Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Người kể chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (808.96 KB, 95 trang )

1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


BÙI THỊ ĐỨC THIỆN



NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN
NGẮN CỦA NGUYỄN HUY THIỆP


LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Lí luận văn học






Hà Nội - 2012


2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



BÙI THỊ ĐỨC THIỆN





NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN
NGẮN CỦA NGUYỄN HUY THIỆP


Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60220120

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lý Hoài Thu


Hà Nội – 2012


3
LỜI CẢM ƠN

Trước tiên tôi muốn gửi lời cảm ơn tới PGS.TS Lí Hoài Thu – người đã
tận tình hướng dẫn cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành
luận văn này. Xin chân thành cảm ơn PGS. TS Đoàn Đức Phương đã chỉ bảo
cho tôi những bước đi đầu tiên trong quá trình nghiên cứu. Xin chân thành
cảm ơn sự giúp đỡ, tạo điều kiện của các trợ lí sau đại học: Th.s Nguyễn Năm
Hoàng, TS. Diêu Lan Phương. Xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Khoa
Văn học, các thầy cô phòng sau đại học trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân Văn Hà Nội đã tận tình chỉ bảo, tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá
trình học tập và nghiên cứu. Cuối cùng, cho tôi gửi lời cảm ơn tới gia đình,
bạn bè và đồng nghiệp đã luôn động viên, ủng hộ, giúp đỡ và tạo mọi điều
kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và công tác.















4
MỤC LỤC
Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài…………………………………………………… 3
2. Lịch sử vấn đề……………………………………………………… 4
3. Đối tượng, phạm vi, mục đích nghiên cứu………………………… 8
4. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………… 9
5. Cấu trúc luận văn…………………………………………………….10
Nội dung
Chương 1: Khái lược về người kể chuyện và truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp…………………………………………………………………………11
1.1 Người kể chuyện và một số vấn đề xung quang người kể chuyện 11
1.1.1. Người kể chuyện……………………………… …………… 11
1.1.2. Một số vấn đề xoay quanh người kể chuyện……………….….12
1.2 Hành trình truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp…………………… 15
Chương 2: Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn của

Nguyễn Huy Thiệp………………………………………………………… 23
2.1 Các dạng thức người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp…………………………………………………………………………23
2.1.1 Người kể chuyện đứng ở ngôi thứ nhất……………………… 23
2.1.2 Người kể chuyện đứng ở ngôi thứ ba………………………… 32
2.2 Điểm nhìn trần thuật……………………………………………… 36
2.2.1 Người kể chuyện dựa vào điểm nhìn của nhân vật …… ………36
2.2.2 Người kể chuyện kể từ điểm nhìn bên ngoài………………… 38
2.2.3 Sự di chuyển và đa dạng hóa điểm nhìn……………………… 45
Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu kể chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn
Huy Thiệp…………………………………………………………… …….54
3.1 Ngôn ngữ trần thuật……………………………………………… 54
5
3.1.1 Các kiểu lời phát ngôn của người kể chuyện……………… ….54
3.1.2 Tính khẩu ngữ thông tục…………………………………… 62
3.1.3 Tính chất đa thanh…………………………………………… 67
3.2 Giọng điệu……………………………………………………… 70
3.2.1 Giọng điệu khách quan lạnh lùng…………………… ……… 70
3.2.2 Giọng điệu trữ tình……………………………………… …….75
3.2.3 Giọng điệu chiêm nghiệm, triết lí………………………………79
Kết luận…………………………………………………………………… 85




















6
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học đương đại Việt Nam nổi lên một số hiện tượng văn học thu hút
được nhiều sự quan tâm của giới nghiên cứu cũng như độc giả, trong số đó
phải kể đến Nguyễn Huy Thiệp. Vương Trí Nhàn nhận định: “Nếu có một thứ
quả bóng vàng hay là cây bút vàng” dành để tặng cho các cây bút xuất sắc
hàng năm, thì trong năm vừa qua và cả đầu năm nay nữa - Người xứng đáng
được giải trong văn xuôi ta, có lẽ là Nguyễn Huy Thiệp”[32, tr.405]; Đỗ Đức
Hiểu đánh giá cao tài năng của Nguyễn Huy Thiệp với tư cách người tái tạo
truyện ngắn Việt Nam những năm cuối thế kỷ XX: “tôi thấy một giọt vàng rơi
vào lòng mình, giọt vàng ròng ngời sáng. Đó là truyện ngắn của anh. Anh tái
tạo truyện ngắn ở Việt Nam vào những năm cuối thế kỷ XX này và nâng nó
lên một tầm cao mới: thơ ca và triết lý, nó truyền thống và hiện đại, phương
Đông và toàn nhân loại.”[32, tr.472] Phạm Xuân Nguyên trong lời giới thiệu
cuốn sách Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp đã thấy sự xuất hiện của Nguyễn Huy
Thiệp với tư cách là một hiện tượng tiêu biểu: “Nguyễn Huy Thiệp hai lần lạ:
nội dung lạ, nghệ thuật lạ. Trên hết anh là nhà văn đúng nghĩa từ này–sử dụng
tối đa các khả năng ngôn ngữ để đạt đuợc cao nhất điều mình muốn biểu đạt.
Tức khắc sáng tác của anh trở thành một thứ hóa chất gây phản ứng, và sau

phản ứng bao giờ cũng có chất mới tạo thành. Công lao của Nguyễn Huy
Thiệp trong văn học Việt Nam đương đại là ở “phản ứng” đó” [32, tr.6]. Với
những đánh giá cao về tài năng, cái tên Nguyễn Huy Thiệp không chỉ được
nhắc đến như một hiện tượng “lạ” mà còn với tư cách một nhà văn tiêu biểu
cho văn học Việt Nam những năm sau đổi mới.
Nguyễn Huy Thiệp trải nghiệm ngòi bút của mình ở khá nhiều thể loại:
tiểu thuyết, kịch và truyện ngắn. Tuy nhiên thành công hơn cả là sáng tác
truyện ngắn. “Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp khuấy động tâm can chúng ta,
7
về nhiều phương diện, đời sống, suy tư, văn học nghệ thuật, triết lý, thân phận
con người”[32, tr.478]. Vì vậy, ngay từ khi mới xuất hiện trên văn đàn, truyện
ngắn của ông ngay lập tức đã được đông đảo bạn đọc cũng như giới nghiên
cứu quan tâm.
Trong tác phẩm tự sự, người kể chuyện có một vai trò hết sức quan trọng.
Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp gây ra nhiều tranh luận không chỉ vấn đề
nội dung mà còn trong cách kể chuyện. Phùng Gia Thế khẳng định: “Nếu kể
được xem là “thiên chức” của người viết văn xuôi thì Nguyễn Huy Thiệp là
nhà văn đã hoàn thành “thiên chức” đó trong truyện ngắn một cách xuất
sắc”[41].
Người kể chuyện là một trong những vấn đề trung tâm của lí thuyết tự sự
học, việc ứng dụng nghiên cứu về người kể chuyện theo lí thuyết tự sự học ở
Việt Nam đã thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu và từng bước
khẳng định hiệu quả của hướng tiếp cận này. Trên cơ sở đó, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu về người kể chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn Huy
Thiệp với mong muốn có được cái nhìn cụ thể về người kể chuyện trong
truyện ngắn của ông. Đồng thời góp phần tìm hiểu phong cách độc đáo cũng
như những đóng góp của tài năng Nguyễn Huy Thiệp trong sáng tác truyện
ngắn Việt Nam đương đại.
2. Lịch sử vấn đề
Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp ngay từ khi mới xuất hiện đã hấp

dẫn công chúng và giới phê bình nghiên cứu. Phạm Xuân Nguyên trong lời
giới thiệu cuốn sách Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp đã khẳng định “Thật hiếm
trong văn chương Việt Nam xưa nay, tôi dám chắc là chưa có, một nhà văn
nào vừa xuất hiện đã gây được dư luận, càng viết dư luận càng mạnh, truyện
chưa ra thì người ta đã kháo nhau, truyện đăng rồi thì người ta đã tranh nhau
tìm đọc, đọc rồi thì gặp nhau bình phẩm, bàn tán, chốn phòng văn cũng như
8
chốn vỉa hè đâu đâu cũng kháo chuyện văn đàn thời đổi mới đã khởi sắc,
bỗng khởi sắc hẳn, đã náo động, càng thêm náo động, bởi những cuộc tranh
luận, cả tranh cãi, quanh sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp”[32, tr.6].
Trước hết chúng tôi nghiên cứu hầu hết các bài viết về Nguyễn Huy
Thiệp trong khoảng mười lăm năm từ khi Nguyễn Huy Thiệp trình làng và
được tập hợp trong tuyển tập có tựa đề Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp của tác giả
Phạm Xuân Nguyên sưu tầm và biên soạn. Chúng tôi nhận thấy rằng, trong
phạm vi đề tài của các bài viết được lựa chọn tuy không nghiên cứu sâu về
người kể chuyện nhưng các tác giả cũng đã đề cập ít nhiều về người kể
chuyện trong một số truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Huy Thiệp.
Trong bài Khi ông tướng về hưu xuất hiện, tác giả Đặng Anh Đào đã chỉ
ra cái nhìn dân chủ hóa của người kể chuyện: “Cái nhìn dân chủ hóa của
người kể chuyện ở đây chính là chỗ: tin rằng mình không phải mách nước cho
ai, lên lớp cho ai, thậm chí, ở nhiều chỗ, đứng thấp hơn nhân vật và bạn
đọc”[32, tr.23]. Tiếp tục nghiên cứu về truyện ngắn Con gái thủy thần trong
bài viết Biển không có thủy thần, Đặng Anh Đào chỉ ra sự khác biệt về người
kể chuyện truyền thống trong truyện cổ tích với người kể chuyện trong chùm
truyện ngắn cổ tích của Nguyễn Huy Thiệp.
Tác giả Đào Duy Hiệp trong bài viết Đọc chút thoáng Xuân Hương đã
chỉ ra các kiểu dạng người kể chuyện và sự dịch chuyển điểm nhìn của người
kể chuyện mà Nguyễn Huy Thiệp sử dụng để làm nổi bật chân dung của nữ
thi sĩ Xuân Hương: Ở truyện thứ nhất “Người kể chuyện tuy ở ngôi thứ ba,
nhưng do từ vựng là của nhân vật nên tuy không xưng “tôi” mà người đọc

như lại thấy chính Tổng Cóc đang kể ra những suy nghĩ, độc thoại, cách ứng
xử… của ông ta. Người kể chuyện do đó mất đi vài trò của “Ông biết tuốt”.
Lời người kể chuyện đã ít (chủ yếu là tả các hành động của Tổng Cóc đứng
lên, ngồi xuống, quát hỏi Lý Cờ…), lại rất khó tách bạch ra giọng điệu
9
riêng.”[32, tr.77] Ở truyện thứ hai, “điểm nhìn chủ yếu trong truyện này là từ
Ấm Huy. Vẫn là người thuật truyện ở ngôi thứ ba, nhưng thường xuyên di
chuyển sang Ấm Huy”[32, tr.81]. Ở truyện thứ ba, người kể chuyện dựa vào
điểm nhìn của nhân vật đóng vai Chiêu Hổ để trần thuật.
Dưới cảm nhận của nhà nghiên cứu Greg Lockhart trong bài Tại sao tôi
dịch truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ra tiếng Anh, tác giả cũng ít nhiều chỉ ra
được kiểu chân dung người kể chuyện khách quan đứng bên ngoài câu chuyện
được kể trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Quan điểm này cũng được
thừa nhận trong bài viết Lịch sử trong quan niệm của Nguyễn Huy Thiệp của
nhà nghiên cứu Vương Anh Tuấn: “Không thuần túy là người kể, tác giả theo
nghĩa chặt chẽ”[32, tr.335]. Đó là “một chủ thể khách quan, trung tính, quan
sát, kể chuyện với con mắt lạnh lùng thiếu những đoạn trữ tình ngoại đề, lời
bàn luận, đánh giá xem xét các sự kiện”[32,tr.335]
Trong Đọc văn phải khác với đọc sử nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đã
chỉ ra người kể chuyện với tư cách là một sản phẩm hư cấu của nhà văn, là
một sự sáng tạo trong nghệ thuật kể chuyện trong truyện ngắn Vàng lửa:
“Phơ-răng-xoa ( Phăng) hư cấu không phải là “ người phát ngôn” của Nguyễn
Huy Thiệp. Và nếu đọc kỹ chúng ta thấy cái người xưng “tôi” trong truyện
cũng không phải là Nguyễn Huy Thiệp ngoài đời- đó chỉ là một vai tôi hư
cấu” [ 32, tr.181]. Đồng thời chỉ ra kiểu “người kể chuyện không đáng tin”
cậy trong tác phẩm: “Nếu lấy chức năng kể chuyện để định danh cho loại
nhân vật ở đây thì cả Phăng, cả người Bồ Đào Nha (và đôi khi cả vai “tôi”
nữa) đều được xây dựng như là loại “người kể chuyện không đáng tin cậy”
gần như kiểu nhân vật tự thú’’[32, tr183]. Kiểu người kể chuyện này cũng
được tác giả Thùy Sương thừa nhận trong bài: Về một cách hiểu truyện ngắn

“ Vàng lửa”
10
Nguyễn Mai Xuân và Trương Hồng Quang trong: Vàng lửa của Nguyễn
Huy Thiệp“triết học lịch sử”hay là“văn xuôi nghệ thuật” bên cạnh thừa nhận
vai trò căn bản của kiểu người kể chuyện không đáng tin cậy có đề cập kiểu
người kể chuyện ở ngôi thứ nhất…
Nhìn chung, những nghiên cứu về Nguyễn Huy Thiệp trong thời kỳ đầu
ông mới xuất hiện tuy chưa có bài viết nghiên cứu hệ thống về người kể
chuyện nhưng những phát hiện về người kể chuyện trong một số truyện ngắn
tiêu biểu bước đầu cho ta hình dung về kiểu người kể chuyện trong truyện
ngắn của Nguyễn Huy Thiệp.
Về sau, các nhà nghiên cứu trên cơ sở khảo sát hàng loạt các truyện ngắn
của Nguyễn Huy Thiệp cũng đã có những nhận định mang tính chất hệ thống
hơn về người kể chuyện. Trong bài Hình thức đa thanh mới trong truyện ngắn
của Nguyễn Huy Thiệp, tác giả Châu Minh Hùng đã khái quát về người kể
chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp với cái nhìn dân chủ hóa. Ở
phương diện này tác giả nhận thấy: “Nguyễn Huy Thiệp với tư cách nhà văn
đã hoàn toàn mất thực quyền trong tác phẩm. Anh ta chỉ có quyền tổ chức tác
phẩm mà không có quyền lấy phát ngôn của mình định giá cho các phát ngôn
khác. Thiệp không trân trọng, cũng không nhại, không mỉa mai ai. Lời kể bao
giờ cũng nghiêm túc, nghiêm túc đến dửng dưng. Lời kể trong văn ông lược
bỏ mọi thứ trang hoàng của giọng điệu, giảm thiểu đến mức tối đa những
trạng từ, tính từ tô điểm cho đối tượng.”[20]
Nhà nghiên cứu La Khắc Hòa trong bài “Những dấu hiệu của chủ nghĩa
Hậu hiện đại trong văn học Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và
Phạm Thị Hoài” nhận thấy giọng điệu riêng và thái độ khách quan của người
kể chuyện trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp.
Bùi Việt Thắng trong bài viết “Vấn đề kể chuyện trong truyện ngắn
đương đại ( Một khía cạnh thi pháp thể loại )” đã đúc rút những đặc điểm cơ
11

bản nhất của nghệ thuật kể chuyện xưng “ tôi” ở truyện ngắn của Nguyễn Huy
Thiệp.
Nguyễn Mạnh Hà trong bài viết Một số nguyên tác tự sự của Nguyễn
Huy Thiệp trong truyện ngắn (Tạp chí ngôn ngữ và đời sống số 10/2009) đã
chỉ ra kiểu người kể chuyện đứng trong câu chuyện được kể tức người kể
trong cuộc và kiểu người kể đứng ngoài câu chuyện với vai trò thuật lại.
Trong bài: Tổ chức trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp,
Phùng Gia Thế khái quát về các kiểu người kể chuyện trong truyện ngắn của
Nguyễn Huy Thiệp với các dạng cơ bản: “chủ thể kể chuyện được đặt ở ngoài
câu chuyện - hình thức kể ở ngôi thứ ba” và dạng thứ hai “hình thức “nhân vật
kể chuyện”- hình thức kể theo ngôi thứ nhất
Bên cạnh đó còn phải kể đến rất nhiều thành quả trong các công trình
khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ về truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp
mà chúng tôi chưa có dịp thống kê.
Trên cơ sở kế thừa thành tựu đã có của những người nghiên cứu trước,
chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu các dạng thức người kể chuyện trong truyện
ngắn của Nguyễn Huy Thiệp với mong muốn có cái nhìn tổng hợp trên những
phương diện biểu hiện tiêu biểu về người kể chuyện, đồng thời thấy được
phong cách độc đáo của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
3. Đối tượng, phạm vi, mục đích nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu cho luận văn là "người kể
chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp".
- Phạm vi nghiên cứu:
Trong phạm vi luận văn, chúng tôi không có tham vọng tìm hiểu toàn bộ
các tác phẩm truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp mà chỉ tập trung khảo sát ở
một số truyện ngắn tiêu biểu của ông trong cuốn Truyện ngắn Nguyễn Huy
12
Thiệp do Nhà xuất bản văn hóa Sài Gòn, xuất bản quý III năm 2007. Tập sách
bao gồm 42 truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp được sắp xếp theo thứ tự thời

gian, và đây cũng là cuốn sách tập hợp phần lớn các truyện ngắn của Nguyễn
Huy Thiệp được xuất bản gần đây nhất.
- Mục đích nghiên cứu:
Lựa chọn đề tài về người kể chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn Huy
Thiệp, chúng tôi mong muốn đem đến cái nhìn có tính khái quát, khoa học và
khách quan về hình tượng người kể chuyện trong hệ thống truyện ngắn của
Nguyễn Huy Thiệp. Đồng qua đó góp phần khẳng định tài năng, cá tính sáng
tạo độc đáo cũng như những đóng góp của ông trong truyện ngắn Việt Nam
đương đại.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu cơ bản sau:
Phương pháp loại hình: khảo sát các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp
trên cơ sở của loại hình tự sự.
Phương pháp phân tích - tổng hợp: chúng tôi áp dụng phương pháp này
trong việc phân tích các phương diện tiêu biểu của tác phẩm để làm rõ những
luận điểm, đồng thời khái quát những đặc trưng cơ bản các nội dung cơ bản
về người kể chuyện.
Phương pháp so sánh: sử dụng phương pháp so sánh trong mối tương
quan với các nhà văn trước hoặc cùng thời với Nguyễn Huy Thiệp để thấy
được sự kế thừa, cách tân cũng như cá tính sáng tạo của Nguyễn Huy Thiệp ở
phương diện người kể chuyện.
Phương pháp thống kê: chúng tôi áp dụng phương pháp thống kê trong
việc phân loại các dạng thức người kể chuyện và điểm nhìn làm cơ sở cho
13
việc phân tích các đặc điểm của người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp.
5. Cấu trúc luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo cấu
trúc luận văn bao gồm 03 chương:

- Chương 1. Khái lược về người kể chuyện và hành trình truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp.
- Chương 2. Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp.
- Chương 3. Ngôn ngữ và giọng điệu người kể chuyện trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp.















14
Chương 1: Khái lược chung về người kể chuyện và hành trình truyện
ngắn của Nguyễn Huy Thiệp.
Trong lý thuyết tự sự học vấn đề về người kể chuyện có thể xem là vấn
đề then chốt và cho đến nay nó vẫn được giới nghiên cứu tự sự học quan tâm,
bởi lẽ trong tác phẩm tự sự người kể chuyện là một tồn tại tất yếu.
1.1 Người kể chuyện và một số vấn đề xung quanh người kể chuyện
1.1.1 Người kể chuyện
Người kể chuyện (narrator) là một thuật ngữ công cụ của tự sự học, được

xem là khái niệm trung tâm nhất trong phân tích trần thuật. Tuy nhiên xung
quanh khái niệm này còn có rất nhiều quan điểm khác nhau. Khi tiếp cận về
vấn đề người kể chuyện, chúng tôi cho rằng người kể chuyện chính là chủ thể
của những lời kể về câu chuyện nào đó trong tác phẩm văn học. Chủ thể đó là
một nhân vật đặc biệt do nhà văn sáng tạo ra để dẫn dắt, gợi mở hay sắp đặt
câu chuyện được kể. Người kể chuyện có thể là đàn ông hoặc đàn bà, là con
người của quá khứ, hiện tại hoặc tương lại, nhưng là người kể lại câu chuyện
trong tác phẩm bằng một chỗ đứng, một điểm nhìn phù hợp với ý đồ sáng tạo
của nhà văn. Đó là “kẻ được sáng tạo ra để mang lời kể”[36, tr.17]. Vì vậy
trong tác phẩm tự sự “không thể có trần thuật thiếu người kể chuyện. Người
kể chuyện không nói như các nhân vật tham thoại khác mà kể chuyện”
( Todozov )[36, tr.116]
Những quan niệm khác nhau trong giới nghiên cứu về người kể chuyện
đưa đến những cách phân loại khác nhau về hình tượng này. Có thể phân chia
các dạng thức người kể chuyện trên tiêu chí của điểm nhìn, dựa vào mối quan
hệ của người kể chuyện với câu chuyện, hay dựa vào quyền năng của người
kể chuyện…Chúng tôi cho rằng dù được phân chia theo tiêu chí nào thì cái
đích đạt tới cũng là chỉ ra vai trò của người kể chuyện trong câu chuyện. Do
đó người kể chuyện cũng có thể khoác lên mình nhiều vai trò khác nhau trong
15
mỗi câu chuyện. Và tùy thuộc vào ý đồ sáng tạo của nhà văn mà người kể
chuyện sẽ xuất hiện ở những mức độ khác nhau trong tác phẩm. Người kể
chuyện có thể can thiệp một cách trực tiếp vào văn bản với vai trò của người
tổ chức cấu trúc câu chuyện kể, người kể chuyện có thể chỉ đảm nhiệm những
chức năng đơn thuần là kể chuyện hoặc có thể đảm nhiệm bất cứ chức năng
nào mà người kể chuyện có thể đảm nhiệm, kể cả khi nó chỉ xuất hiện một
cách hàm ẩn.
Khi tìm hiểu về người kể chuyện, ngoài việc xem xét người kể chuyện
như một hình thức nghệ thuật nhằm mang lại hiệu quả cho tác phẩm, chúng
tôi cho rằng, cần xem xét nó trong mối quan hệ với tác giả văn bản. Bởi suy

cho cùng “Cơ sở nghệ thuật của hình tượng tác giả trong văn học chính là tính
chất gián tiếp của văn bản nghệ thuật: văn bản của tác phẩm bao giờ cũng là
lời của người trần thuật, người kể chuyện, hoặc nhân vật trữ tình. Nhà văn xây
dựng một văn bản đồng thời với việc xây dựng ra hình tượng người phát ngôn
văn bản ấy với giọng điệu nhất định”[12, tr.149]
1.1.2 Một số vấn đề xoay quanh người kể chuyện.
Trong cuốn Tự Sự học - một số vấn đề lý luận và lịch sử, Trần Đình Sử
có nhận xét tổng quát về người trần thuật:

“Người trần thuật trong văn bản
văn học là một hình tượng nghệ thuật phức tạp, mà ngôi kể chỉ hình thức biểu
hiện ước lệ. Người trần thuật vốn không có gì là ngôi kể, mà chỉ là chủ thể kể.
Sự khác biệt của “ngôi thứ nhất”, “ngôi kể thứ ba” chỉ là khác nhau về mức
độ bộc lộ và ẩn giấu của người trần thuật mà thôi. Sự ẩn giấu của ngôi kể thứ
ba làm cho nó gần như vô nhân xưng. Ngôi kể là yếu tố tạo thành tiếng nói,
giọng điệu. Điều quan trọng nữa là kể theo điểm nhìn nào. Đây là vấn đề tiêu
cự trần thuật, là vấn đề phân biệt các hình thức tự sự khác nhau”[36, tr.17].
Như vậy trong sự lý giải về hình tượng người kể chuyện của Trần Đình sử đã
đồng thời chỉ ra các vấn đề liên quan xoay quanh hình tượng người kể chuyện
16
như: ngôi kể, điểm nhìn, ngôn ngữ, giọng điệu. Đó cũng chính là những vấn
đề mà luận văn chúng tôi có đề cập đến khi khi tìm hiểu về người kể chuyện
trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp.
1.1.2.1 Ngôi kể - hình thức cơ bản của người kể chuyện
Có rất nhiều đề xuất khác nhau về hình thức cơ bản của người kể chuyện.
Giới nghiên cứu thường dựa trên ngôi phát ngôn khi phân loại người kể
chuyện. Trên cơ sở đó có người kể chuyện ở ngôi thứ nhất thường sử dụng
các đại từ nhân xưng như “tôi”, “chúng tôi” và người kể chuyện ở ngôi thứ ba,
một số trường hợp đặc biệt xuất hiện dạng người kể chuyện ở ngôi thứ hai.
Các nhà nghiên cứu phương Tây khác tiêu biểu là G.Genette, với xu

hứng nghiên cứu lớp ngôn từ của người trần thuật lại cho rằng có hai hình
thức cơ bản của người kể chuyện: người kể chuyện ngoại sự tức là người kể
chuyện với tư cách là nhân vật vắng trong câu chuyện mà anh ta kể lại, anh ta
ở ngoài câu chuyện đó; hoặc anh ta người kể chuyện nội sự tức người kể
chuyện hiện diện với tư cách là một nhân vật trong câu chuyện mà anh ta kể
lại. Cũng theo G.Genette người kể chuyện ngoại sự sử dụng hình thức kể là
chủ đạo tương đương với ngôi thứ ba trong kể chuyện. Còn người kể chuyện
nội sự hiện diện sử dụng hình thức kể chủ đạo là hình thức diễn ngôn với ngôi
kể thứ nhất mà mang ấn tượng chủ quan rõ nét. Tuy nhiên trong các tác phẩm
tự sự hai hình thức cơ bản này của người kể chuyện vẫn thường có sự trộn lẫn
ở một mức độ nào đó.
Như vậy, xu hướng nghiên cứu về người kể chuyện có thể dựa trên
những xuất phát điểm khác nhau, nhưng đều đưa ra những chỉ dẫn về mức độ
ẩn giấu cũng như hình thức tồn tại của hình tượng này trong tác phẩm tự sự.
Chúng tôi trên cơ sở tiếp thu những quan điểm tiếp cận của các nhà nghiên
cứu tự sự học đã lựa chọn khảo sát truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp ở ngôi
kể với tư cách là hình thức cơ bản của người kể chuyện.
17
1.1.2.2 Điểm nhìn trần thuật
Nhìn nhận sự việc hiện tượng hay một sự kiện nào đó bao giờ cũng gắn
với việc lựa chọn một điểm nhìn xác định. Điểm nhìn là một khái niệm

đặc
thù của trần thuật học trong thế kỉ XX và được rất nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm. Điểm nhìn cùng với người trần thuật là hai yếu tố cơ bản tạo nên cái gọi
là “trần thuật”. Xung quanh vấn đề điểm nhìn đã có rất nhiều quan niệm khác
nhau. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử cho rằng điểm nhìn là “cái vị trí dùng để
quan sát, cảm nhận, đánh giá, bao gồm cả khoảng cách giữa chủ thể và khách
thể, cả phương diện vật lý, tâm lý, văn hóa”[39, tr.149]. Còn theo Nguyễn
Thái Hòa điểm nhìn là “điểm xuất phát của một cấu trúc nghệ thuật, hơn thế

nó là mộ cấu trúc tiềm ẩn được người đọc tiếp nhận bằng thao tác suy ý từ các
mối quan hệ phức hợp giữa người kể và văn bản, giữa văn bản và người đọc
văn bản, giữa người kể và người đọc hàm ẩn”[36, tr.96]. Tuy nhiên điểm nhìn
dù được nhìn nhận ở phương diện nào các nhà nghiên cứu đều khẳng định
tầm quan trọng của nó trong sáng tác văn học. Khi xem xét về điểm nhìn
trong văn bản trần thuật chúng tôi cho rằng dù xem xét ở phương diện vật lý,
tâm lý hay trường nhìn… thì điểm nhìn cũng luôn luôn mang trong mình
khuynh hướng nhận thức nhất định, tức luôn luôn có sự tri giác của chủ thể ở
trong đó. Điểm nhìn đó có thể là điểm nhìn của người trực tiếp kể chuyện
cũng có thể là điểm nhìn của người kể chuyện được khúc xạ bởi điểm nhìn
của một nhân vật nào đó trong truyện. Đó cũng chính là quan điểm tiếp cận
của chúng tôi khi nghiên cứu về điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn của
Nguyễn Huy Thiệp.
Việc lựa chọn điểm nhìn trong văn vản tự sự tùy thuộc vào phong cách
của nhà văn cũng như yêu cầu cần đạt đến của người sáng tác văn học. Nhà
phê bình lý luận Phương Lựu nhấn mạnh: “nghệ sỹ không thể miêu tả, trần
thuật các sự kiện của đời sống nếu không xác định cho mình một điểm nhìn
18
đối với sự vật, hiện tượng, nhìn từ góc độ nào, xa hay gần, cao hay thấp, từ
bên trong hay bên ngoài”. Vì vậy có thể nói việc lựa chọn một điểm nhìn bao
giờ cũng ghi nhận dấu ấn của người sáng tác và tất nhiên luôn mang tới một
hiệu quả nghệ thuật nhất định.
1.1.2.3 Giọng điệu
Trong trần thuật học người kể chuyện là khái niệm trung tâm, còn
giọng điệu được xem là vấn đề “trung tâm của trung tâm”[35, tr.189]. Theo từ
điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi
giọng điệu là “ thái độ, tình cảm, lập trường, tư tưởng, đạo đức của nhà văn
với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi
tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa, gần thân sơ, thành kính hay
suồng sã, ngợi ca hay châm biếm…”[36, tr.134]. Còn theo Lê Huy Bắc:

“giọng điệu là âm thanh được xét ở góc độ tâm lý biểu hiện các thái độ buồn,
vui, giận, hờ hững ….”[9. tr.337]. Như vậy giọng điệu chính là những sắc thái
tình cảm được bộc lộ qua việc lựa chọn và tổ chức ngôn ngữ. Các yếu tố như
cái nhìn hiện thực, cảm hứng sáng tác, tư tưởng của tác giả… với hiện thực
khách quan là những yếu tố rất quan trọng chi phối đến giọng điệu trong tác
phẩm.

Trong quá trình sáng tác, vấn đề tạo ra dấu ấn trong giọng điệu rất quan
trọng. M.Khrapchencô đã khẳng định: “cái quan trọng trong tài năng văn học
( ) là tiếng nói của mình ( ), là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể
tìm thấy trong cổ họng của bất kỳ một người nào khác”[24, tr.190]. Trong
khuôn khổ của luận văn, chúng tôi xem xét về giọng điệu của người kể
chuyện với tư cách như là một yếu tố tạo nên phong cách của nhà văn.
1.2 Hành trình truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Nguyễn Huy Thiệp sáng tác không chỉ truyện ngắn mà còn viết tiểu
thuyết và kịch. Tuy nhiên giới nghiên cứu cũng như độc giả đánh giá cao các
19
sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp ở thể loại truyện ngắn. Vì vậy, có thể khẳng
định sở trường của Nguyễn Huy Thiệp là truyện ngắn. Các truyện ngắn của
ông có thể tạm phân loại theo những đề tài sau:
Các truyện ngắn viết về đề tài lịch sử và văn học: Kiếm sắc, Vàng lửa,
Phẩm tiết, Nguyễn Thị Lộ, Mưa Nhã Nam, Chút thoáng Xuân Hương….Khai
thác đề tài này Nguyễn Huy Thiệp không lấy cái nhìn của nhà sử quan để
khám phá quá khứ mà đưa ra cách nhìn nhận mới đối với những vấn đề của
lịch sử. “Lịch sử trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp bề bộn các dữ kiện ở
nhiều chiều kích, mức độ. Tuy nhiên, nhà văn không hướng người đọc đến
một chủ đích mà buộc người thưởng thức phải tự chọn lựa, sắp xếp các cứ
liệu có sẵn theo “tầm đón đợi” của chính mình”[26]. Do đó lịch sử trong
truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp là “lịch sử không thuần nhất, cố định và
minh bạch trong tâm thế ngợi ca hay phê phán”[26]. Việc tiếp cận lịch sử

trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp vì vậy đã gây ra nhiều tranh cãi. Sự
thật hay hư cấu, tôn trọng hay bôi nhọ lịch sử - đó là những vấn đề luôn luôn
được đề cập khi giải mã lịch sử trong truyện ngắn của ông. Từ đó nảy sinh
quan niệm về tiếp cận lịch sử trong văn học, quan niệm “đọc văn phải khác
với đọc sử” khiến chúng ta phải suy ngẫm nhiều trong khi tìm hiểu tác phẩm
của Nguyễn Huy Thiệp. Song sức hấp dẫn từ những khám phá mới mẻ trong
các truyện ngắn khai thác về đề tài lịch sử và văn học của Nguyễn Huy Thiệp
là những điều không thể phủ nhận.
Các truyện ngắn mang hơi hướng huyền thoại hoặc “cổ tích”: Những
ngọn gió Hua Tát, Con gái thủy thần, Giọt máu, Muối của rừng, Chảy đi sông
ơi, Trương Chi … Sử dụng các yếu tố kỳ ảo của huyền thoại, cổ tích trong
sáng tác sau đổi mới không chỉ có riêng Nguyễn Huy Thiệp mà còn nhiều cây
bút có tên tuổi khác như Võ Thị Hảo, Lưu Sơn Minh, Phạm Hải Vân, Hòa
Vang…Tuy Nhiên “Nguyễn Huy Thiệp được xem là nhà văn sử dụng yếu tố
20
kỳ ảo sớm nhất giai đoạn sau Đổi mới (1989)”[12]. Các mô típ và không khí
huyền thoại cổ tích ẩn hiện trong những câu chuyện kể của Nguyễn Huy
Thiệp khiến những truyện ngắn của ông trở nên gần gũi với đời sống của
người Việt. Tuy nhiên cái huyền thoại cổ tích trong truyện ngắn của Nguyễn
Huy Thiệp không chứa đựng cái nhìn đầy lạc quan tin tưởng như thế giới của
những câu chuyện cổ tích mà là thế giới mang trong mình nhiều bí ẩn, đầy bất
trắc - những điều con người chưa thể lý giải được. Không lấy cái yếu tố huyền
thoại để phủ định quá khứ hay trốn tránh và quay lưng lại với đời sống thực
tại; cái huyền thoại, cổ tích trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp luôn
được nhà văn đồng hiện trong thời gian hiện tại như một sự đánh giá với quá
khứ và nhận thức về hiện tại. Cho nên cái làm nên sự khác biệt cho truyện
ngắn mang tính huyền thoại, cổ tích ở Nguyễn Huy Thiệp và truyện cổ tích

“là trong thế giới nghệ thuật cổ tích mọi huyền thoại, niềm tin đều có thể trở
thành hiện thực còn ở Nguyễn Huy Thiệp điều đó sẽ không bao giờ xảy ra.

Trong cổ tích mọi mâu thuẫn, xung đột được giải quyết bằng phép nhiệm màu,
còn trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp mọi thứ vẫn được tuân theo quy
luật vận hành của vũ trụ, của đời sống xã hội hiện đại”[36, tr.415]. Vì vậy thế
giới mà Nguyễn Huy Thiệp tạo ra trong truyện ngắn của mình có thể bao phủ
bới mầu sắc cổ tích nhưng luôn tồn tồn tại song song những yếu tố khả giải -
bất khả giải, duy lý - phi lý, tất nhiên - ngẫu nhiên. Đó cũng là cách thức để
Nguyễn Huy Thiệp gửi gắm quan niệm, những trăn trở suy tư về cuộc sống.
Như Hoàng Ngọc Hiến đã nhận xét: “Dẫu là kể chuyện cổ tích, Nguyễn Huy
Thiệp trước sau viết về cuộc sống hôm nay” (Hoàng Ngọc Hiến – lời giới
thiệu tập Tướng về hưu).
Các truyện ngắn lấy đề tài từ thực tế cuộc sống xã hội: Không có vua,
Tướng về hưu, Cún, Sang sông, Tội ác và trừng phạt Trong những tác
phẩm này Nguyễn Huy Thiệp tập trung vào ngõ ngách của cuộc sống bằng
21
những ghi chép hết sức sinh động và chân thật. Không phải là những sự kiện
đình đám, không phải là những con người lý tưởng “toàn thiện toàn mỹ” như
văn học trước đó, mà là cuộc sống sinh hoạt thường nhật với những con người
giản dị chân chất của đời sống. Dường như Nguyễn Huy Thiệp viết những tác
phẩm này không phải để cắt nghĩa, lý giải cuộc sống với những mệnh đề tốt,
xấu, mà phản ánh cuộc sống với tinh thần không né tránh hiện thực. Đó là
hình ảnh của cuộc sống gấp gáp hối hả, con người chạy theo những tham
vọng về tiền tài, địa vị và danh vọng. Cho nên cũng dễ hiểu vì sao Nguyễn
Huy Thiệp nói nhiều về tội ác, về cái xấu, về sự cô đơn. Viết về cuộc sống đời
thường những năm sau đổi mới không phải chỉ riêng Nguyễn Huy Thiệp mà
là xu hướng chung của giới văn nghệ sỹ với tinh thần đối diện với hiện thực.
Tuy nhiên hiện thực trong trang viết của Nguyễn Huy Thiệp được khai thác
với giọng điệu rất riêng của nhà văn, vừa lạnh lùng đôi lúc tàn nhẫn nhưng
cũng không kém dư vị xót xa và quan trọng hơn thứ hiện thực ấy luôn khiến
cho người đọc phải trăn trở suy tư.
Các truyện ngắn về đề tài đồng quê và những người dân lao động:

Thương nhớ đồng quê, Những bài học nông thôn, Những người thợ xẻ…Cũng
vẫn là những người lao động vất vẻ nghèo khổ, cũng là những sinh hoạt
thường nhật của đời sống. Nhưng đến với những truyện ngắn về đề tài đồng
quê và người lao động ở nông thôn, Nguyễn Huy Thiệp không tái hiện cuộc
sống với không khí căng thẳng, gấp gáp mà thường tìm về với những khoảng
lặng nơi tâm hồn, tìm cho mình những bài học trong cuộc sống. Dường như
đến với cuộc sống nơi thị thành người đọc phải căng tai căng mắt theo dõi
những sự kiện ào ạt tuôn chảy, thì đến truyện ngắn về đề tài đồng quê chúng
ta có được những phút lắng lòng đủ tỉnh táo để cảm nhận về những gì đang
diễn ra.Và ở mảng truyện ngắn này chúng ta cảm nhận rõ hơn chất trữ tình
bàng bạc trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp.
22
Dù được khai thác trên rất nhiều đề tài khác nhau nhưng hầu hết các
truyện ngắn đều hướng tới phản ánh hiện thực của con người trong xã hội với
sự nảy sinh cái xấu và cái ác, sự đảo lộn các giá trị trong cuộc sống. Nguyễn
Huy Thiệp nhìn thấy ở họ sự nghèo nàn về cuộc sống vật chất và tinh thần tạo
nên cái ác, sự ti tiện. Thế nhưng cái nhìn của ông khi đề cập đến những vấn
đề này không phải là sự thích thú với cái xấu, cái ác mà là thái độ nhìn thẳng
vào sự thật, lột trần sự thật để lý giải: “Đừng trách họ thế”; “Có ai yêu thương
họ đâu Họ đói mà ngu muội lắm ”(Chảy đi sông ơi); để hiểu, thương cảm:
“chính hiểu rõ những đau khổ ấy mà ở trong ta nảy nở ra sự sáng suốt đạo đức,
lòng cao thượng, tình người”(Những ngọn gió Hua Tát). Chính vì thế, mỗi
truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp là những suy tư, trăn trở về một vấn đề
nào đó của cuộc sống: về ý nghĩa của cuộc sống, về cái chết, về tình yêu…
Do đó, các sáng tác của ông thường giàu tính triết lý và chiêm nghiệm, nhất là
các triết lý mang tính trải nghiệm về văn chương, về quy luật của cuộc sống.
Nhân vật trong các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp hầu hết là người
nông dân và tiểu thị dân thành thị với đủ mọi lứa tuổi,“toàn những con người
góc cạnh gân guốc. Người nào dường như cũng sống đến tận cùng cá tính của
mình”[32, tr.458]. Cho dù họ là vua chúa, tướng lĩnh, những người có học

thức cho đến những người dân lao động, dù sống ở thành thị hay nông thôn,
trong cuộc sống đầy đủ về vật chất hay nghèo khổ, hầu hết họ là những con
người cô đơn trong cuộc sống. Các nhân vật cô đơn ngay trong chính đời sống
xung quanh mình cũng mang nhiều diện mạo rất khác nhau. Nó là cái cô đơn
mang tính đa dạng và phải chăng nó nhuốm cái tâm thế cô đơn của con người
trong cuộc sống hiện đại: sống giữa cuộc sống của mình “sao cứ như lạc loài”.
Nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp không xây dựng
theo xu hướng phản diện hay chính diện. Họ là những con người tồn tại chân
thực với tất cả sự phức tạp của nó. Ở họ, cái xấu xa đốn mạt đan cài với
23
những điều tốt đẹp, ranh giới giữa cái thiện và cái ác rất mong manh trong
mỗi con người. Kiểu con người như vậy được Nguyễn Huy Thiệp khắc họa
rất thành công ở những nhân vật đàn ông. Phần lớn các nhân vật đàn ông
trong truyện hiện lên với vẻ nhếch nhác, đốn mạt, bất đắc chí và vô tích sự,
duy có phần lớn nhân vật nữ trong truyện ngắn của ông mang nhiều vẻ đẹp.
Đó là nàng Bua, Sinh, Chị Thắm, cô Thục, Xuân Hương, bé Thu…Những con
người luôn biết giúp đỡ những người xung quanh, biết hy sinh. Họ như những
mạch nước ngầm làm dịu mát những thớ đất khô cằn cỗi, làm mềm đi cái
cuộc sống khô cằn gân guốc trong trang viết của Nguyễn Huy Thiệp.
Ở phương diện nghệ thuật, truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp ghi nhận
nhiều sáng tạo mang cá tính trong việc xây dựng tình huống. Các truyện ngắn
của ông hầu hết đều khai thác những tình huống trong đời sống thường nhật
song khá đa dạng và giàu kịch tính (Không có vua, Giọt máu, Sang sông,
Huyền thoại phố phường…).
Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp góp phần làm phong phú diện mạo
cho truyện ngắn hiện đại với các kiểu truyện ngắn “giả lịch sử”(Vàng lửa,
Kiếm Sắc, Phẩm tiết…); truyện ngắn mang hơi hướng huyền thoại, cổ tích
(Những ngọn gió Hua Tát); truyện ngắn trong truyện ngắn (Chút thoáng Xuân
Hương, Con gái thủy thần, Những ngọn gió Hua Tát, Thương nhớ đồng quê),
truyện ngắn mang dáng dấp phóng sự (Tội ác và trừng phạt); truyện ngắn

nhật ký (Mưa); truyện ngắn dòng chảy ý thức (Không khóc ở Califocnia)…
Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp ghi nhận nhiều đóng góp trong nghệ
thuật kể chuyện với nhiều người kể chuyện, sự dịch chuyển và đa dạng hóa
điểm nhìn tạo nên cái nhìn đa chiều về cuộc sống, lối kể chuyện dân chủ với
nhiều thông tin, nhiều yếu tố bỏ lửng, nhiều kết thúc, sử dụng nhiều yếu văn
vần trong cách dẫn truyện…Đồng thời tạo cho mình giọng văn riêng khó trộn
lẫn. Đó là giọng điệu sắc lạnh khi nhìn thẳng vào sự thật, phơi bày cái xấu cái
24
ác, những mảng hiện thực u tối của cuộc đời được xen lẫn với giọng điệu trữ
tình khi diễn tả những trớ trêu của cuộc đời, của số phận con người. Và mỗi
câu chuyện Nguyễn Huy Thiệp mang tới cho người đọc đều ẩn chứa những
chiêm nghiệm suy tư về con người và cuộc đời.
Ở phương diện ngôn ngữ Nguyễn Huy Thiệp sử dụng ngôn ngữ trần
thuật giàu cá tính với việc sử dụng phổ biến dạng câu đơn, ngôn ngữ ngắn
gọn, ít sử dụng các tính từ khiến ngôn ngữ nhiều khi trở nên trơ trụi nhưng
vẫn hàm súc, chứa đựng nhiều thông tin và mang ý vị triết lý; đưa ngôn ngữ
đời sống và ngôn ngữ thông tục vào trong lối kể chuyện cũng như những đối
thoại giàu kịch tính của nhân vật; nghệ thuật tổ chức ngôn ngữ trần thuật theo
nguyên tác đa thanh là những đặc điểm cơ bản trong ngôn ngữ truyện ngắn
của Nguyễn Huy Thiệp.
Nhìn chung, các truyện ngắn của ông có cách dựng truyện của tiểu
thuyết chương hồi Á Đông được kết hợp chặt chẽ, hài hòa lối viết ngắn gọn
của nghệ thuật hiện đại. Vì vậy, có thể tìm thấy trong các truyện ngắn của
Nguyễn Huy Thiệp tính chất Phương Đông được gửi gắm trong thơ ca, giọng
điệu triết lý; thấy tính hiện đại trong cấu trúc truyện ngắn, trong ngôn từ nghệ
thuật và trong lối hành văn. Điều đó có lẽ có được từ những trăn trở suy tư
của ông về chính công việc viết văn của mình: “Công việc của nhà văn bắt
đầu từ đâu? Tôi nghĩ rằng phải bắt đầu từ việc nghiên cứu bạn đọc, đúng hơn
là phải nghiên cứu tâm lý dân tộc trong cả một khoảng thời gian dài”[42, tr.
29 – 30]

Mặc dù vẫn còn những hạn chế song những đóng góp của Nguyễn Huy
Thiệp cho diện mạo truyện ngắn Việt Nam những năm sau đổi mới là điều
không thể phủ nhận. Đỗ Đức Hiểu trong bài nghiên cứu Đi tìm Nguyễn Huy
Thiệp đã nhận xét: “Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp khuấy động tâm can
chúng ta, về nhiều phương diện, đời sống, suy tư, văn học nghệ thuật, triết lý,
25
thân phận con người. Từ một thế giới văn chương ổn định, mang nhiều tính
chất hồn nhiên của Conte, lạc quan và lòng tin, chúng ta bước vào một thế
giới bất ổn của đời sống thật, hàng ngày, đau khổ, và của những day dứt bất
tận của nhân loại, đầy bi kịch:”
[32, tr.478]
. Và ông khẳng định đã tìm thấy
Nguyễn Huy Thiệp “người tái tạo truyện ngắn ở Việt Nam này, ở nửa sau thế
kỷ XX. Cái Tôi ấy đứng dậy, đau khổ, cô đơn, đầy khát vọng. Cái Tôi ấy gieo
bão táp trong văn chương Việt Nam, lúc ấy”[32, tr.486]. Tất cả những điều đó
đã khẳng định cho vị trí cũng như những đóng góp của Nguyễn Huy Thiệp
trong làng truyện ngắn Việt Nam đương đại.



















×