i
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1
DANH MỤC CÁC BẢNG 2
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ 2
MỞ ĐẦU 3
1. Lý do chọn đề tài 3
2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn 5
3. Câu hỏi nghiên cứu 6
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 6
5. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu 7
6. Giả thuyết và mô hình khung lý thuyết 8
7. Phương pháp nghiên cứu 10
NỘI DUNG CHÍNH 13
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 13
1.1. Cơ sở lý luận 13
1.1.1. Những lý thuyết XHH được vận dụng trong đề tài. 13
1.1.2. Một số khái niệm công cụ của đề tài 18
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài 23
1.2.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về dân tộc và chính sách xóa đói giảm
nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số 23
1.2.2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu 27
1.2.3. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu 30
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH 134 VÀ 135 TẠI XÃ
MALYPHO, HUYỆN PHONG THỔ, TỈNH LAI CHÂU 33
2.1. Khái quát nội dung chính của chính sách 134 và 135 33
2.2. Mục tiêu thực hiện chính sách tại địa phương 37
2.3. Thực trạng tổ chức, triển khai thực hiện các chính sách 41
2.4. Những khó khăn và thuận lợi trong quá trình thực hiện 46
ii
CHƯƠNG 3: NHỮNG THAY ĐỔI TRONG ĐỜI SỐNG ĐỒNG BÀO CÁC DÂN
TỘC THIỂU SỐ TẠI XÃ MALYPHO, HUYỆN PHONG THỔ, TỈNH LAI CHÂU
DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH 134, 135 52
3.1. Sự thay đổi trong đời sống vật chất 52
3.1.1. Cơ sở hạ tầng 52
3.1.2. Ngành nghề và thu nhập 59
3.1.3. Tiện nghi sinh hoạt 68
3.2. Sự thay đổi trong đời sống tinh thần và môi trường 72
3.2.1. Giáo dục 72
3.2.2. Môi trường và chăm sóc sức khỏe 77
3.2.3. Sinh hoạt văn hóa 85
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 89
1. Kết luận 89
2. Khuyến nghị ……… 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO 97
PHỤ LỤC 100
1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CSDT
Chính sách dân tộc
DTTS
Dân tộc thiểu số
ĐBKK
Đặc biệt khó khăn
THPT
Trung học phổ thông
THCS
Trung học cơ sở
UBND
Ủy ban nhân dân
XĐGN
Xóa đói giảm nghèo
XHH
Xã hội học
2
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Các hộ nghèo tại xã được hưởng lợi từ chính sách 134 38
Bảng 2.2: Hỗ trợ đất sản xuất cho các hộ dân trong xã Malypho 42
Bảng 2.3: Hỗ trợ xây dựng công trình nước sinh hoạt phân tán 42
Bảng 3.1: Đánh giá của người dân về cơ sở hạ tầng so với trước năm 2006 59
Bảng 3.2: Tương quan giữa nghề nghiệp và thu nhập bình quân đầu người 62
Bảng 3.3: Tương quan giữa dân tộc và thu nhập bình quân đầu người 63
Bảng 3.4: Tương quan giữa trình độ học vấn và thu nhập 64
Bảng 3.5: Mục đích sử dụng vốn vay của các hộ dân 67
Bảng 3.6: So sánh việc sở hữu tiện nghi sinh hoạt trước và sau khi có CS 68
Bảng 3.7: Tương quan giữa thu nhập bình quân đầu người với sử dụng các tiện
nghi sinh hoạt hiện nay 69
Bảng 3.8: Tương quan giữa dân tộc và sở hữu tiện nghi sinh hoạt 70
Bảng 3.9: Đánh giá về điều kiện giáo dục hiện nay so với trước kia 74
Bảng 3.10: Loại nhà vệ sinh gia đình sử dụng 83
Bảng 3.11: Tương quan giữa thu nhập bình quân đầu người với loại hình nhà vệ
sinh gia đình sử dụng 84
Bảng 3.12: Hoạt động của người dân trong thời gian rảnh rỗi 86
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu 3.1: Điều kiện nhà ở của người dân trước và sau khi có chính sách 58
Biểu 3.2: Địa điểm khám bệnh của người dân trước và sau khi có chính sách 79
Biểu 3.3: Nguồn nước uống của gia đình 82
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhân loại đã bước sang thế kỷ 21 và đã đạt được nhiều tiến bộ vượt bậc trên
nhiều lĩnh vực như khoa học công nghệ, phát triển kinh tế, nhưng vẫn phải đối mặt
với một thực trạng nhức nhối, nạn đói nghèo vẫn còn chiếm một tỉ lệ đáng kể ở
nhiều nước mà nổi bật là ở những quốc gia đang phát triển. Ở Việt Nam từ khi có
đường lối đổi mới, chuyển sang kinh tế thị trường trong sản xuất nông nghiệp thực
hiện giao khoán đến hộ đã nhảy vọt từ nước đang thiếu lương thực vươn lên thành
một trong ba nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới từ đó đến nay, tốc độ tăng
trưởng hàng năm đều ở mức cao, nhưng đồng thời cũng phải đương đầu với vấn
đề phân hoá giàu nghèo, hố ngăn cách giữa bộ phận dân cư giàu và nghèo đang có
chiều hướng mở rộng nhất là giữa các vùng có điều kiện thuận lợi so với những
vùng khó khăn, trình độ dân trí thấp như vùng sâu vùng xa.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra ba nhiệm vụ cấp bách của nhà
nước ta cần phải giải quyết, đó là: Giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Trong đó,
Người đặt việc giải quyết “giặc đói” lên hàng đầu, vì dân tộc ta đánh đổ đế quốc,
phong kiến để đem lại cơm ăn, áo mặc, học hành cho người dân nếu không
giải quyết được vấn đề này thì độc lập cũng không có ý nghĩa gì.
Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước ta đã nỗ
lực quyết tâm xoá đói, giảm nghèo. Xoá đói, giảm nghèo là một chủ trương lớn,
một quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước, là sự nghiệp cách mạng của toàn
dân, nhất là ở địa phương, cơ sở, là hướng ưu tiên trong toàn bộ các chính sách
kinh tế và xã hội của đất nước, vì nếu không giải quyết được vấn đề nghèo đói sẽ
không giải quyết được bất kỳ một mục tiêu nào của dân tộc ta đặt ra, như: hoà
bình, ổn định, công bằng xã hội Trong nhiều năm qua, mặc dù ngân sách nhà
nước còn hạn hẹp, song Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện quyết tâm cao đối với
4
công tác xoá đói, giảm nghèo trên các địa bàn khó khăn của cả nước, đặc biệt là
các vùng DTTS ở Tây Bắc, Nam Trung bộ, Tây Nguyên, Tây Nam bộ. Thực
hiện quan điểm trên của Đảng, Chính phủ đã giành nhiều nguồn lực cho XĐGN
thông qua các chương trình dự án lớn, như: Chương trình phát triển kinh tế - xã
hội các xã ĐBKK miền núi và vùng sâu, vùng xa (Chương trình 135); Chương
trình về định hướng kế hoạch phát triển các vùng Tây Nguyên (Chương trình
168); Chương trình phát triển vùng đặc biệt khó khăn 6 tỉnh miền núi phía Bắc
(Chương trình 186) và Quyết định 134/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ
đồng bào nghèo, đời sống khó khăn
Thành tựu XĐGN trong những năm qua đã góp phần tăng trưởng kinh tế và
được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Tỷ lệ nghèo chung trên toàn quốc đã giảm
liên tục từ 58% vào năm 1993 xuống 37% sau năm năm, tỷ lệ này tiếp tục giảm
xuống 29% vào năm 2002. Như vậy gần một phần ba dân số, tương đương với
trên 20 triệu người đã thoát nghèo trong vòng chưa đầy mười năm. Tuy nhiên, kết
quả giảm nghèo chưa vững chắc, chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, nhóm
dân cư không những không được thu hẹp mà lại càng tăng lên, đặc biệt là những
vùng khó khăn, trình độ dân trí thấp như vùng núi, vùng sâu vùng xa. Tỷ lệ người
nghèo là người dân tộc thiểu số lại tăng lên từ 20% năm 1993 lên hơn 30% trong
tổng số người nghèo ở Việt Nam trong năm 2002 [17, tr.32].
Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đến cuối
năm 2006, cả nước có 61 huyện (gồm 797 xã và thị trấn) thuộc 20 tỉnh có tỷ lệ hộ
nghèo trên 50%. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách và dành nhiều
nguồn lực để ưu tiên phát triển vùng này, nhưng mức độ chuyển biến còn chậm,
đời sống của đồng bào DTTS vẫn còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo là người dân
tộc thiểu số cao gấp 3,5 lần bình quân cả nước [6, tr. 1].
5
Như vậy, bên cạnh những kết quả đạt được, chính sách XĐGN đối với DTTS
nói chung và đối với dân tộc thiểu số trên địa bàn ĐBKK nói riêng còn bộc lộ nhiều
hạn chế, mặc dù nhận được một số ưu tiên cao về mặt chính sách, nhưng nhiều
cộng đồng DTTS trên các địa bàn đặc biệt khó khăn vẫn chưa thoát ra khỏi tình
trạng khó khăn vốn có của mình. Kết quả thực hiện chính sách còn thiếu tính bền
vững và chưa thật sự đi vào đời sống. Mức thụ hưởng của người dân từ kết quả
chính sách mang lại còn thấp
Do vậy, trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO và quá trình toàn cầu hóa
diễn ra mạnh mẽ thì việc nghiên cứu, phân tích tác động của chính sách tới vùng
DTTS là hoạt động khoa học, thực tiễn hết sức cần thiết nhằm góp phần tiếp tục đổi
mới tư duy hoạch định, xây dựng CSDT, từng bước giảm thiểu thách thức, tăng cơ
hội hội nhập và phát triển của các DTTS trong xu thế phát triển mới của đất nước.
Với các lý do trên, tôi chọn đề tài : “
-
chính sách 134, ho -
h - t làm đề tài luận văn thạc sĩ. Tác giả mong
muốn góp một phần nhỏ bé vào việc làm sáng tỏ mức độ thay đổi đời sống kinh tế
- xã hội các đồng bào DTTS dưới tác động của chính sách xóa đói giảm nghèo từ
đó đề xuất một số nội dung đổi mới, hoàn thiện nhằm nâng cao chất lượng của hệ
thống chính sách XĐGN đối với các DTTS tại địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội
ĐBKK.
2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
2.1. Ý nghĩa khoa học.
Nghiên cứu đề tài: “
-
nchính - h
6
- t có một ý nghĩa khoa học nhất định. Trước hết, nghiên cứu
góp phần đem lại cơ sở khoa học cho việc hoạch định và hoàn thiện những chính
sách của nhà nước về XĐGN. Đồng thời qua đề tài này người nghiên cứu có cơ
hội áp dụng những kiến thức lí luận, những lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
xã hội học đã được học vào thực tế.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thông qua các kết quả nghiên cứu, đề tài góp phần giúp các nhà quản lý,
các cấp, các ngành, các tổ chức có cái nhìn đúng đắn, toàn diện hơn về những tác
động của các chính sách đang được triển khai tại địa phương, những khó khăn và
thuận lợi, những kết quả đạt được và những mặt còn hạn chế.
3. Câu hỏi nghiên cứu
Việc thực hiện các hoạt động của chính sách 134, 135 tại địa phương đã
đạt được những kết quả gì đối với đời sống vật chất và đời sống tinh thần của
người dân?
Những thuận lợi và khó khăn chính khi thực hiện các chính sách là gì?
Liệu các kết quả XĐGN tại địa phương có tính bền vững không?
Làm thế nào để chính sách XĐGN đối với đồng bào DTTS đạt hiệu quả
cao hơn?
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tiến hành nghiên cứu, phân tích, đánh giá tác động của chính sách
xóa đói giảm nghèo đến đời sống các dân tộc thiểu số tại xã Ma ly pho- huyện
Phong Thổ- tỉnh Lai Châu. Từ đó đề xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả của việc triển khai các chính sách đối với các đồng bào DTTS tại
địa bàn nghiên cứu.
7
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khái quát việc thực hiện chính sách XĐGN tại địa bàn nghiên cứu qua
việc tìm hiểu mục tiêu thực hiện chính sách; tình hình tổ chức, triển khai thực hiện
chính sách tại địa phương và những khó khăn và thuận lợi trong quá trình thực
hiện
Đánh giá kết quả thực hiện chính sách ở địa phương qua việc so sánh hiện
trạng đời sống của đồng bào DTTS hiện nay so với trước khi thực hiện chính sách,
ở các khía cạnh:
+: Được xem xét qua các tiêu chí và sự phát
triển về cơ sở hạ tầng, ngành nghề, thu nhập và tiện nghi sinh hoạt
+ Được xem xét qua các tiêu
chí về sự phát triển giáo dục, môi trường, chăm sóc sức khỏe và sinh hoạt văn hóa
Đề xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả và tính bền vững của
các chính sách XĐGN trong thời gian tới.
5. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Tác động của chính sách xóa đói giảm nghèo đến đời sống các dân tộc thiểu
số thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn
5.2. Khách thể nghiên cứu
Cộng đồng dân tộc dân tộc thiểu số và chính quyền địa phương thuộc địa bàn
xã Malypho - huyện Phong Thổ- tỉnh Lai Châu
5.3. Phạm vi nghiên cứu
: Đề tài được thực hiện tại xã Malypho - huyện
Phong Thổ- tỉnh Lai Châu
5.3.2. : Đề tài được thực hiện từ tháng 11 năm 2010 đến
tháng 10 năm 2011.
8
dung: Đề tài tập trung nghiên cứu sự thay đổi trong đời
sống vật chất và đời sống tinh thần của người DTTS dưới tác động của việc thực
hiện chính sách 134 và 135 tại địa phương
6. Giả thuyết và mô hình khung lý thuyết
Chính sách 134, 135 đã tác động lớn đến đời sống vật chất, đời sống tinh
thần và môi trường của đồng bào DTTS tại địa phương. Đời sống vật chất, đời sống
tinh thần và môi trường của đồng bào đã có nhiều biến đổi mang tính tích cực hơn
về cơ sở hạ tầng, thu nhập, nghề nghiệp, tiện nghi sinh hoạt, giáo dục, chăm sóc sức
khỏe và sinh hoạt văn hóa so với trước đây. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều yếu tố
không đảm bảo tính bền vững.
Kết quả tổ chức thực hiện chính sách XĐGN trước đó tại các địa phương
và sự quan tâm của Đảng, Nhà nước dành ưu tiên nguồn lực đầu tư là những thuận
lợi chính đối với địa phương trong quá trình thực hiện chính sách. Tuy vậy, điều
kiện tự nhiên không mấy thuận lợi, năng lực thực hiện của chính quyền địa
phương và tính thích ứng của người dân hưởng lợi từ chính sách là những khó
khăn chính trong quá trình thực hiện chính sách XĐGN đối với đồng bào DTTS.
9
6.2 Mô hình khung lý thuyết:
Sự thay đổi trong đời sống đồng bào
dân tộc thiểu số
Những thay đổi trong đời sống
tinh thần và môi trường:
Giáo dục
Môi trường và chăm sóc sức
khỏe
Sinh hoạt văn hóa
Những thay đổi trong đời
sống vật chất:
Cơ sở hạ tầng
Ngành nghề và thu nhập
Tiện nghi sinh hoạt
Thực trạng thực hiện chính sách xóa đói
giảm nghèo
Điều kiện KT- CT- VH - XH của địa phương
10
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp luận
t để tiếp cận
và phân tích tác động của chính sách XĐGN đối với các DTTS thuộc địa bàn
ĐBKK ở nước ta với tư cách là một hiện tượng kinh tế xã hội ra đời và vận hành
trong một bối cảnh lịch sử cụ thể, có tính chất hệ thống; các yếu tố cấu thành
chính sách quan hệ và tác động biện chứng với nhau. Trên cơ sở đó nhìn ra quy
luật vận động của nó.
7.2. Phương pháp thu thập thông tin
Để tiếp cận nghiên cứu đạt kết quả đặt ra, luận văn đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu xã hội học để thu thập các thông tin sống động từ thực tiễn, phục
vụ cho các yêu cầu chính của nội dung đề tài đặt ra. Đồng thời kết hợp với tiếp cận
nghiên cứu theo phương pháp phân tích tài liệu nhằm kế thừa các thành quả nghiên
cứu trước đây.
Cụ thể là sử dụng những kỹ thuật thu thập thông tin sau:
Đề tài thu thập thông tin định lượng bằng bảng hỏi với 200 hộ dân, tiến hành
ở xã Malypho thuộc huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu.
Dung lượng mẫu
Đề tài áp dụng . Đây là phương
pháp chọn mẫu bằng cách lấy ngẫu nhiên một đơn vị đầu tiên sau đó các đơn vị tiếp
theo được chọn theo hệ thống. Áp dụng công thức chọn mẫu ngẫu nhiên k = N/n,
Trên cơ sở
danh sách hộ gia đình của xã Malypho (360 hộ), được đánh số ngẫu nhiên, trung
bình cứ 2 hộ thì chọn 1 hộ để nghiên cứu. Trong hộ gia đình, ta chọn đại diện một
11
người là chủ hộ gia đình hoặc là người đóng vai trò chính trong các quyết định của
gia đình
Người nghiên cứu tự nhận thấy rằng với cơ cấu mẫu như trong nghiên cứu
này thì chưa thể suy rộng nếu xét trên phạm vị rộng của vấn đề nghiên cứu. Chính
vì vậy, nghiên cứu này chỉ xem xét vấn đề trong phạm vi hẹp với trường hợp tác
động của chính sách 134, 135 đối với đồng bào dân tộc thiểu số tại xã Ma Ly Pho.
Cơ cấu mẫu khảo sát
Số người
Tỷ lệ (%)
Giới tính
Nam
131
65.5
Nữ
69
34.5
Trình độ học vấn
Trung cấp trở lên
5
2.5
THPT
11
5.5
THCS
51
25.5
Tiểu học
78
39
Mù chữ
55
27.5
Nghề nghiệp
Làm rẫy
147
73.5
Buôn bán kinh doanh
16
8.0
Viên chức nhà nước
12
6.0
Làm thuê
22
11
Nghề khác
3
1.5
Dân tộc
Kinh
13
6.5
Dao
144
72.0
Thái
25
12.5
Khơ mú
2
1.0
Hoa
16
8.0
12
Nhóm tuổi
Dưới 25 tuổi
23
11.5
Từ 25 đến dưới 35 tuổi
48
24.0
Từ 35 đến dưới 45 tuổi
61
30.5
Từ 45 đến dưới 55 tuổi
55
27.5
Trên 55 tuổi
13
6.5
Phương pháp phỏng vấn sâu: Đề tài tiến hành 11 cuộc phỏng vấn sâu trong
đó có chủ tịch xã và 02 trưởng bản để rà soát lại các chính sách xóa đói giảm nghèo
được thực hiện trong thời gian qua, những khó khăn, vướng mắc mà họ gặp phải
trong quá trình thực hiện…; phỏng vấn sâu 08 hộ dân trên địa bàn trong đó có 2
người dân tộc Kinh, 2 người dân tộc Hoa, 2 người dân tộc Dao, 1 người dân tộc
Thái và 1 người dân tộc Khơ mú để nắm bắt được người dân đã được thụ hưởng
những chính sách nào; mức sống của người dân so với trước đây ra sao, đánh giá
của họ về điều kiện cơ sở vật chất ở xã hiện nay, đồng thời tìm hiểu tâm tư, nguyện
vọng của họ đối với các cấp chính quyền địa phương và Trung ương khi ban hành
và thực thi các chính sách
Phương pháp quan sát: Sử dụng phương pháp quan sát để thu thập thông
tin về tình hình cơ sở hạ tầng ở địa phương, cơ sở vật chất và điều kiện sống của
người dân dưới tác động của các chính sách.
7
Được sử dụng để phân tích các công trình nghiên cứu liên quan, các chính
sách, các báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội từ năm
2005 đến năm 2010 của xã Malypho. Phương pháp phân tích hệ thống cho phép đi
sâu tìm hiểu những mặt ưu điểm và hạn chế của các chính sách từ nội dung văn bản
chính sách đến quá trình tổ chức triển khai chính sách.
13
NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Những lý thuyết xã hội học được vận dụng trong đề tài
Phát triển bền vững là khái niệm mới xuất hiện gần đây. Trong báo cáo của
Hội đồng Thế giới về Môi trường và Phát triển năm 1987, khái niệm phát triển bền
vững mới được sử dụng một cách chính thức trên quy mô quốc tế và được định
nghĩa như sau: “
mai sau”.
Hay nói cách khác: Đó là sự phát triển hài hòa cả về kinh tế, văn hóa, xã
hội, môi trường nhằm không ngừng nâng cao chất lượng sống của con người ở các
thế hệ hiện tại cũng như trong tương lai.
Nội dung cơ bản của phát triển bền vững có thể được đánh giá bằng những
tiêu chí nhất định về kinh tế, tình trạng xã hội, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và
chất lượng môi trường:
Phát triển bền vững về kinh tế đòi hỏi phải đảm bảo kết hợp hài hòa giữa
mục tiêu tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa – xã hội, cân đối tốc độ tăng
trưởng kinh tế với việc sử dụng các điều kiện nguồn lực, tài nguyên thiên nhiên,
khoa học, công nghệ, đặc biệt chú trọng phát triển công nghệ sạch.
Phát triển bền vững về xã hội là xây dựng một xã hội có nền kinh tế tăng
trưởng nhanh và ổn định đi đôi với dân chủ công bằng và tiến bộ xã hội, trong đó
giáo dục, đào tạo, y tế và phúc lợi xã hội phải được chăm lo đầy đủ và toàn diện
cho mọi đối tượng trong xã hội.
14
Phát triển bền vững về tài nguyên và môi trường là các dạng tài nguyên
thiên nhiên tái tạo được phải được sử dụng trong phạm vi chịu tải của chúng nhằm
khôi phục được cả về số lượng và chất lượng, các dạng tài nguyên không tái tạo
được phải được sử dụng tiết kiệm và hợp lý nhất. Môi trường tự nhiên (không khí,
đất, nước, cảnh quan thiên nhiên…) và môi trường xã hội (dân số, chất lượng dân
số, sức khỏe, môi trường sống, lao động và học tập của con người…) nhìn chung
không bị các hoạt động của con người làm ô nhiễm, suy thoái và tổn hại. Các
nguồn phế thải từ công nghiệp và sinh hoạt được xử lý, tái chế kịp thời, vệ sinh
môi trường được đảm bảo, con người được sống trong môi trường trong sạch…
Những tiêu chí nói trên là những điều kiện cần và đủ để đảm bảo sự phát
triển bền vững của một xã hội, nếu thiếu một trong những điều kiện đó thì sự phát
triển sẽ đứng trước nguy cơ mất bền vững.
Bởi vậy nghiên cứu đánh giá tác động của chính sách XĐGN đối với các
DTTS theo 3 nhóm tiêu chí của lý thuyết phát triển bền vững: (1) Sự tăng trưởng
kinh tế của các nhóm DTTS trên địa bàn ĐBKK. (2) Công bằng xã hội diễn ra như
thế nào khi các chính sách xã hội tác động vào các DTTS ở địa bàn ĐBKK. Quá
trình đó có làm sâu sắc thêm sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo trên địa bàn
và trong cộng đồng các dân tộc hay không. Nó có củng cố các khối đại đoàn kết
các dân tộc hay là gây ra mâu thuẫn dân tộc. (3) Các chính sách đó có tác động gì
đến môi trường tự nhiên, tạo ra các sự cố thiên tai và môi trường. Các chính sách
tác động gì đến phong tục tập quán và nếp sống của cộng đồng, của các hộ gia đình
của các dân tộc thuộc địa bàn ĐBKK.
Theo Mathus, người được coi là ông tổ của dân số học hiện đại, nghèo khổ
là do hai yếu tố chính gây ra: một là năng suất lao động tăng chậm, hai là dân số
tăng nhanh. Ông chỉ ra quy luật của mối tương quan này là: dân số tăng theo cấp
15
số nhân còn sản xuất tăng theo cấp số cộng, do vậy các phương tiện sống được sản
xuất ra không đủ để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng dân số tăng rất nhanh đó.
Karl Marx nhấn mạnh nguyên nhân của sự nghèo khổ ở trong cách tổ chức
đời sống sản xuất của con người. Do sự phân công lao động, sự phân chia giai cấp,
sự áp bức và bóc lột người nên trong xã hội có sự bất bình đẳng với một thiểu số
người thống trị đa số người khác, trong đó có nhiều người rơi vào cảnh nghèo khổ.
Vấn đề đặt ra là phải biến đổi phương thức sản xuất và cấu trúc xã hội theo hướng
tạo ra sự cân bằng, bình đẳng, tự do cho mọi người.
Một hướng nghiên cứu khác tập trung vào tìm kiếm nguyên nhân sự nghèo
khổ trong việc tạo cơ hội, phát triển năng lực và khả năng giảm nguy cơ bị tổn
thương của các nhóm xã hội trong kinh tế thị trường. Những đại diện tiêu biểu cho
nghiên cứu này là Amartya Sen, Joseph Stiglitz và các đồng sự. Nguyên nhân của
sự nghèo khổ là sự hạn chế các điều kiện sản xuất kinh doanh, thiếu quyền lực, sự
hạn chế quyền tự do và năng lực yếu kém của các cá nhân, các nhóm xã hội trong
việc thực hiện các quyền và thiếu khả năng, cơ hội tham gia vào các quá trình phát
triển kinh tế xã hội trong nước và quốc tế. [13, tr. 234-235]
Tính chất phức tạp của mối quan hệ nhân quả và nhất là mối liên hệ nhiều
chiều giữa các yếu tố của sự nghèo khổ tạo thành một vòng lẩn quẩn nghèo khổ
hay cái bẫy nghèo khổ. Thực chất, đó là cách gọi một mạng lưới gồm nhiều yếu
tố, có mối tương tác chặt chẽ với nhau đến mức chỉ cần vướng vào một mối quan
hệ nào đó là đủ để người ta bị rơi vào tình cảnh nghèo khổ như rơi vào một cái bẫy
khó thoát ra được.
Bẫy nghèo khổ được mô tả trong sơ đồ sau đây chỉ là nhấn mạnh bốn yếu tố
chủ yếu - thiếu quyền lực, dễ bị tổn thương, ốm yếu, cô lập. Trên thực tế, số lượng
các mắt xích của bẫy nghèo khổ có thể kéo dài, bao gồm các yếu tố như học vấn
thấp, thất nghiệp, mất mùa, thiên tai, bệnh dịch và nhiều yếu tố khác nữa, tùy
thuộc vào tình huống xã hội cụ thể.
16
Điều có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn là việc phân
tích xã hội học kinh tế về sự nghèo khổ sẽ làm giúp làm rõ các tác nhân và các hậu
quả của sự nghèo khổ, các cơ chế duy trì sự nghèo khổ. Trên cơ sở đó, nghiên cứu
có thể gợi ra suy nghĩ về chiến lược xóa đói giảm nghèo và giải quyết vấn đề bất
bình đẳng xã hội trong kinh tế thị trường.
Sơ đồ: Cái bẫy nghèo khổ
Nguyên lý phát triển của XHH Mác xít chỉ ra rằng phát triển là quá trình
trong đó sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ, là hiện tượng diễn ra không ngừng
trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Nguyên lý này chỉ ra rằng, mọi sự vật, hiện tượng
đều nằm trong quá trình vận động và phát triển, nên trong nhận thức và hoạt động
của bản thân, chúng ta phải có quan điểm phát triển. Điều đó có nghĩa là khi xem
xét bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng phải đặt chúng trong sự vận động, sự phát
triển, vạch ra xu hướng biến đổi, chuyển hóa của chúng.
Thuyết này chỉ ra rằng cũng như giới tự nhiên, mọi xã hội, mọi nền văn hóa
đều không ngừng biến đổi. Sự ổn định của xã hội chỉ là sự ổn định tương đối, còn
VÔ QUYỀN
ỐM YẾU
DỄ TỔN
THƯƠNG
NGHÈO
KHỔ
CÔ LẬP
17
thực tế, nó không ngừng thay đổi từ bên trong bản thân nó. Sự biến đổi trong xã
hội hiện đại càng rõ hơn, con người là một đơn vị cơ bản của xã hội, với tư cách là
chủ thể hoạt động xã hội, bản thân nó cũng luôn biến đổi. Biến đổi từ khi sinh ra
đến khi trưởng thành rồi mất đi. Con người trên khía cạnh sinh học, cũng tuân thủ
những quy luật tự nhiên, lớp người này mất đi, lớp người kia kế tiếp. Các thế hệ
thay thế nhau tạo ra những biến đổi không ngừng của lịch sử và xã hội. Thuyết
biến đổi xã hội ra đời coi xã hội là một sự vận động và tương tác không ngừng.
Chính sự vận động và tương tác này đã tạo ra sự đa dạng và phong phú của xã hội.
Như vậy, lý thuyết này lý giải rằng sự biến đổi về nhận thức, mức sống, điều kiện
cơ sở vật chất ở các vùng DTTS là một quá trình tất yếu.
A Comte đã coi xã hội là sự chuyển hóa giữa hai mặt là mặt tĩnh (mặt cơ
cấu của xã hội) và mặt động (mặt lịch đại của xã hội). Theo ông, trong xã hội, mọi
cái đều vận động và biến đổi. Tuy nhiên, sự biến đổi này không diễn ra một cách
đơn điệu. Mỗi sự vật hiện tượng và sự kiện xã hội lại có những cách thức và
cường độ biến đổi khác nhau. Sự biến đổi ít, biến đổi nhiều và sự tĩnh tại cùng tồn
tại đan xen với nhau. Tĩnh tại cũng là một trạng thái của sự biến đổi. [22, tr. 119]
Hai nhà XHH nổi tiếng, Gerhard Lenski và Jean Lenski đã nhấn mạnh tới
vai trò của sự phát triển công nghệ đối với sự thay đổi xã hội. Phân tích quá trình
biến đổi xã hội từ xã hội săn bắn, hái lượm tới xã hội nông nghiệp và xã hội công
nghiệp, họ thấy rằng, sự phát triển của công nghệ luôn đi trước và sau đó tạo cơ sở
kinh tế, xã hội để cải thiện các khuôn khổ khác của đời sống xã hội. Họ cũng nhấn
mạnh rằng tiến bộ công nghệ cũng khiến cho sự bất bình đẳng xã hội diễn ra nhiều
hơn, như vậy chỉ có ứng dụng khoa học công nghệ vào trong sản xuất của người
nông dân nói chung và đồng bào DTTS nói riêng mới tạo điều kiện cho họ cải
thiện đời sống, giúp giảm khoảng cách giàu nghèo giữa các dân tộc.
Còn nhà XHH theo thuyết biến đổi xã hội coi hành vi con người thông qua
các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa và giao tiếp là tác nhân của sự biến đổi.
18
Nhà XHH Mỹ William Orburn đã đưa ra khái niệm “ độ chậm văn hóa” để chỉ sự
biến đổi xã hội mà theo ông trong đó văn hóa vật chất thường thay đổi nhanh hơn
văn hóa phi vật chất. Từ quan điểm này, quy chiếu vào những vấn đề XĐGN đối
với đồng bào DTTS, cho thấy những thay đổi trong quan niệm nhận thức của đồng
bào DTTS về XĐGN thường thay đổi chậm hơn những thay đổi có tính vật chất
khác như điều kiện cơ sở hạ tầng tại địa phương, phương tiện sinh hoạt của người
dân tộc
Thuyết biến đổi xã hội cho rằng việc nghiên cứu những tác nhân của sự biến
đổi xã hội là yếu tố quan trọng để tìm ra các chiến lược phát triển tránh cho xã hội
khỏi những biến đổi ngược chiều dẫn đến suy thoái. Họ nghiên cứu hành vi con
người thông qua các chuẩn mực và giá trị xã hội, coi nó là mô hình hành vi là sản
phẩm của một nền văn hóa và cho rằng nó cũng biến đổi theo thời gian và theo
những điều kiện xã hội. Sự biến đổi mô hình hành vi là kết quả thay đổi của các hệ
giá trị, chuẩn mực. Nếu văn hóa xã hội luôn luôn tồn tại. Nó không hề mất đi mà
chỉ biến đổi từ hình thức này sang hình thức khác.
Có nhiều quan niệm khác nhau về sự biến đổi xã hội thông qua biến đổi
thông qua biến đổi hành vi. Các nhà XHH theo thuyết biến đổi xã hội định nghĩa
“Biến đổi xã hội là một quá trình, qua đó những khuôn mẫu của hành vi xã hội,
các quan hệ xã hội, các thiết chế xã hội và các hệ thống phân tầng xã hội thay đổi
theo thời gian”
Các nhà XHH theo lý thuyết biến đổi xã hội nhìn chung ủng hộ sự biến đổi
xã hội theo xu hướng tiến bộ và ủng hộ một xã hội bình đẳng giữa các dân tộc.
1.1.2. Một số khái niệm công cụ của đề tài
1.1.2.1. Chính sách
Thuật ngữ “chính sách” trên thực tế được sử dụng với nhiều nghĩa khác nhau.
Tiếp cận từ góc độ chính sách công có thể định nghĩa:
[10; tr. 281]. Chính sách được hiểu
19
là hình thức của những mối liên hệ, tác động qua lại giữa các nhóm, tập đoàn xã
hội gắn liền với tổ chức, hoạt động của nhà nước, của các đảng phái hay các thiết
chế khác của hệ thống chính trị nhằm thực hiện các mục tiêu, lợi ích, nhiệm vụ
của cá nhân và tập đoàn xã hội đó. Chính sách là công cụ điều tiết lợi ích giữa các
cá nhân và giữa các nhóm xã hội của chủ thể quản lý để đạt được mục đích do chủ
thể đó quy định. Công cụ đó thường được thể hiện trong các quyết định, trong hệ
thống pháp luật, trong quy chuẩn hành vi và những quy định khác của chủ thể
quản lý. Chủ thể quản lý có thể là tổ chức quốc tế, Đảng, Nhà nước hoặc các tổ
chức xã hội khác. Trong đề tài này,
. Nó đối nghĩa với chính sách tư - chính sách riêng do
các tổ chức, các doanh nghiệp, các hiệp hội, đoàn thể đề ra - để áp dụng trong
phạm vi của tổ chức, doanh nghiệp, hiệp hội hay đoàn thể đó.
Đối với chính sách công, nhà nước vừa là chủ thể ban hành, vừa là chủ thể
thực thi chính sách - một công cụ tác động đến đời sống của cộng đồng dân cư.
Chính sách công thực hiện các chức năng của nhà nước, quản lý và điều hành sự
phát triển kinh tế - xã hội theo những mục tiêu đặt ra và được thể chế hoá thành
các quyết định có hiệu lực pháp lý của cơ quan nhà nước. Nó được thực thi dựa
vào việc sử dụng quyền lực công của nhà nước. Chủ thể điều hành thực thi chính
sách công là các tổ chức trong bộ máy nhà nước sử dụng thẩm quyền được pháp
luật thừa nhận. Các chính sách công gắn với việc phân bổ và sử dụng nguồn lực
công của nhà nước như ngân sách và các tài sản công khác do nhà nước quản lý.
Các cơ quan nhà nước và tổ chức của nhà nước là những chủ thể thực thi chủ yếu,
song thực thi chính sách đó cũng là nghĩa vụ của mọi thành viên liên quan đến
lĩnh vực mà chính sách điều tiết. Nhìn chung, trong xu hướng quản trị xã hội theo
nguyên tắc dân chủ, các lực lượng xã hội được huy động tham gia ngày càng sâu
rộng vào xây dựng và thực thi chính sách công.
20
1.1.2.2. C
Chính sách XĐGN là một hệ thống nhiều chính sách đồng bộ bao gồm trên
nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, cả về đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần.
Trong đó chính sách phát triển kinh tế là rất quan trọng
“ , chính sách
[21, tr.4]. Thông qua các chương trình,
chính sách của Đảng và Nhà nước, các cơ quan, đoàn thể, các địa phương… giúp
đỡ người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo phát triển kinh tế, cải thiện đời sống, nâng
cao mức thu nhập và các nhu cầu thiết yếu khác. Qua đó từng bước giúp họ thoát
nghèo từng bước rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các vùng, các địa phương
đặc biệt là giữa thành thị và nông thôn, giữa vùng núi và đồng bằng và giữa các
dân tộc trong cả nước.
Để giải quyết vấn đề đói nghèo, một trong những vấn đề cơ bản là xây dựng
và xác định nó trong tổng thể các chính sách xã hội. Đảng và Nhà nước ta đã
khẳng định: chính sách XĐGN bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người, điều
kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá, chính trị, đạo đức…coi nhẹ chính
sách XĐGN tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội.
Như vậy, chính sách XĐGN là sự thể chế hoá, cụ thể hoá đường lối, chủ
trương giải quyết các vấn đề đói nghèo dựa trên những tư tưởng, quan điểm của
chủ thể lãnh đạo phù hợp với bản chất chế độ chính trị - xã hội, phản ánh lợi ích
và trách nhiệm của cộng đồng xã hội nói chung và của nhóm xã hội nói riêng
nhằm tác động trực tiếp vào con người hướng tới mục tiêu cao nhất là thoả mãn
những nhu cầu ngày càng tăng về đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của nhân
dân.
21
1.1.2.3. D
“Dân tộc thiểu số” là một khái niệm khoa học được sử dụng phổ biến trên
thế giới hiện nay. Các học giả phương Tây quan niệm rằng, đây là một thuật ngữ
chuyên ngành dân tộc học (minority ethnic) dùng để chỉ những dân tộc có dân số
ít. Trong một số trường hợp, người ta đánh đồng ý nghĩa “dân tộc thiểu số” với
“dân tộc lạc hậu”, “dân tộc chậm tiến”, “dân tộc kém phát triển”, “dân tộc chậm
phát triển”… Có nhiều nguyên nhân, trong đó có sự chi phối bởi quan điểm chính
trị của giai cấp thống trị trong mỗi quốc gia.
Trên thực tế, khái niệm “dân tộc thiểu số” chỉ có ý nghĩa biểu thị tương
quan về dân số trong một quốc gia đa dân tộc. Theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng dân
tộc, thì khái niệm “dân tộc thiểu số” không mang ý nghĩa phân biệt địa vị, trình
độ phát triển của các dân tộc. Địa vị, trình độ phát triển của các dân tộc không
phụ thuộc ở số dân nhiều hay ít, mà nó được chi phối bởi những điều kiện kinh tế
- chính trị - xã hội và lịch sử của mỗi dân tộc.
Vận dụng quan điểm trên vào điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định quan niệm nhất quán của mình: Việt
Nam là một quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc thành viên, với khoảng trên 80
triệu người. Trong tổng số các dân tộc nói trên thì dân tộc Việt (Kinh) chiếm
86,2% dân số, được quan niệm là “dân tộc đa số”, 53 dân tộc còn lại, chiếm
13,8% dân số được quan niệm là “dân tộc thiểu số” trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam. Khái niệm “dân tộc thiểu số”, có lúc, có nơi, nhất là trong những năm
trước đây còn được gọi là “dân tộc ít người”. Mặc dù hiện nay đã có qui định
thống nhất gọi là “dân tộc thiểu số”, nhưng cách gọi “dân tộc ít người” vẫn không
bị hiểu khác đi về nội dung.
22
Như vậy, khái niệm “dân tộc thiểu số” dùng để chỉ những dân tộc có số dân
ít, chiếm tỷ trọng thấp trong tương quan so sánh về lượng dân số trong một quốc
gia đa dân tộc. Khái niệm “dân tộc thiểu số” cũng không có ý nghĩa biểu thị
tương quan so sánh về dân số giữa các quốc gia dân tộc trên phạm vi khu vực và
thế giới. Một dân tộc có thể được quan niệm là “đa số” ở quốc gia này, nhưng
đồng thời có thể là “thiểu số” ở quốc gia khác. Chẳng hạn người Việt (Kinh)
được coi là “dân tộc đa số” ở Việt Nam, nhưng lại được coi là “dân tộc thiểu số”
ở Trung Quốc (vì chỉ chiếm tỉ lệ 1/55 dân tộc thiểu số của Trung Quốc); ngược
lại người Hoa (Hán), được coi là “dân tộc đa số” ở Trung Quốc, nhưng lại là dân
tộc thiểu số ở Việt Nam (người Hoa chiếm tỉ lệ 1/53 dân tộc thiểu số của Việt
Nam). Rõ ràng, quan niệm về “dân tộc thiểu số” và “dân tộc đa số” cũng như nội
hàm của chúng hiện nay còn có những vấn đề chưa thống nhất và nó cũng được
vận dụng xem xét rất linh hoạt trong từng điều kiện cụ thể, tuỳ theo quan niệm và
mối quan hệ so sánh về dân số của mỗi quốc gia dân tộc. Song, những nội dung
được quan niệm như đã phân tích ở phần trên về cơ bản là tương đối thống nhất
không chỉ ở nước ta mà trong cả giới nghiên cứu dân tộc học trên thế giới.
1.1.2.4.
Thuật ngữ “ hay “” được đề
cập đến trong Thông tư số 41.UB-TT của ủy ban Dân tộc và miền núi (1996)
trong việc phân định 3 khu vực (khu vực 1: khu vực bước đầu phát triển; khu vực
2: khu vực tạm ổn định; khu vực 3: khu vực khó khăn). Việc phân định các khu
vực trên dựa theo 5 tiêu chí của trình độ phát triển: (1). Điều kiện tự nhiên, địa bàn
cư trú; (2) Cơ sở hạ tầng; (3). Các yếu tố xã hội; (4). Điều kiện sản xuất; (5). Về
đời sống. Tiêu chí cụ thể của khu vực 3 như sau:
23
Điều kiện tự nhiên, địa bàn cư trú: gồm các xã vùng sâu, vùng xa, vùng cao
hẻo lánh, vùng biên giới, hải đảo. Khoảng cách của các xã đến các khu trục
động lực phát triển trên 20 km.
Cơ sở hạ tầng chưa được xây dựng, hoặc còn tạm bợ. Giao thông rất khó
khăn, không có đường ô tô vào xã. Các công trình điện, thuỷ lợi, nước sạch,
trường học, bệnh xã, dịch vụ khác rất thấp kém hoặc không có.
Các yếu tố xã hội chưa đạt mức tối thiểu. Dân trí quá thấp, tỉ lệ mù chữ và
thất học trên 60%, bệnh tật nhiều, tập tục lạc hậu, không có thông tin
Điều kiện sản xuất rất khó khăn, thiếu thốn. Sản xuất mang tính tự nhiên hái
lượm, chủ yếu phát rừng làm nương rẫy, du canh du cư.
Về đời sống: Số hộ đói nghèo trên 60% số hộ của xã. Đời sống thực sự khó
khăn, nạn đói thường xuyên xảy ra
Sau đó trong việc thực hiện CSDT xuất hiện thuật ngữ mới liên quan đến địa
bàn trên, đó là “” (1998) theo
Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Thuật ngữ “” (2004) được đề cập trong
chính sách dân tộc lần đầu theo Quyết định 134/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ. Theo Quyết định trên, hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống
khó khăn là “hộ dân tộc thiểu số tại chỗ, định cư thường trú tại địa phương; là hộ
nghèo sinh sống bằng nghề nông, lâm nghiệp chưa có hoặc chưa đủ đất sản xuất,
đất ở và có khó khăn về nhà ở, nước sinh hoạt”.
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
1.2.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề dân tộc và chính sách
XĐGN cho đồng bào DTTS
Đảng và Nhà nước ta luôn xác định vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn
đề chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn