Tải bản đầy đủ (.pdf) (218 trang)

Nghiên cứu thủ pháp so sánh trong tiểu thuyết của Chu Lai và Lê Lựu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.16 MB, 218 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA NGÔN NGỮ HỌC




TRẦN THỊ THÙY LINH


NGHIÊN CỨU THỦ PHÁP SO SÁNH TRONG TIỂU
THUYẾT CỦA CHU LAI VÀ LÊ LỰU

LUẬN VĂN THẠC SĨ


CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC
MÃ SỐ: 60 22 01







HÀ NỘI, 2008

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA NGÔN NGỮ HỌC






TRẦN THỊ THÙY LINH


NGHIÊN CỨU THỦ PHÁP SO SÁNH TRONG TIỂU
THUYẾT CỦA CHU LAI VÀ LÊ LỰU

LUẬN VĂN THẠC SĨ


CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN: GS.TS.NGUYỄN THIỆN GIÁP






HÀ NỘI, 2008
Trần Thị Thùy Linh
Nghiên cứu thủ pháp so sánh trong tiểu thuyết của Chu Lai và Lê Lựu
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
NỘI DUNG 12

Chương 1 12
CƠ SỞ LÍ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 12
1.1. Khái quát về tiểu thuyết hiện đại 12
1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết hiện đại 12
1.1.2. Đặc trưng thẩm mĩ của ngôn ngữ tiểu thuyết hiện đại 15
1.2.Khái quát về phép so sánh 17
1.2.1. Khái niệm so sánh và cấu trúc của phép so sánh 17
1.2.2. Các kiểu quan hệ so sánh 28
1.2.3. Quan niệm của luận văn 33
Chương 2 38
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI – CẤU TRÚC CỦA PHÉP SO SÁNH VÀ CÁC
KIỂU SO SÁNH TRONG TIỂU THUYẾT CỦA NHÀ VĂN 38
CHU LAI VÀ LÊ LỰU 38
2.1. Đặc điểm hình thái – cấu trúc của phép so sánh 38
2.1.1. Đặc điểm hình thái - cấu trúc của vế cần được so sánh (A) 38
2.1.2. Đặc điểm hình thái – cấu trúc của yếu tố thể hiện quan hệ so sánh 44
2.1.3. Đặc điểm hình thái – cấu trúc của vế được đem ra làm chuẩn để so
sánh (B) 51
2.2. Phân loại các kiểu so sánh 58
2.2.1. Dựa vào cấu trúc 58
2.2.2. Dựa vào quan hệ ngữ nghĩa giữa vế A và vế B 61
2.2.3. Dựa vào trường ngữ nghĩa của yếu tố đưa ra làm chuẩn để so sánh 66
2.2.4. Dựa vào mục đích so sánh 75
Chương 3 82
GIÁ TRỊ CỦA PHÉP SO SÁNH TRONG TIỂU THUYẾT CỦA NHÀ
VĂN CHU LAI VÀ LÊ LỰU 82
3.1. Phép so sánh với giá trị nhận thức 82
3.1.1. Nhận xét chung 82
3.1.2. Vai trò của ngôn cảnh trong việc tạo dựng giá trị nhận thức 84
3.1.3. Giá trị nhận thức trong tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai và Lê Lựu . 86

3.2. Phép so sánh với giá trị gợi cảm 92
Trần Thị Thùy Linh
Nghiên cứu thủ pháp so sánh trong tiểu thuyết của Chu Lai và Lê Lựu
2
3.3. So sánh như là yếu tố tạo nên phong cách tác giả 94
3.3.1. Phong cách nhà văn Chu Lai 95
3.3.2. Phong cách nhà văn Lê Lựu 99
KẾT LUẬN 106
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 109
TÀI LIỆU THAM KHẢO 110
Trần Thị Thùy Linh
Nghiên cứu thủ pháp so sánh trong tiểu thuyết của Chu Lai và Lê Lựu
3
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Đã từ lâu, khi nêu lên các chức năng cơ bản của ngôn ngữ, tất cả
các nhà ngôn ngữ học đều thống nhất khi cho rằng đó là phương tiện để giao
tiếp và là công cụ của tư duy. Tuy nhiên, còn một chức năng đặc biệt quan
trọng của ngôn ngữ ít được các nhà nghiên cứu lưu tâm là chức năng thẩm mĩ.
Chức năng này tồn tại trong mọi hình thức diễn đạt của lời nói hàng ngày của
nhân dân, đặc biệt cô đúc và phong phú trong ngôn ngữ văn chương. Do đó,
ngôn ngữ văn chương đã trở thành môi trường lí tưởng để các nhà ngôn ngữ
học, văn học… khai thác và tìm hiểu “tận gốc rễ” chức năng thẩm mĩ của
ngôn ngữ. Chức năng này hòa vào chức năng thông tin để tăng mức độ hấp
dẫn và sức thuyết phục cho thông tin.
Nhận biết được tầm quan trọng của chức năng này, những năm đầu
thập niên 70 của thế kỉ XX, nhà ngôn ngữ học Roman Jakobson (1896 –
1982) thuộc trường phái ngôn ngữ học Praha đã dành cho chức năng này một
sự chú ý đặc biệt trong bài viết bàn về Thi pháp học (poétique). Nhờ chức
năng này ngôn ngữ đã trở thành yếu tố đầu tiên và là chất liệu duy nhất trong

các tác phẩm văn chương. Đồng thời, thông qua chức năng này nhà văn đã
xây dựng được các hình tượng nghệ thuật và nhờ đó truyền tải được những
điều mong muốn đến độc giả.
Những nhà văn nổi tiếng là những nghệ sĩ bậc thầy về tiếng nói và tạo
dựng cho mình một phong cách ngôn ngữ riêng. Nhưng để có được điều này
thì người nghệ sĩ bên cạnh việc có một vốn sống phong phú, một trình độ văn
hóa cao họ còn phải luôn luôn làm mới cách diễn đạt của mình thông qua
những phương tiện và thủ pháp nghệ thuật, đặc biệt là thủ pháp so sánh. Hiện
nay trong lời nói hàng ngày cũng như trong các tác phẩm văn chương thủ
pháp này đã được sử dụng rất nhiều và trở nên quen thuộc. Chúng ta thường
Trần Thị Thùy Linh
Nghiên cứu thủ pháp so sánh trong tiểu thuyết của Chu Lai và Lê Lựu
4
nghe thấy trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân những kiểu so sánh
như “xấu như Thị Nở”, “như Chí Phèo”, “như Sở Khanh”. Còn trong văn
chương, lối diễn đạt tinh tế và hình tượng hơn rất nhiều:
“Trái nhót như ngọn đèn tín hiệu
Trỏ lối sang mùa hè
Quả cà chua như cái đèn lồng nhỏ xíu
Thắp mùa đông ấm áp những đêm thâu
Quả ớt như ngọn lửa đèn dầu
Chạm đầu lưỡi chạm vào sức nóng”
(Lửa đèn – Phạm Tiến Duật)
Còn nhà thơ Anh Thơ trong bài Tiếng chim tu hú thì so sánh
“Quả bắt đầu chín lự
Ngọt như nỗi nhớ nhà”
Chính vì thủ pháp so sánh đã trở nên quen thuộc với mọi người và được
các nhà văn, nhà thơ sử dụng nhiều trong quá trình sáng tạo nghệ thuật nên
cần được nghiên cứu một cách có hệ thống để làm nổi bật giá trị nhận thức,
giá trị thẩm mĩ của phương tiện tu từ ngữ nghĩa này.

1.2. Lí thuyết thủ pháp so sánh đã được nhắc đến nhiều ở những địa hạt
khác nhau của ngôn ngữ học nhưng những người quan tâm đến thủ pháp này
dường như vẫn cảm thấy thiếu vì các nghiên cứu mới chỉ dừng ở nghiên cứu
lí thuyết mà chưa đi sâu vào nghiên cứu giá trị của thủ pháp này trong các tác
phẩm nghệ thuật.
Thời gian gần đây, cũng có một số công trình đi vào nghiên cứu thủ
pháp này trong ca dao, trong truyện ngắn hiện đại. Tuy nhiên, nghiên cứu thủ
pháp so sánh trong tiểu thuyết hiện đại hiện vẫn còn bỏ ngỏ và nếu có thì các
nghiên cứu cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ trích dẫn các câu có thủ pháp so
sánh để minh họa cho các nghiên cứu về mặt lí thuyết. Chính vì vậy chúng tôi
đã chọn đề tài này.
Trần Thị Thùy Linh
Nghiên cứu thủ pháp so sánh trong tiểu thuyết của Chu Lai và Lê Lựu
5
1.3. Chu Lai và Lê Lựu là hai nhà văn lớn trong thời kì đổi mới, tác
phẩm của hai ông đã tạo được chỗ đứng vững vàng trong lòng độc giả và
được nhiều lĩnh vực quan tâm. Gần đây, nghệ thuật thứ bảy đã đặc biệt chú ý
đến các tác phẩm của hai nhà văn này. Họ đã chuyển thể những tác phẩm của
nhà văn Chu Lai và Lê Lựu thành những kịch bản phim nổi tiếng và được
đông đảo sự quan tâm như: Bộ phim Người Hà Nội được chuyển thể từ tiểu
thuyết Phố của nhà văn Chu Lai, bộ phim Ăn mày dĩ vãng được chuyển thể từ
tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Chu Lai hay bộ phim Thời xa vắng cũng
được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Lê Lựu và tác phẩm
Sóng ở đáy sông cũng được chuyển thành bộ phim cùng tên…
Vì tất cả các lí do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Nghiên cứu thủ
pháp so sánh trong tiểu thuyết của Chu Lai và Lê Lựu” để nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề
Lịch sử nghiên cứu phương thức nghệ thuật trong văn thơ nói chung và
thủ pháp so sánh nói riêng gắn liền với tên tuổi của nhà triết học, nhà hùng
biện lỗi lạc của Hy Lạp cổ đại Aristotle (384-322 TCN). Dựa vào ngữ liệu thơ

ca Hy Lạp, Aristotle nhận thấy rằng cách thay đổi từ ngữ mang tính chất tâm
lí dựa trên quan hệ liên tưởng, đối chiếu sẽ có tác dụng tăng cường khả năng
diễn đạt và nâng cao hiệu lực của lời nói. Lối nói này được gọi theo tiếng La
tinh là Figura (ngữ hình), nghĩa là hình thức bóng bảy. Truyền thống ngữ văn
sau này gọi cách sử dụng ngôn từ này là tu từ, mĩ từ pháp hay hình thể ngôn
từ.
Trong một chuyên luận của mình, Aristotle đã tổng kết các Figura chủ
yếu, có tính phổ dụng trong đó có thủ pháp so sánh, đặc biệt đắc dụng trong
thơ ca để tăng hiệu lực nhận thức cho người tiếp nhận văn bản nghệ thuật.
Ở Trung Hoa cổ đại, thời kì trước Aristotle, tư tưởng về so sánh (bên
cạnh đó còn có ẩn dụ) được bộc lộ qua lời của các nhà chú giải cổ đại về
phạm trù được gọi là tỉ và hứng. Trong các công trình nghiên cứu, các học giả
Trần Thị Thùy Linh
Nghiên cứu thủ pháp so sánh trong tiểu thuyết của Chu Lai và Lê Lựu
6
Trung Hoa thường dùng khái niêm thể tỉ, hứng như một phương thức nghệ
thuật để chỉ cách nói ví von, bóng gió.
Cùng thời kì này ở Việt Nam chưa có chứng tích gì về sự nghiên cứu
này mà phải đợi đến năm 1958 khi Bộ môn Tu từ học chính thức được đưa
vào giảng dạy ở bậc đại học thì tên gọi thủ pháp so sánh mới ra đời.
Bộ môn Tu từ học ra đời đã tạo điều kiện cho việc nghiên cứu các biện
pháp tu từ trong đó thủ pháp so sánh được sâu hơn. So sánh là một cách nói
sinh động hơn ngôn ngữ bình thường và thường để gợi cảm xúc, ý tưởng bằng
sự chính xác hay độc đáo của nó.
Đối với các nhà ngôn ngữ học thì về bản chất, thủ pháp so sánh là sự
vận dụng quy tắc để tạo nên sự biểu đạt tốt, có hiệu lực (Cù Đình Tú, Lê Hiền,
Nguyễn Nguyên Trứ); nó cũng là cách để công khai đối chiếu hai đối tượng có
một dấu hiệu chung nào đó nhằm biểu hiện một cách hình tượng phẩm chất
bên trong của đối tượng (Nguyễn Thái Hòa), là một phương pháp biểu hiện
làm cho lời nói vừa gãy gọn, rõ ràng vừa cụ thể, sinh động có thể mang tới

cho hình tượng hoặc khái niệm một cách hiểu, một sắc thái ý nghĩa theo ý
mình (Đinh Trọng Lạc) và là một phương tiện để nhận thức chứ không phải
để diễn đạt, nó cung cấp cho ta những liên hệ mới mẻ, làm giàu có đời sống
tinh thần (Hà Quang Năng).
Còn đối với các nhà nghiên cứu văn học thì so sánh là một hiện tượng
ngôn ngữ văn chương (Hà Minh Đức, Trần Đình Sử, Phương Lựu), là yếu tố
của thể loại, của kết cấu văn học (Jakobson, Bakhtin, Kravchenko…) hoặc là
một phạm trù tồn tại của hình tượng (Trần Đình Sử, Bùi Ngọc Trác).
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Phương pháp so sánh
Dựa trên các kết quả về kiểu loại so sánh, đặc điểm cấu trúc và đặc
điểm ngữ nghĩa của cái so sánh và cái được so sánh của mỗi nhà văn, luận văn
sẽ đi đến kết luận về phong cách của mỗi tác giả.
Trần Thị Thùy Linh
Nghiên cứu thủ pháp so sánh trong tiểu thuyết của Chu Lai và Lê Lựu
7
Đồng thời, qua phương pháp này chúng tôi cũng mở rộng được vấn đề
nghiên cứu khi đem đối chiếu những so sánh mà hai nhà văn sử dụng với
những so sánh trong truyện ngắn và ca dao.
3.2. Phương pháp miêu tả
Đây là phương pháp được chúng tôi sử dụng xuyên suốt trong luận văn.
Phương pháp này giúp chúng tôi đi sâu tìm hiểu mặt nghĩa, mặt cấu trúc của
các so sánh.
3.3. Thủ pháp thống kê, phân loại
Thủ pháp thống kê, phân loại là thủ pháp đầu tiên được chúng tôi sử
dụng khi tiến hành làm luận văn. Thủ pháp này giúp chúng tôi có được tư liệu
cho việc phân tích, miêu tả, nhận xét và đánh giá về thủ pháp so sánh được sử
dụng trong các tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai và Lê Lựu.
3.4. Thủ pháp phân tích cấu trúc ngữ pháp, ngữ nghĩa
Tổ hợp các thủ pháp trên giúp chúng tôi nêu bật được các kiểu so sánh

được sử dụng trong các tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai và Lê Lựu. Thông
qua đó, luận văn sẽ làm nổi bật giá trị nhận thức, giá trị gợi cảm mà thủ pháp
này đem lại cho người tiếp nhận văn bản nghệ thuật. Đồng thời, chúng ta sẽ
hiểu rõ hơn thế giới quan, nhân sinh quan của mỗi nhà văn thông qua cái được
so sánh và cái đem ra làm chuẩn để so sánh.
3.5. Thủ pháp quy nạp
Thủ pháp này cho phép chúng tôi bắt đầu từ những số liệu thống kê
thông qua các thao tác phân tích cấu trúc, ngữ nghĩa, ngữ cảnh đi đến các kết
luận về đặc điểm hình thái – cấu trúc, đặc điểm ngữ nghĩa, các kiểu loại của
thủ pháp so sánh cùng các giá trị về mặt nhận thức, thẩm mĩ và tạo dấu ấn
phong cách tác giả.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các thao tác cải biến để thấy rõ giá trị
nghệ thuật của thủ pháp.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Trần Thị Thùy Linh
Nghiên cứu thủ pháp so sánh trong tiểu thuyết của Chu Lai và Lê Lựu
8
Thủ pháp so sánh với tư cách là một biện pháp tu từ ngữ nghĩa sẽ được
chúng tôi nghiên cứu dưới góc độ của ngôn ngữ học và phong cách học từ đó
xác định khái niệm, sau đó tiến hành phân tích đặc điểm hình thái - cấu trúc,
phân loại các kiểu so sánh xuất hiện trong tư liệu luận văn khai thác và cuối
cùng nêu bật giá trị của thủ pháp này trong tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai và
Lê Lựu.
Luận văn giới hạn phạm vi tư liệu cần xử lí trong 10 cuốn tiếu thuyết,
trong đó:
* Có 6 cuốn tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai với tổng số trang khảo sát
là 1952:
1. Nắng đồng bằng (2003), Nxb Hội nhà văn.
2. Vòng tròn bội bạc (2003), Nxb Hội nhà văn.
3. Ăn mày dĩ vãng (2006), Nxb Hà Nội.

4. Phố (2006), Nxb Hà Nội.
5. Ba lần và một lần (2004), Nxb Hội nhà văn.
6. Út Teng (2004), Nxb Hội nhà văn.
* Có 4 cuốn tiểu thuyết của nhà văn Lê Lựu với tổng số trang khảo sát
là 1479:
1. Thời xa vắng (2002), Nxb Hội nhà văn.
2. Chuyện làng Cuội (2003), Nxb Văn học.
3. Sóng ở đáy sông (2003), Nxb Hải Phòng.
4. Hai nhà (2006), Nxb Thông tin.
5. Mục đích của luận văn
5.1. Khát quát về lí thuyết so sánh để xác định giá trị của biện pháp tu
từ ngữ nghĩa này trong văn chương. Bên cạnh đó, luận văn cũng đưa ra một
số vấn đề lí thuyết về tiểu thuyết như: khái niệm tiểu thuyết, đặc trưng ngôn
ngữ của tiểu thuyết. Điều này sẽ giúp cho người tiếp nhận có cái nhìn toàn
diện về tiểu thuyết trong thời kì đổi mới.
Trần Thị Thùy Linh
Nghiên cứu thủ pháp so sánh trong tiểu thuyết của Chu Lai và Lê Lựu
9
5.2. Khảo sát tần số xuất hiện và tiến hành thống kê, phân loại, miêu tả,
phân tích đặc điểm hình thái – cấu trúc và phân loại cấu trúc so sánh trong các
tiểu thuyết tiêu biểu của hai nhà văn Chu Lai và Lê Lựu.
5.3. Trên cơ sở kết quả khảo sát được luận văn sẽ làm nổi bật giá trị của
thủ pháp nghệ thuật này trong việc xây dựng hình tượng nghệ thuật, nâng cao
khả năng nhận thức, năng lực thẩm mĩ cho người tiếp nhận và nêu bật giá trị
của thủ pháp nghệ thuật trong việc tạo dấu ấn phong cách tác giả.
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Về mặt lí luận
Luận văn góp thêm một tiếng nói cụ thể vào việc nghiên cứu giá trị của
phương tiện tu từ ngữ nghĩa, đặc biệt là thủ pháp so sánh trong các tác phẩm
nghệ thuật theo cách tiếp cận liên ngành ngôn ngữ học - văn học - phong cách

học.
6.2. Về mặt thực tiễn
Với cách tiếp cận liên ngành, luận văn sẽ đem đến cho các nhà ngôn
ngữ học những minh chứng soi sáng cho lí thuyết tu từ học nói chung và thủ
pháp so sánh nói riêng. Đối với các nhà phong cách học, luận văn sẽ góp thêm
tư liệu cho việc nghiên cứu phong cách của hai nhà văn là Chu Lai và Lê Lựu.
Ngoài ra, luận văn cũng mở ra một hướng mới trong cách tiếp cận các tác
phẩm nghệ thuật - đi từ thủ pháp nghệ thuật được sử dụng. Điều này tránh
được lối mòn của cách tiếp cận truyền thống, chỉ chú trọng phân tích nội dung
của văn bản nghệ thuật. Với cách tiếp cận mới này, người giảng dạy văn học
vừa nâng cao năng lực cảm thụ của người học, vừa nâng cao chất lượng giảng
dạy.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết liên quan đến đề tài
Trần Thị Thùy Linh
Nghiên cứu thủ pháp so sánh trong tiểu thuyết của Chu Lai và Lê Lựu
10
Nhiệm vụ của chương này là xác định các khái niệm tiểu thuyết, đặc
trưng ngôn ngữ của tiểu thuyết. Điều này giúp người tiếp nhận nhận diện và
phân biệt được tiểu thuyết với truyện dài.
Trong chương một, chúng tôi đặc biệt chú trọng đến các quan niệm của
giới nghiên cứu về so sánh và đưa ra quan niệm của luận văn về phép so sánh
làm cơ sở cho việc nghiên cứu ở các chương tiếp theo. Ngoài ra, trong
chương này chúng tôi cũng nêu lên hướng tiếp cận so sánh theo lí thuyết của
cấu trúc thông báo.
Đây là chương có tính lí luận làm nhiệm vụ định hướng cho toàn bộ
luận văn, làm tiền đề để khảo sát, thống kê, phân loại, miêu tả các kiểu so
sánh ở các chương tiếp theo.
Chương 2: Đặc điểm hình thái – cấu trúc và các kiểu so sánh trong một

số tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai và Lê Lựu.
Chương này có 2 nhiệm vụ: thứ nhất là phân tích đặc điểm hình thái -
cấu trúc của các yếu tố trong cấu trúc so sánh; thứ hai là tiến hành phân loại
các kiểu so sánh dựa vào: cấu trúc so sánh, quan hệ ngữ nghĩa giữa cái cần so
sánh và cái được dùng làm chuẩn để so sánh, mục đích của so sánh và đặc
điểm ngữ nghĩa trong cái được dùng làm chuẩn để so sánh.
Chương 3: Giá trị của thủ pháp so sánh trong một số tiểu thuyết của nhà
văn Chu Lai và Lê Lựu.
Dựa trên các kết quả của chương 2 và cơ sở lí thuyết ở chương 1,
chương 3 có nhiệm vụ làm nổi bật giá trị nhận thức, giá trị thẩm mĩ và phong
cách của hai nhà văn Chu Lai và Lê Lựu.
Phần cuối của Luận văn là danh sách các tư liệu dùng để khảo sát, danh
mục các tài liệu tham khảo và phần phụ lục.
Quy ước
Ăn mày dĩ vãng - Chu Lai (CL)
: Tiểu thuyết 1
Trần Thị Thùy Linh
Nghiên cứu thủ pháp so sánh trong tiểu thuyết của Chu Lai và Lê Lựu
11
Ba lần và một lần - Chu Lai
Nắng đồng bằng - Chu Lai
Phố - Chu Lai
Vòng tròn bội bạc - Chu Lai
Út Teng - Chu Lai
Chuyện làng Cuội – Lê Lựu (LL)
Hai nhà – Lê Lựu
Sóng ở đáy sông – Lê Lựu
Thời xa vắng – Lê Lựu
: Tiểu thuyết 2
: Tiểu thuyết 3

: Tiểu thuyết 4
: Tiểu thuyết 5
: Tiểu thuyết 6
: Tiểu thuyết 7
: Tiểu thuyết 8
: Tiểu thuyết 9
: Tiểu thuyết 10

Trần Thị Thùy Linh
Nghiên cứu thủ pháp so sánh trong tiểu thuyết của Chu Lai và Lê Lựu
12
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Khái quát về tiểu thuyết hiện đại
1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết hiện đại
Như chúng ta đã biết so với các thể loại văn học: sử thi, thơ ca, kịch…
thì văn xuôi xuất hiện trên văn đàn nghệ thuật muộn nhất. Trong văn xuôi,
tiểu thuyết với những đặc trưng thể loại riêng lại ra đời muộn hơn cả, đặc biệt
là ở Việt Nam. Theo các nhà nghiên cứu, những mầm mống sơ khai của tư
duy tiểu thuyết manh nha từ trong những sáng tác văn xuôi cổ xưa của thế kỉ
XIV-XVI. Tuy nhiên phải đến những năm 20 của thế kỉ XX ở Việt Nam mới
xuất hiện những tác phẩm tiểu thuyết với đầy đủ ý nghĩa của nó và người mở
đầu thực sự cho tiểu thuyết hiện đại được xem là Hoàng Ngọc Phách với tác
phẩm Tố Tâm. Sau này khi khảo sát nguồn gốc của tiểu thuyết Bêlinxki đã
khẳng định “tiểu thuyết bắt đầu hình thành từ khi vận mệnh của con người,
mọi mối liên hệ của nó với đời sống nhân dân được ý thức”. Chính nguồn gốc
này nó đã quy định đặc trưng thể loại của tiểu thuyết. Đó là ngoài khả năng tái
hiện bức tranh mang tính tổng thể của đời sống xã hội, khả năng đi sâu khám
phá số phận cá nhân cũng là một phẩm chất tiêu biểu của tiểu thuyết. Vậy tiểu

thuyết là gì?
Xung quanh việc định nghĩa tiểu thuyết có nhiều ý kiến khác nhau tùy
thuộc vào điểm nhìn của mỗi nhà lí luận. Có người cho rằng tiểu thuyết chỉ là
một câu chuyện về yêu đương, không có nút tình yêu thì không có tiểu thuyết.
Người khác lại quan niệm “tiểu thuyết là một thể loại văn học để “tiêu
khiển”, để làm cho người đọc “quên mình đi” trong chốc lát (Vũ Bằng, Khảo
về tiểu thuyết).
Sau này, cũng có nhiều cách hiểu về tiểu thuyết hoàn toàn không phiến
Trần Thị Thùy Linh
Nghiên cứu thủ pháp so sánh trong tiểu thuyết của Chu Lai và Lê Lựu
13
diện, không xuyên tạc bản chất tiểu thuyết nhưng lại xem tiểu thuyết là một
cái gì đó không thể giải thích được, hoàn toàn không thể cắt nghĩa nổi. Chẳng
hạn như Andrew Michael Roberts trong cuốn Tiểu thuyết - Từ nguồn gốc đến
hôm nay do nhà xuất bản Bloomsbury phát hành năm 1993 đã đưa ra hai cách
hiểu tiểu thuyết. Theo đó, hiểu một cách khát quát thì “Tiểu thuyết là một thể
loại trần thuật có hư cấu được mở rộng, dưới dạng văn viết”. Tuy nhiên, theo
giáo sư Phan Cự Đệ thì cách hiểu này rộng quá, rộng đến mức bao gồm trong
đó cả sử thi Odysée của Homère, thiên tình ca đầy chất thơ Troilus và
Criseyde của Chaucer và cả vở Hài kịch thần thánh của Dante… Bên cạnh đó,
Andrew Michael Roberts cũng đưa ra một cách hiểu hẹp về tiểu thuyết: “Tiểu
thuyết là một thể loại trần thuật có hư cấu bằng văn viết, xuất hiện vào hồi
đầu thế kỉ XVIII, có đặc điểm là quan tâm nhiều đến cốt truyện, là một hiện
thực tâm lí hay xã hội trong một chừng mực nào đó và thường xuất hiện
những yếu tố bình luận đạo đức, chính trị và xã hội”.
Mặc dù các nhà lí luận đã cố gắng đưa ra một định nghĩa toàn diện và
phản ánh đúng nhất bản chất tiểu thuyết, nhưng theo nhà lí luận văn học Phan
Cự Đệ thì các định nghĩa trên vẫn còn nhiều hạn chế. Như chúng ta đã nói,
tiểu thuyết là một thể loại hãy còn rất trẻ (ra đời vào những năm 20 của thế kỉ
XX) và đang phát triển. Nó là một thể loại còn uyển chuyển, mềm dẻo và

dường như không bị đóng khung trong những quy phạm chật hẹp như một số
thể loại khác. Và theo Mikhain Bakhtin thì tiểu thuyết là “Một thể loại luôn
luôn đi tìm, luôn luôn nghiên cứu bản thân và luôn luôn soát lại tất cả những
hình thức đã thành hình của mình. Một thể loại như vậy chỉ có thể được xây
dựng trong khu vực tiếp xúc trực tiếp với hiện thực đang tiến triển”. Nói như
thế không có nghĩa là chúng ta không thể đưa ra một định nghĩa về tiểu
thuyết. Tuy vậy, việc đưa ra định nghĩa tiểu thuyết phải bám sát vào bản chất
và các đặc trưng thẩm mĩ của thể loại văn học này. Và để thuận tiện cho quá
trình nghiên cứu, chúng tôi xin đưa ra một cách hiểu như sau về tiểu thuyết:
Trần Thị Thùy Linh
Nghiên cứu thủ pháp so sánh trong tiểu thuyết của Chu Lai và Lê Lựu
14
Tiểu thuyết là một hình thức kể chuyện cỡ lớn có khả năng phản ánh được cả
một thời đại lịch sử nhân loại. Hay nói một các rõ hơn thì: Tiểu thuyết là thể
loại tự sự có quy mô lớn đối lập với các thể loại khác ở cách tiếp cận đời
thường, không có khoảng cách. Tiểu thuyết là hình thức tự sự phong phú nhất
thể hiện ở số lượng nhân vật nhiều nhất, cốt truyện phức tạp nhất, ngôn từ đa
dạng nhất, bối cảnh rõ nét nhất đáp ứng nhu cầu ý thức về cuộc sống con
người trong tất cả mọi chiều kích.
Nhờ những đặc trưng thể loại:
1- Là một hình thức kể chuyện cỡ lớn
2- Gần gũi nhất với cuộc sống đời thường
3- Có khả năng phản ánh được cả một thời đại lịch sử nhân loại
nên nghiên cứu tiểu thuyết, đặc biệt là nghiên cứu thủ pháp nghệ thuật so
sánh, chúng ta sẽ có một cái nhìn toàn diện hơn về bối cảnh xã hội nó phản
ánh, về cách nghĩ của một lớp người và thế giới quan của người sáng tác. Bởi
như chúng ta đã biết, người sáng tác không chỉ đứng ở cương vị một thư kí
trung thành của thời đại mà họ luôn phản ánh hiện thực thông qua lăng kính
chủ quan của mình, thổi hồn mình vào trong các tác phẩm nghệ thuật với
mong muốn làm phong phú đời sống tinh thần của người tiếp nhận văn bản

nghệ thuật, làm mới nhận thức của họ. Hay nói cách khác, trong tiểu thuyết
hiện đại, nhà văn đã sáng tạo nên trong tác phẩm của mình một cuộc sống tự
nó trôi theo dòng, tồn tại một cách độc lập, khách quan đối với tác giả. Nhưng
người viết tiểu thuyết không làm công việc của một người thợ ảnh tầm
thường, không chụp ảnh cuộc sống, sao chép cuộc sống một cách máy móc
mà cuộc sống trong tiểu thuyết được nghệ thuật hóa qua lăng kính, qua cảm
quan của nhà văn. Do vậy, tiểu thuyết ngày càng thu hút sự quan tâm của
người đọc và có nhà nghiên cứu đã nói rằng thế kỉ này là thế kỉ mà tiểu thuyết
sẽ nắm vai trò chủ đạo trong văn học nghệ thuật. Nghiên cứu tiểu thuyết dưới
góc độ ngôn ngữ học sẽ giúp cho việc cảm nhận cái tài của tác giả, cái hay,
Trần Thị Thùy Linh
Nghiên cứu thủ pháp so sánh trong tiểu thuyết của Chu Lai và Lê Lựu
15
cái đặc sắc của tác phẩm có cơ sở rõ ràng.
Chúng ta có thể lấy tác phẩm Sóng ở đáy sông của nhà văn Lê Lựu làm
ví dụ. Tác phẩm ra đời dựa trên một câu chuyện có thật về cuộc đời của một
con người trong xã hội cũ. Câu chuyện về nhân vật Núi xuyên suốt từ thời
chiến tranh cho đến thời kì hậu chiến. Qua đó, nhà văn đã mang đến cho độc
giả những kiến thức xã hội, lịch sử nhất định. Chính vì vậy, câu chuyện càng
trở nên có ý nghĩa. Lúc này, người ta đọc nó không chỉ để tiêu khiển mà đọc
để chiêm nghiệm, để hiểu hơn quá khứ. Đặc biệt đối với ai đã từng đi qua thời
kì lịch sử này đều tìm thấy trong câu chuyện này một cái gì đó thật gần gũi
với mình.
1.1.2. Đặc trưng thẩm mĩ của ngôn ngữ tiểu thuyết hiện đại
Chúng ta không thể nghiên cứu ngôn ngữ tiểu thuyết tách rời ngôn ngữ
văn xuôi và ngôn ngữ nghệ thuật nói chung. Bởi vì những đặc trưng thẩm mĩ
của ngôn ngữ nghệ thuật cũng là những đặc trưng thẩm mĩ của ngôn ngữ tiểu
thuyết.
Trong câu chuyện hàng ngày và trong các tác phẩm khoa học ngôn ngữ
không có tính nghệ thuật. Ngôn ngữ trong những trường hợp này chỉ nhằm

mục đích thông tin, truyền đạt điều gì đó một cách chính xác. Ngôn ngữ nghệ
thuật lại khác, nó đi từ sự thông tin đến sự sáng tạo. Nó không chỉ nhằm mục
đích thông báo một sự kiện mà còn phải tái tạo lại cuộc sống một cách toàn
vẹn, cụ thể và sinh động trong những hình tượng nghệ thuật. Ngôn ngữ đó
đồng thời cũng mang dấu ấn của cá tính và phong cách nghệ sĩ rất rõ.
Sức mạnh của ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện trong sự phối hợp giữa các
từ sao cho mỗi từ ngoài các biểu tượng trực tiếp của nó ra còn kéo theo cả
một loạt biểu tượng khác đột khởi lên trong tâm hồn người đọc. Để đạt được
điều trên, các nhà văn đã vận dụng triệt để mọi phương tiện biểu hiện trong
ngôn ngữ học trong đó không thể không kể đến thủ pháp so sánh. Thủ pháp so
sánh góp phần mang lại cho ngôn ngữ nghệ thuật tính gãy gọn, rõ ràng, cụ thể
Trần Thị Thùy Linh
Nghiên cứu thủ pháp so sánh trong tiểu thuyết của Chu Lai và Lê Lựu
16
và sinh động. Đối với các độc giả, để hiểu hết nhiều tầng ý nghĩa của ngôn
ngữ nghệ thuật chúng ta phải phối hợp các kiến thức liên ngành.
Trong tiểu thuyết, các hình thức tổ chức ngôn ngữ được kết hợp xen kẽ
nhau: độc thoại nội tâm và độc thoại của các nhân vật, các loại ngôn ngữ khác
nhau của người kể chuyện… Chính đặc điểm này đã đem lại cho tiểu thuyết
khả năng phản ánh cuộc sống một cách toàn vẹn nhất với tất cả tính chất sinh
động, phức tạp, nhiều màu nhiều vẻ của nó. Trong tiểu thuyết chúng ta có thể
bắt gặp mọi thứ trong cuộc đời: những vấn đề triết học, văn nghệ, chính trị,
quân sự, kinh tế, đạo đức… Nhiều nhà phê bình thường ví những tiểu thuyết
lớn như những cuốn bách khoa của đời sống. Nói tóm lại, tiểu thuyết là một
hình thức kể chuyện cỡ lớn có khả năng phản ánh được cả một thời đại lịch sử
của nhân loại. Nhờ đặc điểm này khi nghiên cứu tiểu thuyết của nhà văn Chu
Lai và Lê Lựu chúng ta sẽ hiểu rõ hơn cuộc sống, cách suy nghĩ của lớp người
thời kháng chiến chống Mĩ cứu nước và lối tư duy của người dân những năm
đầu thời kì đổi mới.
Trong tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng, nhà văn Chu Lai với thủ pháp đồng

hiện, gần như là một sự đối chiếu những năm tháng đánh Mĩ ác liệt của những
người lính anh hùng ở phân khu miền Đông ven đô Sài Gòn với thời buổi
kinh tế thị trường, “thời buổi thiên hạ đang tự thoát xác để lao vào làm ăn”
chụp giật, cạnh tranh, cá lớn nuốt cá bé… tác giả đem đến cho độc giả cái
nhìn toàn diện về một giai đoạn của lịch sử dân tộc. Đồng thời, tác giả cũng đi
vào miêu tả từng ngõ ngách của tâm hồn, của số phận để từ đó thấy được số
phận của những người anh hùng sau chiến tranh trở về đã thay đổi một cách
kì lạ như thế nào. Đặc biệt là những suy nghĩ của nhân vật chính – Hai Hùng.
Cách nghĩ, cách nhìn cuộc đời của anh một phần nào đó chính là của nhà văn.
Qua đây chúng ta hiểu rõ hơn về thế giới quan của tác giả.
Qua ví dụ trên, chúng ta cũng đồng thời thấy được khả năng giàu tính
tạo hình của ngôn ngữ nghệ thuật. Lúc này, ngôn ngữ nghệ thuật có nhiệm vụ
Trần Thị Thùy Linh
Nghiên cứu thủ pháp so sánh trong tiểu thuyết của Chu Lai và Lê Lựu
17
miêu tả một cách chính xác những đối tượng được phản ánh. Bằng ngôn ngữ
nghệ thuật, nhà văn có thể trực tiếp tác động đến người đọc làm cho họ cảm
giác được nhân vật một cách vật chất. Chưa bao giờ nghệ thuật lại gần với
cuộc sống như trong tiểu thuyết hiện đại.
1.2.Khái quát về phép so sánh
1.2.1. Khái niệm so sánh và cấu trúc của phép so sánh
So sánh là một thao tác của tư duy. Đó là thao tác đem sự vật này đối
chiếu với sự vật khác để thấy sự tương đồng và khác biệt giữa chúng. Từ đó ai
cũng công nhận giá trị nhận thức của so sánh và điều này liên quan đến việc
tìm hiểu đặc điểm ngữ nghĩa của phép so sánh theo cấu trúc thông báo mà
chương tiếp sau chúng tôi sẽ đề cập tới.
Nói tới phép so sánh, các nhà nghiên cứu bao giờ cũng phân biệt rõ
ràng giữa so sánh tu từ và so sánh so sánh logic. Cơ sở của so sánh logic dựa
trên tính đồng chất, đồng loại của các sự vật, hiện tượng, ví dụ: Cô Lan cao
bằng cô Huệ ; Nhà này cao bằng nhà kia. Còn cơ của phép so sánh tu từ

chính là tính khác biệt về chất và về loại giữa các sự vật, hiện tượng được
đem ra so sánh. Chính điều này đã làm nên tính hình tượng, tính biểu cảm cho
so sánh tu từ, ví dụ:
Tình anh như nước dâng cao
Tình em như dải lụa đào tẩm hương.
(Ca dao)
Và một điều khác biệt giữa hai kiểu so sánh này còn ở chỗ trong so sánh logic
người ta có thể hoán đổi các vị trí cho nhau trong cấu trúc. Giả sử cấu trúc so
sánh là a = b, vậy b = a. Trong so sánh tu từ, khả năng hoán đổi các vị trí
không thể xảy ra bởi vế được so sánh có một tiền giả định làm chuẩn mực,
hơn nữa nó không hoàn toàn đồng nhất với cái được so sánh, đây chính là
hiện tượng khúc xạ trong so sánh tu từ, làm nên nhiều yếu tố bất ngờ cho
người tiếp nhận so sánh.
Trần Thị Thùy Linh
Nghiên cứu thủ pháp so sánh trong tiểu thuyết của Chu Lai và Lê Lựu
18
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn chúng tôi chỉ xin đề cập tới so
sánh tu từ.
Những trình bày về so sánh của các tác giả bên cạnh những điểm chung
cũng có những điểm khác nhau nhất định. Điểm khác nhau chủ yếu là việc
đưa ra những mô hình so sánh.
Trong cuốn giáo trình Phong cách học tiếng Việt, tác giả Đinh Trọng
Lạc và Nguyễn Thái Hòa đã định nghĩa về so sánh như sau: “So sánh là
phương thức diễn đạt tu từ khi đem sự vật này đối chiếu với sự vật khác miễn
là giữa hai sự vật có một nét tương đồng nào đó để gợi ra những hình ảnh cụ
thể, những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của người đọc, người nghe” [9,
tr189]. Theo các tác giả này, hình thức đầy đủ nhất của phép so sánh tu từ
gồm 4 yếu tố sau:
- Cái cần được so sánh, kí hiệu là (A)
- Cơ sở so sánh, kí hiệu là (t)

- Từ so sánh, kí hiệu là (tss)
- Cái được dùng làm chuẩn để so sánh, kí hiệu là (B)
Cấu trúc
1. A
2. (t)
3. (tss)
4. B
Ví dụ
Hàng râu
Anh
Cái nhà
tua tủa
hồn nhiên
to
như
như
bằng
Dây kẽm gai
cây cỏ
cái đình
Khát quát lên chúng ta sẽ có mô hình cấu trúc so sánh đầy đủ là:
A (t) tss B
Tuy nhiên, trên thực tế, tùy từng trường hợp người ta có thể đảo trật tự
so sánh hoặc bớt một số yếu tố trong mô hình. Cụ thể ta có 5 biến thể của mô
hình cấu trúc so sánh trên:
1. Đảo trật tự so sánh: (t) A tss B
Ví dụ:
Trần Thị Thùy Linh
Nghiên cứu thủ pháp so sánh trong tiểu thuyết của Chu Lai và Lê Lựu
19

“Chòng chành như nón không quai
Như thuyền không lái như ai không chồng”.
(Ca dao)
2. Bớt cơ sở so sánh: A tss B
Ví dụ:
“Ai về ai ở mặc ai
Ta như dầu đượm thắp hoài năm canh”.
(Ca dao)
3. Bớt từ so sánh: A (t) B
Ví dụ:
“Gái thương chồng đương đông buổi chợ
Trai thương vợ nắng quái chiều hôm”.
(Ca dao)
4. Thêm “bao nhiêu” “bấy nhiêu”
Ví dụ:
“Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”.
(Ca dao)
5. Dùng “là” làm từ so sánh: A là B
Đây là loại so sánh ẩn dụ. Gọi như vậy vì “là” có chức năng liên hệ so
sánh ngầm chứ không phải “là” trong kiểu câu tường giải khái niệm.
Ví dụ:
“Quê hương là chùm khế ngọt”
(Đỗ Trung Quân, Quê hương)
Hay:
“Nhân dân là bể
Văn nghệ là thuyền”
(Tố Hữu)
Trần Thị Thùy Linh
Nghiên cứu thủ pháp so sánh trong tiểu thuyết của Chu Lai và Lê Lựu

20
Bàn về thủ pháp so sánh, Nguyễn Thế Lịch trong bài viết “Các yếu tố
và cấu trúc của so sánh nghệ thuật” đăng trên Số phụ Tạp chí ngôn ngữ số 1,
1988 đã đưa ra một định nghĩa như sau: “So sánh thường được hiểu là đưa
một sự vật ra đối chiếu về một mặt nào đó với một sự vật khác khác loại
nhưng lại có đặc điểm tương tự mà giác quan có thể nhận biết để hiểu sự vật
đưa ra đó dễ dàng hơn”. Như vậy, theo tác giả Nguyễn Thế Lịch điều kiện để
một so sánh tu từ tồn tại là hai sự vật đem ra đối chiếu phải khác loại. Tác giả
cũng đưa ra một cấu trúc so sánh hoàn chỉnh gồm 4 yếu tố giống như Đinh
Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hòa.
- Yếu tố cần so sánh hay còn gọi là yếu được/bị so sánh (YTĐ/BSS) – (A)
- Yếu tố biểu thị phương diện so sánh (YTPDSS) - (t)
- Yếu tố thể hiện quan hệ so sánh (YTQH) - (tss)
- Yếu tố được dùng làm chuẩn để so sánh (YTSS) – (B)
Mô hình cấu trúc so sánh (CTSS) hoàn chỉnh:
1. YTĐ/BSS
2. YTPD
3. YTQH
4. YTSS
Mặt
tươi
Như
Hoa
Đặc điểm của từng yếu tố được tác giả Nguyễn Thế Lịch trình bày cụ
thể như sau:
* Đối với yếu tố được so sánh, về nguyên tắc bất luận là sự vật, hiện tượng gì
cũng có thể đem ra so sánh.
- So sánh người, sự vật:
“Em như cây quế giữa rừng
Thơm tho ai biết, ngát lừng ai hay”.

(Ca dao)
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”.
(Tố Hữu, Từ ấy)
Trần Thị Thùy Linh
Nghiên cứu thủ pháp so sánh trong tiểu thuyết của Chu Lai và Lê Lựu
21
- So sánh hành động:
“Thấy anh như thấy mặt trời
Chói chang khó ngó, trao lời khó trao”.
(Ca dao)
“Tìm em như thể tìm chim
Chim bay bể bắc đi tìm bể đông”.
(Ca dao)
- So sánh thuộc tính:
“Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
* Với yếu tố phương diện, Nguyễn Thế Lịch cho rằng, trong CTSS nó có vai
trò xác định ý nghĩa của so sánh, thể hiện thuộc tính của sự vật mà yếu tố
được so sánh biểu thị, thuộc tính này là thuộc tính tiêu biểu của sự vật mà yếu
tố so sánh biểu thị. Đối với cấu trúc so sánh vắng YTPD phải dựa vào liên
tưởng để tìm ra nét tương đồng giữa YTĐSS và YTSS, từ đó mới có thể xác
định được là đã so sánh về phương diện nào.
* Yếu tố quan hệ được xem như là đơn giản nhất trong CTSS. Nó bao gồm
các từ so sánh, từ “là” và cặp từ hô ứng “bao nhiêu…bấy nhiêu”. Các từ so
sánh được dùng phổ biến nhất là: như, tựa, như là, như thể, chừng như, tựa
như, hồ như…
Ví dụ:
“Cổ tay em trắng như ngà

Con mắt em liếc như là dao cau”.
(Ca dao)
Từ là trong CTSS có giá trị tương đương từ như. Tuy nhiên, trong CTSS nó
đem đến cho cấu trúc này sắc thái khẳng định khác với CTSS có từ như mang
sắc thái giả định.
Trần Thị Thùy Linh
Nghiên cứu thủ pháp so sánh trong tiểu thuyết của Chu Lai và Lê Lựu
22
Ví dụ: “Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Tỏa nắng xuống lòng sông mát lấp loáng”.
(Tế Hanh, Nhớ con sông quê hương)
Các cặp từ có quan hệ hô ứng bao nhiêu…bấy nhiêu.
Ví dụ:
“Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang
Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu”.
(Ca dao)
* Yếu tố cuối cùng của CTSS là YTSS. Đây được xem là yếu tố quan trọng
nhất của CTSS vì nó là chuẩn của so sánh mà không có chuẩn thì không thành
so sánh. Chính vì thế nó là yếu tố không thể thiếu trong CTSS. Sự xuất hiện
của yếu tố này là kết quả của quá trình quan sát, liên tưởng, lựa chọn. Yếu tố
này mang trong mình sắc thái tâm lí, tư tưởng của dân tộc.
Tuy nhiên, trên thực tế không phải lúc nào một so sánh cũng hội tụ cả 4
thành phần trên. Theo quan sát của tác giả Nguyễn Thế Lịch, có 4 CTSS
không hoàn chỉnh. Cụ thể:
* Vắng yếu tố phương diện
“Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau”.
(Ca dao)
* Vắng yếu tố phương diện và yếu tố quan hệ
“Người giai nhân: bến đợi dưới cây già

Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt”.
(Xuân Diệu, Lời kĩ nữ)
* Vắng yếu tố bị/được so sánh
“Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi”.
(Hồ Xuân Hương, Mời trầu)
Trần Thị Thùy Linh
Nghiên cứu thủ pháp so sánh trong tiểu thuyết của Chu Lai và Lê Lựu
23
Theo tác giả, cấu trúc này đã tạo ra vô vàn các thành ngữ so sánh kiểu:
cao như núi, ngọt như mía lùi, dễ như trở bàn tay, mềm như bún, đỏ như
son… Cấu trúc so sánh này giúp cho việc tiếp nhận trở nên dễ dàng vì phương
diện so sánh được nói ra thành lời rõ ràng. Nói chung, những so sánh loại này
rất chân phương.
* Vắng yếu tố bị/được so sánh và yếu tố phương diện
“Như diều gặp gió”
“Như nước vỡ bờ”
(Thành ngữ)
Với CTSS này, gánh nặng ngữ nghĩa dồn cả vào yếu tố đem ra làm
chuẩn để so sánh. Vì thế yếu tố này phải do một ngữ chứ không phải một từ
thể hiện.
Cũng đề cập tới thủ pháp so sánh, tác giả cuốn giáo trình Phong cách
học tiếng Việt hiện đại, Nguyễn Hữu Đạt, đã đưa ra một định nghĩa về so sánh
như sau: “So sánh là đặt hai hay nhiều sự vật, hiện tượng vào các mối quan
hệ nhất định nhằm tìm ra các sự giống nhau và khác biệt giữa chúng” [19,
tr294]. Về thực chất, phép so sánh tu từ là dùng thuộc tính hay tình trạng của
sự vật hay hiện tượng này giải thích cho thuộc tính, tình trạng của sự vật khác.
Mô hình khái quát của phép so sánh:
A – X – B
A: cái chưa biết được đem ra so sánh

B: cái đã biết được đem ra để so sánh
X: phương tiện so sánh được biểu thị bằng các từ: như, giống như, là, như là,
tựa hồ, bằng, hơn, kém…
Thực tế sử dụng ngôn ngữ, X có thể có mặt hoặc vắng mặt. Khi X vắng
mặt người ta có thể nhận diện được A và B nhờ dấu phảy ngăn cách hoặc nhờ
độ ngắt của nhịp điệu, ngữ điệu của câu nói. Ví dụ:

×