Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Thực trạng điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.61 KB, 43 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ, KÝ HIỆU VIẾT TẮT
CSTT Chính sách tiền tệ
DTBB Dự trữ bắt buộc
M2 Tổng phương tiện thanh toán
NDA Tài sản Có trong nước ròng
NFA Tài sản Có nước ngoài ròng (Net Foreign Assets)
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTW Ngân hàng trung ương
TCTD Tổ chức tín dụng
DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU
LỜI NÓI ĐẦU

Sự ra đời của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam vào ngày 6/5/1951 đã đánh dấu
bước ngoặt lịch sử trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng của nước ta. Với sự ra đời của
NHQG lần đầu tiên chúng ta có một ngân hàng mang đầy đủ tính độc lập tự chủ,
và là một ngân hàng quốc gia duy nhất.
Cho dù trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam đã có những thay đổi thích hợp để phù hợp với hoàn cảnh mới, song nó vẫn
là một cơ quan quản lý Nhà nước về lĩnh vực: tiền tệ, tín dụng, ngân hàng, thanh
toán và ngoại hối. Và một trong những nhiệm vụ mà Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam (NHNN VN) phải coi trọng hàng đầu là việc xây dựng và thực thi có hiệu
quả chính sách tiền tệ quốc gia.
Đó là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó NHTƯ, thông
qua các công cụ của mình để tác động vào lượng tiền cung ứng hay lãi suất nhằm
đạt được các mục tiêu: giá cả, sản lượng và công ăn việc làm.Sự tác động đó thông
qua các công cụ là các lãi suất tái cấp vốn, chiết khấu, tái cấp vốn
Như vậy có thể hiểu lãi suất là một kênh truyền dẫn sự tác động của chính
sách tiền tệ. Nó được sử dụng như là một công cụ vô cùng hữu hiệu dể điều tiết
nền kinh tế. Đó là một biến số được theo dõi vô cùng chặt chẽ bởi nó chi phối đến


các quyết định của chúng ta, nó ảnh hưởng đến cuộc sống của mỗi người trong
thời đại ngaỳ nay.
Đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay thì việc sử dụng có hiệu quả lãi suất
để đem lại một hiệu quả tốt cho nền kinh tế hay nói cách khác là việc thực thi
chính sách tiền tệ một cách hiệu quả là tương đối phức tạp và rất có ý nghiã đối
với nền kinh tế.
Trong phạm vi đề tài này tôi xin đề cập đến sự điều hành lãi suất của Ngân
hàng Nhà nước ở Việt Nam từ năm 2008 cho đến nay.
Mặc dù đây không phải là một đề tài mới nhưng laị là một vấn đề luôn được
quan tâm vì cho dù chính sách lãi suất đã được áp dụng từ rất lâu trên thế giới
cũng như Việt Nam song đối với mỗi nước sự tác động của chính sách này đối với
1
nền kinh tế lại không giống nhau, hay ngay trong một nước tại những thời điểm
khác nhau cần phải có những biện pháp tác động khác nhau. Hay nói cách khác để
vận dụng có hiệu quả chính sách này thì đòi hỏi phải có sự linh hoạt, mềm dẻo, và
nhất là phải phù hợp với môi trường kinh tế vĩ mô. Chính vì vậy, một sự nắm bắt
chính xác bản chất, sự tác động của nó đối với nền kinh tế là vô cùng quan trọng
đối với những nhà quản lý và cả những nhà kinh tế.
Trong đề tài gồm ba chương như sau:
Chương I: Lãi suất và các vấn đề liên quan đến lãi suất
Chương II: Thực trạng điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam
Chương III: Định hướng điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
2
CHƯƠNG I
LÃI SUẤT VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN LÃI SUẤT
1.1. Khái niệm
Lãi suất tín dụng được hiểu một cách chung nhất là tỷ lệ % so sánh giữa số
lợi tức thu được với số tiền bỏ ra cho vay trong một thời kỳ nhất định ( năm, tháng
).

Lãi suất là một trong những biến số kinh tế được theo dõi chặt chẽ nhất do
nó ảnh hưởng đến đời sống của người dân và tình hình kinh tế của mỗi quốc gia.
Chính vì vậy mà đã có rất nhiều khái niệm được sử dụng để giải thích về vấn đề
này:
Theo Samuelson: Lãi suất là giá mà người đi vay phải trả cho người cho vay
để được sử dụng một khoản tiền trong một thời gian nhất định, nó chính là giá của
việc mua bán quyền sử dụng tiền tệ trong một thời gian xác định
Theo Jonh Maney Keynes: Lãi suất là sự trả công cho số tiền vay, nó là
phần thưởng cho sở thích chi tiêu hay sở thích thanh khoản, lãi suất là hiện tượng
tiền tệ phản ánh cung cầu về tiền. Tiền đóng vai trò như một sự tích luỹ của cải
nhưng chi phí cơ hội về việc giữ tiền của dưới dạng này là tỷ suất lợi tức có được
bằng những tài sản tài chính khác.
Theo quan điểm của trường phái trọng tiền thì lãi suất là một hiện tượng
thực tế được xác định bởi năng suất- cầu về vốn cho mục tiêu đầu tư và tiết kiệm-
nguồn cung tiết kiệm. Họ cho rằng tỷ suất lợi tức của tài sản vật chất và vốn có xu
hướng bằng nhau trong dài hạn và thiết lập một mức lãi suất thị trường duy nhất.
Lãi suất có vai trò quan trọng bởi nó tác động đến quyết định của các cá
nhân đối với khoản thu nhập của mình, chi tiêu hay tiết kiệm, tác động đến quyết
định của người đi vay, của ngân hàng và của Chính phủ. Lãi suất thể hiện một
3
đồng tiền bỏ ra hôm nay trong tương lai nó sẽ tạo ra một giá trị lớn hơn, do đồng
tiền được trả lãi, chính vì vậy lãi suất là biến số làm cân bằng giá trị một lượng
tiền ở thời điểm hiện tại với giá trị nhận được trong tương lai của nó
1.2. Vai trò
1.2.1. Cấp vi mô:
Ở cấp vi mô, lãi suất tác động trực tiếp đến người đi vay, người cho vay và
hoạt động của các tổ chức kinh doanh tiền tệ.

Đối với người cho vay
Người ta nắm giữ tiền vì các động cơ giao dịch, dự phòng và tài sản. Nhưng

người ta phải trả chi phí cơ hội cho việc giữ tiền : đó là khoản lãi hoặc lợi tức bị
mất đi do việc giữ tiền mà không đầu tư vào các tài sản khác có khả năng sinh lời
cao hơn. Nếu đem cho vay, khoản tiền đó sẽ mang lại thu nhập từ lãi suất. Lãi suất
càng cao chi phí cơ hội của việc nắm giữ tiền càng lớn nhưng đồng thời khuyến
khích người ta tiết kiệm nhiều hơn bởi họ có thể nhận được nhiều thu nhập hơn từ
lãi. Do đó với người cho vay lãi suất đem lại nguồn thu nhập và giúp họ phần nào
cải thiện đời sống.

Đối với người đi vay
Với người vay tiền để kinh doanh, lãi suất vừa là chi phí cho khoản vay
nhưng đồng thời nó cũng đem lại thu nhập từ lợi nhuận thu được do việc sử dụng
tiền vay. Vì vậy họ sẽ quyết định đầu tư bao nhiêu bằng việc so sánh lãi suất phải
trả với hiệu quả của việc sử dụng đồng vốn vay đó cho các dự án đầu tư. Lãi suất
tăng nghĩa là chi phí vay vốn đầu tư sẽ cao làm cho lợi nhuận giảm, lúc đó nhà đầu
tư phải xem xét tính toán kỹ lưỡng chuyện vay vốn làm ăn. Chính vì vậy để giảm
bớt tình trạng nền kinh tế đang phát triển quá nóng người ta có thể dùng công cụ
lãi suất.

Đối với các tổ chức kinh doanh tiền tệ
Các tổ chức này đóng vai trò trung gian trong nền kinh tế. Nó thực hiện
chức năng dẫn vốn từ các chủ thể thừa tới các chủ thể thiếu vốn. Khi huy động
vốn, các tổ chức này phải trả lãi cho người gửi và thu được lãi khi cho vay. Là các
nhà kinh doanh tiền tệ, điều quan tâm trước hết là:" giá mua, giá bán quyền sử
4
dụng vốn " bởi thu nhập của họ chủ yếu là khoản chênh lệch giữa lãi suất cho vay
và lãi suất tiền gửi sau khi đã trừ đi chi phí các nghiệp vụ kinh doanh, mức rủi ro
hợp lý Trong điều kiện lãi suất cho vay không thay đổi hoặc tăng chậm hơn lãi
suất tiền gửi sẽ làm giảm thu nhập của họ, bù lại họ sẽ thu hút được nhiều vốn để
mở rộng cho vay. Ngược lại nếu lãi suất cho vay tăng lên trong khi lãi suất tiền
gửi tăng chậm hơn hoặc không đổi sẽ làm tăng thu nhập nhưng lại hạn chế khả

năng mở rộng cho vay. Thông thường lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi thường
biến động thuận chiều, lãi suất tiền gửi tăng thì lãi suất cho vay cũng tăng và
ngược lại. Tuy nhiên, vì là tổ chức huy động vốn để cho vay nên họ không thể
nâng mức huy động lên quá cao được bởi lẽ khi đó lãi suất cho vay tăng lên bóp
nghẹt nhu cầu vay vốn. Mức lãi suất cho vay cao sẽ thu hút hết lợi nhuận của
những nghành có lợi nhuận thấp hơn lãi suất cho vay của ngân hàng, người đi vay
không còn thu nhập, ảnh hưởng tới sản xuất và đời sống. Chính vì lẽ đó, điều hành
lãi suất của các TCTD một mặt phải duy trì mức lãi suất cho vay vừa đảm bảo thu
nhập của mình vừa đảm bảo được hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp. Xuất phát từ đó ta có một nguyên tắc:
Tỷ lệ lạm phát < lãi suất huy động bình quân < lãi suất cho vay bình quân <
tỷ lệ lợi nhuận bình quân.
Như vậy, sự biến động lãi suất có tác động trực tiếp đến cả hoạt động huy
động vốn và cho vay của các tổ chức kinh doanh tiền tệ.
1.2.2. Cấp vĩ mô
Lãi suất có vai trò trung tâm trong chính sách tiền tệ, là công cụ điều hành
kinh tế vĩ mô hướng tới mục tiêu: tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm, kiểm
soát lạm phát và ổn định giá cả, cải thiện cán cân thanh toán
Ngoài ra lãi suất còn có vai trò quan trọng trong việc khai thác, sử dụng hiệu
quả nguồn vốn và góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
∗Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm:
Sự biến động của lãi suất tác động tới đâù tư, tiêu dùng, xuất khẩu ròng,
qua đó tác động tới các biến số kinh tế vĩ mô. Khi nền kinh tế có dấu hiệu suy
thoái: tăng trưởng kinh tế giảm sút và thất nghiệp gia tăng, NHTW bằng các biện
pháp nhằm giảm lãi suất sẽ kích thích nhà đầu tư vay vốn, mở rộng và phát triển
sản xuất kinh doanh, thu hút thêm nhiều việc làm. Lãi suất giảm cũng giúp cho
5
xuất khẩu ròng gia tăng, mở rộng và phát triển sản xuất hạn chế thất nghiệp và
tăng thu nhập quốc dân, tạo điều kiện cho nền kinh tế ngày càng phát triển.
∗ Kiểm soát lạm phát và ổn định giá cả:

Lãi suất là một trong những công cụ quan trọng tác động một cách mạnh
mẽ đến tình hình lạm phát nếu nguyên nhân cơ bản của lạm phát bắt nguồn từ
nguyên nhân tiền tệ. Khi lạm phát gia tăng, có thể nâng cao mức lãi suất danh
nghĩa để đảm bảo mức lãi suất thực dương hấp dẫn thu hút phần lớn lượng tiền
mặt lưu thông vào hệ thống ngân hàng, do đó có tác dụng làm giảm khối lượng
tiền cung ứng M1- bộ phận tiền có tính lỏng cao nhất đối ứng trực tiếp với khối
lượng hàng hoá- dịch vụ trong lưu thông. Mặt khác lãi suất tăng cao có tác dụng
giảm bớt tình trạng đầu cơ, tích trữ hàng hoá, làm tăng lượng cung ứng cho thị
trường. Do vậy mối quan hệ hàng hoá- tiền tệ được cải thiện, đẩy lùi lạm phát.
Tuy nhiên không thể kéo dài tình trạng tăng lãi suất để chống lạm phát vì điều đó
sẽ hạn chế đầu tư và tăng trưởng kinh tế, gia tăng thất nghiệp. Với tác dụng trên,
nâng cao lãi suất được gọi là biện pháp " tình thế " để chống lạm phát của nhiều
quốc gia.
∗ Cải thiện cán cân thanh toán.
Cán cân thanh toán quốc tế là tấm gương phản chiếu mọi hoạt động kinh
tế đối ngoại của một đất nước với các nước khác. Sự biến động của lãi suất có tác
động đến tình trạng của cán cân thanh toán cũng như từng khoản mục riệng biệt
trong đó. Lãi suất là một nhân tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại, cán cân vốn
và kết quả là ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc tế.
Trong điều kiện nền kinh tế mở, tự do di chuyển vốn và tỷ giá thả nổi, khi
lãi suất đồng bản tệ giảm xuống, một mặt sẽ kích thích luồng vốn ròng chảy ra ảnh
hưởng xấu đến cán cân vốn mặt khác lãi suất giảm làm đồng nội tệ giảm giá sẽ
khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu làm cho cán cân thương mại tốt hơn.
Kết quả là cán cân thanh toán được cải thiện và dần về vị trí cân bằng. Ngược lại,
nếu lãi suất đồng bản tệ tăng lên, cán cân thanh toán vãng lai xấu đi nhưng cán cân
vốn lại tốt hơn. Kết quả là cán cân thanh toán được cải thiện. Như vậy, trong điều
kiện tỷ giá thả nổi, sự biến động của lãi suất tăng hay giảm đều giúp cho cán cân
thanh toán tự động cân bằng.
∗ Đẩy mạnh việc khai thác và sử dụng nguồn vốn hiệu quả
Lãi suất được thừa nhận phổ biến như một động lực quan trọng kích thích

6
tiết kiệm, thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư. Muốn huy động được các nguồn vốn
từ các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế, ngoài việc đáp ứng các dịch vụ khách
hàng thật tốt còn đòi hỏi giá cả ( lãi suất ) phải hợp lý và hấp dẫn. Bởi vậy, tăng lãi
suất huy động tiền gửi sẽ khuyến khích dân chúng tiết kiệm nhiều hơn đồng thời nó
cũng gây áp lực buộc các doanh nghiệp phải sử dụng vốn vay hiệu quả , phải thực sự
chú tâm vào công việc kinh doanh để đảm bảo hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi. Lãi
suất thực quá cao sẽ gây khó khăn cho người vay, hạn chế đầu tư và thâm hụt tài
chính. Nhưng nếu lãi suất thực dương ở mức độ vừa phải, phù hợp với mức cân bằng
của thị trường sẽ có những tác động tích cực tới cả đầu tư và tiết kiệm, tăng trưởng
kinh tế và các chỉ số kinh tế khác như độ sâu tài chính( được đo bằng tỷ lệ M2/GDP ),
tỷ lệ lạm phát và hiệu quả vốn đầu tư Mức lãi suất thực dương hợp lý tạo điều kiện
thuận lợi cho tiết kiệm dưới hình thức tài chính hơn so với các dạng tiết kiệm khác.
Khi đó thu hút được nhiều nguồn tiết kiệm cho đầu tư, đồng thời khi lượng tiền tiết
kiệm đi qua hệ thống tài chính gia tăng làm tăng cường độ sâu tài chính. Ngoài ra lãi
suất thực dương đóng góp cho tăng trưởng kinh tế không chỉ qua nguồn tăng tiết kiệm
để cung ứng nguồn vốn đầu tư mà còn hỗ trợ tăng trưởng chủ yếu qua việc nâng cao
hiệu quả vốn đầu tư, giúp nền kinh tế tăng trưởng cả mặt lượng và mặt chất.
∗ Góp phần làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế
Vai trò này của lãi suất được thể hiện thông qua việc kích thích hoặc hạn
chế đầu tư ở ngành, lĩnh vực này so với các ngành và lĩnh vực khác. Thông qua
việc điều chỉnh các mức lãi suất, các nhà doanh nghiệp nói riêng, các nhà quản lý
nói chung có thể lựa chọn những ngành hay vùng lãnh thổ để đầu tư nhằm thu
được lợi nhuận cao. Vai trò này đặc biệt có ý nghĩa với những nước đang tiến
hành công nghiệp hoá bởi lãi suất góp phần làm thay đổi cơ cấu đầu tư, hướng đầu
tư vào các ngành, lĩnh vực được ưu tiên và đầu tư vào khu vực nông nghiệp nông
thôn.
Ngoài các vai trò quan trọng kể trên, lãi suất còn là công cụ để đo lường
tình trạng sức khoẻ của nền kinh tế: lãi suất thường có xu hướng tăng trong giai
đoạn phát triển của nền kinh tế và giảm xuống trong thời kỳ suy thoái kinh tế. Lãi

suất là biến số thường xuyên biến động trong nền kinh tế, qua sự biến động đó
người ta có thể đưa ra các dự báo về các yếu tố khác của nền kinh tế như: tính sinh
lời của các cơ hội đầu tư, mức lạm phát dự tính, mức thiếu hụt ngân sách và triển
7
vọng của nền kinh tế trong tương lai.
1.3. Các loại lãi suất
1.3.1. Lãi suất tín dụng ngân hàng:
Là lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa Ngân hàng với công chúng và doanh
nghiệp trong việc thu hút tiền gửi và cho vay, trong hoạt động tái cấp vốn của
NHTW cho các NH và trong quan hệ giữa các NH với nhau trên thị trường liên
ngân hàng.
+ Lãi suất tiền gửi: Là lãi suất mà người vay( người huy động vốn ) phải
trả cho người gửi tiền vào các ngân hàng, các TCTD vào các tài khoản tiết kiệm,
tài khoản vãng lai, Để đảm bảo trong nghiệp vụ nhận gửi và cho vay phù hợp với
mục tiêu và yêu cầu của người gửi tiền và người vay tiền, lãi suất tiền gửi được
chia thành nhiều mức khác nhau tuỳ thuộc vào thời hạn và quy mô tiền gửi.
Căn cứ vào thời hạn của khoản tiền gửi ta có:
- Lãi suất tiền gửi ngắn hạn( < 1 năm ) là khoản tiền gửi tiết kiệm tạm thời
của các cá nhân, hộ gia đình, các doanh nghiệp, lãi suất thường không cao.
- Lãi suất tiền gửi dài hạn ( > 1 năm ) lãi suất thường cao hơn lãi suất tiền gửi
ngắn hạn do thời hạn càng dài thì chi phí cơ hội của khoản tiền gửi càng lớn và
mức độ rủi ro cũng càng lớn.
Căn cứ vào thời hạn của khoản tiền gửi:
- Lãi suất tiền gửi không kỳ hạn: là loại lãi suất dành cho loại tiền gửi mà
người gửi có thể rút tiền ra bất kỳ lúc nào hoặc gửi tiền với mục đích thanh toán.
- Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn: là loại lãi suất có kỳ hạn thanh toán lãi cho
khoản tiền gửi vào ngân hàng, có 3 loại kỳ hạn là ngắn, trung và dài hạn.
+ Lãi suất cho vay: Là lãi suất mà người đi vay phải trả cho ngân hàng do
việc sử dụng vốn vay của ngân hàng. Nó được áp dụng để tính lãi tiền vay mà
khách hàng phải trả ngân hàng. Về nguyên tắc, mức lãi suất tiền vay bình quân

phải cao hơn mức lãi suất tiền gửi bình quân và có sự phân biệt giữa các khoản
vay với thời hạn khác nhau cũng như mức rủi ro khác nhau.
Lãi suất cho vay tác động lớn đến hoạt động kinh doanh của các NHTM và
TCTD vì vậy phải vận dụng chính sách lãi suất cho vay một cách linh hoạt để tạo
được sự hài hoà về lợi ích giữa doanh nghiệp và khách hàng hoặc là nhằm đạt
được những mục tiêu kinh tế xã hội nào đó của Nhà nước. Do đó lãi suất cho vay
thường phải được phân loại theo đối tượng ngành nghề và vùng kinh tế.
+ Lãi suất chiết khấu: áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới
hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh
toán của khách hàng. Nó được tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá của giấy tờ có giá
8
và đươc khấu trừ ngay khi ngân hàng phát tiền vay cho khách hàng. Như vậy nếu
xét trong quan hệ giữa ngân hàng với người vay chiết khấu, lãi suất chiết khấu
được trả trước cho ngân hàng chứ không trả sau như lãi suất thông thường.
+ Lãi suất tái chiết khấu: áp dụng khi Ngân hàng Trung ương tái cấp vốn
dưới hình thức chiết khấu lại thương phiếu hoặc giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến
hạn thanh toán của các ngân hàng. Nó cũng được tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá
của giấy tờ có giá và cũng được khấu trừ ngay .
Lãi suất tái chiết khấu do Ngân hàng Trung ương ấn định căn cứ vào mục
tiêu, yêu cầu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ và chiều hướng biến động
lãi suất trên thị trường liên ngân hàng.
Vì hành vi tái chiết khấu cung ứng nguồn vốn cho các ngân hàng nên
thông thường lãi suất tái chiết khấu thường nhỏ hơn lãi suất chiết khấu. Tuy nhiên
trong trường hợp cần phải hạn chế khả năng mở rộng tín dụng của hệ thống ngân
hàng, nhằm kiềm chế đẩy lùi lạm phát hoặc phạt các ngân hàng trong trường hợp
vi phạm các yêu cầu về thanh toán, Ngân hàng Trung ương có thể ấn định lãi suất
tái chiết khấu bằng hoặc thậm chí cao hơn lãi suất chiết khấu của hệ thống ngân
hàng.
+Lãi suất liên ngân hàng: là mức lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân
hàng, nơi các ngân hàng thực hiện việc vay và cho vay lẫn nhau, nó chỉ dẫn chính

xác hơn về chi phí vốn vay của các ngân hàng và cung - cầu vốn trên thị trường.
Lãi suất liên ngân hàng thường được ấn định hàng ngày vào mỗi buổi sáng (còn
gọi là lãi suất hàng ngày). Nó được hình thành bởi quan hệ cung - cầu tiền trung
ương của các tổ chức tín dụng và chịu sự chi phối bởi lãi suất tái cấp vốn của
Ngân hàng trung ương. Mức độ chi phối này phụ thuộc vào sự phát triển của hoạt
động thị trường mở và tỷ trọng sử dụng vốn vay Ngân hàng Trung ương của các tổ
chức tín dụng. Hiện nay, Việt Nam thường sử dụng một số lãi suất liên hàng sau
khi ấn định lãi suất cho vay bằng ngoại tệ:
+ Lãi suất cho vay liên hàng: như LIBOR, PIBOR, ZIBOR, NIBOR,
SIBOR
+ Lãi suất đi vay liên hàng: như LIBID, ZIBID, NIBID
Đây là lãi suất tại các thương trường tín dụng chủ yếu của thế giới như Paris,
Zurich, Newyork, Singapore
+ Lãi suất bình quân của LIBOR và LIBID là LIMEAN.
9
+ Lãi suất cơ bản: là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ấn
định mức lãi suất kinh doanh của mình.
Lãi suất cơ bản được hình thành khác nhau tuỳ từng nước, nó có thể do Ngân
hàng Trung ương ấn định (Nhật: là mức lãi suất cho vay thấp nhất) hoặc có thể do
bản thân các ngân hàng tự xác định căn cứ vào tình hình hoạt động cụ thể của
ngân hàng mình (Mỹ, Anh, Úc) và đó là mức lãi suất được áp dụng cho các khách
hàng có mức rủi ro thấp nhất; hoặc căn cứ vào mức lãi suất cơ bản của một số
ngân hàng đứng đầu, của các ngân hàng khác cộng trừ biên độ giao động theo một
tỷ lệ % nhất định để hình thành lãi suất cơ bản của mình (Malaysia). Một số nước
lại sử dụng lãi suất liên ngân hàng làm lãi suất cơ bản (Singapore, Pháp) vì thực
chất lãi suất cơ bản của các ngân hàng rất gần với mức lãi suất thị trường liên ngân
hàng nếu không như vậy hoạt động Arbitrage về lãi suất sẽ diễn ra. Mặc dù khác
nhau, lãi suất cơ bản của hầu hết các nước đều hình thành trên cơ sở thị trường và
đó là mức lãi suất tối thiểu bù đắp được lãi suất cho vay và có được mức lợi nhuận
bình quân cho phép. Khi áp dụng đối với các đối tượng có mức rủi ro khác nhau,

mức lãi suất kinh doanh sẽ khác nhau vì sự biến động của mức bù rủi ro.
Ở Việt Nam, Luật ngân hàng nhà nước hiện nay quy định “ Lãi suất cơ
bản là lãi suất do Ngân hàng Trung ương công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín
dụng ấn định lãi suất kinh doanh” (khoản 12 điều 19). Tuy vậy, vấn đề chọn lãi
suất nào làm lãi suất cơ bản hiện vẫn đang còn là vấn đề tranh luận.
1.3.2. Lãi suất chỉ đạo và lãi suất thị trường
+ Lãi suất chỉ đạo: là lãi suất do ngân hàng Trung ương ấn định, không trực
tiếp thay đổi theo sự biến động của thị trường, nó phụ thuộc vào sự điều tiết của
Ngân hàng trung ương.
+ Lãi suất thị trường: là lãi suất biến động theo quan hệ cung cầu vốn vay
trên thị trường, tuy nhiên nó chỉ biến động trong giới hạn của tỷ suất lợi nhuận
bình quân, bởi vì người đi vay chỉ có thể trích một phần lợi nhuận thu được của
mình thu được trả cho người cho vay. Trong điều kiện bình thường tỷ suất lợi
nhuận bình quân là giới hạn cao nhất của lãi suất. Chúng ta không xác định được
giới hạn thấp nhất của lãi suất nhưng thường nó phải lớn hơn không vì mấy khi
người ta có thể cho vay mà không thu lãi.
1.3.3. Lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa
+ Lãi suất danh nghĩa: là lãi suất được tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ
10
vào thời điểm nghiên cứu hay bản chất của nó là loại lãi suất mà chưa trừ đi tỷ lệ
lạm phát. Lãi suất danh nghĩa thường được ghi trong các hợp đồng tín dụng hay
các chứng chỉ tiền gửi và được công bố công khai hàng ngày trên báo chí.
+ Lãi suất thực: là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay
đổi về lạm phát.
Nó chính là mức lãi suất đã trừ đi tỷ lệ lạm phát. Nó gần đúng bằng
chênh lệch giữa lãi suất danh nghĩa và tỷ lệ lạm phát. Lãi suất này không được
công bố công khai mà người đi vay phải tự tính ra.
Có 2 loại lãi suất thực:
-Lãi suất thực dự tính trước: là lãi suất thực được điều chỉnh lại cho đúng
theo những thay đổi dự tính về lạm phát.

- Lãi suất thực tính sau: là lãi suất thực được điều chỉnh lại cho đúng với
những thay đổi thực tế về lạm phát.
Ngoài tỷ lệ lạm phát thì tỷ lệ trượt giá do lạm phát cũng nói lên sự tương tác
giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa( trượt giá do lạm phát là tỷ lệ dùng để đo
lường mức độ lạm phát mong đợi của các nhà đầu tư trên thị trường ).
Nói về vấn đề này Irving Fisher đã đưa ra công thức:
In = Ir + I + Ir x Ip
Trong đó:
In:lãi suất danh nghĩa
Ir: lãi suất thực
I : tỷ lệ lạm phát
Ip: tỷ lệ trượt giá do lạm phát mà nhà đầu tư mong đợi.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG
NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
2.1. Quá trình điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam từ
2008 đến nay
Ngân hàng Trung ương (NHTW) được biết đến như là một cơ quan vận hành
đảm bảo sự ổn định tiền tệ và điều tiết thị trường tiền. Sự ổn định ở đây được xét
trên khía cạnh ổn định của giá cả trong nước, tỷ giá và của hệ thống thanh toán.
Thông thường NHTW sẽ thực hiện vai trò của mình thông qua các công cụ chính
11
sách tiền tệ (CSTT), người cho vay cuối cùng và hoạt động thanh tra, giám sát,
điều tiết hoạt động ngân hàng. Tại Việt Nam, NHNN đảm nhận vai trò như là một
NHTW - và vai trò đó ngày càng được khẳng định trong bối cảnh khủng hoảng
kinh tế tài chính toàn cầu, đặc biệt sau năm 2008.
Cùng với những biến động về hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ,
thu nhập, chuyển tiền một chiều, sự biến động của luồng vốn nước ngoài tạo nên
biến động khá lớn đối với tình trạng cán cân thanh toán quốc tế, theo đó tác động
mạnh tới cấu phần tài sản có nước ngoài ròng trong tổng phương tiện thanh toán

của nền kinh tế, tác động tới danh mục tài sản Có và tài sản Nợ của hệ thống
các,NHTM đặt nhiều thách thức đối với điều hành chính sách tiền tệ. Cán cân
thanh toán quốc tế của Việt Nam biến động mạnh từ năm 2007 trở lại đây. Năm
2007, với sự gia tăng đột biến của luồng vốn nước ngoài, cán cân vốn và tài chính
thặng dư ở mức lớn, vượt quá nhu cầu tài trợ cho thâm hụt cán cân vãng lai, cán
cân thanh toán thặng dư ở mức trên 10 tỷ USD. Sang năm 2008, thặng dư cán cân
thanh toán giảm mạnh, chỉ còn khoảng 473 triệu USD trước khi chuyển sang thâm
hụt ở mức trên 8 tỷ USD trong năm 2009. Sự biến động mạnh của thặng dư cán
cân thanh toán đã khiến cấu phần tài sản Có nước ngoài ròng NFA trong tổng
phương tiện thanh toán (M2) có mức tăng trưởng mạnh. M2 năm 2007 tăng
khoảng 49%, trong đó NFA đóng góp cho tăng trưởng M2 khoảng 15% nhưng
sang năm 2008 chỉ đóng góp 0,44%, năm 2009, sự sụt giảm của NFA tác động
làm giảm 7,72% tăng trưởng M2. Luồng vốn luân chuyển với khối lượng nhiều
hơn đã có tác động tới hoạt động huy động và cho vay cũng như tác động tới việc
quản lý danh mục đầu tư, quản lý danh mục tài sản Nợ, tài sản Có của hệ thống
các ngân hàng. Các NHTM huy động được một lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ
của các tổ chức kinh tế và dân cư; đồng thời đây là nguồn vốn quan trọng để các
NHTM mở rộng tín dụng đối với nền kinh tế; ngoài nghiệp vụ huy động và cho
vay ngoại tệ là những nghiệp vụ truyền thống, nhiều ngân hàng chú trọng đến
mảng hoạt động kinh doanh ngoại tệ, đặc biệt vào những thời điểm có sự chênh
lệch lớn về lãi suất quốc tế và trong nước. Bởi vậy, trong quản lý điều hành chính
sách tiền tệ, việc kiểm soát tổng phương tiện thanh toán gặp nhiều khó khăn, cân
12
đối vốn của các NHTM thường xuyên biến động, nhất là khi nền kinh tế còn bị đô
la hóa, sự dịch chuyển giữa tài sản nội tệ và ngoại tệ gây bất ổn định thị trường nội
tệ, có thời điểm gây khó khăn trong việc ổn định thị trường ngoại tệ. (Xem đồ thị
2)
Đồ thị 2.1: Đóng góp của NDA, NFA vào tăng trưởng M2
Nguồn: Trang Việt nam 582, Thống kê tài chính quốc tế của IMF các năm
2007,2009.

NDA là tài sản có trong nước ròng, NFA là tài sản có nước ngoài ròng.

Với vai trò là Ngân hàng Trung ương và cơ quan quản lý nhà nước về tiền
tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng, NHNN Việt Nam đã linh hoạt trong việc
chuyển hưởng điều hành, sử dụng đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ để điều
tiết tổng lượng tiền trong nền kinh tế, điều tiết lãi suất và tỷ giá phù hợp nhằm đạt
được mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng
kinh tế, đảm bảo an toàn hệ thống.
Chính sách tiền tệ, theo đuổi đa mục tiêu trong những năm trước đây, nhưng
từ năm 2007 trở lại đây, việc xác định mục tiêu cuối cùng đã khá linh hoạt, có thứ
tự ưu tiên. Từ cuối năm 2007, khi lạm phát trở lại mức hai chữ số và tiếp tục tăng
13
mạnh trong nửa đầu năm 2008, Chính phủ đã xác định mục tiêu của các chính
sách kinh tế vĩ mô nói chung và chính sách tiền tệ nói riêng là ưu tiên kiềm chế
lạm phát là hàng đầu và điều chỉnh giảm mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2008 từ
mức 8,5% - 9% xuống còn 7%. Từ tháng 9/2008 đến năm 2009, khủng hoảng tài
chính bắt nguồn từ Mỹ lan rộng ra khắp toàn cầu, có nhiều diễn biến phức tạp đã
tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta, Chính phủ đã điều chỉnh mục tiêu từ ưu
tiên kiềm chế lạm phát sang thực hiện các giải pháp kích cầu để ngăn ngừa ảnh
hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu. Sang năm 2010, kinh tế trong nước đã từng
bước phục hồi, nhưng nền kinh tế còn phải đối mặt với một số rủi ro như nhập siêu
ở mức cao, áp lực tăng lạm phát trở lại, thâm hụt ngân sách cao, Chính phủ xác
định tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, trên cơ sở đó bảo đảm tăng trưởng kinh tế
cao hơn cả về số lượng và chất lượng, đồng thời ngăn ngừa lạm phát cao trở lại.
Các công cụ chính sách tiền tệ được sử dụng linh hoạt, đa dạng hơn và có sự
kết hợp khá nhuần nhuyễn giữa các công cụ. (1) Lãi suất cơ bản, tái chiết khấu, tái
cấp vốn được giữ ổn định trong năm 2007 nhưng năm 2008 chuyển sang điều
hành linh hoạt (tăng 3 lần, giảm 6 lần), trong năm 2009 (giảm 2 lần, tăng 1 lần),
giữ ổn định trong 6 tháng đầu năm 2010; trong điều hành, có kết hợp cả biện pháp
trực tiếp. Quy định trần lãi suất theo Công điện số 02 vào tháng 2/2008 để ổn định

nhanh khi thị trường tiền tệ bị xáo trộn bởi cuộc đua lãi suất. Khi thị trường tiền tệ
có dấu hiệu tích cực, NHNN dỡ bỏ trần lãi suất huy động VND và thay cơ chế
điều hành lãi suất cơ bản, theo đó, các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh bằng
VND đối với khách hàng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do
NHNN công bố. Sang năm 2010, triển khai cơ chế cho vay theo lãi suất thỏa thuận
đối với các khoản vay ngắn hạn từ tháng 2/2010 và các khoản vay trung dài hạn từ
tháng 4/2010; (2) Công cụ dự trữ bắt buộc được điều chỉnh linh hoạt, tăng một lần
lên gấp đôi vào giữa năm 2007 và tăng 1 lần và giảm 4 lần trong năm 2008; năm
2009 (giảm 3 lần). Bên cạnh quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc (DTBB), trong giai
đoạn này NHNN còn linh hoạt trong việc trả lãi cho dự trữ bắt buộc (giữ không
đổi đối với lãi suất trong DTBB đối với VND là 1,2%/năm trong năm 2007, tăng
lên 3,6 - 5 - 10% năm và giảm còn 9 - 8,5% trong năm 2008; tiếp tục giảm còn
14
3,6% xuống 1,2% trong năm 2009 trước khi giữ ổn định trong năm 2010. Đối với
lãi tiền gửi DTBB vượt bằng ngoại tệ giữ nguyên trong năm 2007 - 2008 ở mức
1%/năm, giảm xuống 0,5% - 0,1% trong năm 2009 và ổn định trong năm 2010;
đối với công cụ nghiệp vụ thị trường mở, đây có thể nói là công cụ được sử dụng
chủ yếu để điều tiết tiền tệ của NHNN trong những năm qua. Trong năm 2007,
vốn khả dụng của cácTCTD có tình trạng dư thừa nên NHNN đã tổ chức các phiên
đấu thầu bán là chủ yếu, nhưng từ 2008 đến nay, NHNN chủ yếu thực hiện mua
giấy tờ có giá để hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD. Cùng với việc điều hành linh
hoạt khối lượng tiền qua kênh này, lãi suất áp dụng đối với các giao dịch nghiệp
vụ thị trường mở cũng được điều chỉnh khá linh hoạt phù hợp với mục tiêu điều
hành từng thời điểm; (4) về hoạt động tái cấp vốn, trong giai đoạn 2007-2009,
NHNN đã thực hiện tái cấp vốn một cách linh hoạt nhằm hỗ trợ khả năng thanh
khoản cho các ngân hàng (trong năm 2007, khối lượng tái cấp vốn của NHNN cho
các NHNN ở mức thấp, nhưng từ năm 2008 đến nay, tái cấp vốn là một kênh quan
trọng khi các ngân hàng gặp khó khăn trong thanh khoản, cần hỗ trợ từ phía
NHNN); (5) lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu áp dụng khi thực hiện nghiệp vụ tái
cấp vốn, tái chiết khấu phù hợp với mức điều chỉnh lãi suất cơ bản; (6) tỷ giá,

được điều hành theo hướng linh hoạt, thông qua mở rộng biên độ tỷ giá mua bán
USD của các NHTM từ +0,25% tăng lên +0,5% (từ tháng 1/2007) và tăng lên ±
0,75% (vào cuối tháng 12/2007), lên ± 3% trong năm 2008 và ± 5% trong năm
2009, trở lại mức 3% trong năm 2010; can thiệp ngoại tệ linh hoạt với liều lượng
hợp lý trên thị trường ngoại hối; thực hiện hoán đổi ngoại tệ với các TCTD để
giúp các TCTD điều hoà cân đối vốn; (7) phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt
buộc vào tháng 3/2008 với kỳ hạn 365 ngày, lãi suất 7,8% đồng thời quy định
không cho phép các TCTD được sử dụng tín phiếu bắt buộc để tham gia giao dịch
trong các nghiệp vụ tái cấp vốn, thị trường mở. Từ tháng 10/2008, nhằm tạo điều
kiện cho các TCTD giảm lãi suất cho vay, duy trì tăng trưởng bền vững, NHNN đã
cho phép các TCTD được sử dụng tín phiếu bắt buộc để tham gia giao dịch trong
các nghiệp vụ tái cấp vốn, thị trường mở và được rút trước hạn theo yêu cầu.
Trong năm 2010, góp phần trong các kết quả khả quan của kinh tế cả nước,
15
NHNN đã điều hành CSTT chủ động, linh hoạt và thận trọng, phù hợp với Nghị
quyết Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ và bám sát tình hình thực tế, góp phần
quan trọng để thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô
Tuy nhiên, năm 2011, trước dự báo của các tổ chức quốc tế về tình hình kinh
tế thế giới tăng trưởng không mấy khả quan, thậm chí còn có thể chậm hơn năm
2010, bất ổn kinh tế vĩ mô và biến động phức tạp của thị trường tài chính tiền tệ
toàn cầu dự kiến tiếp tục gây khó khăn cho quá trình phục hồi kinh tế thế giới.
Trong khi, kinh tế trong nước đang phải đối mặt với những vấn đề nan giải như
lạm phát, nhập siêu ở mức cao, tình trạng đô-la hóa trong nền kinh tế, một số bộ
phận của khu vực tài chính (thị trường bất động sản, chứng khoán, ngoại hối )
diễn biến còn phức tạp Để tháo gỡ dần các khó khăn đó, đồng thời góp phần
thực hiện thành công Nghị quyết số 51/2010/QH12 ngày 8/11/2010 của Quốc hội
về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011, ngay từ đầu năm, Chính phủ chỉ
đạo sát sao các Bộ, ngành chức năng trong nền kinh tế, đặc biệt là ngành ngân
hàng tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.
Chủ trương của Chính phủ được thể hiện rõ nét thông qua Nghị quyết 02/NQ-CP

ngày 09/01/2011 của Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo
số 15/TB-VPCP ngày 14/02/2011 về điều hành CSTT và đặc biệt là Nghị quyết
11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ.
Trên cơ sở đó, ngay từ đầu năm 2011, NHNN đã xác định mục tiêu định
hướng trong việc điều hành CSTT là điều hành CSTT chủ động, linh hoạt và thận
trọng nhằm mục tiêu hàng đầu là kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, góp
phần tăng trưởng kinh tế. Các công cụ CSTT và các biện pháp điều hành được
thực hiện phù hợp với quy định của Luật NHNN, chỉ đạo của Chính phủ và điều
kiện thực tế của thị trường tài chính - tiền tệ.
Quán triệt tinh thần đó, ngay từ những tháng đầu năm 2011, NHNN đã quyết
liệt trong việc thay đổi chính sách điều hành, đặc biệt trong lĩnh vực quản lý ngoại
hối, công cụ lãi suất. Đồng thời cũng rất chủ động, linh hoạt trong công tác quản
lý, nhằm đảm bảo tính kịp thời, thích ứng của các chính sách ban hành phù hợp
với thực tế và chỉ đạo của Chính phủ trong từng giai đoạn. Chính vì vậy cho đến
16
thời điểm này, sau gần nửa năm thực hiện Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ,
thông qua công tác điều hành CSTT, NHNN Việt Nam cũng đã đạt được những
kết quả đáng ghi nhận, đảm bảo sự ổn định, tính thông suốt của thị trường tiền tệ,
kiểm soát được lãi suất, mức tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán
theo mục tiêu đã đề ra.
Một là, nâng cao tính hiệu quả của công cụ lãi suất (đặc biệt là lãi suất tái
cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất trên thị trường mở - OMO), kết hợp hài
hòa với các công cụ gián tiếp nhằm đảm bảo tính thanh khoản trong hệ thống,
kiểm soát được sức ép gia tăng lãi suất.
Nếu như trong năm 2008, để kiểm soát lạm phát, hạ nhiệt thị trường tín
dụng, lãi suất cơ bản được sử dụng như là công cụ chính yếu với tần suất và mức
độ điều chỉnh lớn, thì trong những tháng đầu năm 2011, để phù hợp với tinh thần
của Luật NHNN ban hành năm 2010 chủ yếu sử dụng lãi suất cơ bản làm công cụ
chống cho vay nặng lãi nên NHNN đã liên tục điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn
và lãi suất tái chiết khấu. Cho đến thời điểm này, NHNN đã 4 lần điều chỉnh tăng

đối với lãi suất tái cấp vốn và 3 lần điều chỉnh tăng đối với lãi suất tái chiết khấu
kể từ đầu năm 2011. Hiện tại, lãi suất tái cấp vốn là 14% và lãi suất tái chiết khấu
lên mức 13%.
Đồ thị 2.2
Diễn biến CPI, lãi suất huy động, cho vay (bình quân)
danh nghĩa và thực tế 6 tháng đầu năm 2011
17
Xu hướng điều hành này là một bước tiến tích cực của NHNN trong công tác
điều hành lãi suất, từng bước cơ cấu lại các mức lãi suất cho phù hợp với thông lệ
quốc tế, giúp cho NHNN thực hiện tốt hơn vai trò người cho vay cuối cùng của
mình, cũng như ngăn chặn được sự ỷ lại và lạm dụng nguồn vốn giá rẻ của một số
NHTM từ NHNN. Đồng thời, các mức lãi suất này cũng đã phát được tín hiệu
điều hành CSTT của NHNN, thực hiện tương đối tốt vai trò là lãi suất định hướng
trên thị trường (lãi suất trên thị trường OMO dao động bình quân trong khoảng 13
- 14%; lãi suất trên thị trường liên ngân hàng dao động từ 12 - 13,18%). Nhờ đó
mà hoạt động điều tiết thị trường của NHNN qua thị trường mở trong những tháng
đầu năm vận hành tương đối trôi chảy, giữ vững được thanh khoản cả hệ thống,
kết hợp hài hòa giữa thị trường và quản lý. Thành công đầu tiên phải kể đến đó là
hiện tại NHNN đã hút về gần hết lượng tiền cung ứng phục vụ Tết Nguyên đán
(toàn bộ lượng tiền cung ứng cho dịp Tết khoảng 130 nghìn tỷ đồng đã được
NHNN rút về hơn 100 nghìn tỷ đồng) khi mà lượng tiền gửi dịp Tết 2011 tăng
mạnh so với Tết 2010, NHNN đã quyết định tăng mức tiền mặt ra lưu thông và
chuyển tiền đến những khu vực có nhu cầu lớn.
Đồ thị 2.3
Diễn biến lãi suất VNĐ một số kỳ hạn trên thị trường liên ngân hàng năm 2010
và 6 tháng đầu năm 2011
18
Nguồn: Nguyễn Thị Kinh Thanh, Viện Chiến lược Ngân hàng NHNN
Bên cạnh việc điều hành lãi suất nội tệ, NHNN cũng đã chủ động trong việc
điều hành lãi suất ngoại tệ theo nguyên tắc góp phần đảm bảo mức ngang giá của

đồng nội tệ và ngoại tệ trong nền kinh tế, góp phần đảm bảo sự ổn định của tỷ giá,
tạo niềm tin vào giá trị đồng nội tệ. Tinh thần đó được thể hiện rõ nét qua Thông
tư số 14/2011/TT-NHNN ngày 1/6/2011 giảm mức trần lãi suất huy động USD
của cá nhân từ mức 3% xuống 2%, của tổ chức từ 1% xuống 0,5%.
Các biện pháp điều hành công cụ lãi suất trong nửa đầu năm cho thấy,
NHNN đã kiên quyết bảo vệ quan điểm sử dụng các biện pháp quyết liệt để giảm
tổng cầu, kiểm soát lạm phát. Trong đó, NHNN đã điều hành tăng các lãi suất chủ
đạo nhằm tác động vào thị trường theo hướng thu hút được tiền vào hệ thống, và
chọn lọc các dự án cho vay có hiệu quả.
Tuy nhiên, việc điều chỉnh tăng các lãi suất điều hành này đã tác động nhất
định ( không lớn) đến việc tăng của lãi suất huy động và cho vay trong nền kinh
tế. Xác định được tác động bất lợi này, cùng với những hành vi cạnh tranh tăng lãi
suất để chiếm giữ thị phần của các NHTM (các hành vi này có thể gây mất an toàn
hệ thống), NHNN đã chủ động đưa ra các biện pháp quản lý chặt chẽ, cụ thể là ban
hành Thông tư số 02/2011/TT-NHNN ngày 03/3/2011 quy định lãi suất huy động
bằng VNĐ của các tổ chức tín dụng (TCTD) không vượt quá 14%/năm; Thông tư
số 04/2011/TT-NHNN ngày 10/3/2011 quy định TCTD áp dụng lãi suất tối đa
bằng mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn thấp nhất của TCTD theo từng đồng tiền
trong trường hợp tổ chức, cá nhân rút tiền gửi trước hạn
Việc quy định này đã ngăn chặn được đà tăng của lãi suất huy động, song
bước sang những tháng của Quý II/2011, làn sóng tăng lãi suất huy động lại âm ỉ
tăng dưới nhiều hình thức khuyến mại. Lãi suất đầu vào tăng sẽ tác động làm lãi
suất đầu ra gia tăng và nếu không được kiểm soát kịp thời thì sẽ có tác động xấu
đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế của đất nước. Trước thực tế đó, NHNN đã tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành chủ trương duy trì trần lãi suất
19
huy động và nghiêm túc xử lý các TCTD vi phạm quy định này. Hiện tại, lãi suất
cho vay VNĐ bình quân thực tế khoảng 18,3%/năm (tăng thêm 2%/năm so với lãi
suất bình quân 16,23% của quý I, tăng 3%/năm so với cuối năm 2010); trong đó
lãi suất cho vay nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu 16,5 -17%/năm; đối với các

lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác từ 18 - 20%/năm; đối với lĩnh vực phi sản xuất
từ 22 - 25%/năm.
Nhìn chung, mặt bằng lãi suất trên vẫn được đánh giá là còn cao, tuy nhiên
trong bối cảnh hiện này, khi lạm phát ở mức cao thì thực tế này là một điều không
thể tránh khỏi, và điều đó cũng đã được Chính phủ nhận định rõ trong Nghị quyết
số 83 về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 5/2011: lãi suất cao tác động đến
sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp và hộ gia đình là điều không thể tránh
khỏi. Bởi không có quốc gia nào lạm phát cao mà lãi suất lại thấp cả. Để giảm
tổng cầu thì lãi suất phải cao, phải giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng. Và NHNN
chỉ có thể sử dụng các công cụ điều hành để tác động giảm dần lãi suất theo hướng
đạt được sự ổn định tương đối vững chắc khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) giảm dần.
Hai là, điều hành tỷ giá ổn định, linh hoạt phù hợp với diễn biến của thị
trường, tăng cường quản lý ngoại hối tập trung, đảm bảo tính thanh khoản
ngoại tệ, tăng dự trữ ngoại hối; Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng,
thị trường vàng trong nước theo sát thị trường vàng thế giới.
Công tác quản lý ngoại hối trong thời gian qua được đánh giá là có những
bước chuyển biến lớn, đã thể hiện sự chủ động của NHNN trong công tác đón đầu
những rủi ro tiềm ẩn của thị trường ngoại hối. Quyết định số 230/2011/QĐ-NHNN
điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng nhằm thực hiện Nghị quyết số 02/NQ-
CP về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội năm 2011 và nhằm tăng tính thanh khoản của thị trường ngoại hối
được nhìn nhận là văn bản pháp lý ngoại hối quan trọng đầu tiên, tạo bước ngoặt
cho xu hướng tỷ giá USD/VNĐ trong nửa đầu năm 2011. Theo đó, tỷ giá
USD/VNĐ được điều chỉnh tăng mạnh (giảm giá VNĐ) 9,3% từ 18.932 đồng/1
USD lên 20.693 đồng/1 USD; biên độ giao dịch giảm từ ± 3% xuống ± 1%. Đồng
thời, cơ chế điều hành tỷ giá mới được áp dụng: NHNN sẽ điều hành tỷ giá bình
20
quân liên ngân hàng tương đối linh hoạt trong thời gian tới.
Với quyết định này của NHNN, tình trạng đứng yên của tỷ giá chính thức
trong suốt gần 6 tháng ở mức 18.932 đồng/1 USD xác lập từ ngày 18/8/2010 đã

chấm dứt. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng đã phản ánh sát hơn diễn biến trên thị
trường ngoại hối. Nhờ đó, tỷ giá trên thị trường tự do đã giảm nhiệt, chênh lệch
thu hẹp dần từ 1.500 đồng/1 USD thời điểm đầu năm xuống còn 500 đồng/1 USD
vào tuần đầu tháng 3/2011, và hiện tại chênh lệch tỷ giá giữa hai thị trường chỉ còn
là khoảng 30 – 50 đồng/ 1 USD. Hoạt động mua bán trên thị trường chợ đen mặc
dù vẫn chưa bị xóa bỏ hoàn toàn song việc mua bán đã dần được tập trung tại hệ
thống các NHTM.
Không chỉ điều hành để ổn định tỷ giá, các giải pháp chính sách quản lý
ngoại hối còn tập trung giảm thiểu dần hiện tượng đô-la hóa trong nền kinh tế. Bắt
đầu từ tháng 3/2011, NHNN và các cơ quan chức năng có liên quan đã thực hiện
các biện pháp tăng cường giám sát, kiểm tra và xử lý các điểm kinh doanh ngoại tệ
trái phép, làm hoạt động mua - bán ngoại tệ trên thị trường tự do giảm mạnh và
nhiều điểm mua - bán USD đã phải ngưng giao dịch. Bên cạnh đó, để đáp ứng nhu
cầu ngoại tệ hợp pháp của người dân, NHNN đã có văn bản số 2033/2011/NHNN-
QLNH yêu cầu các TCTD được phép hoạt động ngoại hối chỉ đạo toàn hệ thống
tăng cường hoạt động mở thẻ thanh toán quốc tế và chủ động bán ngoại tệ tiền mặt
để đáp ứng các nhu cầu hợp pháp như đi công tác, học tập, chữa bệnh… của cá
nhân theo các quy định của pháp luật. Đồng thời, ngày 29/4/2011, NHNN cũng đã
ban hành Thông tư số 11/2011/TT-NHNN quy định về chấm dứt huy động và cho
vay vốn bằng vàng của TCTD.
Mặc dù diễn biến thị trường ngoại hối là ổn định nhưng để tăng cường tính
chủ động trong công tác điều hành chính sách tỷ giá trong điều kiện nhập siêu còn
lớn, lạm phát gia tăng, vốn FDI có xu hướng giảm,… cuối tháng 5/2011, NHNN
đã ban hành những chính sách mới với kỳ vọng là sẽ hỗ trợ tốt cho công tác điều
hành CSTT để kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô
theo chủ trương của Chính phủ, tiếp tục duy trì được sự ổn định cho tỷ giá, tăng
cường dự trữ ngoại hối, giảm mức độ đô-la hóa, cụ thể gồm có:
21
+ Thông tư số 13/2011/TT-NHNN ngày 31/5/2011 quy định các tập đoàn,
tổng công ty nhà nước có nghĩa vụ bán ngoại tệ cho TCTD được phép hoạt động

ngoại hối theo quy định của pháp luật từ ngày 1/7/2011.
+ Quyết định số 1209/2011/QĐ-NHNN ngày 1/6/2011 điều chỉnh tăng 1% tỷ
lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ, áp dụng kể từ kỳ duy trì dự trữ bắt
buộc tháng 6/2011.
+ Thông tư số 14/2011/TT-NHNN ngày 1/6/2011 giảm mức trần lãi suất huy
động USD của cá nhân từ mức 3% xuống 2%, của tổ chức từ 1% xuống 0,5%.
+ Trong Quý II/2011 trình Chính phủ ban hành Nghị định về quản lý hoạt
động kinh doanh vàng theo hướng tập trung đầu mối nhập khẩu vàng, tiến tới xóa
bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do; ngăn chặn hiệu quả các hoạt
động buôn lậu vàng qua biên giới.
Ba là, Quyết tâm thực hiện hiệu quả công cụ hạn mức tín dụng, hạn chế
cung tiền thông qua kênh tín dụng, kết hợp hài hòa với công cụ lãi suất nhằm
thực hiện mục tiêu giảm tổng cầu theo tinh thần của Nghị quyết 11
Quyết tâm đó được thể hiện rõ nét thông qua các mục tiêu cụ thể để kiểm
soát tín dụng trong Chỉ thị 01/CT-NHNN ngày 01/3/2011 về thực hiện giải pháp
tiền tệ và hoạt động ngân hàng, cụ thể là:
- Kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng trưởng tín dụng dưới 20% (Từ đầu năm đến
nay, xu hướng gia tăng của lạm phát khó có dấu hiệu dừng nên mục tiêu tốc độ
tăng trưởng tín dụng đã được điều chỉnh giảm từ 23% xuống còn 20%).
- Điều chỉnh cơ cấu tín dụng, tập trung vốn phát triển sản xuất kinh doanh,
nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa;
giảm tốc độ và tỷ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất trong tổng dư nợ
xuống mức 22% đến 30/6/2011 và 16% đến 31/12/2011.
Bên cạnh đó, nhằm hỗ trợ mục tiêu tập trung vốn vay cho phát triển sản xuất
kinh doanh và nông nghiệp, đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng, NHNN còn
ban hành 02 Thông tư số 07/2011/TT-NHNN ngày 24/3/2011 về hoạt động cho
vay bằng ngoại tệ của TCTD đối với khách hàng vay là người cư trú và số
08/2011/TT-NHNN ngày 08/4/2011 hướng dẫn chi tiết về tín dụng kinh doanh
22

×