MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Bất kỳ một nền kinh tế nào, muốn phát triển, tăng trưởng nhanh chóng
và bền vững, trước hết phải đáp ứng nhu cầu về vốn. Chính vì lẽ đó, người ta
cho rằng, vốn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, không chỉ đóng vai trò như là yếu
tố mở đầu, yếu tố tham gia, yếu tố điều chỉnh mà còn là yếu tố quyết định đối
với mọi quá trình sản xuất từ hình thái kinh tế đơn giản nhất đến hình thái
kinh tế hiện đại, tinh vi và phức hợp nhất. Điều đó không chỉ đúng đối với các
nước phát triển mà còn đúng đối với các nước đang phát triển.
Từng nguồn vốn cho phát triển đều được hình thành từ nguồn vốn trong
nước, tức từ bản thân nền kinh tế tạo ra và huy động được, và nguồn vốn từ
bên ngoài, thông qua các hình thức vay nợ và viện trợ, đầu tư trực tiếp nước
ngoài ….
Nguồn vốn có từ trong nước là chủ yếu nhưng đồng thời nguồn vốn bên
ngoài là rất quan trọng, bên cạnh vốn bằng tiền còn có nguồn vốn về sức lao
động, đất đai và công nghệ …. Hơn nữa, bất kỳ sự tăng trưởng cơ bản nào vẫn
xuất phát từ nội lực, nhưng các nguồn tài chính nước ngoài đóng góp rất
nhiều cho tăng trưởng ở các nước đang phát triển, đặc biệt ở thời kỳ đầu cất
cánh. Lợi ích mang lại của các nguồn tài chính nước ngoài không chỉ ở quy
mô về vốn thu nhận được mà chính là ở vai trò tác động lan tỏa của nó khi
chuyển giao và tiếp nhận công nghệ hiện đại, kể cả công nghệ vào thế hệ đời
chót, nhằm thúc đẩy năng lực cạnh tranh trong nước, cải thiện cơ sở hạ tầng
và tạo sức ép cải thiện về thể chế.
Cho đến nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã được nhìn nhận như
là một trong những “trụ cột” tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Vai trò của FDI
được thể hiện rất rõ qua việc đóng góp vào các yếu tố quan trọng của tăng
trưởng như bổ sung nguồn vốn đầu tư, đẩy mạnh xuất khẩu, chuyển giao công
nghệ, phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm,…. Ngoài ra, FDI cũng đóng
góp tích cực vào tạo nguồn thu ngân sách và thúc đẩy Việt Nam hội nhập sâu
rộng vào nền kinh tế thế giới. Nhờ có sự đóng góp quan trọng của FDI mà
Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong nhiều năm qua và
được biết đến là quốc gia phát triển năng động, đổi mới, thu hút được sự quan
tâm của cộng đồng quốc tế.
Bên cạnh những đóng góp tích cực, FDI cũng đã và đang tạo nhiều vấn
đề ảnh hưởng tiêu cực đến tính bền vững của tăng trưởng và chất lượng cuộc
sống của người dân. Gần đây, đã xuất hiện hàng loạt vấn đề gây bức xúc dư
luận xã hội, trong đó nổi bật là chất lượng FDI thấp, thiếu tính bền vững, ô
nhiễm môi trường trầm trọng. Thêm vào đó, hiện tượng FDI đầu tư mạnh vào
các lĩnh vực bất động sản, sân golf và các dự án công nghiệp nặng có nguy cơ
ô nhiễm cao đang dấy lên làn sóng cần phải xem xét lại vai trò của FDI trong
bối cành phát triển mới của Việt Nam. Chính vì vậy Tôi đã mạnh dạn lựa
chọn đề tài: “Vai trò của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với tăng
trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển. Nghiên cứu thực trạng đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở Việt Nam” làm đề tài tiểu luận môn học Kinh tế Phát triển
với hy vọng góp phần giải quyết những hạn chế, vướng mắc trong quản lý, sử
dụng nguồn vốn FDI ở Việt Nam đồng thời hướng tới việc tối đa hóa hiệu quả
sử dụng vốn trong đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Phần I MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ FDI
1/ Quan niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1 Quan niệm quốc tế
Quan niệm của IMF: FDI là một khoản đầu tư với những quan hệ lâu dài,
theo đó một tổ chức trong một nền kinh tế thu được lợi ích lâu dài từ một
doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác.
Quan niệm của UNCTAD: FDI bao gồm vốn được cung cấp ( trực tiếp
hoặc thông qua các công ty liên quan khác) bởi nhà đầu tư trực tiếp nước
ngoài cho các doanh nghiệp FDI, hoặc vốn mà nhà đầu tư trực tiếp nước
ngoài nhận được từ doanh nghiệp FDI.
Quan niệm của các nhà kinh tế quốc tế: FDI là người sở hữu tại nước này
mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Đó là một khoản tiền
mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để có ảnh hưởng
quyết định đối với thực thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong
thực thể kinh tế ấy.
Quan niệm của OECD: Một doanh nghiệp đầu tư trực tiếp là một DN có
tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân trong đó nhà đầu tư trực
tiếp sở hữu ít nhất 10% cổ phiếu thường hoặc có quyền biểu quyết. Điểm mấu
chốt của đầu tư trực tiếp là chủ định thực hiện quyền kiểm soát công ty.
1.2 Quan niệm của Việt Nam
Sự thay đổi quan niệm về FDI của Việt Nam:
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987: Đầu tư nước ngoài là việc tổ chức, cá
nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài
sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ
sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài.
1
Luật đầu tư nước ngoài năm 1996: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà
đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để
tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của luật này.
Luật đầu tư năm 2005: Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài
đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành
hoạt động đầu tư. Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn
đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
2/ Các hình thức FDI:
Đầu tư nước ngoài trực tiếp vào cơ sở vật chất của doanh nghiệp và cơ sở
hạ tầng của nền kinh tế.
Đầu tư hình thành các chi nhánh hoặc công ty thành viên, đối tác thương
mại của doanh nghiệp nước ngoài.
Đầu tư cổ phiếu ở mức tỷ lệ chi phối dưới dạng tài sản tài chính.
2
PHẦN II VAI TRÒ CỦA NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở
CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong một vài thập kỷ trước đã đóng một vai
trò quan trọng đối với tăng trưởng thương mại và dòng vốn quốc tế. Đầu tư
trực tiếp nước ngoài hầu hết là Bắc Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản (Nhưng cũng
đang ngày càng tăng từ các nước công nghiệp mới như Hàn Quốc, Đài Loan
và Brazil) mang đến cơ hội đặc biệt, nhưng có thể tạo ra những vấn đề
nghiêm trọng cho nhiều nước đang phát triển nơi chúng hoạt động.
1/ Vai trò của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với tăng
trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển.
Theo lý thuyết tân cổ điển truyền thống và lý thuyết tăng trưởng mới phân
tích những nhân tố tác động tới tăng trưởng kinh tế thì FDI được coi là cách
bù đắp thiếu hụt giữa nguồn cung sẵn có trong nước về tiết kiệm, ngoại tệ,
nguồn thu của Chính phủ, và kỹ năng vốn nhân lực với nhu cầu cần thiết để
đạt mục tiêu tăng trưởng và phát triển. Một ví dụ đơn giản của việc phân tích
“khoảng cách tiết kiệm - đầu tư”, mô hình tăng trưởgn cơ bản của Harrod-
Domar cho rằng có mối quan hệ trực tiếp giữa tỷ lệ tiết kiệm của một nước s,
với tăng trưởng sản phẩm g, thông qua công thức g=s/k, trong đó k là hệ số tư
bản-đầu ra. Nếu tốc độ tăng trưởng sản lượng mong muốn là 7% hàng năm và
hệ số tư bản - đầu ra là 3 thì tỷ lệ tiết kiệm cần thiết phải là 21%. Nếu tiết
kiệm trong nước chỉ huy động được khoảng 16% GDP, thì khoảng cách tiết
kiệm” là 5%. Nếu nước đó có thể bù đắp sự thiếu hụt này bằng nguồn tài
chính nước ngoài (hoặc là tư nhân hoặc là công cộng) thì nó có khả năng đạt
được mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
3
Do đó, sự đóng góp đầu tiên và thường xuyên của đầu tư nước ngoài tư
nhân cho sự phát triển đất nước là vai trò của nó trong việc bù đắp sự thiếu
hụt giữa nhu cầu đầu tư và tiết kiệm có thể huy động trong nước.
Sự đóng góp thứ hai, cũng tương tự như thứ nhất, là sự đóng góp của nó
trong việc bù đắp thiếu hụt giữa yêu cầu ngoại tệ để đạt mục tiêu và nguồn
ngoại tệ có được từ thu nhập xuất khẩu cộng với viện trợ nước ngoài. Cái này
được gọi là ngoại tệ hoặc thiếu hụt thương mại. Luồng vốn vào của tư nhân
nước ngoài không chỉ làm giảm một phần hoặc toàn bộ thâm hụt cán cân tài
khoản vãng lai mà còn có thể hoạt động để loại bỏ thâm hụt theo thời gian nếu
các doanh nghiệp do nước ngoài sở hữu có thể tạo ra thu nhập dương từ xuất
khẩu.
Thiếu hụt thứ ba được bù đắp bằng đầu tư nước ngoài là khoảng cách giữa
mục tiêu thu thuế của Chính phủ và thuế thu được từ trong nước. Bằng việc
đánh thuế lợi nhuận của các công ty đa quốc gia (MNC) và đóng góp tài chính
cho các hoạt động trong nước của họ, Chính phủ của các nước đang phát triển
cho rằng có thể huy động nguồn lực tài chính cho các dự án phát triển.
Thứ tư là khoảng cách về quản lý, tính doanh nghiệp, công nghệ và kỹ
năng được giả định là có thể một phần hoặc toàn bộ bù đắp bởi sự hoạt động
của các công ty nước ngoài tại địa phương. Các công ty đa quốc gia không chỉ
cung cấp nguồn tài chính và nhà máy mới cho các nước nghèo, mà họ còn
cung cấp “ một gói” các nguồn lực cần thiết, bao gồm kinh nghiệm quản lý,
khả năng kinh doanh, kỹ năng công nghệ mà có thể chuyển giao cho các đối
tác của họ tại địa phương thông qua các chương trình đào tạo và quá trình học
thông qua làm. Hơn nữa, theo lý lẽ này, các công ty đa quốc gia có thể đào tạo
các nhà quản lý địa phương về làm thế nào để thiết lập mối liên hệ với các
ngân hàng nước ngoài, phân bổ các nguồn cung cấp khác nhau, đa dạng hóa
mạng lưới thị trường, và làm quen với các hoạt động marketing quốc tế. Cuối
cùng, các MNC mang đến những kiến thức công nghệ hiện đại nhất về quá
4
trình sản xuất trong khi chuyển giao thiết bị và máy móc hiện đại cho các
nước đang phát triển nghèo vốn. Người ta giả thiết rằng một số kiến thức này
sẽ rò rỉ ra ngoài nơi các kỹ sư và nhà quản lý có thể bắt đầu các công ty riêng
của họ. Sự chuyển giao kiến thức, kỹ năng và công nghệ này được cho là điều
mong muốn và hiệu quả cho các quốc gia nhận đầu tư.
2/ Những tác động tiêu cực của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến
các nước đang phát triển:
- Mặc dù đầu tư trực tiếp nước ngoài cung cấp về vốn, nhưng nó có thể
làm giảm tiết kiệm trong nước và tỷ lệ đầu tư bằng cách giảm cạnh tranh
thông qua những hiệp định sản xuất độc quyền với Chính phủ nước nhận đầu
tư, không tái đầu tư nguồn lợi nhuận của họ, tạo ra thu nhập trong nước cho
những nhóm dân cư có xu hướng tiết kiệm thấp và cản trở việc mở rộng
những công ty bản địa mà có thể cung cấp sản phẩm trung gian bằng cách
nhập khẩu những sản phẩm này từ các công ty con ở nước ngoài. MNC còn
tăng tỷ lệ vốn trong nước tại các nước đang phát triển; và điều này có thể dẫn
tới làm giảm vốn đầu tư của các công ty trong nước.
- Mặc dù tác động bên ngoài của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là làm
tăng ngoai tệ của các quốc gia nhận đầu tư, nhưng tác động dài hạn có thể làm
giảm thu nhập ngoại tệ trên cả tài khoản vãng lai và tài khoản vốn. Tài khoản
vãng lai có thể xấu đi do tình trạng nhập khẩu quá mức sản phẩm trung gian
và hang hóa vốn, và tài khoản vốn có thể bị xấu đi do việc mang lợi nhuận về
nước, trả lãi xuất tiền vay, trả tiền bản quyền, phí quản lý và các khoản khác.
- Mặc dù vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp vào nguồn thu công
cộng dưới hình thức thuế kinh doanh, nhưng sự đóng góp của nó thấp hơn
đáng kể so với đáng lẽ họ phải nộp do miễn giam rthuees, giá chuyển nhượng,
chiết khấu đầu tư quá mức, trợ cấp công cộng trá hình và bảo hộ bằng thuế do
Chính phủ cho phép.
5
- Quản lý, kỹ năng kinh doanh, ý tưởng, công nghệ và mối liên hệ với
nước ngoài do MNC cung cấp có thể có ít ảnh hưởng tới việc phát triển những
nguồn lực khan hiếm này và trên thực tế có thể cản trở sự phát triển của
chúng do làm giảm sự phát triển các doanh nghiệp bản địa vì các MNC thống
trị thị trường trong nước.
- Ảnh hưởng của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến sự phát triển là
không đồng đều do nó có xu hướng khuyến khích lợi ích của nhóm nhỏ các
nhà quản lý doanh nghiệp địa phương và trả lương cao cho những công nhân
trong khu vực hiện đại chống lại lợi ích của phần còn lại bằng cách gia tăng
sự khác biệt về tiền lương. Họ chuyển các nguồn lực ra khỏi khu vực sản xuất
thực phẩm thiết yếu sang sản xuất các sản phẩm hiện đại phục vụ chủ yếu nhu
cầu của những tầng lớp trung lưu trong nước và người tiêu dung nước ngoài.
Họ có xu hướng làm xấu đi sự mất cân đối giữa các cơ hội kinh tế nông thôn
và thành thị bằng cách đặt cơ sở sản xuất xuất khẩu tại các đô thị và gây tình
trạng di cư nông thôn – thành thị.
- Các MNC thường sản xuất những sản phẩm không hợp lý (những sản
phẩm phục vụ nhu cầu của nhóm nhỏ người giàu tại địa phương), khuyến
khích các loại tiêu dùng không hợp lý, sử dụng công nghệ không hợp lý (sử
dụng nhiều vốn) do đó làm gia tăng vấn đề thất nghiệp ở các nước đang phát
triển, tạo ra sự phân hóa giầu nghèo ngày càng lớn và mất cân bằng nghiêm
trọng về cơ cấu kinh tế thành thị và nông thôn.
- Cuối cùng ở khía cạnh chính trị, nỗi lo sợ thường là các công ty đa quốc
gia lớn có thể gây ảnh hưởng đáng kể tới các quyết định chính sách tại tất cả
các cấp. trong trường hợp đặc biệt họ có thể trực tiếp tham gia vào việc tha
hóa và tham nhũng của các quan chức Chính phủ ở cấp cao nhất, hoặc gián
tiếp đóng góp cho các đảng chính trị “thân thiện”, phá hoại nền chính trị của
nước nhận đầu tư.
6
PHẦN III THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
TẠI VIỆT NAM
1/ Đôi nét về cơ sở pháp lý cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam
Thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của đại hội VI Ban chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986, nhiều chính sách kinh tế
được thay đối. Việc hình thành các văn bản pháp lý đã thể chế hóa đường lối
đổi mới của Đảng. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành vào
năm 1987 là một trong những đạo luật khởi đầu cho thời kỳ đổi mới đã tạo
môi trường pháp lý thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Kể từ khi
ban hành năm 1987 đến nay, Luật đầu tư nước ngoài đã được sửa đổi, bổ sung
4 lần với các mức độ khác nhau vào các năm 1990, 1992, 1996, 2000. Trong
bối cảnh toàn cầu hóa, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế
thế giới, để tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các khu vực
kinh tế , năm 2005 Quốc hội đã ban hành Luật đầu tư (có hiệu lực từ
1/7/2006) thay thế Luật đầu tư nước ngoài và luật khuyến khích đầu tư trong
nước. Luật đầu tư ra đời nhằm cải thiện môi trường đầu tư, môi trường kinh
doanh, tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư và tạo “ một sân
chơi” bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư. Luật đầu tư đã
cải thiện môi trường đầu tư bằng việc đơn giản hóa thủ tục đầu tư, tạo điều
kiện thuận lợi để thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, đáp ứng
yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Luật đầu tư năm 2005 đã thể hiện việc phân
cấp mạnh cho các địa phương cụ thể là tăng quyền hạn cho Ủy ban Nhân dân
tỉnh và Ban quản lý khu công nghiệp , khu chế xuất, khu công nghệ cao về
cấp giấy chứng nhận đầu tư cũng như quản lý hoạt động đầu tư và giảm bớt
những dự án phải trình Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng chính phủ chỉ chấp
thuận về nguyên tắc đối với một số dự án quan trọng chưa có trong quy
7
hoạch, hoặc chưa có quy hoạch, những dự án còn lại sẽ do UBND cấp tỉnh và
Ban quản lý tự quyết định và cấp giấy phép đầu tư.
Khuôn khổ pháp lý từng bước được hoàn thiện cùng với cải cách công
tác quản lý nhà nước là những yếu tố quan trọng mang lại các kết quả tích cực
về thu hút đầu tư nước ngoài cũng như hoạt động đầu tư nước ngoài có hiệu
quả, góp phần tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam.
2/ Kết quả thu hút và sử dụng vốn FDI tại Việt Nam
2.1 Tình hình thu hút vốn ĐTNN đăng ký từ 1988-2007:
2.1.1 Cấp phép đầu tư từ 1988 đến 2007:
Tính đến cuối năm 2007, cả nước có hơn 9.500 dự án ĐTNN được cấp
phép đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD (kể cả vốn tăng thêm).
Trừ các dự án đã hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn, hiện có
8.590 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 83,1 tỷ USD. Biểu đồ tình
hình cấp chứng nhận đầu tư tại Việt Nam có sự biến động (xem tại Phụ lục).
Trong 3 năm 1988-1990, mới thực thi Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam nên kết quả thu hút vốn ĐTNN còn ít (214 dự án với tổng vốn
đăng ký cấp mới 1,6 tỷ USD), ĐTNN chưa tác động đến tình hình kinh tế-xã
hội đất nước.
Trong thời kỳ 1991-1995, vốn ĐTNN đã tăng lên (1.409 dự án với tổng
vốn đăng ký cấp mới 18,3 tỷ USD) và có tác động tích cực đến tình hình kinh
tế-xã hội đất nước. Thời kỳ 1991-1996 được xem là thời kỳ “bùng nổ” ĐTNN
tại Việt Nam (có thể coi như là “làn sóng ĐTNN” đầu tiên vào Việt Nam) với
1.781 dự án được cấp phép có tổng vốn đăng ký (gồm cả vốn cấp mới và tăng
vốn) 28,3 tỷ USD. Đây là giai đoạn mà môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt
Nam đã bắt đầu hấp dẫn nhà đầu tư do chi phí đầu tư-kinh doanh thấp so với
một số nước trong khu vực; sẵn lực lượng lao động với giá nhân công rẻ, thị
trường mới, vì vậy, ĐTNN tăng trưởng nhanh chóng, có tác động lan tỏa tới
các thành phần kinh tế khác và đóng góp tích cực vào thực hiện các mục tiêu
8
kinh tế-xã hội của đất nước. Năm 1995 thu hút được 6,6 tỷ USD vốn đăng ký,
tăng gấp 5,5 lần năm 1991 (1,2 tỷ USD). Năm 1996 thu hút được 8,8 tỷ USD
vốn đăng ký, tăng 45% so với năm trước.
Trong 3 năm 1997-1999 có 961 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng
ký hơn 13 tỷ USD; nhưng vốn đăng ký của năm sau ít hơn năm trước (năm
1998 chỉ bằng 81,8% năm 1997, năm 1999 chỉ bằng 46,8% năm 1998), chủ
yếu là các dự án có quy mô vốn vừa và nhỏ. Cũng trong thời gian này nhiều
dự án ĐTNN được cấp phép trong những năm trước đã phải tạm dừng triển
khai hoạt động do nhà đầu tư gặp khó khăn về tài chính (đa số từ Hàn Quốc,
Hồng Kông).
Từ năm 2000 đến 2003, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu có dấu
hiệu phục hồi chậm. Vốn đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2,7 triệu USD, tăng
21% so với năm 1999; năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn
đăng ký giảm, chỉ bằng 91,6% so với năm 2001, năm 2003 (đạt 3,1 tỷ USD),
tăng 6% so với năm 2002. Và có xu hướng tăng nhanh từ năm 2004 (đạt 4,5
tỷ USD) tăng 45,1% so với năm trước; năm 2005 tăng 50,8%; năm 2006 tăng
75,4% và năm 2007 đạt mức kỷ lục trong 20 năm qua 20,3 tỷ USD, tăng 69%
so với năm 2006, và tăng hơn gấp đôi so với năm 1996, năm cao nhất của thời
kỳ trước khủng hoảng.
Trong giai đoạn 2001-2005 thu hút vốn cấp mới (kể cả tăng vốn) đạt
20,8 tỷ USD vượt 73% so với mục tiêu tại Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày
28/8/2001 của Chính phủ
[2]
, vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD tăng 30% so với
mục tiêu. Nhìn chung trong 5 năm 2001-2005, vốn ĐTNN cấp mới đều tăng
đạt mức năm sau cao hơn năm trước (tỷ trọng tăng trung bình 59,5%), nhưng
đa phần là các dự án có quy mô vừa và nhỏ. Đặc biệt trong 2 năm 2006-2007,
dòng vốn ĐTNN vào nước ta đã tăng đáng kể (32,3 tỷ USD) với sự xuất hiện
của nhiều dự án quy mô lớn đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp (sản
xuất thép, điện tử, sản phẩm công nghệ cao, ) và dịch vụ (cảng biển, bất
9
động sản, công nghệ thông tin, du lịch-dịch vụ cao cấp .v.v.). Điều này cho
thấy dấu hiệu của “làn sóng ĐTNN” thứ hai vào Việt Nam.
2.1.2 Tình hình tăng vốn đầu tư (1988-2007):
Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt
động có hiệu quả đã mở rộng quy mô sản xuất-kinh doanh, tăng thêm vốn
đầu tư, nhất là từ năm 2001 trở lại đây. Tính đến hết năm 2007 có gần 4.100
lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng vốn tăng thêm hơn 18,9 tỷ USD, bằng
23,8% tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới.
Thời kỳ 1988-1990 việc tăng vốn đầu tư hầu như chưa có do số lượng
doanh nghiệp ĐTNN còn ít. Từ số vốn đầu tư tăng thêm đạt 2,13 tỷ USD
trong 5 năm 1991-1995 thì ở giai đoạn 1996-2000 đã tăng gần gấp đôi so với
5 năm trước (4,17 tỷ USD). Giai đoạn 2001-2005 vốn đầu tư tăng thêm đạt
7,08 tỷ USD (vượt 18% so dự kiến là 6 tỷ USD) tăng 69% so với 5 năm trước.
Trong đó, lượng vốn đầu tư tăng thêm vượt con số 1 tỷ USD bắt đầu từ năm
2002 và từ năm 2004 đến 2007 vốn tăng thêm mỗi năm đạt trên 2 tỷ USD,
mỗi năm trung bình tăng 35%.
Vốn tăng thêm chủ yếu tập trung vào các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất
công nghiệp và xây dựng, đạt khoảng 40,6% trong giai đoạn 1991-1995 ;
65,7% trong giai đoạn 1996-2000, khoảng 77,3% trong thời kỳ 2001-2005.
Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 80,17% và 79,1% tổng vốn
tăng thêm.
Do vốn đầu tư chủ yếu từ các nhà đầu tư châu Á (59%) nên trong số
vốn tăng thêm, vốn mở rộng của các nhà đầu tư châu Á cũng chiếm tỷ trọng
cao nhất 66,8% trong giai đoạn 1991-1995, đạt 67% trong giai đoạn 1996-
2000, đạt 70,3% trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ
tương ứng là 72,1% và 80%.
Việc tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất thực hiện chủ yếu tại các vùng
kinh tế trọng điểm nơi tập trung nhiều dự án có vốn ĐTNN: Vùng trọng điểm
10
phía Nam chiếm 55,5% trong giai đoạn 1991-1995 ; đạt 68,1% trong thời kỳ
1996-2000 và 71,5% trong giai đoạn 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007
tỷ lệ tương ứng là 71% và 65%. Vùng trọng điểm phía Bắc có tỷ lệ tương
ứng là 36,7%; 20,4% ; 21,1% ; 24% và 20%.
Qua khảo sát của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản -JETRO tại
Việt Nam có trên 70% doanh nghiệp ĐTNN được điều tra có kế hoạch tăng
vốn, mở rộng sản xuất tại Việt Nam. Điều này chứng tỏ sự tin tưởng và an
tâm của nhà ĐTNN vào môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam.
2.1.3 Quy mô dự án :
Qua các thời kỳ, quy mô dự án ĐTNN có sự biến động thể hiện khả
năng tài chính cũng như sự quan tâm của các nhà ĐTNN đối với môi trường
đầu tư Việt Nam. Quy mô vốn đầu tư bình quân của một dự án ĐTNN tăng
dần qua các giai đoạn, tuy có “trầm lắng” trong vài năm sau khủng hoảng tài
chính khu vực 1997. Thời kỳ 1988-1990 quy mô vốn đầu tư đăng ký bình
quân đạt 7,5 triệu USD/dự án/năm. Từ mức quy mô vốn đăng ký bình quân
của một dự án đạt 11,6 triệu USD trong giai đoạn 1991-1995 đã tăng lên 12,3
triệu USD/dự án trong 5 năm 1996-2000. Điều này thể hiện số lượng các dự
án quy mô lớn được cấp phép trong giai đoạn 1996-2000 nhiều hơn trong 5
năm trước. Tuy nhiên, quy mô vốn đăng ký trên giảm xuống 3,4 triệu USD/dự
án trong thời kỳ 2001-2005. Điều này cho thấy đa phần các dự án cấp mới
trong giai đoạn 2001-2005 thuộc dự án có quy mô vừa và nhỏ. Trong 2 năm
2006 và 2007, quy mô vốn đầu tư trung bình của một dự án đều ở mức 14,4
triệu USD, cho thấy số dự án có quy mô lớn đã tăng lên so với thời kỳ trước,
thể hiện qua sự quan tâm của một số tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào một số
dự án lớn (Intel, Panasonic, Honhai, Compal, Piaggio ).
2.1.4 Cơ cấu vốn ĐTNN từ 1988 đến 2007:
ĐTNN phân theo ngành nghề :
- Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng:
11
Từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, Việt Nam đã chú
trọng thu hút ĐTNN vào lĩnh vực công nghiệp-xây dựng. Qua mỗi giai đoạn
các lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư, các sản phẩm cụ thể được xác định tại
Danh mục các lĩnh vực khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư. Trong
những năm 90 thực hiện chủ trương thu hút ĐTNN, Chính phủ ban hành
chính sách ưu đãi, khuyến khích các dự án : (i) sản xuất sản phẩm thay thế
hàng nhập khẩu, (ii) sản xuất hàng xuất khẩu (có tỷ lệ xuất khẩu 50% hoặc
80% trở lên), (iii) sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước và có tỷ lệ nội địa
hoá cao.
Sau khi gia nhập và thực hiện cam kết với WTO (năm 2006), Việt Nam
đã bãi bỏ các quy định về ưu đãi đối với dự án có tỷ lệ xuất khẩu cao, không
yêu cầu bắt buộc thực hiện tỷ lệ nội địa hoá và sử dụng nguyên liệu trong
nước. Qua các thời kỳ, định hướng thu hút ĐTNN lĩnh vực công nghiệp- xây
dựng tuy có thay đổi về lĩnh vực, sản phẩm cụ thể nhưng cơ bản vẫn theo định
hướng khuyến khích sản xuất vật liệu mới, sản phẩm công nghệ cao, công
nghệ thông tin, cơ khí chế tạo, thiết bị cơ khí chính xác, sản xuất sản phẩm và
linh kiện điện tử Đây cũng chính là các dự án có khả năng tạo giá trị gia
tăng cao và Việt Nam có lợi thế so sánh khi thu hút ĐTNN. Nhờ vậy, cho
đến nay các dự án ĐTNN thuộc các lĩnh vực nêu trên (thăm dò và khai thác
dầu khí, sản xuất các sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm điện và điện tử, sản
xuất sắt thép, sản xuất hàng dệt may ) vẫn giữ vai trò quan trọng đóng góp
cho tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và tạo nhiều việc làm và nguồn thu nhập
ổn định cho hàng triệu lao động trực tiếp. Cơ cấu đầu tư có chuyển biến tích
cực theo hướng gia tăng tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, lọc dầu
và công nghệ thông tin (IT) với sự có mặt của các tập đoàn đa quốc gia nổi
tiếng thế giới: Intel, Panasonic, Canon, Robotech.v.v. Hầu hết các dự án
ĐTNN này sử dụng thiết bị hiện đại xấp xỉ 100% và tự động hoá đạt 100%
12
cho sản lượng, năng suất, chất lượng cao, do đó có ảnh hưởng lớn đến các chỉ
tiêu giá trị của toàn ngành.
Tính đến hết năm 2007, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng
lớn nhất với 5.745 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50 tỷ USD,
chiếm 66,8% về số dự án, 61% tổng vốn đăng ký và 68,5% vốn thực hiện.
Stt Chuyên ngành Số dự án Vốn đầu tư
(USD)
Vốn thực hiện
(USD)
1 CN dàu khí 38 3.861.511.815 5.148.473.303
2 CN nhẹ 2542 13.268.720.908
3.639.419.314
3 CN nặng 2404 23.976.819.332
7.049.365.865
4 CN thực phẩm 310 3.621.835.550
2.058.406.260
5 Xây dựng 451 5.301.060.927
2.146.923.027
Tổng số 5745 50.029.948.532
20.042.587.769
- ĐTNN trong lĩnh vực dịch vụ:
Nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động kinh doanh dịch vụ phát triển từ khi thi hành Luật Đầu tư nước
ngoài (1987). Nhờ vậy, khu vực dịch vụ đã có sự chuyển biến tích cực đáp
ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống nhân dân, góp
phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Một số ngành dịch vụ (bưu chính viễn
thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du
lịch, kinh doanh bất động sản) tăng trưởng nhanh, thu hút nhiều lao động và
thúc đẩy xuất khẩu. Cùng với việc thực hiện lộ trình cam kết thương mại dịch
vụ trong WTO, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh thu hút ĐTNN, phát triển các
ngành dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất và xuất khẩu.
Trong khu vực dịch vụ ĐTNN tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất
động sản, bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới,
kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp (42% tổng vốn ĐTNN trong khu vực
13
dịch vụ), du lịch-khách sạn (24%), giao thông vận tải-bưu điện (18%) (xem
bảng).
Stt Chuyên ngành Số dự án
Vốn đầu tư
(triệu USD)
Đầu tư đã thực
hiện
(triệu USD)
1 Giao thông vận tải-Bưu
điện ( bao gồm cả dịch vụ
logicstics)
208 4.287 721
2 Du lịch - Khách sạn 223 5.883 2.401
3 Xây dựng văn phòng, căn
hộ để bán và cho thuê
153 9.262 1.892
4 Phát triển khu đô thị mới 9 3.477 283
5 Kinh doanh hạ tầng KCN-
KCX
28 1.406 576
6 Tài chính – ngân hàng 66 897 714
7 Văn hoá - y tế – giáo dục 271 1.248 367
8 Dịch vụ khác (giám định,
tư vấn, trợ giúp pháp lý,
nghiên cứu thị trường )
954 2.145 445
Tổng cộng 1.912 28.609 7.399
Trong năm 2007 tuy vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tập trung vào lĩnh vực
công nghiệp (50,6%), nhưng đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào
lĩnh vực dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước, tăng 16,5% so
với năm 2006 (31,19%) với nhiều dự án xây dựng cảng biển, kinh doanh bất
động sản, xây dựng khu vui chơi, giải trí.v.v.
- ĐTNN trong lĩnh vực Nông-Lâm-Ngư :
Dành ưu đãi cho các dự án đầu tư vào lĩnh vực Nông Lâm ngư nghiệp
đã được chú trọng ngày từ khi có luật đầu tư nước ngoài 1987. Tuy nhiên đến
14
nay do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rủi ro đầu tư cao trong
lĩnh vực này, nên kết quả thu hút ĐTNN vào lĩnh vực Nông – Lâm ngư chưa
được như mong muốn.
Đến hết năm 2007, lĩnh vực Nông- Lâm- Ngư nghiệp có 933 dự án còn
hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 4,4 tỷ USD, đã thực hiện khoảng 2,02 tỷ
USD; chiếm 10,8% về số dự án ; 5,37% tổng vốn đăng ký và 6,9% vốn thực
hiện, (giảm từ 7,4% so với năm 2006). Trong đó, các dự án về chế biến nông
sản, thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất 53,71% tổng vốn đăng ký của ngành,
trong đó, các dự án hoạt động có hiệu quả bao gồm chế biến mía đường, gạo,
xay xát bột mì, sắn, rau. Tiếp theo là các dự án trồng rừng và chế biến lâm
sản, chiếm 24,67% tổng vốn đăng ký của ngành. Rồi tới lĩnh vực chăn nuôi và
chế biến thức ăn gia súc chiếm 12,7%. Cuối cùng là lĩnh vực trồng trọt, chỉ
chiếm gần 9% tổng số dự án. Có 130 dự án thuỷ sản với vốn đăng ký là 450
triệu USD,
Cho đến nay, đã có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào
ngành nông-lâm-ngư nghiệp nước ta, trong đó, các nước châu Á ( Đài Loan,
Nhật Bản, Trung Quốc, Hồng Kông, ) chiếm 60% tổng vốn đăng ký vào
ngành nông nghiệp (riêng Đài Loan là 28%). Các nước thuộc EU đầu tư vào
Việt Nam đáng kể nhất gồm có Pháp (8%), quần đảo British Virgin Islands
(11%). Một số nước có ngành nông nghiệp phát triển mạnh (Hoa Kỳ,
Canada, Australi)a vẫn chưa thực sự đầu tư vào ngành nông nghiệp nước ta.
Các dự án ĐTNN trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp tập trung chủ yếu
ở phía Nam. Vùng Đông Nam Bộ chiếm 54% tổng vốn đăng ký của ngành,
đồng bằng sông Cửu Long 13%, duyên hải Nam Trung Bộ 15%. Miền Bắc
và khu vực miền Trung, lượng vốn đầu tư còn rất thấp, ngay như vùng đồng
bằng sông Hồng lượng vốn đăng ký cũng chỉ đạt 5% so với tổng vốn đăng ký
của cả nước.
15
Stt
Nông, lâm nghiệp Số dự án
Vốn đăng ký
(USD)
Vốn thực hiện
(USD)
1 Nông-Lâm
nghiệp
803 4.014.833.499
1.856.710.521
2 Thủy sản 130
450.187.779
169.822.132
Tổng số 933
4.465.021.278
2.026.532.653
ĐTNN phân theo vùng, lãnh thổ :
Qua 20 thu hút, ĐTNN đã trải rộng khắp cả nước, không còn địa
phương “trắng” ĐTNN nhưng tập trung chủ yếu tại các địa bàn trọng điểm, có
lợi thế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương, làm cho các
vùng này thực sự là vùng kinh tế động lực, lôi kéo phát triển kinh tế-xã hội
chung và các vùng phụ cận (xem biểu 5).
Vùng trọng điểm phía Bắc có 2.220 dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư
trên 24 tỷ USD, chiếm 26% về số dự án, 27% tổng vốn đăng ký cả nước và
24% tổng vốn thực hiện của cả nước; trong đó Hà Nội đứng đầu (987 dự án
với tổng vốn đăng ký 12,4 tỷ USD) chiếm 51% vốn đăng ký và 50% vốn thực
hiện cả vùng. Tiếp theo thứ tự là Hải Phòng (268 dự án với tổng vốn đăng ký
2,6 tỷ USD), Vĩnh Phúc (140 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD), Hải
Dương (271 dự án với tổng vốn đăng ký 1,7 tỷ USD), Hà Tây (74 dự án với
tổng vốn đăng ký 1,5 tỷ USD), Bắc Ninh (106 dự án với tổng vốn đăng ký
0,93 tỷ USD) và Quảng Ninh (94 dự án với tổng vốn đăng ký 0,77 tỷ USD).
Vùng trọng điểm phía Nam thu hút 5.293 dự án với tổng vốn đầu tư
44,87 tỷ USD, chiếm 54% tổng vốn đăng ký, trong đó, tp Hồ Chí Minh dẫn
đầu cả nước (2.398 dự án với tổng vốn đăng ký 16,5 tỷ USD) chiếm 36,9%
tổng vốn đăng ký của Vùng. Tiếp theo thứ tự là Đồng Nai (918 dự án với tổng
vốn đăng ký 11,6 tỷ USD) chiếm 25,9% vốn đăng ký của Vùng, Bình Dương
16
(1.570 dự án với tổng vốn đăng ký 8,4 tỷ USD) chiếm 18,8% vốn đăng ký của
Vùng; Bà Rịa-Vũng Tàu (159 dự án với tổng vốn đăng ký 6,1 tỷ USD) chiếm
13,6% vốn đăng ký của Vùng; Long An (188 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8
tỷ USD) chiếm 4,1% vốn đăng ký của Vùng. Điều này, minh chứng cho việc
triển khai thực hiện Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001 của Chính
phủ và Chỉ thị 19/2001/CT-TTg ngày 28/8/2001 của Thủ tướng Chính phủ về
tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả ĐTNN thời kỳ 2001-2005.
[3]
Chính vì vậy, ngoài một số địa phương vốn có ưu thế trong thu hút vốn
ĐTNN (Hà Nội, tp Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu,
Hải Phòng, Quảng Ninh) một số địa phương khác (Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Phú
Yên, Hà Tây ) do yếu tố tích cực của chính quyền địa phương nên việc thu
hút vốn ĐTNN đã chuyển biến mạnh, tác động tới cơ cấu kinh tế trên địa bàn.
Năm 2004 công nghiệp có vốn ĐTNN chiếm 86% giá trị sản xuất công
nghiệp của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, 81% của tỉnh Vĩnh Phúc, 70% của tỉnh
Đồng Nai, 65% của tỉnh Bình Dương, 46% của Thành phố Hải Phòng, 35%
của Thành phố Hà Nội và 27% của thành phố Hồ Chí Minh. Đối với Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh đang chuyển dần sang trở thành trung tâm dịch vụ
cao cấp của cả vùng (bưu chính, viễn thông, tài chính, ngân hàng ) cũng như
hướng thu hút vốn ĐTNN vào các ngành công nghệ cao thông qua một số khu
công nghệ cao (Quang Trung, Hòa Lạc)
Vùng trọng điểm miền Trung thu hút được 491 dự án với tổng vốn đăng
ký 8,6 tỷ USD qua 20 năm thực hiện Luật Đầu tư, chiếm 6% tổng vốn đăng
ký của cả nước, trong đó: Phú Yên (39 dự án với tổng vốn đăng ký 1,9 tỷ
USD) hiện đứng đầu các tỉnh miền Trung với dự án xây dựng nhà máy lọc
dầu Vũng Rô có vốn đăng ký 1,7 tỷ USD. Tiếp theo là Đà Nẵng (113 dự án
với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD), Quảng Nam (15 dự án với tổng vốn đăng
ký 1,1 tỷ USD) đã có nhiều tiến bộ trong thu hút vốn ĐTNN, nhất là đầu tư
vào xây dựng các khu du lịch, trung tâm nghỉ dưỡng, vui chơi đạt tiêu chuẩn
17
quốc tế, bước đầu đã góp phần giảm tình trạng “cháy” buồng, phòng cho
khách du lịch, nhưng nhìn chung vẫn còn dưới mức nhu cầu và tiềm năng của
vùng. Tây Nguyên cũng ở trạng thái thu hút vốn ĐTNN còn khiêm tốn như
vùng Đông Bắc và Tây Bắc, trong đó, tuy Lâm Đồng (93 dự án với tổng vốn
đăng ký 318,4 triệu USD) đứng đầu các tỉnh khu vực Tây Nguyên nhưng chỉ
chiếm tỷ trọng 1% về số dự án. Đồng bằng sông Cửu Long thu hút vốn
ĐTNN còn thấp so với các vùng khác, chiếm 3,6% về số dự án và 4,4% về
vốn đăng ký và 3,2% vốn thực hiện của cả nước.
Tuy Nhà nước đã có chính sách ưu đãi đặc biệt cho những vùng có điều
kiện địa lý-kinh tế khó khăn nhưng việc thu hút ĐTNN phục vụ phát triển
kinh tế tại các địa bàn này còn rất thấp.
ĐTNN phân theo hình thức đầu tư:
Tính đến hết năm 2007, chủ yếu các doanh nghiệp ĐTNN thực hiện
theo hình thức 100% vốn nước ngoài, có 6.685 dự án ĐTNN với tổng vốn
đăng ký 51,2 tỷ USD, chiếm 77,2% về số dự án và 61,6% tổng vốn đăng ký.
Theo hình thức liên doanh có 1.619 dự án với tổng vốn đăng ký 23,8 tỷ USD,
chiếm 18,8% về số dự án và 28,7% tổng vốn đăng ký. Theo hình thức Hợp
đồng hợp tác kinh doanh có 221 dự án với tổng vốn đăng ký 4,5 tỷ USD
chiếm 2,5% về số dự án và 5,5% tổng vốn đăng ký. Số còn lại thuộc các hình
thức khác như BOT, BT, BTO. Có thể so sánh tỷ trọng dự án hoạt động theo
hình thức 100% vốn nước ngoài tính đến hết năm 2004 là 39,9%, theo hình
thức liên doanh là 40,6% và theo hình thứuc hợp doanh là 19,5% để thấy
được hình thức 100% vốn nước ngoài được các nhà đầu tư lựa chọn hơn.
ĐTNN phân theo đối tác đầu tư:
Thực hiện phương châm của Đảng và Chính phủ “đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ hợp tác Việt Nam muốn làm bạn với các nước trong khu
vực và thế giới ” được cụ thể hóa qua hệ thống pháp luật ĐTNN, qua 20 năm
đã có 81 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký
18
trên 83 tỷ đô la Mỹ. Trong đó, các nước Châu Á chiếm 69%, trong đó khối
ASEAN chiếm 19% tổng vốn đăng ký. Các nước châu Âu chiếm 24%, trong
đó EU chiếm 10%. Các nước Châu Mỹ chiếm 5%, riêng Hoa Kỳ chiếm 3,6%.
Tuy nhiên, nếu tính cả số vốn đầu tư từ các chi nhánh tại nước thứ 3 của các
nhà đầu tư Hoa Kỳ thì vốn đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam sẽ đạt con số trên
3 tỷ USD, đứng vị trí thứ 5 trong tổng số 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu
tư tại Việt Nam, ví dụ Tập đoàn Intel không đầu tư thẳng từ Mỹ vào Việt
Nam mà thông qua chi nhánh tại Hồng Kông. Hai nước châu Úc (New
Zealand và Australia) chỉ chiếm 1% tổng vốn đăng ký (xem biểu 4).
Hiện đã có 15 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vốn đăng ký cam kết
trên 1 tỷ USD tại Việt Nam (xem Phụ lục). Đứng đầu là Hàn Quốc vốn đăng
ký 13,5 tỷ USD, thứ 2 là Singapore 10,7 tỷ USD, thứ 3 là Đài loan 10,5 tỷ
USD (đồng thời cũng đứng thứ 3 trong giải ngân vốn đạt 3,07 tỷ USD), thứ 4
là Nhật Bản 9,03 tỷ USD. Nhưng nếu tính về vốn thực hiện thì Nhật Bản
đứng đầu với vốn giải ngân đạt gần 5 tỷ USD, tiếp theo là Singapore đứng thứ
2 đạt 3,8 tỷ USD. Hàn Quốc đứng thứ 4 với vốn giải ngân đạt 2,7 tỷ USD.
Trong nhưng năm đầu 90 thực hiện Luật Đầu tư, chủ yếu là dự án quy
mô nhỏ và từ các quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc châu Á, như Hồng Kông,
Hàn Quốc và Đài Loan. Cho tới hết năm 2007, vốn ĐTNN vào Việt Nam vẫn
từ các nước châu Á mặc dù Đảng và Chính phủ đã có Nghị quyết 09 đã đề ra
ba định hướng thu hút ĐTNN.
[4]
Tình hình phát triển các KCN, KCX, KCNC, KKT (gọi chung là
KCN).
Cả nước hiện có 154 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự
nhiên gần 33.000 ha, phân bổ trên 55 địa phương, 10 Khu kinh tế (KKT) được
thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên xấp xỉ 550.000 ha và 2 KCNC (Hoà
Lạc và tp Hồ Chí Minh). Trong hơn 16 năm xây dựng và phát triển KCN,
KCX và hơn 3 năm thành lập KKT cho thấy khu vực này có đóng góp ngày
19
càng quan trọng trong việc thu hút vốn ĐTNN, đến cuối năm 2007 đã thu hút
gần 2.700 dự án ĐTNN còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký khoảng 31 tỷ
USD, chiếm 34% về số dự án và 37% tổng vốn đăng ký của cả nước. Các dự
án đầu tư công nghiệp đang có xu hướng tăng nhanh tại các KCN-KCX. Các
dự án đầu tư trong nước và nước ngoài trong KCN, KCX đa dạng về hình
thức đầu tư.
2.2 Tình hình triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh của các dự
án ĐTNN.
2.2.1 Vốn giải ngân ĐTNN từ 1988 đến 2007:
Trong số 8.590 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký hơn 83 tỷ đô la
Mỹ, đã có khoảng 50% dự án triển khai góp vốn thực hiện đạt hơn 43 tỷ USD
(bao gồm cả vốn thực hiện của các dự án hết thời hạn hoạt động và giải thể
trước thời hạn), chiếm 52,3% tổng vốn đăng ký, trong đó, vốn của bên nước
ngoài đưa vào (gồm vốn góp và vốn vay) khoảng 37,9 tỷ USD, chiếm 89,5%
tổng vốn thực hiện, các dự án ĐTNN đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho
đầu tư phát triển kinh tế-xã hội đất nước qua từng thời kỳ theo mục tiêu kế
hoạch đề ra.
Vốn thực hiện có xu hướng tăng qua các năm nhưng với tốc độ chậm
trong khi vốn đăng ký và số lượng dự án cấp mới biến động tăng mạnh. Nếu
như cả giai đoạn 1991-1995 vốn thực hiện mới đạt 7,1 tỷ USD, chiếm 44%
tổng vốn đăng ký mới ( bao gồm phần vốn góp của Bên Việt Nam trên 1 tỷ
USD - chủ yếu là giá trị quyền sử dụng đất và vốn nước ngoài đưa vào
khoảng 6,1 tỷ USD) thì trong thời kỳ 1996-2000, mặc dù có ảnh hưởng tiêu
cực của khủng hoảng kinh tế khu vực, vốn thực hiện đã đạt 13,5 tỷ USD, tăng
89% so với 5 năm trước, chiếm 64,8% tổng vốn đăng ký mới (trong đó, vốn
góp của Bên Việt Nam là 1,4 tỷ USD và vốn từ nước ngoài đạt 12 tỷ USD) và
tăng 90% so với 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005 vốn thực hiện đạt 14,3
tỷ USD, chiếm 64,8% tổng vốn đăng ký mới, tăng 6% so với 5 năm trước và
20
vượt 30% dự báo ban đầu (11 tỷ USD) nêu tại Nghị quyết 09/2001/NQ-CP,
trong đó, vốn góp của Bên Việt Nam đạt trên 1,1 tỷ USD và vốn từ nước
ngoài đạt 12,6 tỷ USD. Riêng hai năm 2006 và 2007 tổng vốn thực hiện đạt
8,7 tỷ USD (trong đó, vốn góp của Bên Việt Nam đạt gần 1 tỷ USD và vốn từ
nước ngoài đạt 7,7 tỷ USD), tuy chỉ bằng 27% tổng vốn đăng ký mới, nhưng
vốn thực hiện năm 2007 tăng 12% so với năm 2006, và sẽ là tiền đề cho việc
giải ngân của 2 năm tới 2008 và 2009 tăng cao vì trong các dự án cấp mới
trong 2 năm 2006 và 2007 có nhiều dự án quy mô vốn đăng ký lớn.
2.2.2 Triển khai hoạt động sản xuất-kinh doanh của dự án ĐTNN :
Trong 20 năm qua, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã góp phần đáng kể
trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội đất nước bằng việc tạo ra tổng giá trị
doanh thu đáng kể, trong đó có giá trị xuất khẩu, cũng như đóng góp tích cực
vào ngân sách và tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động. Đồng
thời, tiếp tục khẳng định vai trò trong sự nghiệp phát triển kinh tế, đóng góp
ngày càng lớn vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của đất nước và thực sự trở
thành bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế. Từ mức đóng góp trung
bình 6,3% của GDP trong giai đoạn 1991-1995, khu vực doanh nghiệp ĐTNN
đã tăng lên 10,3% GDP của 5 năm 1996-2000. Trong thời kỳ 2001-2005, tỷ
trọng trên đạt trung bình là 14,6%. Riêng năm 2005, khu vực ĐTNN đóng
góp khoảng 15,5% GDP, cao hơn mục tiêu đề ra tại Nghị quyết 09 (15%).
Trong hai năm 2006 và 2007 khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đóng góp trên
17% GDP.
Nếu trong giai đoạn 1991-1995 tổng giá trị doanh thu mới đạt 4,1 tỷ
USD (trong đó giá trị xuất khẩu không tính dầu thô đạt 1,2 tỷ USD, chiếm
30% tổng doanh thu) thì trong thời kỳ 1996-2000 tổng giá trị doanh thu đã đạt
27,09 tỷ USD (trong đó giá trị xuất khẩu không tính dầu thô đạt 10,59 tỷ
USD, chiếm 39% tổng doanh thu), tăng gấp 6,5 lần so với 5 năm trước. Trong
giai đoạn 2001-2005 tổng giá trị doanh thu đạt 77,4 tỷ USD (trong đó giá trị
21
xuất khẩu không tính dầu thô đạt 34,6 tỷ USD, chiếm 44,7% tổng doanh thu),
tăng gấp 2,8 lần so với 5 năm 1996-2000. Trong hai năm 2006, 2007 tổng giá
trị doanh thu đạt 69 tỷ USD, trong đó giá trị xuất khẩu (trừ dầu thô) đạt 28,6
tỷ USD, chiếm 41% tổng doanh thu.
Không kể dầu thô, giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN cũng
gia tăng nhanh chóng. Cả thời kỳ 1991-1995 tổng giá trị xuất khẩu mới đạt
1,2 tỷ USD, nhưng đã tăng lên 10,5 tỷ USD trong giai đoạn 1996-2000, gấp
hơn 8 lần so với 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005, giá trị trên đạt hơn
34,6 tỷ USD, cao gấp 3 lần so với thời kỳ 5 năm trước, trong đó năm sau tăng
hơn năm trước, năm 2002 tăng 25%, năm 2003 tăng 38%, năm 2004 tăng
39%, năm 2005 đạt 11,2 tỷ USD, tăng 26%, đóng góp 35% tổng giá trị kim
ngạch xuất khẩu của cả nước; tính cả dầu thô tỷ lệ này là 56%. Năm 2006 giá
trị xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN đạt (nếu tính cả dầu thô) đạt 12,6 tỷ
USD, chiếm trên 57% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Năm 2007, giá trị
xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN đạt 19,7 triệu USD, nếu tính cả dầu thô
thì giá trị xuất khẩu là 27,3 tỷ USD, chiếm 56,8% tổng giá trị xuất khẩu của
cả nước.
Tuy những năm đầu thi hành Luật Đầu tư nước ngoài, khu vực kinh tế
có vốn ĐTNN được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước, nhưng cũng đã
tích cực đóng góp vào ngân sách nhà nước, thể hiện qua việc thu nộp ngân
sách tăng dần qua các năm và bắt đầu vượt ngưỡng 1 tỷ USD từ năm 2005
(đạt 1,29 tỷ USD, tăng 39,5% so với năm trước và chiếm 12% tổng thu ngân
sách nhà nước, vượt mục tiêu đề ra tại Nghị quyết 09 (10%). Giai đoạn 1991-
1995 do chính sách ưu đãi, khuyến khích ĐTNN của Nhà nước ta nên các
doanh nghiệp ĐTNN đóng góp ngân sách còn hạn chế 115 triệu USD, nhưng
con số này đã tăng hơn 10 lần trong thời kỳ 1996-2000 (đạt 1,49 tỷ USD). Lý
do một số doanh nghiệp ĐTNN đã qua thời gian hưởng chính sách ưu đãi
thuế của nhà nước. Giai đoạn 2001-2005 khu vực doanh nghiệp ĐTNN đã
22