
kiếm được nhiều thông tin chính xác hơn về doanh nghiệp, từ đó có những biện
pháp để kiểm tra, giám sát các việc sử dụng các khoản vốn đã cho vay, làm tăng khả
năng phòng ngừa rủi ro, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động cho vay đối với
doanh nghiệp.
1.3.2. Các nhân tố khách quan:
1.3.2.1. Các nhân tố xuất phát từ DNNVV:
Hiệu quả của hoạt động cho vay đối với DNNVV không chỉ phụ thuộc vào
các nhân tố xuất phát từ chủ quan của ngân hàng mà còn chịu ảnh hưởng trực tiếp
từ DNNVV.
a, Năng lực tài chính của DNNVV: Năng lực tài chính của DNNVV là một
nhân tố quan trọng đóng vai trò quyết định đến hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp, thể hiện qui mô vốn chủ sở hữu và tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng
nguồn vốn kinh doanh. Một doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu quá nhỏ sẽ ít có khả
năng chống chọi với những hoàn cảnh bất lợi. Thông qua việc ảnh hưởng đến hiệu
quả của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nó sẽ tác động lên hiệu quả cho
vay đối với những doanh nghiệp đó của ngân hàng. Nguồn tài chính hạn bị hạn chế,
sẽ làm giảm khả năng vay vốn của doanh nghiệp. Để đảm bảo an toàn cho mình,
ngân hàng luôn yêu cầu một tỷ lệ vốn tự có nhất định trong tổng vốn hoạt động hay
trong tổng nhu cầu vốn của phương án sử dụng vốn vay. Ngoài ra, năng lực tài
chính còn thể hiện ở khả năng thanh toán của doanh nghiệp, tính thanh khoản của
tài sản doanh nghiệp. Doanh nghiệp có khả năng tài chính tốt, vốn chủ sở hữu thích
hợp thì hạn mức cho vay sẽ lớn hơn, sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu tài trợ của chính
bản thân doanh nghiệp.
b, Triển vọng kinh doanh của DNNVV: Khi đưa ra quyết định cho vay,
ngân hàng không chỉ đánh giá các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp mà còn chú
trọng đánh giá các chỉ tiêu phi tài chính như uy tín, năng lực quản lý, triển vọng
phát triển của doanh nghiệp. Khi một mối quan hệ tín dụng được hình thành, thì lợi
ích của ngân hàng sẽ gắn liền với lợi ích của doanh nghiệp. Những doanh nghiệp
nào hoạt động trong ngành, lĩnh vực được ưu tiên, khuyến khích phát triển sẽ có
nhiều cơ hội kinh doanh và phát triển, như thế ngân hàng có nhiều đảm bảo để ra
quyết định cho vay. Nếu ngân hàng cho các doanh nghiệp này vay vốn thì khả năng
thu hồi vốn của ngân hàng sẽ cao hơn, khả năng thu lợi nhuận cao hơn, từ đó sẽ làm
cho hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp của ngân hàng sẽ tăng lên.
c, Tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh, phương án sử dụng
vốn vay của DNNVV: Để vay được vốn của ngân hàng thì DNNVV phải có một
phương án sử dụng vốn vay có hiệu quả. Một phương án sản xuất kinh doanh khả
thi của doanh nghiệp sẽ làm tăng khả năng hoàn trả nợ vay cho ngân hàng. Vì thế,
đây là yếu tố hàng đầu mà ngân hàng quan tâm khi xét duyệt cho DNNVV vay vốn
và cũng là cơ sở để các NHTM mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay
của mình đối với doanh nghiệp.
d, Đạo đức kinh doanh của chủ DNNVV: Việc có thể thu hồi được nợ đầy
đủ và đúng hạn của ngân hàng phụ thuộc không nhỏ vào đạo đức kinh doanh của
người đi vay. Đạo đức kinh doanh của DNNVV thể hiện ở sự trung thực sử dụng
khoản vay đúng mục đích, thực hiện quản lý tốt, đảm bảo hoạt động kinh doanh
lành mạnh, hiệu quả, đảm bảo trả nợ cho ngân hàng cả gốc và lãi một cách đầy đủ.
Đây cũng là yếu tố làm giảm rủi ro đạo đức, tăng hiệu quả của hoạt động cho vay
của ngân hàng.
Do những hạn chế về quy mô vốn mà các DNNVV luôn mong muốn tiếp cận
và tìm nhiều cách để có được nguồn vốn vay từ ngân hàng. Có những doanh nghiệp
đi theo hướng tích cực nhưng cũng có những doanh nghiệp đi ngược lại như làm sai
lệch các báo cáo tài chính, cung cấp thông tin không trung thực…nhằm chiếm dụng
vốn ngân hàng. Vì thế, ngay cả khi doanh nghiệp có tín nhiệm thì cũng không có gì
đảm bảo chắc chắn là ngân hàng sẽ không gặp rủi ro khi cho doanh nghiệp vay vốn.
Như vậy đạo đức kinh doanh là một nhân tố hết sức quan trọng tác động đến hiệu
quả cho vay của ngân hàng đối với DNNVV.
1.3.2.2. Các nhân tố khác
a, Môi trường kinh tế, chính trị, xã hội: Môi trường kinh tế, chính trị, xã
hội có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động cho vay đối với DNNVV của ngân hàng
thương mại. Một khu vực có nền chính trị ổn định, kinh tế đang trên đà phát triển,
môi trường kinh doanh thuận lợi, nhu cầu tiêu dùng của dân cư tăng, đời sống xã
hội được nâng cao là cơ hội rất tốt để DNNVV đầu tư, mở rộng phát triển sản xuất,
hoạt động hiệu quả hơn và làm cho nhu cầu về tín dụng tăng lên. Đồng thời, nền
kinh tế tăng trưởng, thu nhập quốc dân tăng, tiết kiệm tăng, từ đó nguồn cung ứng
vốn trên thị trường sẽ tăng. Đây là hai yếu tố hết sức thuận lợi cho việc mở rộng
hoạt động cho vay cũng như nâng cao hiệu quả cho vay của các ngân hàng thương
mại.
b, Môi trường pháp lý: Các nhân tố thuộc môi trường pháp lý là điều kiện để
đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp lẫn ngân hàng. Môi
trường pháp lý ảnh hưởng tới hiệu quả cho vay của ngân hàng thông qua hệ thống
các quy định pháp lý về hoạt động cho vay đối với khách hàng. Các qui định này
liên quan đến những vấn đề cụ thể như hạn mức cho vay, hạn chế trong cho vay,
trường hợp không cho vay…Nếu môi trường pháp lý hoàn thiện, hợp lý sẽ giúp cho
hoạt động cho vay của NHTM nói chung và cho vay đối với DNNVV nói riêng lành
mạnh hơn và hiệu quả hơn. Ngược lại, một môi trường pháp lý thiếu đồng bộ,
không chặt chẽ sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp lách luật, dẫn đến rủi ro, lừa
đảo đối với các ngân hàng gia tăng.
c, Chính sách vĩ mô của Chính phủ, NHTW: Tất cả các hoạt động của
NHTM đều phải chịu sự kiểm soát gắt gao và chặt chẽ của NHTW và Chính phủ vì
đặc điểm kinh doanh tiền tệ của ngân hàng. Trong đó, hoạt động cho vay của ngân
hàng được xem là quan trọng nhất và cũng chịu những tác động trực tiếp từ NHTW
và Chính phủ thông qua công cụ chính sách tiền tệ bao gồm: tái cấp vốn, tỷ lệ dự
trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất tín dụng…Sự điều chỉnh hay thay đổi
các công cụ trong chính sách tiền tệ có thể kích thích cũng như kìm hãm, tác động
đến khả năng cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến
hiệu quả của hoạt động cho vay.
Ngoài ra, chính sách của Nhà nước đối với các DNNVV cũng là một nhân tố
không kém phần quan trọng. Nếu thiếu sự quan tâm, thiếu các chính sách hỗ trợ cần
thiết từ Nhà nước cho các DNNVV thì cũng sẽ gây khó khăn rất lớn đến hoạt động
sản xuất kinh doanh, mở rộng sản xuất của doanh nghiệp, từ đó tác động lên hiệu
quả cho vay đối với DNNVV của ngân hàng.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương 1, khoá luận đã tập trung làm rõ những vấn đề về hoạt động
cho vay đối với DNNVV, hiệu quả hoạt động cho vay đối với DNNVV và các nhân
tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động cho vay đối với DNNVV tại NHTM. Đây là
cơ sở quan trọng để đi sâu vào phân thích đánh giá thực trạng hoạt động cho vay
DNNVV của NHTMCPNTVN Chi nhánh Thăng Long.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ CHO VAY ĐỐI VỚI DNNVV TẠI
NHTMCPNTVN CHI NHÁNH THĂNG LONG
2.1. Khái quát chung về NHTMCPNTVN Chi nhánh Thăng Long
2.1.1. Quá trình hình thành phát triển của NHTMCPNTVN Chi nhánh Thăng
Long
NHTMCPNTVN Chi nhánh Thăng Long gọi tắt là Ngân hàng Ngoại Thương
Thăng Long tiền thân là chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Cầu Giấy được thành
lập ngày 03/03/2003. Nó là chi nhánh cấp II thuộc Ngân hàng TMCP Ngoại
Thương Việt Nam. Đến ngày 18/12/2006, chi nhánh này được nâng cấp lên thành
chi nhánh cấp I trực thuộc Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam. Ngày
01/08/2007 Ngân hàng Ngoại Thương Thăng Long đổi tên thành Ngân hàng TMCP
Ngoại Thương Việt Nam chi nhánh Thăng Long theo quyết định số 567/QĐ-
NHNT-TCCB-ĐT ban hành ngày 11/07/2007 và có hiệu lực kể từ ngày 01/08/2007.
Từ đó đến nay, Ngân hàng hoạt động với tên giao dịch chính thức Tiếng Việt là
Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam chi nhánh Thăng Long.
- Tên giao dịch Tiếng Anh là: Joint Stock Commercial Bank for Foreign
Trade of Viet Nam – Thăng Long Branch.
- Trụ sở chính Chi nhánh: số 98, đường Hoàng Quốc Việt, quận Cầu Giấy, Hà
Nội.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy của NHTMCPNTVN Chi nhánh Thăng Long
Mô hình tổ chức hiện nay của NHTMCPNTVN Chi nhánh Thăng Long là
mô hình tổ chức hiện đại, việc phân chia các phòng ban chủ yếu dựa trên các nghiệp
vụ mà phòng đảm nhiệm.
NHTMCPNTVN Chi nhánh Thăng Long gồm có 6 phòng nghiệp vụ, một tổ
kiểm tra và 5 phòng giao dịch trực thuộc.
* Các phòng nghiệp vụ tại trụ sở chính chi nhánh gồm:
- Phòng Hành chính nhân sự
- Phòng Kế toán tài chính
- Phòng Thanh toán quốc tế
- Phòng Quan hệ khách hàng
- Phòng Ngân quỹ
- Phòng Tin học
- Tổ kiểm tra nội bộ
* Các phòng giao dịch trực thuộc:
- Phòng giao dịch Kim Liên- Ô Chợ Dừa
- Phòng giao dịch Lê Văn Lương
- Phòng giao dịch Phố Vọng
- Phòng giao dịch Lạc Long Quân
- Phòng giao dịch Xuân Thủy
Khi mới thành lập, đội ngũ cán bộ công nhân viên của Chi nhánh gồm 14
người đến nay toàn bộ Chi Nhánh đã có trên 100 người. Trong đó, 95% cán bộ công
nhân viên của Chi nhánh có trình độ học vấn từ Đại học trở lên, còn lại là Cao đẳng,
Trung cấp.
Có thể khái quát mô hình tổ chức hoạt động của NHTMCPNTVN Chi nhánh
Thăng Long theo sơ đồ sau:
Sơ đồ bộ máy tổ chức Chi nhánh Thăng Long
(Nguồn: Phòng Hành chính nhân sự - NHTMCPNTVN Chi nhánh Thăng Long)
2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của NHTMCPNTVN Chi nhánh Thăng
Long trong thời gian 2007-2010
2.1.3.1. Hoạt động huy động vốn
Giám đốc
Tổ kiểm
tra nội bộ
Phó Giám đốc
P.Kế toán
tài chính
Phòng tin
học
P.Hành
chính
nhân sự
P.Phòng
khách
hàng
P.Ngân
quỹ
P.Thanh
toán quốc tế
PGD.Kim Liên
Ô Chợ DỪa
PGD.Lê
Văn Lương
PGD.Phố
Vọng
PGD.Lạc
Long Quân
PGD.Xuân
Thuỷ
Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, lợi nhuận chủ yếu của ngân
hàng chính là phần chênh lệch giữa lãi suất tiền cho vay và lãi suất tiền gửi. Cho
vay là hoạt động sinh lời cao và là nguồn thu lớn nhất của ngân hàng, vì thế ngân
hàng thường sử dụng những chính sách nhằm huy động vốn ở mức cao. Hoạt động
huy động vốn của Ngân hàng Ngoại thương Thăng Long chủ yếu thông qua các
hình thức bao gồm: tiền gửi, tiền vay và phát hành các giấy tờ có giá. Trong đó chủ
yếu là huy động vốn thông qua huy động tiền gửi từ các cá nhân và tổ chức kinh tế.
Lượng vốn huy động được thông qua hoạt động này chiếm trên 90% tổng số vốn
huy động.
Năm 2007 NHTMCPNTVN Chi nhánh Thăng Long được nâng cấp thành chi
nhánh trực thuộc NHTMCPNTVN. Với những nỗ lực không ngừng của toàn thể
cán bộ công nhân viên của chi nhánh, hoạt động kinh doanh từ năm 2007 đến 2010
đã đạt những kết quả khả quan. Trong năm 2008, khi thị trường tài chính thế giới
có nhiều biến động với diễn biến phức tạp của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu,
với sự sụp đổ của nhiều cường quốc kinh tế, lượng vốn huy động được Chi nhánh
tính đến ngày 31/12/2008 đạt 1260 tỷ đồng, tăng 26% so với năm 2007. Điều này
chứng tỏ hoạt động kinh doanh của Chi nhánh đã tạo dựng được lòng tin của khách
hàng và có một chiến lược kinh doanh hợp lý. Trước các biến động về tỷ giá, ngân
hàng đã chủ động áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt trên cơ sở cung – cầu vốn
của thị trường, tích cực cải thiện chênh lệch lãi suất cho vay – huy động, cải thiện
cán cân thanh toán dựa trên hệ thống thông số an toàn và phát triển nhiều công cụ
huy động vốn mới như chứng chỉ tiền gửi, lãi suất bậc thang, tiết kiệm dự thưởng,
tiết kiệm bảo an…Đến năm 2009 tổng nguồn vốn huy động từ tổ chức kinh tế và
dân cư đạt 1750 tỷ quy VND tăng khoảng 38,8 % so với cùng kỳ năm 2008 (1260
tỷ đồng). Và đến năm 2010 con số này đạt 3250 tỷ quy VND tăng khoảng 85,71%
trong đó huy động vốn từ tổ chức kinh tế đạt 1078 tỷ VND tăng 29,92% so với năm
2009, huy động từ dân cư đạt 2.172 tỷ quy VND tăng 24,1% so với năm 2009. Bảng
số liệu dưới đây sẽ cho thấy hoạt động huy động vốn của chi nhánh từ năm 2007
đến năm 2010.
Bảng 2.1: Nguồn vốn huy động
Đơn vị tính: tỷ đồng, triệu USD
Năm
Chỉ tiêu
2007 2008 2009 2010
1.Tiền gửi 887.7 1135.26 1579,66 2955.67
- Của các TCTD 200 258 358 512
- Tiền gửi của khách hàng 280 356.23 559.23 1203.45
- Tiền gửi tiết kiệm 400.7 512.03 654,43 1225.22
- Tiền ký quỹ 7 9 8 15
2.Tiền vay 80.136 54.81 70,13 98.47
- Vay NHNN 25 15 20 23
- Vay các TCTD 55.136 39.81 50,13 75.47
3.Phát hành giấy tờ có giá 32.164 69.93 100,21 195.86
4.Tổng. Trong đó: 1000 1260 1750 3250
- Ngoại tệ (Triệu USD) 30 39 49 65
- VNĐ 520 640 935 2080
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh các năm 2007, 2008, 2009, 2010) [8]
Qua bảng số liệu trên ta thấy lượng vốn mà Chi nhánh đã huy động liên tục
tăng qua các năm, năm sau cao hơn năm trước. Cụ thể, năm 2009 lượng tiền gửi của
các tổ chức tín dụng, tiền gửi của khách hàng, tiền gửi tiết kiệm, ký quỹ tăng
39,14% so với năm 2008 và tăng 77,9% so với năm 2007. Lượng tiền vay từ NHNN
và vay của các tổ chức tín dụng năm 2009 giảm so với năm 2007 nhưng so với năm
2008 lại tăng chứng tỏ bất chấp khó khăn do suy thoái kinh tế sau cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 mang lại, hoạt động của ngân hàng vẫn phát
triển khá ổn định, có chất lượng. Lượng vốn huy động được tăng chứng tỏ các công
cụ huy động vốn mà ngân hàng sử dụng như tăng lãi suất tiền gửi, các chương trình
khuyến mãi, các chương trình mở thưởng…đã mang lại hiệu quả cho hoạt động của
ngân hàng.
Các chỉ tiêu trong cơ cấu huy động đều gia tăng đồng bộ đảm bảo cung cấp
đủ vốn cho nhu cầu kinh doanh của Chi nhánh Thăng Long.
Bảng 2.2. Cơ cấu nguồn vốn huy động theo loại tiền
Năm
Cơ cấu
VND Ngoại tệ
2007 2008 2009 2010 2007 2008 2009 2010
Huy động từ
Tổ chức
kinh tế
30,12% 31,78% 31,97% 32,03% 5,9% 6,82% 12,30% 23%
Huy động từ
dân cư
69,88% 68,22% 68,03% 68,13% 94,1% 93,18% 87,70% 85,4%
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh các năm 2007,2008, 2009, 2010) [8]
Chênh lệch lãi suất huy động và cho vay của Chi nhánh đến 31/12/2010 thể
hiện trong các bảng sau:
Bảng 2.3. Lãi suất bình quân cho vay – huy động năm 2010
Loại tiền
Chỉ tiêu
VND (%/năm) USD (%/năm)
Lãi suất bình quân cho vay 10,5 3,81
Lãi suất bình quân huy động 6,06 1,81
Chênh lệch lãi cho vay và huy động 4,44 2
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2010) [8]
Bảng 2.4. Lãi suất bình quân đầu vào – đầu ra năm 2010
Loại tiền
Chỉ tiêu
VND (%/năm) USD (%/năm)
Lãi suất bình quân đầu ra 9,80 3,56
Lãi suất bình quân đầu vào 6,12 2,00
Chênh lệch lãi đầu ra – đầu vào 3,68 1,56
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2010) [8]
Năm 2010, thị phần huy động vốn của Chi nhánh (tính đến ngày 31/10/2010)
chiếm 0,52% tổng huy động vốn của địa bàn Hà Nội, trong đó huy động bằng VND
chiếm 0,41% và huy động bằng ngoại tệ chiếm 0,82% thị phần huy động vốn. Đến
ngày 31/12/2010, thị phần huy động vốn của Chi nhánh giảm xuống, còn khoảng
0,44% tổng huy động vốn của toàn địa bàn Hà Nội. Nguyên nhân của sự sụt giảm
trên là do Chi nhánh phải đối mặt với nhiều khó khăn trong công tác huy động vốn,
tiêu biểu sự cạnh tranh từ các NHTMCP khác.
Bảng 2.5. Báo cáo thị phần huy động vốn
Đơn vị tính: VNĐ/USD
Chỉ tiêu Thực hiện 31/10/2010 Thực hiện 31/12/2010
Số dư Thị phần (%) Số dư Thị phần (%)
VND 1.723.125 0,41 1.757.587 0,35
USD 73.134 0,82 72.447 0,68
Quy VND 2.967.207 0,52 2.989.983 0,44
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2010) [8]
2.1.3.2. Hoạt động sử dụng vốn:
Song song với việc thực hiện chủ trương của Ban lãnh đạo NHTMCP Ngoại
thương Việt Nam là tập trung phát triển DNNVV, nâng cao hiệu quả cho vay đồng
thời tập trung phát triển các doanh nghiệp đã có thương hiệu và vị thế trên thị
trường, Chi nhánh còn có mảng tín dụng thể nhân cũng được quan tâm phát triển
đáp ứng nhu cầu cho vay tiêu dùng của cá nhân và hộ gia đình.
Cho vay là hoạt động đặc biệt quan trọng bậc nhất của ngân hàng, lợi nhuận
thu được từ chênh lệch giữa hoạt động huy động vốn và hoạt động cho vay vì thế
phải xác định đúng hiệu quả của các dự án vay vốn và lựa chọn được các dự án hiệu
quả.
Giai đoạn 2007-2009, dư nợ tín dụng có sự tăng trưởng mạnh. Trong năm
2008, mặc dù là một năm khó khăn của nền kinh tế toàn cầu khi cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới xuất hiện, tuy nhiên nền kinh tế Việt Nam chưa thật sự bị ảnh hưởng
nặng bởi cuộc khủng hoảng này. Tín dụng vẫn được đẩy mạnh cho đến cuối năm
2008, dư nợ tín dụng của chi nhánh vẫn tăng 49% đây là một mức cao so với mặt
bằng chung. Tỷ trọng cho vay ngắn hạn chiếm 53,33% trong tổng dư nợ năm 2008.
Sang đến năm 2009, nền kinh tế toàn cầu rơi vào cuộc suy thoái và kinh tế Việt
Nam cũng không tránh khỏi bị ảnh hưởng bởi cuộc đại suy thoái, con số dư nợ tín
dụng tại chi nhánh vẫn tăng 21,25%, trong đó tỷ trọng cho vay trung và dài hạn
chiếm 47,08% trong tổng dư nợ tín dụng năm 2009.
Để nâng cao hiệu quả kinh doanh, chủ động sử dụng linh hoạt và có lãi
nguồn vốn huy động của Chi nhánh, trong năm 2010, hoạt động tín dụng của Chi
nhánh Thăng Long đã có sự tăng trưởng về cả số lượng và chất lượng. Trong năm
2010, ngoài việc tăng cường xây dựng mối quan hệ bền vững với các khách hàng
truyền thống, chi nhánh đã nỗ lực tìm kiếm các khách hàng mới, phát triển các
khách hàng có hoạt động kinh doanh ổn định, tình hình tài chính lành mạnh để đầu
tư trong đó có các khách hàng như CTCP Long Giang TSQ, CTCP Habeco-Hải