Tải bản đầy đủ (.pdf) (209 trang)

Hỏi và câu hỏi theo quan điểm ngữ dụng học Trên cứ liệu tiếng Pháp, có so sánh với tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 209 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN VIỆT TIẾN





HỎI VÀ CÂU HỎI
THEO QUAN ĐIỂM NGỮ DỤNG HỌC
(Trên cứ liệu tiếng Pháp, có so sánh với tiếng Việt)



Chuyên ngành : LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
Mã số : 5.04.08

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN



Người hướng dẫn khoa học :
GS. TS. Nguyễn Minh Thuyết
PGS. TS. Nguyễn Thị Việt Thanh


HÀ NỘI - 2002





3



Mục lục


Phần mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 7
2. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án 9
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 12
4. Phƣơng pháp và tƣ liệu nghiên cứu 13
5. Bố cục của luận án 16

phần nội dung

chƣơng 1
mối quan hệ giữa câu hỏi và hành vi hỏi, giữa câu hỏi và câu trả lời, giữa câu
hỏi và các thông số tình huống

1.1. Từ câu nghi vấn đến cặp câu hỏi-trả lời 22
1.2. Cặp câu hỏi - trả lời và các phƣơng châm hội thoại 32
1.3. Câu hỏi và các thông số tình huống 44
1.4. Mối quan hệ giữa câu hỏi và hành vi hỏi 47
Tiểu kết 1 58


chƣơng 2
vấn đề phân loạI câu hỏi : về một số cách phân loại truyền thống và một cách
phân loại mới theo quan điểm ngữ dụng
2.1. Về một số cách phân loại truyền thống 60

4


2.1.1. Câu hỏi với est-ce que, câu hỏi ngữ điệu, câu hỏi đảo chủ ngữ 60
2.1.2. Câu hỏi trực tiếp và câu hỏi gián tiếp 70
2.1.3. Câu hỏi toàn bộ và câu hỏi bộ phận 73
2.2. Một cách phân loại mới theo quan điểm ngữ dụng 78
2.2.1. Câu hỏi - yêu cầu thông tin 80
2.2.2. Câu hỏi - đáp 80
2.2.3. Câu hỏi kiểm tra 86
2.2.4. Câu hỏi - yêu cầu xác nhận 92
2.2.5. Câu hỏi - yêu cầu hành động 102
2.2.6. Câu hỏi tu từ 106
2.2.7. Câu hỏi điều tiết 111
Tiểu kết 2 120

Chƣơng 3
ứng dụng của việc nghiên cứu hành vi hỏi và câu hỏi theo quan đIểm ngữ
dụng

3.1. Một hƣớng tiếp cận mới của việc dạy câu hỏi trong việc dạy
tiếng Pháp cho ngƣời Việt Nam 125
3.2. Một số kiến giải, nhận xét và đề xuất trong lĩnh vực dịch thuật 141
3.3. Phân tích sự khác biệt giữa câu hỏi-phƣơng tiện giao tiếp hàng ngày và
câu hỏi-công cụ làm việc 146

3.3.1. Giới thiệu cứ liệu 147
3.3.2. Phân tích và nhận xét 150
3.3.2.1. Về mặt hình thức 150
3.3.2.2. Về mặt nội dung 150

5


Corpus : Caroline sait – elle raconter des histoires ? 161
Tiểu kết 3 182
Phần kết luận

1. Những kết quả đã đạt đƣợc và đóng góp của luận án 186
2. Những vấn đề liên quan đến đề tài của luận án cần đƣợc
tiếp tục nghiên cứu 189

những công trình của tác giả liên quan đến luận án 192

tài liệu tham khảo 193


























6









Một số ký hiệu được sử dụng trong luận án



*X : Dạng thức sai hoặc không chuẩn mực.
X () X : Chỗ ngưng, nghỉ. Số lượng (), ()(), ()()() chỉ

độ dài chỗ ngưng nghỉ.
X = X : Chỗ luyến âm hoặc kéo dài.
X (,) : Yếu tố được nhấn mạnh.
X : Ngữ điệu thăng.
X : Ngữ điệu giáng.
X

( Y) : Yếu tố đan chen nhưng không ảnh hưởng đến
lượt lời.









7


phần mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu :

1.1. Về vị trí, vai trò của câu hỏi trong thực tế giao tiếp hàng ngày,
Goffman đã nói : ô Mỗi khi mọi người nói chuyện với nhau, người ta đều có
thể nghe thấy những câu hỏi và những câu trả lời ằ [GOFFMAN, 1987 :11].
Trƣớc Goffman, Benveniste cũng đã nói : ô ở mọi nơi người ta đều thừa nhận
rằng có các mệnh đề xác tín, các mệnh đề nghi vấn, các mệnh đề cầu khiến,

được phân biệt bằng những nét đặc thù về cú pháp và ngữ pháp ( ). Vậy mà
ba phương thức này chỉ nhằm phản ánh ba cách ứng xử cơ bản của con người
khi nói và tác động đến người đối thoại với mình thông qua diễn ngôn : người
nói muốn chuyển đến người nghe một yếu tố nhận thức, muốn nhận được từ
người nghe một thông tin, hoặc muốn ra một mệnh lệnh cho người nghe. Đó
là ba chức năng liên nhân của diễn ngôn, được thể hiện thông qua ba phương
thức là những đơn vị câu (unitộ de phrase), mỗi đơn vị câu tương ứng với một
thái độ của người nói ằ. [BENVENISTE, 1966 : 130]
1
. Chúng ta có thể diễn
giải ý kiến trên của Benveniste một cách khác nhƣ sau :





1
Khi nói ô ở mọi nơi ằ, có lẽ Benveniste muốn đề cập tới một hiện tượng mang tính phổ
quát đối với nhiều, nếu không muốn nói là với tất cảc các ngôn ngữ. Xem thêm Kerbrat-
Orecchioni [1991 :5] đối với tiếng Pháp, Levinson [1983 :183,184] đối với tiếng Anh và
Cao Xuân Hạo [1991 : 199] đối với tiếng Việt.



Comment [VA1]: Đồng
nghĩa ngữ dụng.

8





ý đồ giao tiếp của
người nói

Loại câu sử dụng

Chức năng của câu

Truyền đạt một thông tin


Câu xác tín


Mô tả thế giới hiện thực
khách quan

Nhận một thông tin


Câu nghi vấn

Hỏi về thế giới hiện thực
khách quan

Ra một mệnh lệnh

Câu cầu khiến


Tác động nhằm làm thay
đổi thế giới hiện thực
khách quan


Nhƣ vậy, câu hỏi là một trong ba phạm trù câu cơ bản nhằm thực hiện
một trong ba ô chức năng liên nhân của diễn ngôn ằ. Mà đã nói đến chức
năng liên nhân thì không thể không nghiên cứu các giá trị ngữ dụng (valeurs
pragmatiques) của câu, nghĩa là không thể không nghiên cứu hoạt động hành
chức cụ thể của nó trong mối quan hệ tƣơng tác với các thông số tình huống.

1.2. Cho đến nay, theo những nguồn tƣ liệu mà chúng tôi có đƣợc, các
công trình nghiên cứu về câu hỏi trong tiếng Pháp đều tập trung chủ yếu
nghiên cứu câu hỏi nhƣ một cấu trúc ngôn ngữ và các tiêu chí phân loại câu
hỏi cũng đều tập trung chủ yếu trên bình diện cú pháp (GREVISSE [1969],
DUBOIS và LAGANE [1973], GREVISSE [1975], GARDES-TAMINE
[1988] ) hoặc ngữ âm (GRUNDSTROM [1973], FONTANEY [1987],
[1991] ). Một số công trình có đề cập đến giá trị của câu hỏi nhƣng hoặc chỉ
đi sâu nghiên cứu một loại câu hỏi cụ thể nào đó (MOIGNET [1966],
SZMIDT [1968], FONAGY và BERARD [1973], BORILLO [1978],

9


BERRENDONNER [1981], CORNULIER [1982] ) hoặc có đề cập đến các
giá trị ngữ dụng nhƣng chỉ dừng ở mức độ sơ lƣợc và cũng chỉ ở một khía
cạnh nào đó (ANSCOMBRE và DUCROT [1981], APOSTEL [1981],
FAUCONNIER [1981], JACQUES [1981], BOISSAT [1991], DE
GAULMYN [1991], TRAVERSO [1991] ). Theo chúng tôi, việc mô tả,
phân tích, phân loại câu hỏi theo các tiêu chí ngôn ngữ (ngữ âm, ngữ pháp) là

cần thiết nhƣng việc mô tả, phân tích và phân loại theo các tiêu chí dụng học,
đặc biệt đối với câu hỏi là việc làm không thể bỏ qua.

1.3. Trong thực tế, đã có những trƣờng hợp ngƣời học Việt nam, khi
gặp một ngƣời Pháp, dùng câu ô Oự allez - vous ? ằ, một câu hỏi hoàn toàn
đúng trên bình diện ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, cú pháp), thay cho lời chào
thì ngƣời Pháp đó đã tỏ thái độ rất khó chịu. Nếu nhƣ trong tiếng Việt, cơ chế
chào-hỏi, hay nói một cách chính xác hơn là hỏi để chào là phổ biến thì trong
tiếng Pháp, ngoại trừ ô Comment allez - vous ? ằ và một vài biến thể của nó,
các câu hỏi không đƣợc dùng thay cho lời chào, nếu ngƣời nói không muốn bị
coi là tò mò, bất lịch sự
2
. Sở dĩ nhƣ vậy là vì, tuy hành vi hỏi và câu hỏi là
những hiện tƣợng phổ quát tồn tại trong mọi ngôn ngữ nhƣng các giá trị của
câu hỏi và các phƣơng thức thực hiện hành vi hỏi trong từng ngôn ngữ, do
chịu tác động của các yếu tố văn hoá - xã hội, lại rất khác nhau.

2. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án :

2.1. Về mặt lý luận, điểm xuất phát của việc tiếp cận câu hỏi theo quan
điểm ngữ dụng học, theo chúng tôi, là việc phân biệt câu hỏi (la question) với

2
Điều này cũng đã được một giáo sư Pháp nhận thấy sau hai chuyến thỉnh giảng tại Việt
nam (xem KERBRAT-ORECCHIONI [1994 : 53]).

10





hành vi hỏi (l’acte d’interrogation)
3
và từ đó ô tìm kiếm xem có mối quan hệ
nào giữa hành động đặt một câu hỏi với việc sử dụng một phát ngôn có hình
thức nghi vấn ằ (DILLER [1984] ). Nhƣ đã biết, hành vi hỏi là hành vi mà
ngƣời nói thực hiện nhằm thu đƣợc thông tin về một điều chƣa biết cần biết,
còn câu hỏi là một cấu trúc ngôn ngữ, một trong những công cụ để thực hiện
hành vi đó. Tuy nhiên, trên thực tế, câu hỏi, với tƣ cách là công cụ ngôn ngữ
chủ yếu để thực hiện hành vi hỏi, còn đƣợc sử dụng để thực hiện một số hành
động lời nói khác, đúng nhƣ nhận định của Searle, ô mọi câu có nghĩa đều có
thể, nhờ vào chính nghĩa của nó, được sử dụng để thực hiện một hoặc một
loạt các hành vi ngôn ngữ cụ thể ằ [SEARLE 1972 : 54]. Ngƣợc lại, để thực
hiện hành vi hỏi, ngƣời nói có thể sử dụng một số cấu trúc ngôn ngữ khác
ngoài câu hỏi. Việc tiếp cận câu hỏi trên bình diện dụng học theo hƣớng của
luận án sẽ cho phép chúng ta nghiên cứu đầy đủ hơn tính lƣỡng diện của câu
hỏi cũng nhƣ của hành vi hỏi. Đó chính là ý nghĩa lý luận của luận án.


3
Về mặt thuật ngữ việc làm này cũng là cần thiết vì hai lý do sau :
1. Trong tiếng Pháp, riêng từ ô interrogation ằ đã có thể chỉ câu hỏi và hành vi hỏi. Từ
điển Le Petit Robert (1996) giải thích nghĩa của từ ô interrogation ằ như sau :
1. Action de questionner, d‟interroger (qqn) (Hành vi).
2. Type de phrase logiquement incomplốte qui a pour objet de poser une question
ou qui implique un doute. (Câu).
Do vậy, trên thực tế nhiều tác giả đã không phân biệt rõ ràng dẫn đến tình trạng mập mờ
hoặc sử dụng lẫn lộn giữa hai nghĩa trên. Xem Dubois et Lagane [đã dẫn] hoặc Trần
Hùng [1991] và một số tác giả khác.
2. Tình trạng trên lại trở nên mập mờ hơn vì danh từ ô question ằ không có tính từ tương

ứng, do vậy ta buộc phải dùng tính từ ô interrogatif ằ của danh từ ô interrogation ằtrong
các kết hợp kiểu ô phrase interrogative ằ như Dubois et Lagane [đã dẫn], Trần Hùng [đã
dẫn] và nhiều tác giả khác, hoặc ô proposition interrogative ằ như Benveniste[đã dẫn],
hoặc ô structure interrogative ằ như Diller [đã dẫn].

Trong luận án này, cũng như trong các bài viết trước đây, chúng tôi dùng question để chỉ
câu hỏi và interrogation hoặc acte d‟interrogation để chỉ hành vi hỏi.

11


2.2. Trong quá trình giảng dạy tiếng Pháp cho ngƣời Việt Nam và tiếng
Việt cho ngƣời nói tiếng Pháp và trong quá trình làm công tác phiên dịch ở
nhiều cấp độ khác nhau, chúng tôi đã có dịp thấy đƣợc các khiếm khuyết của
việc tiếp cận, nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc mô tả câu hỏi nhƣ một cấu trúc
ngôn ngữ đồng thời cũng thấy đƣợc sự cần thiết phải nghiên cứu câu hỏi trong
các hoạt động hành chức cụ thể của nó. Một cái nhìn tổng quan về các giá trị
dụng học của câu hỏi sẽ là cơ sở cho việc nghiên cứu sâu từng loại câu hỏi cụ
thể trong tiếng Pháp và đối chiếu câu hỏi trong tiếng Pháp và tiếng Việt.

Do vậy, có thể nói rằng việc nghiên cứu đề tài này sẽ giúp chúng tôi có
thêm những hiểu biết cần thiết nhằm thiết thực góp phần nâng cao hơn nữa
chất lƣợng công tác giảng dạy và dịch thuật.

Ngoài ra, chúng tôi còn hy vọng phƣơng pháp tiếp cận (theo quan điểm
dụng học) của luận án sẽ đƣợc áp dụng vào việc nghiên cứu các loại hình câu
khác (vd : câu cầu khiến) hoặc một số hành động lời nói khác (vd : mời, từ
chối ). Kết quả nghiên cứu của luận án cũng có thể đƣợc sử dụng ở một số
lĩnh vực khác trong đó câu hỏi là công cụ chủ yếu và đóng một vai trò quyết
định, ví dụ nhƣ việc xây dựng các phiếu thăm dò, hệ thống câu hỏi điều tra,

trong các hoạt động phỏng vấn, điều tra xét hỏi, lấy cung

Cách tiếp cận của chúng tôi, nhƣ vừa trình bày ở trên, là hoàn toàn phù
hợp - tuy ở một mức độ hết sức khiêm tốn và ở một phạm vi rất hẹp - với
quan điểm của V.A. Xmirnov và V.K. Phin : ô Cần phải xếp hỏi vào số những
khái niệm có ý nghĩa chung đối với toàn bộ khoa học và toàn bộ văn hoá.
Việc nghiên cứu nó có ý nghĩa cả trên quan điểm nhận thức luận, lẫn trên
quan điểm sử dụng nó vào các mục đích khác ằ (dẫn theo lê đông [1996 : 3]).

12





3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu :

3.1. Luận án này nghiên cứu câu hỏi trong tiếng Pháp theo quan điểm
ngữ dụng học, nghĩa là nghiên cứu câu hỏi trong các hoạt động hành chức cụ
thể để qua đó nêu đƣợc các giá trị cơ bản của câu hỏi trong tiếng Pháp.

Nhƣ vậy, đối tƣợng nghiên cứu của luận án là câu hỏi, có nghĩa là
những câu mang một trong những dấu hiệu hình thức sau :
1- Est-ce que ,
2 - Đảo trật tự Chủ ngữ - Động từ,
3 - Có ngữ điệu lên ở cuối câu (ở dạng nói),
4 - Kết thúc bằng dấu ? (ở dạng viết).

Những dấu hiệu này có thể tồn tại một cách độc lập với nhau để tạo
thành câu hỏi

4
nhƣng trên thực tế [1] hoặc [2] có thể kết hợp với [3] ở dạng
nói và với [4] ở dạng viết. Tuy nhiên, nhƣ đã nói ở trên, chúng tôi không đi
sâu vào nghiên cứu cấu tạo của câu hỏi về mặt hình thái - cú pháp mà chúng
tôi chỉ sử dụng những dấu hiệu trên nhƣ những dấu hiệu hình thức để phân
biệt câu hỏi với những câu không mang hình thức hỏi để từ đó nghiên cứu và
nêu ra :


4
Từ đây trở đi, để giản tiện, khi chúng tôi nói ô câu hỏi ằ có nghĩa là câu hỏi trong tiếng
Pháp. Khi so sánh hoặc đề cập đến câu hỏi trong tiếng Việt, chúng tôi sẽ nói rõ ô câu hỏi
trong tiếng Việt ằ.


13


1. Các giá trị ngữ dụng khác nhau của câu hỏi thông qua các hoạt động hành
chức cụ thể trong mối quan hệ tƣơng tác giữa câu hỏi và câu trả lời, giữa
câu hỏi và ngƣời hỏi, giữa câu hỏi và ngƣời đƣợc hỏi, giữa câu hỏi và các
thông số tình huống khác.
2. Trong những điều kiện nào, những câu không mang hình thức hỏi có thể
tham gia thực hiện hành vi hỏi. Hay nói một cách khác, hành vi hỏi trong
tiếng Pháp có thể đƣợc thực hiện thông qua các cấu trúc ngôn ngữ khác,
ngoài câu hỏi, nhƣ thế nào.

Nhƣ vậy, đề tài này không phải là một chuyên khảo về một loại câu hỏi
cụ thể mà sẽ là một nghiên cứu tổng quan về câu hỏi trên bình diện ngữ dụng.
Và đây cũng chính là khoảng trống trong các nghiên cứu về câu hỏi trong

tiếng Pháp hiện nay.

Tuy nhiên, do phạm vi hoạt động của câu hỏi trong thực tế giao tiếp là
quá rộng (ô Quan hệ của chúng ta ở trên đời thông qua một tiến trình hỏi ằ
5
),
và khả năng của tác giả còn hạn chế, trong khuôn khổ luận án này, chúng tôi
chỉ giới hạn việc nghiên cứu ở những giá trị dụng học mà chúng tôi cho là chủ
yếu nhất, những chức năng giao tiếp mà chúng tôi cho là cơ bản nhất của câu
hỏi. Dẫu sao cũng hy vọng rằng kết quả nghiên cứu của luận án này sẽ là cơ
sở để sau này chúng tôi có thể nghiên cứu các giá trị khác nhau của câu hỏi
trong tiếng Pháp một cách đầy đủ hơn và triệt để hơn.

4. Phương pháp và tư liệu nghiên cứu :


5
ô Notre rapport au monde passe par un processus d’interrogation ằ. [JACQUES ; 1985 : 322]

14


4.1. Khác với các quan điểm ngữ pháp học hoặc ngôn ngữ học nội tại
truyền thống theo đó, các nhà nghiên cứu chỉ tập trung và giới hạn việc mô tả,
phân tích câu hỏi nhƣ một phạm trù câu trong một hệ thống ngôn ngữ khép
kín theo một tập hợp các tiêu chí ngôn ngữ (ngữ pháp, ngữ âm, ngữ nghĩa)
nhƣ mô hình câu, các thành phần câu, các qui tắc kết hợp v.v., việc nghiên
cứu câu hỏi theo quan điểm ngữ dụng buộc ngƣời nghiên cứu phải quan sát
câu hỏi trong các tình huống phát ngôn cụ thể. Tình huống ở đây đƣợc hiểu
theo 2 nghĩa :


- theo nghĩa rộng, là chu cảnh (contexte) : bao gồm tất cả những gì
liên quan đến ngƣời nói, ngƣời nghe, quan hệ giữa ngƣời nói và
ngƣời nghe và các yếu tố thuộc môi trƣờng giao tiếp nhƣ : thời gian,
địa điểm, lý do và ý đồ giao tiếp

- theo nghĩa hẹp, là ngữ cảnh (cotexte) : môi trƣờng ngôn ngữ trực
tiếp của câu hỏi ; có thể là môi trƣờng không gian, nếu là ngôn ngữ
viết hoặc thời gian, nếu là ngôn ngữ nói.

Dƣới ánh sáng của lý thuyết dụng học nói chung và lý thuyết hành vi
ngôn ngữ nói riêng, chúng tôi sẽ sử dụng chủ yếu phƣơng pháp phân tích tình
huống phát ngôn để qua đó thấy đƣợc các giá trị của câu hỏi và các cơ chế
cho phép những câu không mang hình thức hỏi có thể thực hiện hành vi hỏi.
Việc nghiên cứu câu hỏi trong mối quan hệ đa chiều của nó với ngƣời hỏi,
ngƣời đƣợc hỏi, với các thông số tình huống (chu cảnh, ngữ cảnh) sẽ cho
phép chúng ta, thông qua các thao tác tƣ duy (suy luận, lập luận, phép tiền giả
định ) của ngƣời hỏi và ngƣời đƣợc hỏi, bóc đƣợc các ý đồ giao tiếp và điều
quan trọng hơn là tìm đƣợc các mối quan hệ giữa ý đồ giao tiếp (Hỏi để làm

15


gì ?) và phƣơng tiện để thực hiện các ý đồ đó (Hỏi nhƣ thế nào ?). Đây chính
là con đƣờng để chúng tôi tiếp cận các giá trị tại ngôn khác nhau của câu hỏi.

4.2. Tuy nhiên, việc quan sát, phân tích câu hỏi trong các tình huống
giao tiếp thực, cụ thể không loại trừ việc sử dụng các thủ pháp nghiên cứu
ngôn ngữ học có tính chất truyền thống nhƣ cải biến, thay thế , kết hợp với
việc xây dựng các giả thiết (tình huống giao tiếp, phát ngôn cụ thể ). Cách

làm này sẽ cho phép chúng tôi thử nghiệm, kiểm chứng để từ đó, loại trừ các
yếu tố mang tính ngẫu nhiên, cá nhân, rút ra những đặc trƣng bản chất của đối
tƣợng nghiên cứu.

4.3. Vì một trong những mục đích cuối cùng của luận án là tìm ra đƣợc
các giá trị dụng học, hay có thể nói một cách khác là các chức năng giao tiếp
cơ bản của câu hỏi trong tiếng Pháp nên việc tổng hợp, khái quát hoá các kết
quả phân tích thực tế là một việc làm thiết yếu. Chính việc tổng hợp, khái
quát hoá các thuộc tính, đặc trƣng của đối tƣợng nghiên cứu thu đƣợc qua quá
trình quan sát, phân tích thực tế trong các tình huống giao tiếp thực, cụ thể sẽ
cho phép, một mặt, rút ra đƣợc các qui luật hoạt động chung của từng loại câu
hỏi ; mặt khác, xác lập đƣợc các qui tắc điều chỉnh hành vi hỏi.

4.4. Nhƣ trên đã nói, việc nghiên cứu câu hỏi và các chức năng giao
tiếp cơ bản của nó có thể cho phép đối chiếu, so sánh câu hỏi, không chỉ trên
bình diện cấu trúc ngôn ngữ mà trong các hoạt động hành chức cụ thể của nó
trong các ngôn ngữ khác nhau. Tuy nhiên, do dung lƣợng của luận án và khả
năng của chúng tôi chƣa cho phép, trong khuôn khổ luận án này, chúng tôi
không tiến hành so sánh, đối chiếu một cách hệ thống các câu hỏi trong tiếng
Pháp và tiếng Việt. Mặc dù vậy, khi phân tích các cứ liệu bằng tiếng Pháp đã

16


đƣợc dịch và xuất bản bằng tiếng Việt và các cứ liệu bằng tiếng Việt đã đƣợc
dịch và xuất bản bằng tiếng Pháp, chúng tôi sẽ đƣa ra các kiến giải, nhận xét
về các sự tƣơng đồng và khác biệt giữa câu hỏi trong tiếng Pháp và tiếng Việt.
Những kiến giải và nhận xét này sẽ giúp, trong khuôn khổ luận án này, làm rõ
thêm các đặc trƣng của câu hỏi trong tiếng Pháp và sẽ là tiền đề cho một công
trình so sánh, đối chiếu một cách hệ thống, toàn diện hơn về câu hỏi và hành

vi hỏi trong tiếng Pháp và tiếng Việt.
4.5. Xuất phát từ mục đích và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án, cứ
liệu của luận án sẽ đƣợc xây dựng từ những tƣ liệu thực (documents
authentiques). Xuất phát từ bản chất của đối tƣợng nghiên cứu, nguồn tƣ liệu
của luận án sẽ là các bài hội thoại thuộc các loại hình và các cấp độ ngôn ngữ
khác nhau. Tuy nhiên, do điều kiện chƣa cho phép, chúng tôi không thể sử
dụng các tƣ liệu nghe-nhìn, do vậy toàn bộ mảng các yếu tố kèm lời và phi lời
sẽ rất ít đƣợc đề cập tới trong luận án. Chúng tôi hi vọng, khi điều kiện cho
phép, có thể tiếp tục mở rộng và nghiên cứu sâu hơn theo hƣớng này để có cái
nhìn đầy đủ hơn về câu hỏi và hành vi hỏi trong tiếng Pháp.

5. Bố cục của luận án :

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận án đƣợc chia thành 3
chƣơng :

Chƣơng 1 : Mối quan hệ giữa câu hỏi và hành vi hỏi, giữa câu hỏi và câu trả
lời, giữa câu hỏi và các thông số tình huống.


17


Nội dung chính của chƣơng này là xác định khung lý thuyết của luận án
và xây dựng các công cụ lý thuyết để giải quyết những vấn đề cụ thể ở những
phần sau. ở chƣơng này, chúng tôi sẽ tập trung giải quyết những vấn đề sau :

 Từ câu nghi vấn đến cặp câu hỏi - trả lời.
 Cặp câu hỏi - trả lời và các qui tắc hội thoại.
 Câu hỏi và các thông số tình huống.

 Câu hỏi và hành vi hỏi :

- Về các giá trị khác nhau của câu hỏi : Nhƣ đã đề cập đến trong phần
[2.1], ngoài chức năng là công cụ để thực hiện hành vi hỏi (giá trị tại
ngôn trực tiếp), câu hỏi, thông qua các giá trị tại ngôn gián tiếp khác
nhau, còn có thể làm công cụ để thực hiện một số hành vi khác. Nhƣ
vậy, nếu coi cấu trúc hỏi (la structure interrogative) là cái biểu đạt
(le signifiant) và các giá trị tại ngôn khác nhau của câu hỏi nhƣ cái
đƣợc biểu đạt (les signifiộs), thì chúng ta có thể gọi đây là hiện
tƣợng đa nghĩa ngữ dụng hay đa nghĩa tại ngôn (la polysộmie
illocutoire).

- Về các công cụ khác nhau để thực hiện hành vi hỏi : Hành vi hỏi
đƣợc thực hiện qua công cụ thứ nhất của nó là câu hỏi. Nhƣng hành
vi này còn có thể đƣợc thực hiện thông qua một số cấu trúc ngôn
ngữ không mang hình thức hỏi nhƣng cũng có hiệu lực tại ngôn nhƣ
câu hỏi. Các cấu trúc ngôn ngữ khác nhau ấy đƣợc coi là đồng nghĩa
ngữ dụng hoặc đồng nghĩa tại ngôn (les synonymes illocutoires).


18


Chƣơng 2 : Vấn đề phân loại câu hỏi : Về một số cách phân loại câu hỏi
truyền thống và một cách phân loại mới theo quan điểm ngữ
dụng.

Mục đích của chƣơng này, nhƣ tiêu đề đã chỉ rõ, là nhằm đƣa ra một
cách phân loại câu hỏi theo các giá trị dụng học của chúng. Chúng tôi sẽ sử
dụng các công cụ đã đƣợc xây dựng ở chƣơng 1 để phân tích, đánh giá một số

cách phân loại truyền thống phổ biến nhất để từ đó đƣa ra một cách phân loại
mới. Nội dung chính của chƣơng này sẽ gồm các phần nhƣ sau :

 Về một số cách phân loại truyền thống :
1. Câu hỏi với ô Est-ce que ằ / câu hỏi ngữ điệu / câu hỏi đảo chủ ngữ.
2. Câu hỏi trực tiếp / câu hỏi gián tiếp.
3. Câu hỏi tổng thể / câu hỏi bộ phận.
4. Câu hỏi đóng / câu hỏi mở.

Một số nhận xét tổng quát về các cách phân loại truyền thống :

- Mỗi cách phân loại nói trên dựa trên một bộ tiêu chí phân loại riêng
: trong cách phân loại thứ nhất là các tiêu chí thuần tuý hình thức
(các phƣơng thức để tạo câu hỏi) ; trong cách phân loại thứ hai là
các tiêu chí cú pháp (mệnh đề độc lập / mệnh đề phụ) ; ở cách phân
loại thứ ba là phạm vi hỏi của câu hỏi (cho cả mệnh đề / cho một
thành tố của mệnh đề) và ở cách phân loại thứ tƣ là khả năng trả lời
(tập hợp đóng / tập hợp mở). Tình hình trên dẫn đến chỗ có sự giằng
chéo giữa các kết quả phân loại : một câu hỏi với est-ce que có thể là
trực tiếp - tổng thể - đóng hoặc trực tiếp - bộ phận - mở

19



- Trong lĩnh vực dạy và học tiếng Pháp nhƣ một ngoại ngữ, các cách
phân loại truyền thống có thể giúp ngƣời học đặt đƣợc các câu hỏi
đúng, điều kiện cần nhƣng chƣa đủ để có thể sử dụng câu hỏi nhƣ
một công cụ giao tiếp vì các cách phân loại trên đều chỉ dừng ở việc
mô tả câu hỏi ở các góc độ khác nhau mà không hề đề cập đến các

giá trị khác nhau của chúng.

 Về một cách phân loại mới :

Nhƣ chúng ta đã thấy trong các cách phân loại truyền thống, phƣơng
pháp phổ biến cho đến nay trong cách phân loại câu hỏi trong tiếng Pháp là
phân loại lƣỡng phân. Ƣu điểm của phƣơng pháp này là cho ta một bảng phân
loại rõ ràng, mạch lạc nhƣng nhƣợc điểm lớn nhất của nó là không đầy đủ vì
không bao gồm đƣợc tất cả các loại câu hỏi khác nhau. Để có đƣợc một hệ
thống phân loại triệt để theo phƣơng pháp lƣỡng phân, chúng ta sẽ buộc phải
tiến hành phân chiết theo tầng bậc và ở mỗi tầng bậc, chúng ta sẽ phải sử
dụng các tiêu chí khác nhau. Nhƣ vậy, chúng ta sẽ lại rơi vào tình trạng nhƣ
đã nêu trong các nhận xét ở trên (tiêu chí phân loại không thống nhất, dẫn đến
tình trạng giằng chéo giữa các tiểu loại ).

Xuất phát từ định nghĩa câu hỏi nhƣ một yêu cầu thông tin mà ngƣời
nói chƣa biết và muốn biết, chúng tôi đƣa ra một cách phân loại câu hỏi theo
các thang giá trị của chúng trên một trục phân bố nhƣ sau :

Câu hỏi thực


20


1. Câu hỏi - yêu cầu thông tin
2. Câu hỏi - đáp
3. Câu hỏi kiểm tra
4. Câu hỏi - yêu cầu xác nhận


5. Câu hỏi - yêu cầu hành động
6. Câu hỏi tu từ
7. Câu hỏi điều tiết (Questions rộgulatrices)

Câu hỏi giả

Nhƣ vậy, căn cứ theo định nghĩa câu hỏi vừa nêu trên, bảng phân loại
này sẽ đi từ loại câu hỏi thực nhất (câu hỏi - yêu cầu thông tin) cho đến loại
câu hỏi giả nhất (câu hỏi điều tiết).

Chƣơng 3 : ứng dụng của việc nghiên cứu hành vi hỏi và câu hỏi theo quan
điểm ngữ dụng

Chƣơng này sẽ đề cập đến ứng dụng của việc nghiên cứu câu hỏi theo
quan điểm ngữ dụng thông qua các ví dụ cụ thể. Nhƣ đã trình bày trong phần
ý nghĩa khoa học và thực tiễn (xem phần 2.2), ba mảng ứng dụng quan trọng
của luận án là giảng dạy, dịch thuật và một số lĩnh vực khác trong đó câu hỏi
là công cụ chủ yếu và đóng vai trò quyết định nhƣ việc xây dựng các phiếu
thăm dò, hệ thống câu hỏi điều tra, trong các hoạt động phỏng vấn, điều tra
xét hỏi, lấy cung Khi phân tích các cứ liệu bằng tiếng Pháp đã đƣợc dịch và
xuất bản bằng tiếng Việt hoặc những cứ liệu bằng tiếng Việt đã đƣợc dịch và
xuất bản bằng tiếng Pháp, chúng tôi sẽ có dịp đƣa ra các kiến giải và nhận xét

21


trong lĩnh vực dịch thuật. ở chƣơng này, chúng tôi sẽ vận dụng việc nghiên
cứu các giá trị dụng học của câu hỏi đã đƣợc trình bày ở chƣơng 1 và chƣơng
2 để :


1. Đƣa ra một hƣớng tiếp cận mới của việc dạy câu hỏi trong giáo học
pháp ngoại ngữ, cụ thể là trong việc dạy tiếng Pháp cho ngƣời Việt
Nam ;

2. Đƣa ra một số kiến giải, nhận xét và đề xuất liên quan đến câu hỏi
trong lĩnh vực dịch thuật ;

3. Phân tích sự khác biệt giữa câu hỏi-phƣơng tiện giao tiếp hàng ngày
và câu hỏi-công cụ làm việc trong các hoạt động mà ở đó câu hỏi là
công cụ chủ yếu và đóng vai trò quyết định để đánh giá lại kết quả
một cuộc điều tra thăm dò (enquờte) về khả năng kể chuyện của trẻ
em ở lứa tuổi tiền học đƣờng.

Đây sẽ là những ví dụ cụ thể cho thấy việc nghiên cứu hành vi hỏi và
câu hỏi theo quan điểm ngữ dụng không chỉ cho phép chúng ta tiếp cận và tìm
hiểu câu hỏi trong hoạt động hành chức cụ thể của nó mà qua đó còn cung cấp
cho chúng ta một công cụ nghiên cứu trong một số lĩnh vực liên quan.









22






















Chương 1

Mối quan hệ giữa câu hỏi và hành vi hỏi, giữa câu hỏi và câu trả
lời, giữa câu hỏi và các thông số tình huống.

1.1. Từ câu nghi vấn đến cặp câu hỏi-trả lời :

Nghiên cứu câu hỏi trong cặp câu hỏi-trả lời không phải là một điều
mới. Tuy nhiên, về vấn đề này, quan điểm và thái độ của các nhà nghiên cứu
cũng có khác nhau. Meyer đã đƣa ra luận điểm ô các câu riêng lẻ không tồn
tại trong các ngôn ngữ tự nhiên, nếu như không thông qua một quá trình trừu
tượng hoá mang tính lý thuyết ằ [MEYER 1981 : 80,81] để lấy đó làm cơ sở

nghiên cứu câu hỏi và hành vi hỏi. Một số nhà nghiên cứu khác, tuy không
phát biểu một cách hiển ngôn về sự cần thiết phải dựa vào cặp câu hỏi - trả lời

23


trong quá trình nghiên cứu câu hỏi và hành vi hỏi, nhƣng lại viện đến câu trả
lời để định nghĩa, phân loại câu hỏi và ngƣợc lại, dùng câu hỏi để định nghĩa,
phân loại câu trả lời. (FRANỗOIS, 1984, nguyễn Chí Hoà, 1993). Quan điểm
phổ biến hơn cả cho rằng cần phải coi cặp câu hỏi - trả lời nhƣ ô chu cảnh
6

của diễn ngôn trong đó câu trả lời cũng có vị trí và ý nghĩa của
nó ằ.[BORILLO, 1978 : 78]. Trong số những ngƣời theo quan điểm này có
thể kể đến Milner. Theo tác giả này, ô bản thân việc tạo thành các câu hỏi
phải được xem xét trong cặp yêu cầu-trả lời tiềm ẩn ằ và ô thực vậy, chỉ riêng
việc là có nhiều cách khác nhau để hỏi ai ?, tại sao ?, thế nào ? đã cho thấy là
cần phải liên kết các yêu cầu được thể hiện bằng các câu hỏi này với các tiên
lượng khác nhau về các câu trả lời được người hỏi chờ đợi, giả định và/hoặc
hy vọng ở ngay tại thời điểm khi người hỏi đặt câu hỏi ằ [MILNER,
1973 :19]. Nguyễn Thị Thìn thì cho rằng : ô Việc xem xét mối quan hệ tương
tác giữa câu hỏi (chân chính) với câu hồi đáp và chỉ ra một số hình thức,
phương thức hồi đáp của nó là một gợi ý tốt về một chỗ dựa quan trọng cho
việc giải thích ý nghĩa của câu nghi vấn kích thích đồng thời cũng là cố gắng
hữu ích cho sự nghiên cứu hoạt động của câu nghi vấn trong đối thoại trực
tiếp. ằ [nguyễn Thị Thìn, 1994 : 17]. Về điểm này, quan điểm của Lê Đông và
Võ Đại Quang rất gần với nhau. Lê Đông cho rằng : ô Hỏi - trả lời thực chất
là hai mặt của một quá trình thống nhất, là tiền đề tồn tại của nhau. Được trả
lời là mục đích, là lý do của việc đặt câu hỏi. Ngược lại, làm sáng tỏ điều
chưa biết, chưa rõ và cần rõ trong câu hỏi lại là mục đích phát ngôn của câu

trả lời. ằ [LÊ ĐÔNG, 1996 : 16]. Võ Đại Quang thì nói một cách cụ thể hơn :
ô Hỏi và trả lời luôn gắn bó với nhau một cách chặt chẽ trong hoạt động giao
tiếp đối thoại. [ ] Trả lời xuất hiện là có hỏi. Nội dung của câu trả lời là

6
ô contexte ằ trong nguyên bản.


24


phần còn chưa rõ nên bị bỏ trống ở hỏi. [ ] Hỏi và trả lời giả định sự tồn tại
cho nhau vì hỏi là hình thức tìm kiếm kiến thức còn trả lời là phương thức
cung cấp kiến thức. Có thể nói rằng, ngoài hỏi và trả lời, người ta khó có thể
tìm thấy ở các loại hành vi ngôn ngữ khác sự tương tác chặt chẽ về phương
diện ngữ nghĩa - ngữ dụng như vậy.ằ [ võ đại quang, 2000 : 35]. Khi nghiên
cứu về câu hỏi tổng thể trong tiếng Pháp, Borillo cũng đã đặt câu hỏi vào
trong khuôn khổ cặp câu hỏi - trả lời và tác giả đã chỉ rõ sự cần thiết của việc
làm này về mặt phƣơng pháp nghiên cứu : ô Khi sử dụng cặp câu hỏi - trả lời
như một khuôn khổ phân tích mới, người ta đã xây dựng một chu cảnh của
diễn ngôn, chắc chắn là rất hẹp nhưng dẫu sao cũng có một ưu điểm là đó
chính là nơi mà người ta có thể quan sát được hoạt động của câu hỏi ằ và
ô Khi nghiên cứu về câu hỏi, người ta hầu như không thể tránh khỏi việc phải
quan tâm đến cặp câu được hình thành bởi một câu hỏi và một câu trả lời có
khả năng phù hợp với nó cả về mặt cú pháp lẫn ngữ nghĩa. Chính bằng cách
đưa một câu nghi vấn vào khuôn khổ này mà người ta mới có thể, ví dụ như
xác định được lực tại ngôn của nó và phân biệt được nó với các phát ngôn đôi
khi rất gần với nó nếu chỉ xem xét về mặt cấu trúc. ằ [BORILLO, 1978 : 82].

Ngoài những lý do vừa nêu, khi đặt vấn đề nghiên cứu hành vi hỏi và

câu hỏi trong chu cảnh ô câu hỏi - trả lời ằ, chúng tôi còn xuất phát từ những
lý do sau :

1/ Sự phân biệt giữa câu và phát ngôn của Ducrot, theo đó câu ô là một
bản thể ngôn ngữ trừu tượng, luôn đồng nhất trong mọi trường hợp ằ và phát
ngôn ô là một trường hợp cụ thể, là sự hiện thực hoá trong một hoàn cảnh cụ
thể (hic et nun) của câu. ằ [DUCROT, 1984 : 95]. Nhƣ vậy, theo quan điểm
này, trong giao tiếp hàng ngày, chúng ta tiếp xúc không phải là với ô các bản

25


thể ngôn ngữ trừu tượng ằ mà là với các phát ngôn cụ thể, trong một hoàn
cảnh giao tiếp cụ thể.

2/ Khi nghiên cứu câu hỏi trong các hoạt động hành chức cụ thể của nó,
chúng ta không thể dừng ở việc mô tả câu hỏi thông qua các quan sát bề mặt,
hay nói một cách khác, ở việc mô tả cấu trúc cú pháp - ngữ nghĩa của nó.
Thêm nữa, nhƣ chúng ta đều biết, việc hiểu một phát ngôn phải gắn kết chặt
chẽ với tình huống trong đó phát ngôn ấy đƣợc sản sinh. Tình huống, theo
quan điểm của chúng tôi nhƣ đã nêu trong phần Mở đầu của luận án (Xem
mục 4.1), bao gồm chu cảnh (contexte) và ngữ cảnh (cotexte). Nhƣ vậy, việc
nghiên cứu câu hỏi trong cặp câu hỏi - trả lời thực chất là đặt câu hỏi vào ngữ
cảnh của nó vì câu trả lời chính là môi trƣờng ngôn ngữ trực tiếp, gần nhất
của câu hỏi.
3/ Khi nghiên cứu hành vi hỏi và câu hỏi trong các tƣơng tác hội thoại,
chúng ta không thể chỉ quan tâm đến câu hỏi mà phải xem xét cặp câu hỏi -
trả lời vì hai lý do sau :

3.a/ Các nhà nghiên cứu theo các trƣờng phái ngữ pháp hình thức, dù là

miêu tả, cấu trúc hay chuyển đổi tạo sinh, đều nghiên cứu câu nghi vấn với tƣ
cách là một đơn vị đơn thoại, theo một lý thuyết tầng bậc có thể đƣợc hình
dung một cách sơ lƣợc nhƣ sau :

- Câu (Phrase)
- Từ (Mot)
- Hình vị (Morphốme)
- Âm vị (Phonốme)


26


Theo lƣợc đồ này, các đơn vị ở một tầng nhất định sẽ kết hợp với nhau theo
các qui tắc cụ thể để tạo thành một đơn vị ở tầng cao hơn. Các nhà ngôn ngữ
học nhƣ Jakobson, Benveniste, Martinet đã sử dụng lý thuyết tầng bậc này
khi nghiên cứu diễn ngôn đơn thoại.

Dƣới ánh sáng của lý thuyết tầng bậc này, các nhà nghiên cứu hội thoại
trƣờng phái Genève, đứng đầu là Roulet đã đƣa ra một lý thuyết tầng bậc có
thể sử dụng trong phân tích hội thoại nhƣ sau :






- Cuộc thoại
7
(Interaction / Conversation)

- Đoạn thoại (Sộquence)
- Cặp thoại (Echange)
- Tham thoại (Intervention)
- Hành vi ngôn ngữ (Acte de langage)

Nhìn bề ngoài, hai lƣợc đồ này có vẻ giống nhau nhƣng thực ra có một
sự khác biệt rất lớn. Nếu nhƣ nguyên tắc tổ chức nội tại là nhƣ nhau (các đơn
vị ở một tầng nhất định kết hợp với nhau theo các qui tắc cụ thể để tạo thành
một đơn vị ở tầng cao hơn), ở lƣợc đồ thứ hai, chúng ta có thể và cần phải đặt

7
Thực ra các nhà nghiên cứu hội thoại trường phái Genève chỉ thừa nhận đoạn thoại là
đơn vị hội thoại lớn nhất và không xếp cuộc thoại vào số các đơn vị cấu trúc hội
thoại.(Xem Roulet 1981, Moeschler 1985).

×