=Đề tài:
Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
trên thị trường chứng khoán.
Nhóm:
Họ và tên Lớp Mã SV
1. Nguyễn Thị Thu Hiền (nhóm trưởng) TCDN50C CQ500905
2. Nguyễn Minh Trang TCDN50C CQ503095
3. Nguyễn Thị Phương Thảo TCDN50C CQ502400
4. Nguyễn Thị Bích Hồng TCDN50C CQ501073
5. Nguyễn Hùng Cường TCDN50C CQ500324
6. Lưu Thị Dung TCDN50C CQ503220
7. Vũ Đức Anh TCDN50C CQ500133
8. Đậu Văn Tiến TCDN50C CQ503571
9. Nguyễn Văn Hùng TCDN50D CQ503337
10. Hà Huy Tuấn TCDN50D CQ503614
Nội dung:
Chương I: Hoạt động của NHTM trên TTCK
1. Các mô hình hoạt động của NHTM trên TTCK
2. Các hoạt động của NHTM trên TTCK
3. Điều kiện để NHTM tham gia hoạt động trên TTCK
4. Vai trò của NHTM trên TTCK
Chương II: Thực trạng hoạt động của NHTM trên TTCK VN
1. Hoạt động của NHTM trên TTCK VN
2. Nguyên nhân thực trạng
3. Giải pháp thúc đẩy hoạt động của NHTM trên TTCK
Chương III: Một số giải pháp nhằm cải thiện hoạt động của
NHTM trên TTCK
LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường chứng khoán là thể chế tài chính bậc cao với sự tham gia của
các tổ chức trung gian, trong các tổ chức tài chính trung gian đặc biệt là các
ngân hàng thương mại đóng một vai trò quan trọng.
Tại Việt Nam, thị trường chứng khoán đang trong giai đoạn đầu xây dựng
và phát triển. Việc tham gia của các định chế tài chính đặc biệt là các Ngân hàng
thương mại hiện nay còn rất hạn chế trong khi đây là một trong những những
định chế gần gũi và có khả năng tiếp cận với các hoạt động chứng khoán một
cách hiệu quả nhất. Các bài nghiên cứu về vấn đề này cũng không nhiều nên
chúng em chọn đề tài 14: “Hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường
chứng khoán” làm bài thuyết trình của nhóm.
Chương I: Hoạt động của ngân hàng thương mại
trên thị trường chứng khoán
1. Các mô hình hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường CK
Hiện nay: Mô hình ngân hàng thương mại hoạt động trên thị trường chứng
khoán, thế giới có 2 loại:
* Mô hình chuyên doanh (hay còn gọi là mô hình đơn năng)
- Các công ty chứng khoán là công ty chuyên doanh độc lập
- Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác không được
phép tham gia vào hoạt động kinh doanh chứng khoán.
=> Ưu điểm:
+ Hạn chế rủi ro hệ thống ngân hàng do những ảnh hưởng tiêu cực
của thị trường chứng khoán.
+ Chuyên môn hóa tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát
triển.
Ví dụ: các cty chứng khoán ở Mỹ (đạo luật Glass-Steagall 1933), Nhật, Hàn
Quốc.
* Mô hình đa năng bao gồm:
1- Mô hình ngân hàng đa năng hoàn toàn: không có sự tách bạch nào giữa
hoạt động ngân hàng và chứng khoán.
Nó được áp dụng ở các nước Bắc Âu, Hà Lan, Thụy Sĩ, Áo…
Ưu điểm:
+ Có thể kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh, giảm bớt rủi ro
hoạt động kinh doanh chung.
+ Có khả năng về tài chính chịu đựng các biến động của thị
trường chứng khoán.
Hạn chế:
+ thị trường chứng khoán phát triển chậm vì hoạt động chủ
yếu của hệ thống ngân hàng dùng vốn để cấp tín dụng và dịch vụ
thanh toán.
+ Trong trường hợp biến động trên thị trường chứng khoán,
hậu quả có thể tác động tiêu cực đến lĩnh vực kinh doanh tiền tệ
giữa hai loại hình kinh doanh này và ngược lại.
2- Mô hình đa năng một phần: Các ngân hàng muốn hoạt động trong lĩnh
vực chứng khoán phải thành lập công ty con – công ty chứng khoán, hoạt động
độc lập.
Mô hình này được áp dụng ở Anh, Canada, Úc.
Ưu điểm:
+Tận dụng được các thế mạnh của ngân hàng.
+ Kết hợp được kinh doanh ngân hàng và kinh doanh chứng
khoán do đó tận dụng được thế mạnh về tài chính kinh nghiệm
+ Mạng lưới khách hàng rộng khắp.
+ Hạn chế được rủi ro nếu có sự biến động của một trong hai
thị trường.
+ Phù hợp với những nước mới thành lập thị trường chứng
khoán khi mà cần có tổ chức tài chính lành mạnh tham gia vào thị trường và khi
hệ thống luật, kiểm soát còn nhiều mặt hạn chế.
Bảng1: so sánh giữa các mô hình ngân hàng:
Mô hình chuyên doanh Mô hình đa năng Mô hình đa năng một phân
Đặc
điểm
- công ty chứng khoán
là công ty chuyên doanh
độc lập
- NHTM và các tổ chức
tài chính khác không
được phép tham gia vào
hoạt động kinh doanh
chứng khoán
không có sự tách
bạch nào giữa hoạt
động ngân hàng và
chứng khoán.
Phải thành lập công ty con mới có
thể tham gia TTCK
Ưu
điểm
- hạn chế rủi ro hệ
thống ngân hàng do
những ảnh hưởng tiêu
cực của thị trường chứng
khoán
- chuyên môn hóa tạo
điều kiện cho TTCK phát
triển
+ có thể kết hợp
nhiều lĩnh vực kinh
doanh, giảm bớt rủi
ro hoạt động kinh
doanh chung.
+ có khả năng về
tài chính chịu đựng
các biến động của
TTCK.
+tận dụng được các thế mạnh của
ngân hàng.
+ Kết hợp được kinh doanh ngân
hàng và kinh doanh chứng khoán
do đó tận dụng được thế mạnh về
tài chính kinh nghiệm,
+ mạng lưới khách hàng rộng
khắp.
+ hạn chế được rủi ro nếu có sự
biến động của một trong hai thị
trường.
+ Phù hợp với những nước mới
thành lập thị trường chứng khoán
khi mà cần có tổ chức tài chính
lành mạnh tham gia vào thị trường
và khi hệ thống luật, kiểm soát còn
nhiều mặt hạn chế.
Áp
dụng
Mỹ , Nhật , Hàn quốc Các nước còn lại Anh, Canada, Úc.
Mỗi một mô hình có những ưu điểm và nhược điểm riêng. Vì vậy, tùy vào
thể chế chính trị, đặc điểm nền kinh tế mỗi quốc gia nên chọn cho mình một mô
hình phù hợp nhất để có thể phát huy một cách có hiệu quả nhất vai trò của ngân
hàng thương mại đối với thị trường chứng khoán.
2. Hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán
a. Hoạt động kinh doanh chứng khoán
Hoạt động kinh doanh chứng khoán được xem là yếu tố trợ giúp cho việc
tăng chất lượng và hiệu quả của thị trường chứng khoán gồm có hoạt động ngân
quỹ và hoạt động đầu tư chứng khoán.
+ Hoạt động ngân quỹ: đầu tư ngắn hạn vào các chứng khoán có tính
thanh khoản cao chi phí giao dịch thấp và có tính ổn định như: tín phiếu kho
bạc, chứng chỉ tiền gửi…nhằm dự trữ thứ cấp cho nhu cầu thanh toán, nhu cầu
dự phòng và tích trữ. Đây là cầu nối giữa thị trường tín dụng và thị trường
chứng khoán, giúp sử dụng tối đa nguồn vốn, sự cạnh tranh giữa hai thị trường
này làm tăng hiệu quả của thị trường tài chính.
+ Hoạt động đầu tư chứng khoán mang tính đa dạng, ít tập trung vào một
loại chứng khoán và thời hạn đầu tư dài hơn. Ngân hàng thương mại tham gia
trên thị trường chứng khoán với tư cách là nhà đầu tư và nhà tài trợ cho doanh
nghiệp đầu tư chứng khoán. Ngân hàng thương mại có thể sử dụng các khoản
vốn huy động để thường xuyên tham gia thị trường chứng khoán bằng cách mua
cổ phiếu, trái phiếu. Thực chất là ngân hàng luôn luôn mua chứng khoán của
khách hàng bằng tiền mặt của mình và bán cho khách hàng không vì mục đích
ăn hoa hồng mà là lợi nhuận chênh lệch giữa thị giá mua và bán (mua chứng
khoán với giá thấp nhất, bán với giá cao nhất có thể). Khi mua cổ phiếu ngân
hàng thương mại có thể trở thành cổ đông lớn của công ty cổ phần tham gia vào
điều hành và kiểm soát công ty. Bằng những phương tiện sẵn có ngân hàng có
thể đầu tư theo danh mục, quản lý danh mục đầu tư, thành lập quỹ đầu tư để đầu
tư trên thị trường chứng khoán có hiệu quả cao nhất và rủi ro thấp nhất.
b. Phát hành chứng khoán
Các ngân hàng thương mại có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu, chứng
chỉ quỹ để huy động vốn trên thị trường. Với tính chuyên nghiệp cao, uy tín lớn
trên thị trường tài chính, các mối quan hệ rộng rãi, hoạt động phát hành chứng
khoán của các ngân hàng thương mại có nhiều lợi thế hơn các doanh nghiệp
thông thường khác, bên cạnh đó ngân hàng thương mại có thể tự đứng ra phát
hành làm giảm chi phí huy động vốn. Chứng khoán của các ngân hàng thương
mại phát hành dễ dàng được chấp nhận hơn so với các doanh nghiệp.
c. Hoạt động trung gian trên thị trường chứng khoán
Nghiệp vụ trung gian bao gồm nhiều hoạt động mà ngân hàng thương mại
đều có thể tham gia với tư cách của một công ty chứng khoán con. Công ty
chứng khoán con phải là công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn, các
tổ chức tín dụng.
* Nghiệp vụ môi giới chứng khoán
Công ty chứng khoán thuộc ngân hàng sẽ đảm trách dịch vụ này mà mang
lại lợi nhuận từ lệ phí giao dịch hay hoa hồng giao dịch. Công ty chứng khoán
thuộc ngân hàng có ưu thế hơn so với công ty chứng khoán trong nghiệp vụ môi
giới vì:
+ Ngân hàng đã có mối quan hệ sâu sắc với các doanh nghiệp qua việc
tín dụng thanh toán, nắm bắt được các thông tin cần thiết cho việc môi giới
chứng khoán, tạo uy tín cho khách hàng.
+ Có sẵn cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật một mạng lưới chi
nhánh, đại lý rộng khắp.
+ Đội ngũ cán bộ, nhân viên có nghiệp vụ chuyên về kinh doanh tiền
tệ liên quan chặt chẽ và gần gũi với nghiệp vụ môi giới chứng khoán.
Trong nghiệp vụ này, ngân hàng thương mại tiến hành các hoạt động như:
đại diện cho khách hàng của mình để thương lượng mua bán chứng khoán sao
cho có lơi nhất cho thân chủ. Ngân hàng cũng thay mặt khách hàng giải quyết
mọi vấn đề liên quan tùy theo sự ủy nhiệm quyền tự do linh hoạt, quyết đoán
trong việc mua bán chứng khoán hộ cho họ mà không cần thông báo cho họ đã
mua hoặc bán chứng khoán cho ngân hàng ký hợp đồng ủy nhiệm nhận mua hộ
và bán chứng khoán hộ không chỉ cho một khách hàng mà nhiều khách hàng.
* Nghiệp vụ tư vấn chứng khoán
Đây là hoạt động phân tích, đưa ra khuyến nghị liên quan đến chứng
khoán, công bố, phát hành các báo cáo phân tích có liên quan đến chứng khoán.
Với chức năng thủ quỹ doanh nghiệp thực hiện kiểm soát và giám sát bằng đồng
tiền đối với nền kinh tế quốc dân, ngân hàng có đặc quyền về thu thập thông tin
của doanh nghiệp có phát hành chứng khoán qua mối quan hệ lâu năm trong
quan hệ tín dụng, thanh toán. Từ đó có thể phân tích hoạt động sản xuất kinh
doanh, nguồn tài trợ, xu hướng phát triển của doanh nghiệp. Đây là cơ sở quan
trọng đầu tiên cho việc phân tích đánh giá doanh nghiệp, định giá chứng khoán
từ đó có thể thực hiện tư vấn đầu tư đầu tư cho khách hàng một cách nhanh
chóng và hiệu quả.
* Đại lý, bảo lãnh phát hành chứng khoán
Ngân hàng thương mại là cơ quan thích hợp nhất đảm nhiệm việc phân
phối chứng khoán ra công chúng (nhiều cơ sở, công ty con). Nghiệp vụ phân
phối chứng khoán có thể thực hiện thông qua phương thức bảo lãnh phát hành
hay đại lý phát hành
+ Về đại lý phát hành chứng khoán
- Công ty nhận phân phối chứng khoán ra thị trường để hưởng hoa
hồng. Khi thực hiện nghiệp vụ này:
• Công ty không hứa mua trực tiếp số chứng khoán phân
phối hộ.
• Công ty không hứa bán với một giá nhất đinh
• Công ty không hứa bán hết hay mua số chứng khoán
không bán hết.
+ Về bảo lãnh phát hành, công ty thực hiện bảo lãnh phát hành khi có
một khả năng tài chính vững mạnh (thường đó là một tập đoàn tài chính bao
gồm cả ngân hàng thương mại đứng ra đảm nhận thực hiện phát hành với chủ
thể phát hành bằng cách:
• Hứa mua trực tiếp toàn bộ hay một phần số chưng khoán
được phát hành.
• Đảm bảo bán chứng khoán với một giá nhất định.
• Cam kết mua lại số chứng khoán không bán được.
Một số phương thức bảo lãnh phát hành:
- Bảo lãnh với cam kết chắc chắn: Tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua toàn
bộ chứng khoán phát hành, cho dù có phân phối hết hay không.
- Bảo lãnh với cố gắng cao nhất: Tổ chức bảo lãnh phát hành không cam
kết bán toàn bộ số chứng khoán, mà cam kết sẽ cố gắng hết mức để bán chứng
khoán ra thị trường, nhưng phần không phân phối hết sẽ được trả lại cho tổ chức
phát hành.
- Bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không bán gì: Tổ chức phát
hành chỉ thị cho tổ chức bảo lãnh phát hành nếu không bán hết số chứng khoán
thì huỷ
- Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu - tối đa: Tổ chức phát hành chỉ thị
cho tổ chức bảo lãnh phát hành phải bán tối thiểu một tỷ lệ nhất định chứng
khoán phát hành. Nếu lượng chứng khoán bán được đạt tỷ lệ thấp hơn tỷ lệ yêu
cầu thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị huỷ bỏ
* Nghiệp vụ đăng ký, thanh toán bù trừ và lưu ký chứng khoán gồm
Hoạt động đăng ký, thanh toán bù trừ và lưu lý chứng khoán bao gồm:
- Đăng ký chứng khoán
- Thanh toán bù trừ các giao dịch chứng khoán. Trên thị trường chứng
khoán, nếu tất cả khoản thanh toán đều thực hiện bằng tiền mặt thì sẽ mất
đi tính sôi động. Người ta áp dụng thanh toán bằng chuyển khoản, để
giảm đi 1 gánh nặng lớn, theo đó tất cả những người mua và người bán,
các môi giới, kinh doanh chứng khoán đều có tài khoản ở ngân hàng, khi
giao dịch kết thúc mỗi người đều nhận được các giấy báo nợ, báo có mà
không cần quan tâm đến tiền mặt.
- Lưu giữ, bảo quản chứng chỉ chứng khoán.
- Hạch toán ghi sổ chứng khoán trong việc mở tài khoản lưu lý thông qua
việc mở tài khoản lưu ký chứng khoán cho khách hàng.
- Các dịch vụ khác theo ủy quyền của khách hàng có chứng khoán lưu ký.
3. Điều kiện để ngân hàng thương mại tham gia trên thị trường CK
a. Điều kiện để ngân hàng phát hành chứng khoán (Điều 12 luật chứng khoán 2006)
* Điều kiện chào bán cổ phiếu ra công chúng
+ Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào
bán từ mười tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán
+ Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải
có lãi, đồng thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán;
+ Có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt
chào bán được Đại hội đồng cổ đông thông qua
* Điều kiện chào bán trái phiếu
+ Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào
bán từ mười tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán
+ Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải
có lãi, đồng thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán, không có
các khoản nợ phải trả quá hạn trên một năm;
+ Có phương án phát hành, phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được
từ đợt chào bán được Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên hoặc Chủ sở
hữu công ty thông qua;
+ Có cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu
tư về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
nhà đầu tư và các điều kiện khác.
b. Điều kiện chào bán chứng chỉ quỹ
+ Tổng giá trị chứng chỉ quỹ đăng ký chào bán tối thiểu năm mươi tỷ
đồng Việt Nam.
+ Có phương án phát hành và phương án đầu tư số vốn thu được từ đợt
chào bán chứng chỉ quỹ phù hợp với quy định của Luật này
c. Điều kiện để ngân hàng thục hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành CK
+ Ngân hàng thương mại muốn bảo lãnh phát hành phải được Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước chấp thuận bảo lãnh phát theo điều kiện do Bộ Tài
chính quy định.
+ Công ty chứng khoán chỉ được phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh
phát hành chứng khoán (CK) khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán;
vốn pháp định để thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán là 100 tỷ đồng,
nghiệp vụ bảo lãnh phát hành là 165 tỷ đồng
+ Không vi phạm pháp luật chứng khoán trong 6 tháng liên tục liền
trước thời điểm bảo lãnh.
+ Tổng giá trị bảo lãnh phát hành không được lớn hơn 50% vốn chủ sở
hữu của tổ chức bảo lãnh phát hành vào thời điểm cuối quý gần nhất tính đến
ngày ký hợp đồng bảo lãnh phát hành, trừ trường hợp bảo lãnh phát hành trái
phiếu chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh.
+ Có tỷ lệ vốn khả dụng trên nợ điều chỉnh trên 6% trong 3 tháng liền
trước thời điểm nhận bảo lãnh phát hành.
d. Điều kiện để thực hiện hoạt động tư vấn, môi giới, tự doanh chứng khoán
và quản lí quĩ
+ Có giấy phép do Uỷ ban chứng khoán cấp
+ Vốn pháp định là 25 tỷ với các hoạt động môi giới và quản lí quĩ, 100 tỷ
với hoạt động tự doanh và 10 tỉ với hoạt động tư vấn.( chi tiết tại Luật chứng
khoán – Đ.62.NĐ 14/2007/NĐ-CP – Đ.18)
4. Vai trò của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán
a. Tạo hàng hóa cho thị trường chứng khoán
- Ngân hàng thương mại có vai trò to lớn trong việc tạo ra hàng hóa cho thị
trường chứng khoán dưới hai góc độ trực tiếp và gián tiếp
+ Góc độ trực tiếp: ngân hàng thương mại có thể tham gia hoạt động với
tư cách là người phát hành và bán cổ phiếu của mình (ngân hàng cổ phần). Các
ngân hàng thương mại không phân biệt thành phần sở hữu có thể phát hành trái
phiếu để huy dộng vốn từ nền kinh tế. Ngoài ra công ty chứng khoán thuộc ngân
hàng thương mại hiện nay còn bán trái phiếu chính phủ, chứng quyền, trái
quyền…
+ Góc độ gián tiếp: Với tư cách là tổ chức trung gian thực hiện các
nghiệp vụ trung gian chứng khoán như bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng
khoán… đã góp phần không nhỏ giúp các doanh nghiệp khác phát hành chứng
khoán.
* Ngân hàng thương mại là nhân tố góp phần thúc đẩy quá trình công
nghiệp hóa các doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần : tham gia thành
lập hoặc cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước với tỷ lệ cổ phiếu đáng kể để
có thể tham gia quản trị kinh doanh, tín nhiệm, cho vay tín dụng dưới sự giám
sát của ngân hàng..
* Ngân hàng thực hiện chức năng môi giới phát hành chứng khoán,
giúp cho những người sáng lập công ty chọn lựa loại chứng khoán phát hành, tư
vấn về các vấn đề như lãi suất chứng khoán, thời hạn chứng khoán và các vấn đề
kĩ thuật. Trường hợp phát hành một lượng chứng khoán lớn, các ngân hàng có
thể cùng nhau chia sẻ việc dự định số phát hành nhằm giảm thiểu rủi ro hoặc
mua toàn bộ cổ phiếu, trái phiếu rồi bán lại cho công chúng.
b. Vai trò trung gian chứng khoán
Ngân hàng thương mại thông qua công ty chứng khoán của mình đã thực
hiện tốt vai trò cầu nối giữa nhà đầu tư và các doanh nghiệp, góp phần tạo kênh
huy động vốn mới thực sự hiệu quả cho nền kinh tế thông qua việc đẩy mạnh
hơn nữa nghiệp vụ môi giới, bảo lãnh chứng khoán, tư vấn chứng khoán, tăng
cường tiếp xúc với các doanh nghiệp. Khi thực hiện môi giới chứng khoán công
ty có 2 nhiệm vụ chính:
+ Cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng
+ Cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài chính
c. Vai trò điều chỉnh cung cầu chứng khoán