Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Từ vay mượn có nguồn gốc Ấn Âu trong tiếng Hán (có so sánh với tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (630.29 KB, 104 trang )

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

DIỆP TIỂU HOA
TỪ VAY MƯỢN CÓ NGUỒN GỐC ẤN ÂU TRONG
TIẾNG HÁN
(CÓ SO SÁNH VỚI TIẾNG VIỆT)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Hà Nội-2014
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

DIỆP TIỂU HOA
TỪ VAY MƯỢN CÓ NGUỒN GỐC ẤN ÂU
TRONG TIẾNG HÁN
(CÓ SO SÁNH VỚI TIẾNG VIỆT)
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Ngôn ngữ học
Mã số: 60220240
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Văn Chính
Hà Nội-2014
3
LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành luận văn này, trước tiên xin gửi lời cảm ơn đến PGS. TS.
Nguyễn Văn Chính
Sự động viên của gia đình và bạn bè cũng là nguồn động lực chính giúp tôi
hoàn thành tốt luận văn.
Hà Nội, 2014


Diệp Tiểu Hoa
4
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 9
1. Lý do chọn đề tài 9
2. Mục đích nghiên cứu 9
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu 10
4. Phương pháp nghiên cứu 10
5. Nội dung cơ bản của luận văn 10
PHẦN NỘI DUNG 11
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT 11
Đặt vấn đề 11
1.1. Nhận diện từ vay mượn trong ngôn ngữ Hán 12
1.2. Từ ngoại lai và từ vay mượn 13
1.3 Định nghĩa từ vay mượn 16
1.4. Từ dic̣h ý và từ vay mượn 18
1.4.1. Đặt vấn đề 18
1.4.2. Từ dịch ý 19
1.4.3. Từ dịch ý và từ vay mượn 20
1.5. Nguồn gốc từ vay mượn trong ngôn ngữ Hán - Việt 22
1.5.1. Khái lược lịch sử từ vay mượn trong tiếng Hán 22
1.5.2. Khái lược lịch sử từ vay mượn trong tiếng Việt 24
1.6. Nguyên nhân vay mượn từ ngoại lai trong ngôn ngữ Hán - Việt 26
1.6.1. Nguyên nhân vay mượn từ ngoại lai trong ngôn ngữ Hán 26
1.6.1.1. Phát triển chính trị, kinh tế, văn hóa 26
1.6.1.2. Nhu cầu xu thế quốc tế hóa 27
1.6.1.3. Ảnh hưởng của nhân tố xã hội 27
1.6.2. Nguyên nhân vay mượn từ ngoại lai trong tiếng Việt 28
1.6.2.1. Nguyên nhân phát triển chính trị, kinh tế, văn hóa 28
1.6.2.2. Nguyên nhân nhu cầu của phát triển xã hội 29

1.6.2.3. Nguyên nhân nhu cầu phát triển tự thân của tiếng Việt 30
5
1.7. Chức năng của từ vay mượn 31
1.7.1. Chức năng ngôn ngữ 32
1.7.2. Chức năng xã hội 33
1.7.3. Chức năng văn hóa 35
1.7.4. Chức năng tâm lý 36
1.8. Ảnh hưởng của từ vay mượn đối với ngôn ngữ Hán 38
1.8.1. Từ vay mượn làm gia tăng vốn từ vựng tiếng Hán 38
1.8.2. Từ vay mượn giúp từ vựng Hán có thêm các sắc thái ý nghĩa từ vựng 39
1.8.3. Bổ sung sắc thái cảm tình cho tiếng Hán 39
1.9. Quy phạm và thái độ ứng xử đối với từ vay mượn 40
Tiểu kết 41
CHƯƠNG 2: BỨC TRANH TỔNG QUÁT VỀ TỪ VAY MƯỢN ẤN – ÂU
TRONG HAI NGÔN NGỮ HÁN - VIỆT 42
Đặt vấn đề 42
2.1. Nguồn gốc từ vay mượn gốc Ấn – Âu trong hai ngôn ngữ Hán - Việt 43
2.1.1. Nguồn gốc từ vay mượn trong tiếng Hán 43
2.1.1.1. Nguồn gốc tôn giáo 43
2.1.1.2. Gốc các dân tộc nước ngoài 44
2.1.1.3. Gốc tiếng Pháp 46
2.1.1.4. Gốc tiếng Đức 46
2.1.1.5. Gốc tiếng Nga 49
2.1.1.6. Gốc tiếng Anh 49
2.1.2. Nguồn gốc từ vay mượn trong tiếng Việt 50
2.1.2.1 Từ vay mượn gốc Ấn Độ 50
2.1.2.2. Từ vay mượn gốc Pháp 51
2.1.2.3. Từ vay mượn gốc Anh 52
2.2. Đặc điểm từ vay mượn Ấn-Âu trong hai ngôn ngữ Hán - Việt 55
2.2.2. Đặc điểm từ vay mượn Ấn-Âu trong tiếng Hán 55

2.2.2.1. Đặc điểm ngữ vực 55
6
2.2.2.2. Tính chất, diễn biến 57
2.2.3. Đặc điểm từ vay mượn gốc Ấn Âu trong tiếng Việt 59
2.2.3.1. Đặc điểm ngữ vực 59
2.2.3.2. Tính chất, diễn biến 61
Tiểu kết 63
CHƯƠNG 3: SO SÁNH TỪ VAY MƯỢN ẤN – ÂU TRONG HAI NGÔN
NGỮ HÁN – VIỆT 64
Đặt vấn đề 64
3.1. Phương thức vay mượn từ trong ngôn ngữ Hán – Việt 65
3.1.1. Phương thức vay mượn trong tiếng Hán 65
3.1.1.1. Từ ngoại lai du nhập theo phương thức phiên âm 65
3.1.1.2. Từ vay mượn theo phương thức phiên âm kiêm ý liên hệ 69
3.1.1.3. Từ vay mượn nguyên hình thức 71
3.1.2. Phương thức vay mượn trong tiếng Việt 74
3.1.2.1. Từ phiên âm 74
3.1.2.2. Từ phiên âm kết hợp thêm biểu ý 74
3.1.2.3. Vay mượn trực tiếp 75
3.2. Con đường thâu nhập từ vay mượn trong hai ngôn ngữ Hán và Việt 75
3.2.1. Vay mượn thông qua Phật Giáo và các tôn giáo khác 75
3.2.2. Vay mượn trong quá trình thực địa hoá của thực dân 75
3.2.3. Tác phẩm phiên dịch của trí thức yêu nước 76
3.3. Một số khác biệt về phân bố từ ngoại lai trong hai ngôn ngữ Hán và Việt 76
3.3.1. Trường hợp từ vay mượn xuất hiện trong tiếng Hán mà không hoặc ít xuất
hiện trong tiếng Việt 77
3.3.1.1. Từ ngoại lai gốc Nga thường gặp 77
3.3.1.2. Từ ngoại lai gốc Đức-Ý thường gặp 78
3.3.1.3. Từ ngoại lai tiếng Hán hiện đại (mới) có nguồn gốc tiếng Đức trong lĩnh
vực khoa học 79

7
3.3.2. Trường hợp từ ngoại lai (vay mượn) xuất hiện trong tiếng Việt mà không
hoặc ít xuất hiện trong tiếng Hán 80
3.3.2.1. Từ ngoại lai gốc Pháp thường gặp trong tiếng Việt (tiếng Hán ít gặp) 80
3.3.2.2. Có một sự vay mượn đơn chiều Hán – Việt mà ít có sự vay mượn Việt Hán
81
3.4. Một số sự biến đổi của từ ngoại lai khi đi vào tiếng Hán 83
3.4.1. Biến đổi ngữ âm 83
3.4.1.1. Biến đổi hình thức kết cấu âm tiết 83
3.4.1.2. Biến đổi bộ phận âm tố trong âm tiết 84
3.4.1.3. Tăng giảm âm tiết 84
3.4.2. Biến đổi nghĩa, ngữ thể và tu từ 84
3.4.2.1. Mở rộng nghĩa từ 84
3.4.2.2. Thu hẹp nghĩa từ 85
3.4.2.3. Phát sinh thêm nghĩa từ 85
3.4.2.4. Suy diễn nghĩa từ 86
3.4.2.5. Thay đổi ý nghĩa tình thái của từ 86
3.4.2.6. Phân hóa nghĩa từ 87
3.5. Một số sự biến đổi của từ ngoại lai khi đi vào tiếng Việt 87
3.5.1. Biến hóa ngữ âm 87
3.5.1.1. Thêm thanh điệu 87
3.5.1.2. Đơn âm tiết hóa 88
3.5.1.3. Biến đổi ngữ âm 88
3.5.1.4 Tỉnh lược âm 89
3.5.2. Biến đổi nghĩa, ngữ thể và tu từ 90
3.5.2.1. Mở rộng nghĩa 90
3.5.2.2. Thu hẹp nghĩa 91
3.5.2.3. Thay đổi nghĩa 91
3.5.2.4. Phát sinh thêm nghĩa từ 91
3.5.2.5. Thay đổi nghĩa tình thái (chủ quan) 91

8
3.5.2.6. Phân hóa nghĩa 92
3.6. Ảnh hưởng của từ vay mượn gốc Ấn - Âu trong ngôn ngữ Hán – Việt 92
3.6.1. Mặt tích cực 92
3.6.2. Mặt tiêu cực 95
Tiểu kết 97
KẾT LUẬN 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO 101
9
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dưới góc nhìn tiếp biến văn hóa, có thể ví ngôn ngữ như một điểm hội tụ
của văn hóa. Các yếu tố đó có thể là các yếu tố thuộc địa hạt từ vựng nhưng cũng
có thể là các đặc điểm ngữ âm hoặc là các cấu trúc ngữ pháp. Trung Quốc trong xu
thế giao lưu hội nhập quốc tế đã tạo điều kiện cho tiếng Hán hiện đại vay mượn rất
nhiều các yếu tố từ vựng, các từ mà người Hán vay mượn là những từ mà tiếng Hán
còn thiếu ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Là hai nước có quan hệ gần gũi với nhau, Trung Quốc và Việt Nam trong
quá trình tồn tại và phát triển của mỗi nước đã có những ảnh hưởng qua lại tích
cực. Sự hiện diện của một số lượng lớn các từ Hán Việt và các kết cấu ngữ pháp
Hán trong tiếng Việt là những biểu hiện sinh động cho sự tác động qua lại giữa hai
nền văn hóa. Trong giới ngôn ngữ học hai nước, các công trình nghiên cứu về từ
Hán Việt là tương đối nhiều và kết quả nghiên cứu cũng đã được khẳng định.
Dẫu vậy, trong quá trình phát triển đi lên, cả hai quốc gia đều mở cửa giao
lưu với bên ngoài từ rất sớm. Tiếng Hán và tiếng Việt trong quá trình đó đã du nhập
vào mình hàng loạt những yếu tố ngoại lai mà một biểu hiện dễ thấy nhất là vốn từ
vựng có nguồn gốc nước ngoài trong đó có vốn từ ngoại nhập gốc Ấn – Âu. Chúng
tôi, với luận văn này dự kiến tập trung chủ yếu vào khảo sát tìm hiểu các từ vay
mượn nguồn gốc Ấn-Âu trong tiếng Hán, có so sánh với hiện tượng này trong tiếng
Việt. Chúng tôi hy vọng có thể sử dụng kết quả nghiên cứu của luận văn phục vụ

cho một số công việc liên quan đến thực hành ngôn ngữ như giảng dạy tiếng Trung
và tiếng Việt
2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua nghiên cứu đặc điểm của từ vay mượn Ấn-Âu trong tiếng Hán
(so sánh với tiếng Việt), chúng tôi hy vọng luận văn góp phần vào việc nghiên cứu
sâu hơn nữa về hiện tượng vay mượn Ấn-Âu nói riêng và hiện tượng vay mượn từ
nói chung; góp phần vào việc giảng dạy tiếng Việt cho người Trung Quốc Hán với
tư cách là ngoại ngữ đối với người Việt.
10
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
Từ vay mượn nói chung là đối tượng rất rộng. Trong phạm vi của một luận
văn thạc sỹ, chúng tôi chỉ tập trung khảo sát từ vay mượn gốc Ấn Âu đã được ghi
trong từ điển, trên các phương diện: nguồn gốc, đặc điểm, phương thức vay mượn.
Cụ thể:
• Khảo sát các từ được cho là có nguồn gốc Ấn – Âu trong tiếng Hán được ghi
trong từ điển và trong một số tác phẩm văn học dịch. Công việc này cũng sẽ
được tiến hành đối với tiếng Việt.
• Thống kê các từ vay mượn gốc Ấn – Âu trong hai ngôn ngữ, tiến hành phân
loại chúng thành các tiểu nhóm rồi mô tả đặc điểm chung và của các từ vay
mượn này trước khi đi sâu tìm hiểu một nhóm điển hình.
• Bước đầu so sánh đặc điểm các từ vay mượn gốc Ấn – Âu trong tiếng Hán
và tiếng Việt.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chủ yếu sẽ là thống kê miêu tả kết hợp chặt chẽ với phương
pháp đối chiếu so sánh, trên cơ sở nền là phép biện chứng lịch sử của chủ nghĩa
duy vật lịch sử.
5. Nội dung cơ bản của luận văn
- Chương 1: Cơ sở lý thuyết
- Chương 2: Bức tranh tổng quát về từ vay mượn Ấn - Âu trong tiếng Hán và
tiếng Việt

- Chương 3: So sánh từ vay mượn Ấn Âu trong tiếng Hán và tiếng Việt.
11
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Đặt vấn đề
Hiện nay, với xu thế toàn cầu hóa, sự giao lưu và ảnh hưởng lẫn nhau về văn hóa
giữa các quốc gia ngày một thêm sâu sắc; mối quan hệ giữa các nước, xét trên góc
nhìn văn hóa, là kiểu trong anh có tôi, trong tôi có anh, càng lúc càng mật thiết.
Tiếng Hán, thành tố trọng yếu của văn hóa Trung Quốc, tất nhiên cũng chịu tác
động của trào lưu quốc tế hóa, vốn từ vay mượn trong tiếng Hán ngày càng nhiều,
phong phú, đa dạng. Ngôn ngữ biến đổi theo dòng chảy thời gian và sự biến thiên
của xã hội, trong đó từ vay mượn thể hiện những biến đổi mới trong cuộc sống. Số
lượng lớn từ ngoại lai thâu nhập vào cho thấy sự giao lưu mật thiết giữa Trung
Quốc với các nước trên thế giới và sự biến đổi cách tân từng ngày trong cuộc sống
con người. Trung Quốc trong lúc hấp thu từ nước ngoài không thể đi ngược quy
luật phát triển, truyền thống và thói quen ngôn ngữ để tự ý biên tập tạo mới mà phải
tuân theo quy luật phát triển khách quan, nắm vững phương pháp tạo từ mới có lợi
cho sự phát triển ngôn ngữ của dân tộc.
Từ vay mượn là sản phẩm tất yếu của quá trình tiếp xúc ngôn ngữ, văn hóa, là kết
quả của sự giao lưu qua lại giữa các dân tộc, quốc gia. Nghiên cứu tiến trình thâm
nhập của từ ngoại lai giúp hiểu rõ lịch sử tiếp xúc qua lại giữa dân tộc Hán với các
dân tộc khác, giữa Trung Quốc với nước khác, làm rõ đặc trưng các giai đoạn phát
triển của lịch sử văn hóa. Đây là ý nghĩa của việc nghiên cứu từ vay mượn đối với
văn hóa học hay ngôn ngữ học văn hóa. Trên bình diện ngôn ngữ học, từ ngoại lai
nói chung và từ vay mượn nói riêng là từ ngữ của ngôn ngữ có xuất xứ ngoài tiếng
Hán. Phân tích quá trình hấp thu và biến đổi của bộ phận này sẽ giúp hiểu rõ hơn
quy luật phát triển nội bộ của tiếng Hán.
Nhà ngôn ngữ học Mỹ E. Sapir cho rằng: “Ngôn ngữ, giống như văn hóa, rất ít
loại tự mình hoàn thiện. Nhu cầu giao tiếp khiến giữa người nói một loại ngôn ngữ
với người nói một ngôn ngữ gần giống hoặc chiếm ưu thế trên góc độ văn hóa nảy

sinh tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp”[35]. Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp của nhân
12
loại, các dân tộc trong quá trình giao thương buôn bán, giao lưu văn hóa, chiến
tranh thực dân, di dân tạp cư tất yếu phát sinh sự tiếp xúc, tương hỗ về ngôn ngữ.
Ngôn ngữ khi tiếp xúc bổ trợ qua lại sẽ chịu ảnh hưởng lẫn nhau, ảnh hưởng này
từng bước tác động đến những tầng mặt ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp. Ảnh hưởng
đơn giản nhất giữa một ngôn ngữ đến ngôn ngữ khác là sự “vay mượn” từ. Bất cứ
quốc gia, dân tộc nào trong dòng chảy lịch sử phát triển của mình đều không thể
đứng độc lập, hoàn toàn bế quan tỏa cảng, tự cung tự cấp, mà tất yếu phải tiến hành
tiếp xúc và giao lưu với dân tộc khác, vì vậy dường như bất kỳ kho từ vựng của
ngôn ngữ nào cũng bao hàm một số lượng nhất định từ vay mượn.
1.1. Nhận diện từ vay mượn trong ngôn ngữ Hán
Sự tiếp xúc bổ trợ qua lại giữa các ngôn ngữ khác nhau là một hiện tượng thường
xuyên. Khi người sử dụng ngôn ngữ mô phỏng một từ trong ngôn ngữ khác, đem
quy tắc phát âm và cách sử dụng từ này nạp vào hệ thống ngôn ngữ của mình, quá
trình này được gọi là vay mượn, các từ này được gọi là từ ngoại lai hay từ vay
mượn. Theo cách hiểu chung, “từ ngoại lai” và từ vay mượn là loại từ vốn không
thuộc ngôn ngữ dân tộc mình, là loại từ ngữ do chịu ảnh hưởng của dân tộc khác
mà phát sinh. Loại từ lấy nguyên bản từ ngôn ngữ khác được sử dụng lai tạp trong
ngôn ngữ, dạng từ vận dụng hình thức mang sắc thái “ 洋 经 滨 - dương kinh tân”
trong khẩu ngữ hàng ngày sẽ không thuộc phạm trù từ ngoại lai mà chúng tôi đề
cập. Ví dụ như trong khẩu ngữ, có lúc trực tiếp sử dụng từ tiếng Anh “in” để biểu
thị “ ” 流 行 (hiện hành), “out” biểu thị “ ” 过 时 (quá hạn), “fashion” biểu thị “时
” 尚 (thời thượng). Về bản chất, từ ngoại lai cũng như từ vay mượn phải là những
từ đã du nhập hẳn vào vốn từ của một ngôn ngữ dân tộc nào đó, đã có những đặc
điểm và hoạt động phù hợp với các điều kiện của ngôn ngữ dân tộc mà nó nhập
vào, so với bản thân từ này trong hệ thống ngôn ngữ khác có sự khu biệt về bản
chất. Về phạm vi, theo hướng phát triền mới của khoa học ngôn ngữ tại Trung
Quốc hiện nay, khái niệm từ vay mượn và từ ngoại lai đã xuất hiện những dị biệt
cần phân tích rõ.

13
1.2. Từ ngoại lai và từ vay mượn
Tìm hiểu lịch sử nghiên cứu ngoại lai nói chung và từ vay mượn nói riêng, chủ
yếu có các tên gọi “ngôn ngữ ngoại lai”, “từ mượn”, “từ ngoại lai”, ngoài ra còn có
nhiều tên gọi khác như dịch ngữ, dịch danh, ngôn ngữ mượn nhập, ngôn ngữ vay
mượn.
(1) Ngôn ngữ ngoại lai: “Phép lục thư và lục thư” của Trần Vọng Đạo viết:
“tất cả các cách dụng ngữ đều sử dụng hai phương pháp chính là “nội phát” và
“ngoại lai”. “Nội phát” là các từ gốc bản địa do tự mình sáng tạo ra, loại ngôn ngữ
này có thể gọi là “ngôn ngữ nội phát” (ngôn ngữ có nguồn gốc xuất xứ từ nội địa).
Đối lập với “ngôn ngữ nội phát” chính là ngôn ngữ ngoại lai vay mượn từ nước
khác, “ngôn ngữ ngoại lai” lấy âm nghĩa là chủ đạo”.
(2) Từ mượn/chữ mượn: theo “Ngôn ngữ và văn hóa” của La Thường Bồi:
“Cái gọi là “từ mượn” chính là thành phần ngôn ngữ ngoại lai tạp lẫn trong ngôn
ngữ một nước.”
(3) Từ ngoại lai: được đề cập sớm nhất trong “Nghiên cứu từ ngoại lai tiếng
Hán hiện đại” của Cao Danh Khải, Lưu Chính. Sử Hữu Vi (1937-) cho rằng, từ
ngoại lai trong tiếng Hán chỉ những từ trên tiền đề lấy nguyên nghĩa từ của ngôn
ngữ dân tộc khác, mượn toàn bộ hoặc một bộ phận hình thức ngữ âm tương ứng với
từ của dân tộc này, và có sự khác biệt về trình độ với từ tiếng Hán Hán hóa [22].
Nói một cách khái quát, từ ngoại lai trong tiếng Hán là những từ được mượn từ
ngôn ngữ khác, đã được sử dụng trong một thời gian tương đối dài và có tính ổn
định tương đối.
Sử Hữu Vi từng viết rất nhiều bài nghiên cứu trên cơ sở lịch sử vấn đề thuật
ngữ từ ngoại lai, như “Ngôn ngữ ngoại lai” trong yếu tố ngoại lai và các vấn đề liên
quan khác; Ảnh hưởng của “Ngôn ngữ ngoại lai” và “từ khái niệm ngoại lai”, “từ
ảnh hưởng ngoại lai”; Lại bàn về thuật ngữ từ ngoại lai…, ông chỉ ra: (1)“ngôn ngữ
ngoại lai” từ Nhật Bản du nhập vào, và (2)“từ vay mượn, chữ vay mượn” thì do học
giả Trung Quốc căn cứ trên các từ có trong ngôn ngữ phương Tây trực tiếp phiên
dịch thành; (3) “từ ngoại lai” lấy từ sự kết hợp giữa “từ mượn” và “ngôn ngữ ngoại

14
lai”, vào khoảng vào những năm 50 của thế kỷ 20, do các học giả chịu ảnh hưởng
từ các “từ” thuật ngữ mới mà đề xuất ra. Tên gọi từ ngoại lai liên tục được sử dụng,
đến thời Từ Kiến, đề xuất “dùng các từ khái niệm ngoại lai bao hàm cả sắc thái và
nghĩa rộng để thay thế “từ ngoại lai”. Tên gọi này sau đó dẫn đến các tranh luận
gay gắt: người tán đồng thì cho rằng đã giải quyết được khiếm khuyết không thể
bao hàm từ dịch ý của từ ngoại lai; bên phản đối cho rằng tên gọi này dùng thuật
ngữ logic học - “khái niệm” để thay thế thuật ngữ ngôn ngữ học - “từ nghĩa”, “do lo
ngại khó giải quyết được nhiệm vụ bao hàm cả sắc thái và nghĩa rộng, mà đề xuất:
- Từ ảnh hưởng ngoại lai: theo Hoàng Hà Thanh trong Từ ảnh hưởng ngoại
lai tiếng Hán: “chính là từ chịu ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài tiếng Hán, ảnh
hưởng này có thể đến từ ngôn ngữ, như ngữ âm, nghĩa từ, hình dạng văn tự, cũng
có thể đến từ các sự vật”[36].
- Từ mở rộng nghĩa ngoại lai, theo Tôn Lực Bình trong “Từ khố kiến thiết
nhị luận” (Luận về hai phương thức kiến tạo từ vựng), là loại từ trong tiếng Hán do
chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ văn hóa ngoại tộc mà sản sinh”[36]. Xuất phát điểm
đề xuất ba loại danh xưng trên đều để giải quyết khuyết điểm không bao hàm từ
dịch nghĩa và từ kanzi tiếng Nhật của từ ngoại lai truyền thống, trên thực tế đã thực
hiện được điều này; nhưng đề xuất thuật ngữ nếu quá chú trọng yếu tố ngoại diên,
thường sẽ làm rơi rụng các yếu tố liên quan đến bộ phận nội hàm. Nếu quy tất cả
các từ do chịu ảnh hưởng của sự vật ngoại lai mà xuất hiện vào loại từ ảnh hưởng
ngoại lai, và hoàn toàn gạt bỏ phương pháp cũng như yếu tố cấu thành vốn là bản
chất của từ, như loại từ kiểu “洋灰-xi măng”, thì tựa hồ quá nhiều cái mất. Nội hàm
và ngoại diên của các loại thuật ngữ không chỉ có sự tương đồng, mà cùng với sự
nghiên cứu về từ ngoại lai còn có nhiều sự tranh luận. Sự thống nhất được về thuật
ngữ vốn là một bước tiến của nghiên cứu khoa học, vì vậy sự tranh luận cũng là
điều tất yếu.
Từ đó có thể thấy, khái niệm “từ vay mượn” không được dùng để chỉ những từ
ngữ mượn dùng tạm thời, không trải qua bất cứ hình thức cải tạo biến đổi nào, mà
chỉ loại từ ngữ đã trải qua các hình thức cải tạo biến đổi nhất định, là một bộ phận

15
tổ thành hữu cơ trong hệ thống từ vựng tiếng Hán, cho đến nay chúng đều đã là từ
tiếng Hán.
Như vậy, bàn về từ vay mượn, rộng hơn là “từ ngữ ngoại lai”, “từ ngữ vay mượn”
trước nay thường có 3 hướng quan niệm chính: Theo truyền thống từ ngoại lai là
chỉ loại từ ngữ xuất phát từ tiến trình hấp thu ngôn ngữ dân tộc khác. Cách hiểu này
đến nay vẫn còn là một vấn đề tranh luận. Một quan điểm khác cho rằng “từ ngoại
lai” chính là “từ phiên âm”, tức cho rằng “từ dịch ý” không phải từ ngoại lai. Quan
điểm khác nữa thì cho rằng từ dịch ý giống như từ phiên âm, đều thuộc phạm trù từ
ngoại lai, mặc dù chúng đã trải qua quá trình Hán hóa tương ứng, tức dịch ý Hán
hóa. Chúng tôi cho rằng từ ngoại lai là chỉ các từ trong tiếng Hán do thâu nhập từ
ngôn ngữ hoặc phương ngôn của dân tộc khác mà có. Vì vậy, đều nên đưa những
dạng từ này nhập vào phạm trù từ ngoại lai, thừa nhận điểm này sẽ có ích cho việc
lý giải quá trình phát triển biến hóa và Hán hóa của từ ngoại lai, cũng như hoạch
định phạm vi, vị trí của từ vay mượn.
Lịch sử ngôn ngữ ngoại lai của tiếng Hán có có căn nguyên đã lâu dài, nhưng
việc giới hạn phạm vi ngôn ngữ ngoại lai nói chung và từ vay mượn nói riêng cho
đến nay vẫn còn có nhiều bất đồng. Học giả Vương Lực cho rằng chỉ có từ mượn
(từ phiên âm) mới là ngôn ngữ ngoại lai. Từ dịch (từ dịch ý) do sử dụng phương
thức và các yếu tố cấu thành từ của ngôn ngữ Hán nên bị xếp ngoài. Một quan điểm
khác cho rằng chỉ cần có xuất xứ từ ngôn ngữ khác thì đều là ngôn ngữ ngoại lai,
đều có thể gọi là từ vay mượn. Luận văn từ góc độ nghĩa rộng tiến hành khảo sát
nghiên cứu biến đổi của ngôn ngữ ngoại lai trong quá trình phát triển của ngôn ngữ
Hán hiện đại, và ảnh hưởng của ngôn ngữ ngoại lai đối với từ vựng tiếng Hán.
Chúng tôi cho rằng tất cả các từ ngữ có nguồn gốc từ ngôn ngữ khác đều thuộc
phạm trù ngôn ngữ ngoại lai, đều có thể gọi là từ mượn. Tổng quan lịch sử phát
triển của ngôn ngữ Hán, nguồn gốc của ngôn ngữ ngoại lai trong tiếng Hán có hai
phương diện: trong nước và ngoài nước. Từ phương diện quốc nội, Trung Quốc tự
cổ chí kim đều có tình trạng nhiều dân tộc cùng tạp cư và sự vay mượn lẫn nhau
giữa ngôn ngữ các dân tộc. Có thể thấy, ngôn ngữ Hán đã mượn dùng rất nhiều từ

16
ngữ của các dân tộc khác ở Trung Quốc, và tới nay hầu hết chúng rất khó để phân
biệt. Từ giai đoạn cận đại trở về sau, ngày càng nhiều ngôn ngữ ngoại lai được
mượn dùng đến từ các quốc gia, dân tộc khác.
1.3 Định nghĩa từ vay mượn
Sự phong phú về thuật ngữ khi xem xét vấn đề từ vay mượn có thể được coi là
biểu hiện đa dạng trong cách hiểu của các nhà nghiên cứu về vấn đề này. Trước hết
cần xem xét các định nghĩa về thuật từ ngoại lai trong ngôn ngữ học Trung Quốc,
vốn có nội hàm bao trùm thuật ngữ từ vay mượn tại Việt Nam khi hiểu theo nghĩa
rộng.
(1) Định nghĩa/Cách hiểu từ ngoại lai theo nghĩa hẹp
Theo “Nghiên cứu từ ngoại lai tiếng Hán hiện đại” của Cao Danh Khải, Lưu
Chính: “ý nghĩa của từ trong tiếng nước ngoài mang âm tiết đi liền ý nghĩa không
có trong ngôn ngữ nước ta được chuyển nhập vào, các từ này được gọi là từ ngoại
lai”. Vương Lực trong “Hán ngữ sử cảo” (quyển trung), Ngũ Thiết Bình trong
“Khái lược ngôn ngữ học phổ thông”, (Cao đẳng giáo dục xuất bản xã, 1993) và
Trương Ứng Đức… đều giữ quan điểm này, tức cho rằng từ phiên âm mới là từ
ngoại lai. Trương Ứng Đức chủ trương rõ ràng xếp từ mượn dùng hình và nghĩa
của từ chữ kanzi trong ngôn ngữ Nhật ra ngoài, Vương Lực, Cao Danh Khải khi
phân loại thường quy vào phạm trù từ ngoại lai. Phái này xuất phát từ đặc trưng bản
chất của từ là sự kết hợp nhất thể của âm - nghĩa để định nghĩa từ ngoại lai, cho
rằng phương pháp và các yếu tố cấu thành từ dịch ý đương nhiên đều là của tiếng
Hán, tức xem đây là từ vốn có trong ngôn ngữ Hán.
(2) Định nghĩa/ Cách hiểu từ ngoại lai theo nghĩa rộng
Theo nghĩa rộng, từ ngoại lai được hiểu là các từ có xuất xứ nước ngoài, xuất
hiện do chịu ảnh hưởng của từ nước ngoài, bất kể âm nghĩa. Phan Doãn Trung
trong “Khái lược lịch sử từ vựng tiếng Hán” cho rằng: nếu từ giữ nguyên âm tiết
(như “ ” 师比 shu-bi) thì là từ mượn, nhưng khi dùng chữ Hán để phiên dịch nghĩa
gốc của từ ấy (như “胡琴” – đàn hồ cầm) thì đó là từ dịch, cả hai đều được quy vào
phạm trù ngôn ngữ ngoại lai. Trương Chí Công trong “Hán ngữ hiện đại” (Nhà

17
xuất bản giáo dục nhân dân, 1984) cho rằng: từ ngoại lai chỉ dạng từ hấp thu từ
ngôn ngữ của các dân tộc khác (bao gồm trong nước và ngoài nước). Như vậy,
Phan Doãn Trung đơn thuần lấy “nghĩa ngoại lai” làm căn cứ chủ yếu xác định từ
ngoại lai; Trương Chí Công thì định nghĩa một cách tương đối rộng và mơ hồ, Chu
Tổ Mô, Trịnh Điện cũng cùng quan điểm như vậy. Nếu căn cứ theo định nghĩa của
hai phái này, tiêu chí của phái nghĩa hẹp dường như đầy đủ hơn. Nhưng trong các
thảo luận liên quan trong Từ kiến, đại bộ phận học giả đều đi theo hướng định
nghĩa nghĩa rộng. Hoàng Hà Thanh trong Từ ảnh hưởng ngoại lai tiếng Hán cho
rằng: “Không ít từ phiên âm trong ngôn ngữ Hán được đặt trong những tình huống
cụ thể, có lúc chúng diễn biến thành từ dịch ý, như hysteria (bệnh thần kinh): 歇斯
底 里 xie-si-di-li (phiên âm) – 癔 病 yi-bing (dịch ý). Đây là hai cách dịch danh
xưng khác nhau của cùng một hiện tượng. Nếu căn cứ trên quan điểm của các học
giả trên, chúng ta buộc phải tách rời các nhân tố vốn luôn đi cùng nhau này, cái
trước là từ ngoại lai, cái sau không phải từ ngoại lai, rõ ràng là điều này đối với
việc hệ thống, nghiên cứu từ ngoại lai là một việc rất bất lợi, bởi chúng tách rời tiến
trình diễn biến của từ ngoại lai.” Do vậy các học giả nỗ lực tìm kiếm một định
nghĩa có khả năng bao hàm từ dịch ý và từ ngoại lai gốc Nhật một cách cụ thể. Ngô
Thế Hùng trong Liên quan tới suy khảo và nghiên cứu “từ khái niệm ngoại lai”

đề
xuất: chúng tôi cho rằng, chỉ cần trong mỗi âm tiết, văn tự và ý nghĩa của một từ
ngữ tiếng Hán có một yếu tố mượn dùng từ ngôn ngữ của dân tộc khác, thì từ ngữ
có thể xem là “từ ngoại lai” [34]. Nhưng định nghĩa này vẫn bị xem là chưa đủ chặt
chẽ chính xác. Hoàng Hà Thanh trong “Các vấn đề trong nghiên cứu từ ngoại lai
tiếng Hán” nói: định nghĩa một cách kín kẽ, từ (hấp thu) trong ngôn ngữ dân tộc
khác nên chỉ các loại từ nguyên bản, như “tank” (xe tăng), chứ không phải “ 坦
”克 danke, bởi vì “ ” 坦克 không phải từ bằng ngôn ngữ dân tộc khác (ngôn ngữ
Anh).” Cho nên định nghĩa dưới đây được cho là chuẩn xác hơn: từ ngoại lai là từ
được hấp thu từ ngôn ngữ dân tộc khác do sự hạn chế trong hệ thống ngữ âm ngữ

nghĩa của ngôn ngữ dân tộc ta” [A12, 19-23]. Trên cơ sở định nghĩa của Trương
Tĩnh, với mục đích bao gồm cả từ hệ kanzi trong tiếng Nhật, Hoàng Hà Thanh đề
18
ra một định nghĩa cho từ ngoại lai “từ ngoại lai là từ được hấp thu từ ngôn ngữ dân
tộc khác do sự hạn chế trong hệ thống ngữ âm, ngữ nghĩa, văn tự của ngôn ngữ dân
tộc ta”. Đây là định nghĩa rộng nhất, đồng thời cũng chú trọng đến hai phương diện
quan trọng của từ ngoại lai.
Luận văn, như trên đã đề cập, chúng tôi cho rằng tất cả các từ ngữ có nguồn
gốc từ ngôn ngữ khác đều thuộc phạm trù ngôn ngữ ngoại lai. Tuy nhiên, trong
phạm vi đề tài, chúng tôi chọn cách hiểu từ ngoại lai theo nghĩa hẹp, tức tương ứng
với phạm vi thuật ngữ từ vay mượn thường dùng tại Việt Nam, là từ mang yếu tố
âm hoặc hình chữ gắn liền ý nghĩa của từ nước ngoài có trong ngôn ngữ một nước,
xưất hiện do sự hạn chế trong hệ thống ngữ âm, ngữ nghĩa, văn tự của nước này.
Chúng tôi sẽ không đề cập các từ vay mượn kiểu thông tục, không chính thống và
chưa được ghi trong từ điển dùng trong khẩu ngữ hàng ngày kiểu như: in, out,
fashion
1.4. Từ dic̣h ý và từ vay mượn
1.4.1. Đặt vấn đề
La Thường Bồi trong Ngôn ngữ và văn hóa cho rằng “chữ mượn” có thể
phân thành bốn loại: thay thế thanh âm, chữ hài thanh mới, từ mượn dịch và từ
miêu tả. Trong đó “từ miêu tả” tương đương với từ dịch ý.
Tôn Thường Tự trong Từ vựng tiếng Hán, Phan Doãn Trung trong Từ mượn
trong tiếng Hán giai đoạn chiến tranh nha phiến trở về trước cũng đều xếp từ dịch ý
vào phạm trù từ vay mượn/ngoại lai.
Theo quan sát của Trần Trung, sách giáo khoa Tiếng Hán hiện đại và các bài viết
nhắc đến từ mượn tiếng Hán xuất bản từ 1958 trở về trước phần lớn đều xem từ
dịch ý là từ ngoại lai.
Khoảng năm 1958, Ngữ văn Trung Quốc biên tập xuất bản một sê-ri các bài viết
thào luận về vấn đề tư cách từ vay mượn của từ dịch ý, không ít học giả cùng cho
rằng từ dịch ý không thuộc phạm trù từ vay mượn, quan điểm này cũng dần đần

chiếm ưu thế. Nhưng giới học thuật chưa hề đạt được sự đồng thuận về vấn đề này.
Trần Nguyên trong Ngôn ngữ học xã hội xem dịch ý là một trong những phương
19
thức hình thành từ vay mượn trong tiếng Hán. Hứa Uy Hán trong Dẫn luận từ vựng
học tiếng Hán cũng xếp từ dịch ý là một nhóm của từ ngoại lai.
Quách Phục Lương cho rằng “từ ngoại lai/vay mượn là loại hình phân tách từ
nguồn gốc của từ, chỉ cần là những từ mới sản sinh do chịu ảnh hưởng của ngôn
ngữ ngoại lai theo quá trình giao lưu tiếp xúc của dân tộc thì đều thuộc phạm trù từ
ngoại lai.”
Hà Văn Chiếu, từ góc độ văn hóa tiến hành khảo sát nghiên cứu phạm trù quy
thuộc từ dịch ý, cho rằng “nếu một số lớn từ ngoại lai dịch ý bị loại khỏi phạm vi
xem xét của các nhà nghiên cứu, tất sẽ ảnh hưởng đến tính hoàn chỉnh trong nghiên
cứu từ ngoại lai”, “loại bỏ toàn bộ từ dịch ý có trong tiếng Hán khỏi phạm trù từ
ngoại lai, khiến từ vựng vốn có trong tiếng Hán bỗng nhiên mất đi nhân tố văn hóa
trong nội hàm ngữ nghĩa của mình.”
Các nghiên cứu cho rằng từ dịch ý cũng là từ ngoại lai, tức trên quan điểm
định nghĩa rộng. Với họ nếu đánh giá từ ngoại lai trong tiếng Hán từ góc độ giao
lưu văn hóa, căn cứ vào nguyên nhân sản sinh của từ dịch ý thì dịch ý là dịch khái
niệm của ngôn ngữ nước ngoài, tức “ý nghĩa là yếu tố ngoại lai, nên thuộc phạm trù
từ ngoại lai”.
1.4.2. Từ dịch ý
Từ dịch ý là những từ dùng yếu tố của bản thân tiếng Hán để dịch ý nghĩa từ
gốc (ngoại lai), về bản chất chức năng, chúng bao gồm 4 loại: thứ nhất, từ miêu tả
kiểu “ ” 胡椒 hu-jiao (hồ tiêu) theo cách gọi của La Thường Bồi; thứ hai, đặt tên
mới cho từ chịu ảnh hưởng của yếu tố ngoại lai đã có trong tiếng Hán lại kiểu “ 飞
” 碟 fei-die (đĩa bay) (UFO) trong danh sách từ của Hoàng Hà Thanh; thứ ba, từ
“sao mượn” kiểu “ ” 铁路 tie-lu (đường sắt) (railway) theo cách nói của Vương Lực;
thứ tư, từ dịch thuần ý, như cách gọi của Lương Hiểu Hồng trong Cấu tạo của từ
ngữ Phật giáo và sự phát triển của từ vựng tiếng Hán cho rằng, từ ngữ Phật giáo đại
đa số là từ dịch ý, như “ ” 智慧 zhi-hui (trí tuệ) (tiếng Phạn Prajna, tức dịch ý từ 般

若 ban-ruo (bát nhã)).
Phân loại từ theo theo hình thức dịch, chúng ta có:
20
a) Từ dịch ý chỉnh thể. Cũng gọi là trực dịch (dịch trực ngôn) hay từ dịch sao
phỏng, từ mượn hình, căn cứ theo kết cấu hình thái và nguyên lý cấu tạo của từ
ngoại lai để trực dịch.
b) Từ dịch ý đối ứng: các từ có ý nghĩa tương đương với từ gốc.
c) Từ dịch ý kết hợp thêm từ khu biệt loại hình.
Dùng các vật liệu và quy tắc vốn có trong kết cấu ngôn ngữ Hán để cấu thành từ
mới, dịch ý nghĩa của từ thuộc ngôn ngữ khác. Ví dụ:
Black box 黑匣子 hộp đen
Dark horse 黑马 người giành chiến
thắng ngoài dự liệu trong cuộc thi
Ecstasy 摇头丸 thuốc lắc ectasy
Hight consumer 高消费 phí cao
Super market 超市 siêu thị
1.4.3. Từ dịch ý và từ vay mượn.
Liên quan đến từ loại thứ nhất, Sử Hữu Vi trong Lại bàn về thuật ngữ từ ngoại lai
(Từ kiến, tháng 5, 1997) cho rằng ‘từ miêu tả’ kỳ thực là từ tự tạo, là hình thức
người Trung Quốc dựa trên các thành phần của từ ngoại lai kết hợp với đặc điểm
ngôn ngữ của mình mà tự sáng tạo, đối với những từ trong ngôn ngữ dân tộc khác
chỉ tồn tại quan hệ gián tiếp thì không thể xem đó là từ ngoại lai. Theo quan điểm
này, trường hợp từ “ ” 胡椒 chỉ có chữ “ ” 胡 (phiên âm của từ “匈奴”) thuộc “ngữ tố
ngoại lai”, còn về chỉnh thể đây là từ vốn có của tiếng Hán, cũng như vậy là trường
hợp các từ 胡萝卜, 胡琴. Liên quan đến từ loại thứ 2, 3, 4, Hoàng Hà Thanh trong
Từ ảnh hưởng ngoại lai trong tiếng Hán chỉ ra: “Trong quá trình từ gốc nước ngoài
dùng ngôn ngữ Hán biểu đạt, chúng ta nên làm rõ hai vấn đề: 1. Loại có “biểu đạt”
được dịch từ gốc nước ngoài (như honeymoon dịch thành “ ”蜜月 )? Hay là loại đặt
tên mới cho từ trong ngôn ngữ nhận (như “ ”面包车 )? 2. Nếu là phiên dịch, vậy thì,
là căn cứ vào nghĩa của từ gốc để phiên dịch? Hay là căn cứ vào tên gọi của từ gốc

để phiên dịch? Hay là căn cứ theo cả hai loại này?” Dựa vào các căn cứ phân loại
tên gọi của Hoàng Hà Thanh, “ ” 飞碟 thuộc dạng từ tiếng Hán được đặt tên mới do
21
chịu ảnh hưởng của sự vật ngoại lai, “ ” 铁路 thuộc loại từ đồng thời vừa chịu ảnh
hưởng của nghĩa từ, vừa căn cứ theo tên gọi của từ gốc nước ngoài, “ ” 智慧 thì là từ
phiên dịch căn cứ trên nghĩa từ gốc.
Trên các phân tích cơ bản, từ quan điểm định nghĩa rộng, chúng tôi chủ
trương, trong từ ngoại lai phải bao hàm từ dịch ý, tuy nhiên không phải tất cả. Đầu
tiên nên khu biệt bốn loại từ này. Loại từ thứ nhất đương nhiên là từ ngoại lai,
thuộc bộ phận từ phiên toàn âm, một cách chính xác là từ ngoại lai Hán hoá hay từ
vay mượn Hán hoá, do đã thân thuộc với dân tộc Hán từ thời trung cổ. Ba loại từ
tiếp theo ở khía cạnh nào đó có thể quy thuộc vào phạm trù từ ngoại lai nếu theo
nghĩa mở rộng. Về bản chất đây là sự mở rộng nghĩa của từ vốn có trong tiếng Hán
trước tác động và ảnh hưởng của sự vật, sự việc nước ngoài, nằm trong phạm trù
“từ mở rộng nghĩa ngoại lai”, đã trình bày ở trên. Xét ở khía cạnh khác thì đây là
các từ Hán được tạo mới để chỉ các sự vật, sự việc mới. Dạng từ loại hai và ba chắc
chắn không thuộc phạm trù từ ngoại lai nghĩa hẹp và phạm trù từ vay mượn mà
chúng tôi đã hoạch định ở trên, do đó không được đề cập trong luận văn. Loại từ
thứ tư nguyên do các tu sỹ, hoà thượng sáng tạo khi và sử dụng khi dịch kinh Phật,
dần dần được phổ biến, quen thuộc trong dân gian, có thể hiểu theo nghĩa của kinh
Phật, có thể hiểu theo nghĩa thông thường, khi sử dụng chúng ta vẫn quen nói: vay
mượn nghĩa của nhà Phật. Theo ý kiến của chúng tôi, “ 智慧 trí tuệ” cũng là một
thuật ngữ, dịch ngữ thông thường, tận dụng từ đã sẵn có về nghĩa trong kho từ vựng
tiếng Hán, ỵ́ nghĩa ăn sâu vào tiềm thức dân tộc, luôn dùng để chú thích cho 般若
bát nhã - một từ vay mượn cả ý lẫn âm. Tuy nhiên,Trung Quốc hiện tại chỉ sử dụng
với nghĩa duy nhất là thuật ngữ của đạo Phật, nghĩa thông tục không còn, có thể
xếp vào dạng từ vay mượn ḳiểu dịch ý, trường hợp đặc biệt, hay chính xác hơn là
từ Hán gốc Phật giáo. So sánh với cách dùng tại Việt Nam có đôi chút khác biệt vì
vẫn bảo lưu cả hai nghĩa, có thể dùng theo nghĩa thường mang nghĩa khôn ngoan,
thông minh, có học thức, là loại từ vay mượn tiếng Hán hay từ Hán Việt; hoặc cũng

có thể dùng theo nghĩa của đạo Phât.
22
Đối với ba loại được liệt kê tiếp theo, theo quan điểm của chúng tôi chỉ cần
xét đến dạng từ phiên toàn âm kiêm dịch toàn ý, tận dụng trường hợp đồng âm
đồng nghĩa ngẫu nhiên trong ngôn ngữ các nước dạng như: Shampoo 香波 (dầu
gội), sẽ được phân tích kỹ hơn trong chương 3.
1.5. Nguồn gốc từ vay mượn trong ngôn ngữ Hán - Việt
1
Nói một cách thông thường từ ngữ ngoại lai chỉ loại từ ngữ trên tiền đề lấy
nguyên nghĩa từ của dân tộc khác, mượn toàn bộ hoặc một bộ phận hình thức ngữ
âm tương ứng với từ của dân tộc này, và có sự khác biệt về trình độ với từ tiếng
Hán thuần Hán. Nhưng trên góc độ ý nghĩa chuẩn mực mà nói, từ ngoại lai tiếng
Hán đích thực phải có đủ điều kiện đã trải qua quá trình sử dụng một thời gian
tương đối dài trong tiếng Hán. Từ ngoại lai là kết quả của tiếp xúc ngôn ngữ, mà
tiếp xúc ngôn ngữ lại lấy tiếp xúc văn hóa và giao lưu văn hóa làm tiền đề, vì vậy
từ ngoại lai cũng là “sứ giả của nền văn hóa khác”.
1.5.1. Khái lược lịch sử từ vay mượn trong tiếng Hán
Trung Hoa có lịch sử văn hóa trải dài 5000 năm, do vậy tiếng Hán cũng là một
trong những ngôn ngữ có lịch sử lâu đời nhất; từ vựng tiếng Hán trong quá trình
lịch sử phát triển dài dằng dặc của mình, ngoài việc ngày một thêm đa dạng phong
phú do quá trình phát triển tự thân, trong các thời kỳ lịch sử khác nhau lại không
ngừng hấp thu để bổ sung từ ngôn ngữ của các dân tộc anh em trong nước và một
số dân tộc ngoại quốc, hoàn thiện bản thân.
Các thời kỳ lịch sử từ ngoại lai du nhập vào tiếng Hán như sau:
a) Thời kỳ Tiên Tần - Lưỡng Hán: Con đường tơ lụa của Trung Quốc khiến các
dân tộc nổi tiếng tại phương Đông và phương Tây liên tiếp trỗi dậy. Do mục đích là
thông thương, trao đổi thổ sản, sản phẩm trân quý, nên từ ngoại lai thời kỳ này chủ
yếu là danh xưng động vật, thực vật và thực phẩm, như: lạc đà, bồ đào (nho), thạch
lựu, bình quả (táo)… Đây là các từ mượn sử dụng phương thức phiên âm từ ngôn
ngữ Trung Á, như ngôn ngữ Ba Tư, Ả Rập, Đại Tần…

1
Theo kết quả khảo cứu của chúng tôi
23
b) Thời kỳ Ngụy – Nam Bắc triều: Văn hóa Phật giáo tiến nhập vào trung
nguyên, truyền bá Phật giáo cần phải đồng bộ với việc phiên dịch kinh Phật. Tiếng
Hán hấp thu số lượng lớn các từ ngữ phản ánh tư tưởng Phật giáo từ tiếng Phạn;
đây là đỉnh cao đầu tiên về hấp thu từ ngoại lai của tiếng Hán.
Như: Buddh (Fu - Phật), Amita bha (A Mi Tuo Fu - A Di Đà Phật), Bodhisattva
(Pu Sa - Bồ Tát), Arhat (Luo Han - La Hán), Nirvana (Nie Pan - Niết Bàn), Sarira
(She Li - Xá lị), Samana (Sha Men - Sa môn), Yama-ra ja (Yan Luo - Diêm La),
Thu ba/Thu pa (ta - tháp), Bodhi (Pu Di - Bồ Đề), Kalpa (Jie - kiếp) …
c) Thời kỳ Hán Đường: Phiên dịch kinh Phật Phật giáo vào thời Đường đạt tới
cực thịnh, đặc biệt là việc cao tăng đứng đầu Huyền Trang đề xuất nguyên tắc “ngũ
bất dịch” liên quan đến phiên âm, tiến hành một cuộc cách mạng lớn trong phiên
dịch kinh Phật. Đồng thời với sự giao vãng tần suất ngày một dày giữa dân tộc Hán
và các dân tộc thiểu số trong nước, từ ngữ của các dân tộc này vay mượn từ Đột
Quyết (Turk), Mông Cổ (Mongolia), Tạng, Mãn (Manju), Duy Ngô Nhĩ (Uyghur
Tili) tương đối nhiều, dần dần thâm nhập sâu vào tiếng Hán. Như: 琵琶 pi pa - tỳ
bà (tiếng Đột Quyết), 戈壁 guo bi - qua bích, 胡同 hu tong - hồ đồng, 蘑菇 li gu -
lịch cô (tiếng Mông Cổ), 哈达 ha da - cáp đạt, 达赖 da lai - đạt lại, 喇嘛 luo ma -
lạt ma (tiếng Tạng), 福晋 fu jin -phúc tấn, 埋汰 mai tai - mai thải, 觉罗 jue luo -
giác la (tiếng Mãn), 雅克西 ya ke xi - nha khắc tây, 哈密瓜 ha mi guo - cáp mật
qua (tiếng Duy Ngô Nhĩ)…
d) Thời đại Minh Thanh thế kỷ 17-18: sau khi khai thông tuyến đường từ đông Ấn
Độ đến Thượng Hải - Trung Quốc, một số thương nhân và giáo sỹ truyền đạo Gia
Tô là 利 马 窦 Lợi Mã Đậu (Li Ma Tou - Matteo Ricci) người Ý, 金 厄 阁 Kim
Thương Các (Jin Cang Ge), 杜哈德 Đỗ Cáp Đức người Pháp (Du Ha De), 汤若望
Thang Nhược Vọng (Cang Ruo Wang - Johann Adam Schall von Bell) người Đức
theo nhau đến Trung Hoa truyền bá giáo lý, giao lưu văn hóa, tiếp nối được sự
hưng thịnh của thời kỳ Ngụy Tấn, phiên dịch các tác phẩm thuộc lĩnh vực tôn giáo,

văn hóa, khoa học kỹ thuật ra tiếng Hán truyền vào Trung Quốc. Các từ có nguồn
gốc Latin bao gồm: Logica (络日伽 le ri jia - logic), musica (幕西加 mo xi jia – âm
24
nhạc), physica (斐西加 fei xi jia – vật lý), arithmetica (亚利黙第加 ya li mo di jia –
số học), politica (薄利第加 bu li di jia – chính trị).
e) Giai đoạn từ chiến tranh nha phiến trở về sau là đỉnh cao thứ 2 trong việc tiếng
Hán hấp thu từ ngoại lai. Sau khi chính sách mê muội bế quan tỏa cảng sụp đổ dưới
họng pháo bắn phá của chiến thuyền Tây phương, sự phát triển không cân đối về
kinh tế, chính trị, quân sự, khoa học kỹ thuật dẫn đến tình trạng“Tây Học Đông
Tiệm”, trong tác phẩm phiên dịch của một bộ phận nhân sỹ tiến bộ như Lâm Tắc
Dư xuất hiện số lượng lớn các từ ngoại lai. Sau chiến tranh nha phiến từ ngoại lai
được tiếng Hán hấp thu chủ yếu xuất phát từ tiếng Anh và tiếng Nhật, từ gốc tiếng
Anh có “ 雷达 lei da” (radar), “扑克 pu ke” (poker-pô cơ), “吨 tun” (ton-tông), “瓦
特 ping de” (watt-oát)…, từ gốc tiếng Nhật có hiệp hội, quốc kỳ, cộng hòa, quốc
hội, nghị viện, chính đảng, chủ nghĩa, thường bị, tiến bộ, quyền hạn, giải phóng,
kinh nghiệm, cán bộ, xã hội, xâm lược…
f) Thời kỳ đầu giải phóng, tiếng Hán vẫn chịu ảnh hưởng từ các từ gốc phương
Tây, từ thập niên 60 trở lại đây thì các từ gốc tiếng Nga là chính, như thi lạp cơ, bố
lạp cát, mạnh thập duy khắc, bố nhĩ thập duy khắc… Thập niên 80, sau khi tiến vào
giai đoạn cải cách mở cửa là thời kỳ đỉnh cao thứ 3 về hấp thu từ ngoại lai của tiếng
Hán. Sự phát triển đột phá các khoa học kỹ thuật về điện tử, tin tức, sinh vật dẫn
đến số lượng lớn các từ thuật ngữ gốc nước ngoài tiến nhập vào tiếng Hán, chủ đạo
và nhiều nhất là từ gốc Anh - Mỹ. Phạm vi ứng dụng của từ ngoại lai cũng càng
ngày càng mở rộng.
1.5.2. Khái lược lịch sử từ vay mượn trong tiếng Việt
Trong tiến trình lịch sử phát triển của xã hội, sự giao lưu và truyền bá văn hóa
giữa các dân tộc là cơ sở và điều kiện để các ngôn ngữ ảnh hưởng hỗ trợ lẫn nhau,
thâm nhập vào nhau và cùng hoàn thiện. Nói một cách thông thường, ngôn ngữ của
dân tộc có nền kinh tế văn hóa phát triển sẽ phát sinh ảnh hưởng lớn tới ngôn ngữ
của dân tộc không phát triển, và ăn nhập sâu vào hệ thống ngôn ngữ của dân tộc

này. Theo mức độ vay mượn “văn minh” phương Tây và sự phát triển của xã hội
Việt Nam, phạm vi nguồn gốc của từ ngoại lai không ngừng mở rộng, từ ngoại lai
25
thường xâm nhập vào ngôn ngữ khác thông qua các con đường quan hệ hợp tác
chính trị - kinh tế, ngoại xâm, giao lưu văn hóa, phiên dịch. Việt Nam là một trong
những quốc gia điển hình, từ vựng tiếng Việt trong quá trình phát triển trường thiên
của mình, một mặt tự thân biến đổi để ngày càng hoàn thiện, mặt khác hấp thu
thêm các thành phần ngoại lai từ ngôn ngữ khác để làm phong phú bản thân.
Về sự phân bố của từ ngoại lai trong tiếng Việt trên các phương diện chính trị,
văn hóa xã hội, chúng tôi có thể tạm thời chia quá trình thâm nhập thành ba giai
đoạn như sau:
a) Thời kỳ Bắc thuộc và phong kiến tự chủ:
Tổng quan lịch sử phát triển từ ngoại lai trong tiếng Việt, theo nghiên cứu của
chúng tôi, sớm nhất khoảng hơn 2000 năm trước, tiếng Việt đã bắt đầu hấp thu các
thành phần từ tiếng Hán. Giai đoạn Bắc thuộc kéo dài khoảng 1000 năm. Thời kỳ
này người phương Bắc đến An Nam, một mặt thực hành chính sách thống trị, mặt
khác tạp cư với người Việt Nam, truyền bá tư tưởng phong kiến, văn hóa, khoa học
kỹ thuật đến người Việt, và sự giao lưu này chỉ có thể thực hiện dựa trên ngôn ngữ.
b) Thời kỳ Pháp thuộc (1858 – 1954):
Thế kỷ 17, các giáo sỹ truyền giáo châu Âu đến Việt Nam truyền đạo. Họ trước
tiên học tiếng Việt, dùng văn tự la-tin ghi âm tiếng Việt. Loại văn tự la-tin này gọi
là “chữ quốc ngữ”, đây có thể coi là bước nhảy đầu tiên trên phương diện ngôn
ngữ. Việc sử dụng chữ Hán hoặc chữ Nôm không còn phổ biến giống như trước.
Chữ la-tin đến thập niên 60 của thế kỷ 19 được mở rộng, trợ giúp cho quá trình tiến
nhập của ngôn ngữ phương Tây. Đồng thời, khoảng thời gian này trên thế giới nổ
ra một cuộc cách mạng khoa học chưa từng có trước đây, rất nhiều thành quả khoa
học tiến bộ được truyền bá khắp bốn phương. Tiếng Việt mượn dùng không ít từ
mới liên quan đến văn minh Tây phương từ tiếng Pháp.
Thế kỷ 19 Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Mục đích của nước
thống trị là mưu đồ biến nước thuộc địa thành một bộ phận của họ. Pháp không

ngừng khai mở các trường học tiếng Pháp để thi hành chính sách đồng hóa, thiết

×