Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Những vấn đề cơ bản về sự tham gia của ngân hàng thương mại vào thị trường chứng khoán Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.31 KB, 15 trang )

BÀI LÀM
Như một quy luật mang tính phổ biến của nhiều nước trên thế giới, ngân
hàng thương mại là một tổ chức cung cấp tín dịch vụ giữ một vai trò rất quan
trọng đối với sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam.
I.Những vấn đề cơ bản về sự tham gia của ngân hàng thương mại vào
thị trường chứng khoán Việt Nam.
Trước tiên chúng ta sẽ tim hiểu vai trò của NHTM tham gia vào quá
trình phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam.
1. Trên thị trường sơ cấp.
a. Vai trò phát hành:
Nhằm phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng, nhu cầu vốn dài hạn thông qua
phát hành trái phiếu của các NHTM là rất lớn. Cho đến nay, hoạt động phát
hành trái phiếu của các NHTM chưa phải là hoạt động thường xuyên, liên tục.
Tuy nhiên, đợt phát hành trái phiếu tăng vốn vừa qua của Ngân hành Ngoại
thương (NHNT) đã chứng tỏ mối quan tâm lớn của thị trường đối với trái
phiếu ngân hàng, đặc biệt là các NHTM hoạt động tốt có uy tín. Nhằm phục
vụ cho tăng trưởng kinh tế, yêu cầu về mở rộng quy mô vốn của các NHTM
càng đặt ra bức thiết. Việc các NHTM phát hành trái phiếu có ý nghĩa quan
trọng: một mặt, nó góp phần tăng hàng hoá cho thị trường chứng khoán, mặt
khác nó là một kênh dẫn vốn quan trọng cho các NHTM cho mục tiêu tăng
trưởng của nền kinh tế.
b. Vai trò đầu tư trực tiếp:
Với tiềm lực tài chính mạnh và khả năng sử dụng vốn ngắn hạn đầu tư
dài hạn, các NHTM có thể đóng vai trò là nhà đầu tư trên thị trường trái
phiếu, đặc biệt là đối với trái phiếu Chính phủ, vốn đòi hỏi tầm nhìn đầu tư
trung và dài hạn. Trên thực tế, một số lượng lớn trái phiếu Chính phủ và công
trái là do NHTM mua. Trong năm 2005, tổng lượng trái phiếu Chính phủ phát
1
hành là 17.226 tỷ đồng, trong đó các NHTM mua 12.058 tỷ đồng, chiếm
khoản 70%.
c. Vai trò phân phối, bảo lãnh phát hành:


Tại một số thị trường tài chính lớn trên thế giới, các trung gian tài chính,
trong đó có các NHTM đóng vai trò quan trọng trên thị trường trái phiếu với
tư cách là đại lý sơ cấp (Primary Dealers) hoặc bảo lãnh phát hành. Tại Việt
Nam, bảo lãnh phát hành là phương thức phổ biến nhất đối với trái phiếu
Chính phủ. Với độ tín nhiệm cao và tiềm lực tài chính mạnh, các NHTM có
ưu thế lớn khi tham gia bảo lãnh phát hành. Bên cạnh đó, trái phiếu Chính
phủ còn được chào bán qua Trung tâm giao dịch chứng khoán và bán lẻ qua
hệ thống Kho bạc Nhà nước.
Tuy nhiên, Việt Nam chưa có hệ thống các đại lý sơ cấp. Việc hình
thành hệ thống đại lý sơ cấp với sự tham gia của các NHTM sẽ góp phần đẩy
nhanh và hiệu quả qúa trình phân phối trái phiếu Chính phủ.
2. Trên thị trường thứ cấp
Với vai trò là trung gian trên thị trường, các NHTM có thể thực hiện các
nghiệp vụ sau:
a. Kinh doanh trái phiếu:
Mới đưa vào hoạt động từ tháng 8/2005, hoạt động kinh doanh trái phiếu
của NHNT với 13 đối tác là các NHTM và các công ty chứng khoán đã có
những kết quả hết sức khả quan. Tính đến hết năm 2005, tổng doanh số giao
dịch đạt khoảng 2.700 tỷ đồng, trong đó chiếm phần lớn là hoạt động bán mua
lại (chiếm khoảng 2.670 tỷ đồng, tức là khoảng 99%). Do vậy có thể thấy rõ
ràng hoạt động kinh doanh trái phiếu của NHNT thực chất là hoạt động chiết
khấu, tạo thanh khoản cho thị trường.
Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh trái phiếu, công trái với các nhà đầu
tư nhỏ lẻ cũng có tiềm năng phát triển lớn, nhưng chưa được tổ chức thật sự
chuyên nghiệp. Một ưu điểm nữa của hình thức kinh doanh này là không bị
giới hạn bởi thời gian giao dịch của thị trường chứng khoán tập trung.
2
b. Sản phẩm phái sinh:
Các NHTM có thể thực hiện các sản phẩm phái sinh như: hoán đổi, kỳ
hạn, quyền chọn, hợp đồng tương lai đối với các trái phiếu, cổ phiếu trên thị

trường. Ở đây, sự kết hợp liên thị trường giữa thị trường tiền tệ với thị trường
chứng khoán sẽ cung cấp cho các nhà đầu tư nhiều công cụ để kinh doanh
(đầu cơ) và bảo hiểm rủi ro, đồng thời tăng tính thanh khoản của thị trường.
c. Cho vay chứng khoán:
Nghiệp vụ cho vay chứng khoán rất phổ biến đối với các TTCK phát
triển. Tại Mỹ, Cục dự trữ liên bang (Fed) thực hiện nghiệp vụ này với các đại
lý sơ cấp đối với trái phiếu Chính phủ. Nghiệp vụ này một mặt làm tăng thanh
khoản của thị trường, mặt khác giúp Fed điều tiết được lượng cung tiền. Tài
sản thế chấp thường là tiền mặt. Nghiệp vụ cho vay chứng khoán giữa các
trung gian tài chính có phạm vi rộng hơn cả về danh mục chứng khoán cho
vay cũng như danh mục tài sản thế chấp. Bên vay thế chấp tài sản khi nhận
chứng khoán và phải trả lại chứng khoán, đồng thời nhận lại tài sản thế chấp
khi đáo hạn. Việc cho vay chứng khoán thực sự góp phần làm tăng tính thanh
khoản của thị trường, đồng thời có thể giúp các bên tham gia (đặc biệt là đối
với các trung gian tài chính) tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc kinh doanh
chứng khoán đi vay hoặc nhận thế chấp.
II.Thực trạng tham gia của NHTM vào TTCK Việt Nam:
Cách đây vài năm, khi cần tiền người ta có thể dễ dàng vay họ hàng, bạn
bè thậm chí đến vài chục nghìn USD. Nhưng khi có phong trào "người người,
nhà nhà chứng khoán" thì khác.
Minh - nhân viên một công ty TNHH ở Hà Nội - nói: "Thời buổi tiền đẻ
ra tiền thế này đi vay khó lắm, vài triệu còn được chứ vài chục triệu trở lên thì
chỉ có đi vay ngân hàng".
Vốn vay ngân hàng là một trong những giải pháp đầu tiên mà các nhà
đầu tư cá nhân tính đến khi kinh doanh chứng khoán. Tại Hội nghị triển khai
3
nhiệm vụ ngân hàng năm 2007 của ngành ngân hàng, đại diện lãnh đạo Ngân
hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương phát biểu: "Thời gian qua có sự luân
chuyển vốn rất lớn trên thị trường tài chính, trong đó một phần vốn của thị
trường tiền tệ đang được dùng để đầu tư trên thị trường chứng khoán và tiềm

ẩn những rủi ro có thể xảy ra".
Không ai tính được lượng vốn ngân hàng đổ vào thị trường chứng khoán
là bao nhiêu. Theo cân đối tháng 12/2006 thì tổng dư nợ đầu tư khác (trong đó
có kinh doanh chứng khoán) của các Ngân hàng Thương mại ở Hà Nội đạt
trên 15 nghìn tỉ đồng, tăng không nhiều so cuối năm 2005. Nhưng đây có lẽ
chưa phải là con số phản ánh chính xác số tiền các ngân hàng đã đổ vào thị
trường chứng khoán, nhất là thị trường OTC.
Vài năm nay, nhiều ngân hàng thương mại cổ phần đã thực hiện cho vay
kinh doanh chứng khoán với hai hình thức: Cho khách hàng vay kinh doanh
chứng khoán cầm cố bằng chứng khoán hoặc tài sản khác; cho vay khi khách
hàng đã được khớp lệnh bán, tiền đang trên đường chuyển về tài khoản (theo
công thức T+3) và thu nợ bằng chính khoản tiền sẽ chuyển về tài khoản người
bán.
Số vốn cho vay này không lớn và kiểm soát được. Đáng chú ý là các
khoản vay do khách hàng đề nghị với mục đích sử dụng khác nhưng thực chất
là để kinh doanh chứng khoán.
Mặc dù hầu hết các ngân hàng thương mại nhà nước hiện chưa triển khai
nghiệp vụ cho vay kinh doanh chứng khoán đến các chi nhánh, nhưng đã có
dấu hiệu cho thấy vốn ngân hàng đang đổ vào thị trường chứng khoán thông
qua cho vay thấu chi qua thẻ (chủ thẻ thanh toán được cấp một hạn mức rút
quá số dư tiền gửi trên thẻ khoảng từ vài chục đến vài trăm triệu đồng lãi suất
khoảng 1,8%-2%/tháng); cho vay tiêu dùng (trích trả bằng lương với bảo lãnh
của thủ trưởng đơn vị hoặc bảo đảm bằng cầm cố, thế chấp tài sản).
4
Ông H - chuyên viên một cơ quan cấp bộ kể ông có hai cô con gái (đã có
chồng con) say chơi chứng khoán đến mức thế chấp cả nhà ở đi được gần 8 tỉ
để kinh doh chứng khoán. Trong khoảng 2 tháng cuối năm 2006 hai cô đã lãi
3 tỉ đồng.
Một cán bộ ngân hàng Nhà nước cho biết thậm chí đã có hiện tượng một
số công ty lập dự án, phương án sản xuất - kinh doanh để vay vốn kinh doanh

chứng khoán Những khoản vay như vậy được hạch toán vào tài khoản cho
vay mục đích sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ nên ngay cả ngân hàng
cũng khó biết thực chất mình đang cho vay kinh doanh chứng khoán.
Đã có một số bài báo dựa trên số liệu của thị trường chứng khoán năm
2006 để chứng minh là lượng vốn ngân hàng đổ vào thị trường chứng khoán
đang ở mức thấp và kiểm soát được. Tuy nhiên, đó chỉ là số liệu thống kê trên
thị trường chính thức, chưa ai tính được lượng vốn ngân hàng đổ vào thị
trường OTC.
Số nợ này sẽ lộ diện và lập tức trở thành nợ quá hạn, nợ không có khả
năng thu hồi khi thị trường chứng khoán sụt giá mạnh.
Theo kết quả khảo sát gần 5.000 độc giả của báo điện tử VnEconomy
đầu năm, gần một nửa số người được hỏi định hướng sẽ đổ vốn vào thị trường
chứng khoán. Điều này cho thấy kinh doanh chứng khoán sẽ còn rất sôi động
trong năm 2007.
Các khoản tiền nhàn rỗi của nhiều cá nhân và hộ gia đình ở Hà Nội và
Tp.HCM hầu hết đã vét đổ vào chứng khoán trong thời gian thị trường "nóng"
vừa qua. Để tiếp tục kinh doanh, người ta sẽ phải tìm cách huy động vốn từ
ngân hàng. Vốn hoá bất động sản sẽ là phương án nhiều nhà đầu tư cá nhân
tính đến.
Trong một bối cảnh nhạy cảm như thế này, các ngân hàng thương mại
nên quan tâm đến việc kiểm tra trước và sau mục đích sử dụng vốn vay của
khách hàng, kể cả các doanh nghiệp để đề phòng rủi ro cho chính mình và
5
phòng ngừa khủng hoảng cho cả nền kinh tế vì những hệ lụy từ rủi ro hệ
thống ngân hàng.
Nghiệp vụ cho vay vốn cầm cố cổ phiếu mới xuất hiện đối với các
ngân hàng thương mại cổ phần ở nước ta cuối năm 2005 và đầu năm 2006,
gia tăng mạnh vào các tháng 4, 5 và 6/2006 vừa qua.
Một câu hỏi được nhiều nhà chính sách và một bộ phận dư luận đặt ra là
cho vay cầm cố cổ phiếu có rủi ro hay không!

Có thể khẳng định rằng, bất cứ nghiệp vụ kinh doanh nào nói chung,
hoạt động cho vay vốn của ngân hàng thương mại nói riêng đều có rủi ro.
Song hoạt động tín dụng ngân hàng có độ rủi ro lớn hơn, vì vậy có thông lệ
quốc tế và đang được áp dụng ở nước ta đó là phân loại nợ và trích lập dự
phòng rủi ro theo từng nhóm nợ.
Vậy thì nghiệp vụ cho vay cầm cố cổ phiếu có rủi ro ở mức độ nào?
Thứ nhất, hiện nay các ngân hàng thương mại Nhà nước chưa cho vay
cầm cố cổ phiếu, chỉ có các ngân hàng thương mại cổ phần mới triển khai
nghiệp vụ này. Cho đến nay các hợp đồng tín dụng cho vay cổ phiếu của các
ngân hàng thương mại chưa phát sinh nợ quá hạn và như đã nói, mới phát
sinh trong thời gian gần đây chưa đầy 1 năm.
Các hợp đồng cho vay chưa đến hạn phải trả nợ gốc, bởi vì thường cho
vay không quá 12 tháng, nên chưa phải điều chỉnh kỳ hạn nợ, nên chưa phát
sinh nợ quá hạn, cũng như chưa phải trích lập dự phòng rủi ro.
Thứ hai, hầu hết các ngân hàng thương mại cổ phần cho vay cầm cố cổ
phiếu của ngân hàng thương mại cổ phần khác, không nhận cầm cố cổ phiếu
của các doanh nghiệp. Đối với cổ phiếu của các doanh nghiệp đã niêm yết
trên trung tâm giao dịch chứng khoán do các công ty kinh doanh chứng khoán
trực thuộc ngân hàng thương mại thực hiện nghiệp vụ Repo đối với các khách
hàng mở tài khoản giao dịch chứng khoán tại công ty.
6
Do đó, chính các ngân hàng thương mại cổ phần nắm bắt được thực chất
hiệu quả kinh doanh, tình hình tài chính, nội bộ hội đồng quản trị và ban điều
hành, của các ngân hàng thương mại cổ phần khác. Bởi đó cũng chính là các
đối tác kinh doanh của nhau, trực tiếp là cho vay trên thị trường liên ngân
hàng, trong quan hệ tiền gửi, cho vay hợp vốn hay đồng tài trợ, trong quan hệ
ngân hàng đại lý, liên kết thẻ,
Đó là chưa kể một hệ thống các quy định pháp lý, các chế tài khác về
quản lý, điều hành của nhà nước, của Ngân hàng Nhà nước đảm bảo an toàn
cho hoạt động ngân hàng, như: bảo hiểm tiền gửi, tiền gửi dự trữ bắt buộc,

tiền gửi bảo đảm thanh toán, thanh tra, kiểm soát, kiểm toán bắt buộc, công
khai báo cáo tài chính
Thứ ba, không phải tất cả các loại cổ phiếu ngân hàng thương mại cổ
phần đều được cầm cố để vay vốn. Các ngân hàng cho vay chỉ lựa chọn cổ
phiếu của những ngân hàng thương mại cổ phần được đánh giá ở vị trí hàng
đầu hay trung bình khá, như cổ phiếu của các ngân hàng thương mại cổ phần:
Á Châu, Sacombank, Đông Á, Quân Đội, VP Bank, Kỹ Thương
Thứ tư, các ngân hàng đang cho vay cầm cố cổ phiếu thực hiện mức cho
vay dựa trên uy tín của loại cổ phiếu ngân hàng và thị giá cổ phiếu trên thị
trường. Trong hợp đồng cho vay cầm cố cổ phiếu, nhiều ngân hàng thương mại
cổ phần còn bổ sung các điều khoản bắt buộc, đó là nếu thị giá cổ phiếu xuống
dưới mức cho vay thì khách hàng phải bổ sung thêm tài sản thế chấp hay cầm
cố. Trong hợp đồng cho vay cầm cố cổ phiếu cũng có các điều khoản kê khai các
nguồn thu nhập chính, thu nhập bổ sung, tài sản có giá trị khác của khách hàng.
Thứ năm, trước khi cho vay, ngân hàng thực hiện nghiệp vụ phong tỏa
cổ phiếu hết sức chặt chẽ và đúng quy định của pháp luật. Có những lo ngại
rằng, khi cổ phiếu xuống quá thấp trong thời gian dài, khách hàng không có
khả năng trả nợ, ngân hàng phải phát mại và bán tháo cổ phiếu. Khi đó giá cổ
phiếu đồng loạt sẽ tiếp tục xuống thấp, gây ra rủi ro lớn cho ngân hàng.
7
Đây đúng là một tình huống xấu nhất có thể xẩy ra. Song trong thực tế
trong tình huống đó ngân hàng cho vay cầm cố cổ phiếu không dại gì ồ ạt bán
tống, bán tháo cổ phiếu ra. Bởi vì là các nhà kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng
đều nhận thức được rằng, cổ phiếu có lúc lên giá và có lúc xuống giá là
chuyện bình thường, nên việc bán cổ phiếu ra lúc nào là tùy thuộc và nghệ
thuật kinh doanh của ngân hàng.
Cho vay cầm cố chứng khoán là một nghiệp vụ cho vay bình thường có
tính thông lệ quốc tế về hoạt động ngân hàng. Mở ra cho vay cầm cố cổ phiếu
là một nghiệp vụ mới đối với các ngân hàng thương mại ở nước ta, nhằm đa
dạng các sản phẩm tín dụng theo xu hướng hội nhập, phân tán rủi ro, tăng thu

nhập ổn định cho ngân hàng.
Về giác độ thị trường và nền kinh tế, việc nhiều ngân hàng thương mại
mở ra nghiệp vụ cho vay cầm cố chứng khoán tạo điều kiện thúc đẩy thị
trường OTC phát triển, làm tiền đề chuyển hóa các cổ phiếu đó sang thị
trường chính thức, tăng tốc độ chu chuyển vốn trong xã hội và nâng cao trình
độ dân trí về thị trường
Sàn giao dịch của Công ty Cổ phần Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) có
một nét khá đặc biệt, đó là sự xuất hiện của phòng giao dịch do Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) mở ngay trong
sàn giao dịch chứng khoán.
Việc phòng giao dịch Eximbank ở chung tầng với sàn giao dịch chứng
khoán là chuyện bình thường vì có thể 2 tổ chức cùng thuê chung một tầng.
Nhưng tìm hiểu sâu thì đây là một bước đi được chuẩn bị trước của VDSC.
Giải đáp về việc này, ông Nguyễn Miên Tuấn - Tổng giám đốc VDSC -
nói rằng đây là bước chuẩn bị trước của Công ty Cổ phần Chứng khoán Rồng
Việt nhằm đáp ứng các quy định mới trong giao dịch chứng khoán và khai
thác có hiệu quả mối quan hệ hợp tác chiến lược giữa Eximbank và VDSC.
8
Theo điều 32, Quyết định số 27/2007/QD9-BTC ngày 24/4/2007 của Bộ Tài
chính về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của công ty chứng
khoán, các công ty chứng khoán không được trực tiếp nhận tiền giao dịch
chứng khoán của khách hàng. Khách hàng mở tài khoản tiền tại ngân hàng
thương mại do công ty chứng khoán lựa chọn.
Điều đó cũng có nghĩa là trong thời gian tới, tiền của các nhà đầu tư sẽ
không phải do công ty chứng khoán quản lý mà do các ngân hàng thương mại
quản lý. Quy định trên sẽ đem lại sự an toàn về tiền gửi cho khách hàng khi
công ty chứng khoán gặp những khó khăn trong hoạt động kinh doanh.
Việc áp dụng quy định này đối với các công ty chứng khoán là công ty
con của các ngân hàng thương mại như: VCBS, BSC, IBS, ACBS, SBS,
Agriseco và các công ty cổ phần chứng khoán là công ty liên kết với các

ngân hàng thương mại như: VDSC, VISecurities, ABS, ORS sẽ diễn ra
thuận lợi hơn so với các công ty cổ phần chứng khoán khác.
Tuy nhiên, các công ty chứng khoán không có sự tham gia góp vốn của
ngân hàng thương mại cũng có thể hợp tác với các ngân hàng thương mại để
thực hiện các dịch vụ thanh toán và các dịch vụ tài chính khác.
Đối với các công ty chứng khoán là công ty con của ngân hàng thương
mại hoặc các công ty chứng khoán có thể kết nối hệ thống giao dịch của công
ty với hệ thống của ngân hàng thương mại thì việc nộp, rút tiền của nhà đầu tư sẽ
thuận lợi hơn do nhà đầu tư chỉ phải liên hệ để nộp tiền, rút tiền tại một ngân
hàng thương mại và thực hiện việc giao dịch chứng khoán tại các công ty chứng
khoán. Việc kết nối hệ thống giữa ngân hàng thương mại và công ty chứng
khoán có thể cho phép hai bên quản lý tốt được số dư tiền của nhà đầu tư.
Thời gian gần đây hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần đua nhau mở
thêm chi nhánh mới, thường xuyên tuyển dụng thêm nhân viên, có tốc độ tăng
trưởng vốn huy động rất cao và thường xuyên tăng vốn điều lệ.
9
Một câu hỏi được đông đảo dư luận đặt ra là hệ thống ngân hàng thương
mại cổ phần có phát triển "quá nóng" hay không? Thực tế là nếu nhìn vào tốc
độ phát triển của một số chỉ tiêu sau đây thì câu hỏi trên của dư luận là hoàn
toàn có cơ sở.
Mọi chỉ tiêu kinh doanh đều tăng rất nhanh
Về quy mô tài sản, đây là chỉ tiêu quan trọng nhất và phản ánh tập trung,
bao quát nhất mức độ lớn, sự phát triển của một ngân hàng. Kết thúc năm
2005, bình quân các ngân hàng thương mại cổ phần có tốc độ tăng khoảng
48% - 50% so với cuối năm 2004, gấp 2,5 lần tốc độ tăng chung của toàn
ngành ngân hàng Việt Nam và gấp 5-6 lần tốc độ tăng trung bình của thế giới.
Kết thúc năm 2005, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quốc tế - VIB có
tốc độ tăng cao nhất, đạt tổng tài sản là 8.978,2 tỷ đồng, tăng 117,9% so với
cuối năm 2004. Tiếp đến là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương Việt
Nam - Techcombank, đạt tốc độ trên 63%; Ngân hàng Thương mại Cổ phần

Phương Đông - OCB, tăng 58,9%; Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á châu -
ACB tăng 56,2%; Ngân hàng Thương mại Cổ phần Các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh - VP Bank tăng 55,0%, so với cuối năm 2004.
Trong 8 tháng đầu năm 2006, khối ngân hàng thương mại cổ phần cũng
tiếp tục có tốc độ tăng cao, bình quân đạt 35% - 40% so với cuối năm 2005.
Hiện nay ACB là ngân hàng thương mại cổ phần có quy mô lớn nhất. Tổng
tài sản của ACB đến hết tháng 7/2006 đạt 33.849 tỷ đồng, tăng gấp hơn 2 lần
so với con số đạt được cuối năm 2004.
Về lợi nhuận trước thuế và cổ tức là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh
doanh của một ngân hàng thương mại. Kết thúc năm 2005, ACB đạt lợi nhuận
trước thuế tới 385,1 tỷ đồng so với con số 278,0 tỷ đồng hết năm 2004;
Sacombank đạt 306,1 tỷ đồng so với năm 2004 là 198 tỷ đồng, Techcombank
đạt 286 tỷ đồng, so với năm trước mới đạt 39 tỷ đồng,
10
Kết thúc năm 2005, bình quân các ngân hàng thương mại cổ phần chia
cho các cổ đông là 15- 16%, cao gấp gần 2 lần lãi suất tiền gửi tiết kiệm Đồng
Việt Nam kỳ hạn 1 năm. Dẫn đầu là Techcombank chia 36,6% so với mức
của năm 2004 là 15,0%; ACB chia 28% so với năm 2004 là 36,7%;
Sacombank chia 23,8% so với mức của năm trước là 26,0%; Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Đông Á - EAB và VP Bank đều cùng mức chia 20%,
tăng gấp 1,5 lần năm 2004,
Về quy mô vốn điều lệ. Đến nay hầu hết ngân hàng thương mại cổ phần
có số vốn điều lệ gấp 2 - 3 lần số vốn cuối năm 2004.
Về quy mô mạng lưới và chi nhánh. Cũng tính đến nay, hầu hết các ngân
hàng thương mại cổ phần đô thị có số lượng chi nhánh, mạng lưới giao dịch,
số lượng nhân viên tăng gấp 2 lần năm 2004. Trong 2 năm qua, các ngân hàng
thương mại cổ phần tập trung mở thêm chi nhánh và phòng giao dịch ở các
khu vực đô thị mới, khu dân cư tập trung, trung tâm thương mại, ở các
thành phố lớn, thành lập mới chi nhánh cấp 1 ở các tỉnh, thành phố giầu tiềm
năng.

Như vậy, tất cả các chỉ tiêu quan trọng nhất của một ngân hàng thương
mại đều có tốc độ tăng trưởng rất nhanh so với các năm trước đó, cũng như so
với tốc độ tăng bình quân chung của toàn ngành ngân hàng, bình quân chung
của khu vực và thế giới.
Sự phát triển có vững chắc?
Một là về chất lượng hoạt động, ngoài các chỉ tiêu nói trên, thì thực trạng
nợ xấu là chỉ tiêu quan trọng đánh giá chất lượng hoạt động của một ngân
hàng thương mại.
Thực hiện Quyết định số 149/QĐ - TTg, ngày 5-10-2001, của Thủ tướng
Chính phủ, phê duyệt đề án cơ cấu lại tình hình tài chính, xử lý nợ tồn đọng
của các ngân hàng thương mại, các ngân hàng thương mại cổ phần đã thực
hiện nhiều giải pháp hữu hiệu để giảm thấp tình trạng nợ xấu.
11
Đến nay hầu hết các ngân hàng thương mại cổ phần có tỷ lệ nợ xấu khá
thấp, tính đến hết năm 2005 bình quân chỉ là 2,0% trong tổng dư nợ và tính
đến hết tháng 8-2006, tỷ lệ này vẫn được kiềm chế.
Hai là, để thực hiện chiến lược tiếp tục đổi mới, cơ cấu lại toàn diện các
hoạt động, nâng cao năng lực cạnh tranh trước yêu cầu hội nhập, hệ thống
ngân hàng thương mại cổ phần phải mở rộng mạng lưới, chiếm lĩnh thị phần.
Ba là, mở rộng mạng lưới, phát triển quy mô, tăng số lượng nhân viên đi
kèm với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Các ngân hàng thương mại cổ
phần ở nước ta hiện nay thực hiện việc tuyển dụng nhân viên mới theo đúng
thông lệ quốc tế, loại trừ được việc nhận người vào làm việc theo quan hệ.
Cùng với đó là cơ chế quản trị điều hành, các quy trình quản lý và
nghiệp vụ, cũng thường xuyên được hoàn thiện, bổ sung, chỉnh sửa và ban
hành mới, phù hợp với thực tiễn và sát với thông lệ quốc tế.
Bốn là, sự phát triển về quy mô đi liền với hiện đại hóa công nghệ ngân
hàng. Hầu hết các ngân hàng thương mại cổ phần đã và đang triển khai các
chương trình phần mềm quản lý, phần mềm kế toán và thanh toán, phần mềm
giao dịch, hiện đại của các hãng nổi tiếng trên thế giới và do các hãng có uy

tín cung cấp và lắp đặt.
Do đó có thể khẳng định, sau 5 năm thực hiện đề án cơ cấu lại, hệ thống
ngân hàng thương mại cổ phần nước ta đang ở giai đoạn tăng tốc, phát triển
hiệu quả và toàn diện, không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh trước thách
thức hội nhập.
Tuy nhiên việc khuyến khích và mở rộng việc tham gia của các ngân
hàng nước ngoài, tập đoàn tài chính quốc tế, các tập đoàn lớn trong nước, mua
cổ phần, trở thành cổ đông chiến lược của các ngân hàng thương mại cổ phần
của Việt Nam là hết sức cần thiết, để thúc đẩy cải cách hơn nữa và minh bạch
thực sự các hoạt động quản lý, hoạt động kinh doanh của khối ngân hàng
thương mại này.
12
III. Một số giải pháp thúc đẩy sự tham gia của các NHTM vào TTCK
Việt Nam.
Chương này trên cơ sở định hướng phát triển TTCKViệt Nam và định
hướng phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam trên TTCK định hướng
hoạt động của NHTM trên TTCK, phân tích các điều kiện thúc đẩy sự tham
gia của các NHTM vào TTCK Việt Nam đề xuất một số giải pháp thúc đẩy sự
tham gia của các ngân hàng thương mại vào TTCK như tiếp tục cải cách kinh
tế, tạo điều kiện phát triển và tham gia của NHTM vào TTCK trên mọi lĩnh
vực, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho sự tham gia của NHTM vào TTCK,
đặc biệt là cho hoạt động đầu tư, tham gia góp vốn vào các công ty chứng
khoán, tham gia phát hành, niêm yết chứng khoán, thanh toán giao dịch chứng
khoán, cho vay đầu tư chứng khoán. Tăng cường giám sát và thực thi pháp
luật trong quản lý, điều hành TTCK. Nhóm giải pháp đối với hệ thống NHTM
như tăng quy mô vốn cho các ngân hàng, hoàn thiện và nâng cấp cơ sở hạ
tầng công nghệ kỹ thuật và đội ngũ nhân lực ngân hàng, tạo điều kiện cho các
ngân hàng thương mại cổ phần phát hành cổ phiếu, trái phiếu và niêm yết trên
thị trường, xúc tiến thành lập mới CTCK ngân hàng, mở rộng phạm vi hoạt
động nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh CTCK ngân hàng hiện có, kiểm

soát việc cho vay cầm cố, thế chấp, repo chứng khoán.
Một là, đẩy mạnh thị trường OTC với nòng cốt là hoạt động của các
NHTM và công ty chứng khoán. Đồng thời, cần sớm triển khai đưa trung tâm
lưu ký chứng khoán vào hoạt động. Trung tâm lưu ký chứng khoán độc lập
này sẽ tập trung hoá tất cả hoạt động lưu ký đối với các chứng khoán niêm yết
và đăng ký giao dịch của hai Trung tâm giao dịch tại Hà Nội và TP. Hồ Chí
Minh, tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch ngoài sàn do các NHTM, công
ty chứng khoán thực hiện.
Hai là, thu hút mạnh đầu tư của các nhà đầu tư cá nhân nhỏ và phát triển
dịch vụ quản lý danh mục đầu tư cho khách hàng cá nhân. Với dịch vụ này,
13
các NHTM sẽ thiết kế các sản phẩm để thu hút vốn để đầu tư trong nước hoặc
liên kết với các đối tác nước ngoài để bán các sản phẩm quỹ đầu tư của nước
ngoài (đầu tư ra nước ngoài).
Ba là, tiếp tục phát triển các công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán.
Tham khảo mô hình của Singapore cho thấy: tại một thị trường tài chính lớn
và phát triển như Singapore, nơi có trên 230 công ty quản lý tài sản với
khoảng 1.000 nhân viên và quản lý trên 450 tỷ SGD (khoảng 276 tỷ USD),
mà các điều kiện đầu tư đối với các nhà đầu tư cá nhân rất đơn giản và dễ
dàng. Nếu đầu tư vào các thị trường phát triển và các nước đông nam á, nhà
đầu tư chỉ cần có 1.000 SGD (hoặc tương đương nếu là ngoại tệ khác), tức
khoảng 615 USD, đối với các thị trường khác là 5.000 SGD (khoảng 3.000
USD). Thêm vào đó, chính sách thuế thu nhập đối với nhà đầu tư và công ty
quản lý quỹ cũng rất ưu đãi như: miễn thuế thu nhập đối với các nhà đầu tư
không cư trú, áp dụng biểu thuế luỹ thoai đối với công ty quản lý quỹ .
Bốn là, tạo khuôn khổ pháp lý khuyến khích NHTM tham gia hoạt động
chứng khoán việc khuyến khích các NHTM tham gia hoạt động chứng khoán,
đặc biệt là hoạt động cổ phiếu sẽ phát huy được các thế mạnh của các NHTM,
đó là: (i) ưu thế về mạng lưới, (ii) khả năng phát triển thị trường OTC, và (iii)
xu thế của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực tài chính - ngân

hàng - đầu tư, khi các NHTM Việt Nam được phép và đã thực hiện hoạt động
quản lý tài sản, thực chất là hoạt động đầu tư chứng khoán tại nước ngoài mà
lại bị hạn chế đối với hoạt động này ở trong nước.
Năm là, xây dựng được hệ thống xếp hạng (định mức) tín nhiệm. Một
trong những đặc điểm quan trọng nhất của thị trường chứng khoán là tính
minh bạch. Do vậy, ở tất cả các thị trường phát triển, vấn đề xếp hạng tín
nhiệm các định chế tham gia thị trường được thực hiện bởi các công ty xếp
hạng độc lập, các thông tin được công bố công khai cho các nhà đâu tư và các
chủ thể tham gia hoặc có liên quan đến thị trường. TTCK Việt Nam muốn
14
phát triển cũng phải xây dựng được một cơ chế đánh giá xếp hạng tín nhiệm
độc lập và hữu hiệu. ý tưởng về việc thành lập và đưa vào hoạt động một công
ty xếp hạng tín nhiệm thì Việt Nam đã có. Như là một nỗ lực thúc đẩy tiến trình
này, vào tháng 7/2006, NHNT sẽ phối hợp với Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam (VCCI) Hiệp hội ngân hàng châu á (ABA). Hội đồng tư vấn
doanh nghiệp AFEC (ABAC) cùng tổ chức hội thảo quốc tế về vấn đề này.
Sáu là, mở rộng hoạt động của công ty chứng khoán. Việc tăng năng lực
tài chính cũng như phạm vi hoạt động của các công ty chứng khoán với mục
tiêu trở thành các ngân hàng đầu tư, đủ sức bảo lãnh phát hành và thực hiện
các dịch vụ đầu tư chứng khoán không chỉ trong thị trường Việt Nam mà còn
tiến tới tham gia vào quá trình phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ và
các doanh nghiệp Việt Nam là hết sức cần thiết.
IV. Kết luận
Tuy còn non trẻ, nhưng TTCK Việt Nam đã chứng tỏ là một kênh dẫn
vốn quan trọng, phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển kinh tế của đất
nước. Người ta thường cho rằng, khi TTCK có xu hướng tăng trưởng mạnh
mẽ thì lượng chu chuyển vốn qua hệ thống Ngân hàng Thương mại (NHTM)
bị giảm sút và ngược lại. Tuy nhiên, đặc thù của nền kinh tế Việt Nam với
tiềm năng về vốn trong dân cư còn rất lớn thì nếu có sự tham gia của các NHT
M vào TTCK sớm hơn và mạnh mẽ hơn thì TTCK còn có những bước phát

triển ngoạn mục hơn nữa.
15

×