Tải bản đầy đủ (.pdf) (230 trang)

Quá trình hình thành và phát triển của kênh đối thoại không chính thức về an ninh và chính trị của ASEAN (Kênh 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 230 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




LUẬN THÙY DƯƠNG



QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
KÊNH ĐỐI THOẠI KHÔNG CHÍNH THỨC
VỀ AN NINH VÀ CHÍNH TRỊ
CỦA ASEAN
(KÊNH 2)


Chuyên ngành: Lịch sử thế giới cận đại và hiện đại
Mã số : 62 22 50 05



LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ



Người hướng dẫn khoa học:
GIÁO SƯ VŨ DƯƠNG NINH









HÀ NỘI – 2010


Mục lục Trang


Danh mục các ký hiệu viết tắt 1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 5
2. Lí do và mục đích nghiên cứu 6
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 8
4. Phạm vi nghiên cứu của Luận án 16
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của Luận án 17
6. Nguồn tƣ liệu của Luận án 18
7. Kết quả nghiên cứu và đóng góp của Luận án 18
8. Kết cấu của Luận án 19

PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1: Bối cảnh lịch sử ra đời Kênh 2 của ASEAN 21
1.1. Tiếp cận lí luận về Kênh 2 21
1.1.1. Khái niệm ngoại giao đa kênh 21
1.1.2. Khái niệm ngoại giao Kênh 2 27

1.2. Sự thành lập ASEAN và nhu cầu thiết lập Kênh 2 30
1.2.1. Sự ra đời và phát triển của tổ chức ASEAN 30
1.2.1.1. Bối cảnh lịch sử dẫn tới sự thành lập ASEAN 30
1.2.1.2. Sự ra đời của ASEAN 39
1.2.2. Nhu cầu thiết lập Kênh 2 của ASEAN 43
1.2.2.1. Đặc điểm, nguyên tắc và phương cách 43
hoạt động của ASEAN
1.2.2.2. Nhận thức của ASEAN về hợp tác 51
chính trị-an ninh khu vực
Tiểu kết 55

Chƣơng 2: Quá trình hình thành và phát triển Kênh 2 của ASEAN 57
2.1. Giai đoạn 1: Sự phát triển ban đầu của ngoại giao Kênh 2 57
(1967 – 1975)
2.1.1. Bối cảnh lịch sử 57
2.1.2. Sự phát triển ban đầu của ngoại giao Kênh 2 63
2.2. Giai đoạn 2: Sự hình thành mạng lƣới Kênh 2 của ASEAN 68
(1976 – 1991)
2.2.1. Bối cảnh lịch sử 68
2.2.2. Mạng lưới Các Viện Nghiên cứu Chiến lược 76
và Quốc tế của ASEAN (ASEAN-ISIS) ra đời
2.2.3. ASEAN-ISIS mở rộng ngoại giao Kênh 2 của ASEAN 80
2.2.4. Sự hình thành mạng lưới Kênh 2 của ASEAN 83

2.3. Giai đoạn 3: Sự phát triển mạng lƣới Kênh 2 của ASEAN 91
(từ 1992 đến nay)
2.3.1. Bối cảnh lịch sử 91
2.3.2. Mở rộng ASEAN-ISIS cùng với quá trình 93
mở rộng ASEAN
2.3.3. Thành lập các diễn đàn, cơ chế mới 99


Tiểu kết 131

Chƣơng 3: Đặc điểm, vai trò và một số vấn đề đặt ra đối với Kênh 2 134
của ASEAN. Sự tham gia của Việt Nam
3.1. Đặc điểm Kênh 2 của ASEAN 134
3.1.1. Đặc điểm chung 134
3.1.2. Đặc điểm lịch sử phát triển 137
3.1.3. Đặc điểm về cấu trúc 139
3.2. Vai trò Kênh 2 của ASEAN 141
3.2.1. Vai trò của ASEAN-ISIS 141
3.2.2. Vai trò của mạng lưới Kênh 2 148
3.2.2.1. Thúc đẩy đối thoại, khai thác ý tưởng 149
3.2.2.2. Xây dựng chuẩn mực, khái niệm chung 150
3.2.2.3. Tư vấn và hỗ trợ triển khai chính sách 152
3.2.2.4. Góp phần xử lý xung đột 155
3.2.2.5. Cầu nối trong ngoại giao đa kênh 156
3.2.3. Một số hạn chế của Kênh 2 158
3.3. Một số vấn đề đặt ra cho Kênh 2 của ASEAN 162
3.3.1. Nhu cầu của ASEAN 162
3.3.1.1. Các vấn đề chính trị - an ninh ở Đông 162
Nam Á và khu vực châu Á - Thái Bình Dương hiện nay
3.3.1.2. ASEAN mở rộng hợp tác 165
3.3.2. Một số vấn đề đặt ra cho Kênh 2 của ASEAN 169
3.4. Sự tham gia của Việt Nam trong Kênh 2 của ASEAN 174

Tiểu kết 188

PHẦN KẾT LUẬN 190
Danh mục công trình khoa học của tác giả liên quan đến luận án 200

Tài liệu tham khảo 201
Phụ lục 212
Phụ lục 1. Bản đồ các nước ASEAN 212
Phụ lục 2. Một số sự kiện quan trọng trong hoạt động 213
ngoại giao Kênh 2 của ASEAN
Phụ lục 3. Tuyên bố của ASEAN–ISIS 220
Phụ lục 4. Bản ghi nhớ của ASEAN–ISIS 1991 224
Phụ lục 5. Bản ghi nhớ của ASEAN–ISIS 2003 228
Phụ lục 6. Bản ghi nhớ của ASEAN–ISIS 2006 235
Phụ lục 7. Hiến chương CSCAP 244
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN


Chữ viết tắt Đọc là
tiếng Anh
ABM Anti-Ballistic Missile Treaty. Hiệp ước chống tên lửa đạn đạo.
ASEAN Association of Southeast Asian Nations. Hiệp hội các nước Đông Nam
Á.
AC ASEAN Congress. Đại hội ASEAN.
ACCI ASEAN Chamber of Commerce and Industry. Phòng Thương mại và
Công nghiệp ASEAN.
ADB Asia Development Bank. Ngân hàng Phát triển châu Á
AEC ASEAN Economic Community. Cộng đồng Kinh tế ASEAN
AFAS ASEAN Framework Agreement on Services. Hiệp định khung ASEAN về
Dịch vụ.
AFTA ASEAN Free Trade Area. Khu vực Thương mại Tự do ASEAN.
AIA ASEAN Investment Area. Khu vực Đầu tư ASEAN.
AICOHR ASEAN-ISIS Colloquirum on Human Rights. Tọa đàm của ASEAN-ISIS
về Nhân quyền.
AIDS Acquired Inmmunie Deficiency Sydrom. Hội chứng suy giảm miễn dịch.

AMF Asia Monetary Fund. Quỹ Tiền tệ châu Á.
AMM ASEAN Ministerial Meeting. Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN
APA ASEAN People Assembly. Hội đồng Nhân dân ASEAN.
APEC Asia Pacific Economic Cooperation. Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình
Dương
APR Asia Pacific Roundtable. Hội nghị bàn tròn Châu Á – Thái Bình Dương.
APSC ASEAN Political and Security Community. Cộng đồng Chính trị - An
ninh ASEAN.
ARF ASEAN Regional Forum. Diễn đàn Khu vực ASEAN.
ASA Association of Southeast ASIA. Hội Đông Nam Á.
ASC ASEAN Security Community. Cộng đồng An ninh ASEAN.
ASC ASEAN Standing Committee. Ủy ban Thường trực ASEAN.
ASCC ASEAN Social and Cultural Community. Cộng đồng Văn hóa – Xã hội
ASEAN.
ASCOPE ASEAN Council on Petroleum. Hội đồng Dầu mỏ ASEAN.
ASEAN-ISIS ASEAN Institute of Strategic and International Studies. Viện nghiên
cứu Chiến lược và Quốc tế ASEAN.
ASEM Asia European Meeting. Hội nghị Á – Âu.
ATPA ASEAN Timber Producers Association. Hiệp hội Sản xuất Gỗ ASEAN.
ATTA ASEAN Tours and Travel Associations. Hiệp hội Du lịch và Lữ hành
ASEAN.
AYLC ASEAN Young Leaders Conference. Hội thảo các Nhà lãnh đạo trẻ
ASEAN.
BDIPSS Brunei Darussalam Institute of Policy and Strategic Studies. Viện Nghiên
cứu Chính sách và Chiến lược Brunei Darussalam.
CBSMs Confidence Building Security Measures. Các biện pháp An ninh Xây
dựng Lòng tin.
CEPT Common Effective Preferential Tariff. Chương trình Ưu đãi thuế quan
có hiệu lực chung.
CICIR Chinese Institute for Contemporary International Relations. Viện Quan

hệ Quốc tế Đương đại Trung Quốc.
CICP Cambodia Institute for Cooperation and Peace. Viện Nghiên cứu Hòa
bình và Hợp tác Căm-pu-chia.
CIDA Canadian International Development Agency. Cơ quan Phát triển Quốc
tế Ca-na-đa.
CIDS Center for Integration and Development Studies. Trung tâm Nghiên cứu
Hội nhập và Phát triển (Phi-lip-pin).
COC Code of Conduct for the South China Sea. Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông.
CPR Committee of Permanent Representatives. Ủy ban Đại diện Thường trực
các nước ASEAN.
CSCAP Council of Security Cooperation in Asia Pacific. Hội đồng Hợp tác An
ninh châu Á – Thái Bình Dương.
CSCE Commission on Security and Cooperation in Europe. Ủy ban An ninh và
Hợp tác châu Âu.
CSIS Centre for Strategic and International Studies. Trung tâm Nghiên cứu
Chiến lược và Quốc tế (In-đô-nê-xia).
DAC Declaration of ASEAN Concord. Tuyên bố Hòa hợp ASEAN.
DAV Diplomatic Academy of Vietnam. Học viện Ngoại giao Việt Nam
DOC Declaration on the Conduct of Parties in the South China Sea. Tuyên bố
về Ứng xử của Các bên ở Biển Đông.
EAC East Asia Congress. Đại hội Đông Á.
EAF East Asia Forum. Diễn đàn Đông Á.
EAFTA East Asia Free Trade Area. Khu vực Mậu dịch Tự do Đông Á.
EAIPO East Asia Inter-Parliament Organization. Liên minh Quốc hội Đông Á.
EAS East Asia Summit. Hội nghị Cấp cao Đông Á.
EASG East Asia Studies Group. Nhóm Nghiên cứu Đông Á.
EAVG East Asia Vision Group. Nhóm Tầm nhìn Đông Á.
EC European Community. Cộng đồng châu Âu
EPG Eminent Person Group. Nhóm những Nhân vật Ưu tú.
EU European Union. Liên minh Châu Âu.

FAEA Federation of ASEAN Economic Asociations. Liên đoàn các Hiệp hội
Kinh tế ASEAN.
FNS Fredrid Naumann Stiftung. Quỹ Fredrid Naumann Stiftung.
IAI Initiative for ASEAN Integration. Sáng kiến Hội nhập ASEAN.
IFA Institute of Foreign Affairs. Viện Ngoại giao (Lào).
IFANS Institute for Foreign Affairs and National Security. Viện Ngoại giao và
An ninh Quốc gia (Hàn Quốc)
IIR Institute for International Relations. Học viện Quan hệ Quốc tế (Việt
Nam/Đài Loan).
IMF International Monetary Fund. Quỹ Tiền tệ Quốc tế.
ISDS Institute for Strategic and Development Studies. Viện Nghiên cứu Chiến
lược và Phát triển (Phi-lip-pin).
ISEAS Institute of Southeast Asia Studies. Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (Xinh-
ga-po/Mỹ)
ISIS Institute of Security and International Studies. Viện Nghiên cứu An ninh
và Quốc tế (Thái Lan).
ISIS Institute of Strategic and International Studies. Viện Nghiên cứu Chiến
lược và Quốc tế (Ma-lai-xi-a).
JIIA Japan Institute of International Affairs. Viện Các Vấn đề Quốc tế Nhật
Bản.
JIM Jakarta Informal Meeting. Cuộc gặp không chính thức tại Jakarta.
JMM Joint Ministerial Meeting. Hội nghị liên Bộ trưởng.
MAPHILINDO Malaysia – Philippines – Indonessia. Ma-lai-xi-a, Phi-lip-pin, In-đô-
nê-xi-a.
MISIS Myanmar Institute of Strategic and International Studies.Viện Nghiên
cứu Chiến lược và Quốc tế (Mi-an-ma)
NEAS Network of East Asian Studies. Mạng lưới Nghiên cứu Đông Á.
NEAT Network of East Asia Think-tanks. Mạng lưới Tư tưởng Đông Á.
NGO Non - Governmental Organization. Các tổ chức phi chính phủ.
PMC Post-ministerial Conference. Hội nghị sau Hội nghị Bộ trưởng.

SAARC South Asia Association for Regional Cooperation. Hiệp hội các nước
Nam Á phát triển Hợp tác Khu vực.
SALT Strategic Arm Limitation Talks. Hiệp ước hạn chế vũ khí chiến lược.
SARC Severe Acute Respiratory Sydrom. Hội chứng suy hô hấp cấp tính.
SEAF Southeast Asia Forum. Diễn đàn Đông Nam Á.
SAFET Southeast Asia Friendship and Economic Treaty. Hiệp ước Hữu nghị và
Kinh tế Đông Nam Á.
SEANWFZ Southeast Asian Nuclear Weapon Free Zone. Khu vực Đông Nam Á Phi
Vũ khí Hạt nhân.
SEATO Southeast Asian Treaty Organization. Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á.
SEAU Southeast Asian Union. Liên minh Đông Nam Á.
SIIA Singapore Institute of International Affairs. Viện các Vấn đề Quốc tế
Xinh-ga-po.
SIIS Shanghai Institute for International Studies. Viện Nghiên cứu Quốc tế
Thượng Hải.
SOM Senior Official Meeting. Hội nghị Quan chức Cao cấp.
TAC Treaty of Amity and Cooperation. Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác.
WB World Bank. Ngân hàng Thế giới.
WMD Weapons of Mass Destruction. Vũ khí hủy diệt hàng loạt
ZOPFAN Zone of Peace, Freedom and Neutrality. Khu vực Hòa bình, Tự do và
Trung lập.
Chữ viết tắt Đọc là
tiếng Việt
XHCN Xã hội chủ nghĩa
CNXH Chủ nghĩa xã hội
CHDC Cộng hòa Dân chủ
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
1.1. Đông Nam Á là một khu vực của châu Á, rộng khoảng 4 triệu kilômét

vuông, bao gồm 11 nước (Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia, Mi-an-ma, Thái Lan, Ma-lai-
xi-a, In-đô-nê-xi-a, Phi-lip-pin, Xinh-ga-po, Bru-nây và Đông Ti-mo).
Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á, phía Bắc tiếp giáp với Trung Quốc,
phía Đông và Nam tiếp giáp với biển Đông, phía Tây tiếp giáp với Lào và Cam-pu-
chia. Kể từ khi giành được độc lập năm 1945 cho đến nay, Việt Nam có quan hệ đặc
biệt với Lào và Cam-pu-chia. Trong khi đó, quan hệ của Việt Nam với các nước Đông
Nam Á khác trải qua nhiều thăng trầm, thậm chí có lúc ở mức thù địch. Sự kết thúc
của Chiến tranh lạnh không chỉ mở ra một bối cảnh mới cho quan hệ quốc tế trên toàn
cầu mà cả ở khu vực Đông Nam Á. Quan hệ Việt Nam với các nước Đông Nam Á
bước sang giai đoạn mới.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), Việt
Nam bắt đầu những nỗ lực ngoại giao đa phương, đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Bước
đi đầu tiên là thúc đẩy quan hệ hữu nghị với tất cả các nước Đông Nam Á, từng bước
hòa nhập vào khu vực này. Do vậy, việc nghiên cứu tiến trình hội nhập ở Đông Nam Á
có ý nghĩa nâng cao hiểu biết về khu vực và về thời kỳ chuyển đổi quan trọng trong
chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
1.2. Nghiên cứu lịch sử cận hiện đại ở Đông Nam Á không thể không đề cập
đến một sự kiện đặc biệt quan trọng, đó là sự ra đời của Hiệp hội các nước Đông Nam
Á – viết tắt là ASEAN, vào ngày 8/8/1967. Đồng thời cũng không thể không đề cập
đến một sự kiện khác nằm trong khuôn khổ hoạt động của tổ chức ASEAN, đó là sự ra
đời của Diễn đàn Khu vực ASEAN - viết tắt là ARF, vào tháng 7/1994. Đây là một cơ
chế đối thoại đa phương giữa các nước ASEAN với các nước khác ở khu vực Châu Á-
Thái Bình Dương nhằm trao đổi về các vấn đề an ninh và chính trị đang nổi lên không
chỉ ở khu vực Đông Nam Á mà ở cả khu vực Châu Á - Thái Bình Dương rộng lớn
hơn.
Văn bản chính thức của ARF là Tuyên bố của Chủ tịch ARF được đưa ra tại các
cuộc họp hàng năm. Cuộc họp đầu tiên của ARF diễn ra tại Bangkok tháng 7/1994 với
đại diện của 18 nước (nay số thành viên đã tăng lên 27). Trong Tuyên bố của Chủ tịch
ARF tại cuộc họp ARF lần thứ hai diễn ra tại thủ đô Bru-nây tháng 8/1995 có viết
“ARF sẽ thúc đẩy tiến trình của mình dựa trên hoạt động của hai kênh. Các hoạt động

của Kênh 1 do chính phủ của các nước thành viên ARF tiến hành. Các hoạt động của
Kênh 2 sẽ do các viện nghiên cứu chiến lược và các tổ chức phi chính phủ của các
nước thành viên ARF tiến hành” (Điều 6.4.2) và “Chủ tịch ARF sẽ chịu trách nhiệm
liên kết giữa Kênh 1 và Kênh 2” (Điều 6.4.3). Ngoài ra, bản Tuyên bố còn có Phụ lục
nêu rõ hơn những lĩnh vực an ninh và chính trị mà Kênh 2 sẽ đảm trách. Như vậy,
Kênh 2, kênh đối thoại không chính thức về an ninh và chính trị của ASEAN được văn
kiện hóa từ tháng 8/1995. Vì vậy, việc nghiên cứu Kênh 2 có ý nghĩa quan trọng, giúp
chúng ta hiểu rõ hơn sự phát triển của tổ chức ASEAN và sự tham gia của Việt Nam
trong tổ chức này.
1.3. Việt Nam tham gia Kênh 2 của ASEAN từ năm 1995 nhằm thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng đã được thể hiện trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VII (năm 1991) là mở rộng quan hệ nhiều mặt với các nước Đông Nam Á
để từng bước hội nhập vào khu vực và nghiên cứu khả năng tham gia tổ chức ASEAN.
Do vậy, việc nghiên cứu Kênh 2 có ý nghĩa khoa học cũng như thực tiễn sâu sắc, giúp
chúng ta hiểu rõ hơn hoạt động và vai trò của kênh đối thoại không chính thức về an
ninh và chính trị của ASEAN; đồng thời, thấy được những lợi ích cũng như những bất
lợi cần tránh khi tham gia kênh này.
2. Lí do và mục đích nghiên cứu của Luận án
2.1. Theo văn kiện của ARF thì kênh đối thoại không chính thức về an ninh và
chính trị của ASEAN ra đời từ tháng 8/1995. Tuy nhiên, hình thức đối thoại không
chính thức về an ninh và chính trị giữa các nước ASEAN hình thành sớm hơn nhiều và
các diễn đàn đối thoại đầu tiên làm nền tảng cho việc hình thành nên Kênh 2 của
ASEAN cũng ra đời trước đó. Đồng thời, giờ đây, việc đối thoại không chính thức về
an ninh và chính trị giữa các nước ASEAN với nhau và giữa các nước ASEAN với các
nước khác ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đã không còn bó hẹp trong khuôn
khổ của ASEAN và ARF. Hơn nữa, Kênh 2 của ASEAN đã mở rộng đối thoại sang
lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Mặt khác, Kênh 2, về thực chất, được xem như là một kênh phi chính phủ, kênh
không chính thức, có tác dụng tham khảo ý kiến và tư vấn cho Kênh 1- kênh chính
phủ, kênh chính thức. Do đó, có nhiều ý kiến cho rằng sự đóng góp của Kênh 2 cho

Kênh 1 nhiều khi không được coi trọng. Thêm vào đó, ASEAN đang từng bước hoàn
thiện cơ cấu hoạt động của mình, giảm sự cồng kềnh, tăng tính hiệu quả, thể chế hoá
các hoạt động của ASEAN, trong đó có cả cơ cấu hoạt động của ARF. Vì vậy, có ý
kiến cho rằng, vai trò của Kênh 2 sẽ ngày càng giảm, và khi ASEAN tiến tới sự thể
chế hoá như nhiều tổ chức khu vực khác, Liên minh Châu Âu (EU) chẳng hạn, thì
Kênh 2 sẽ không còn cần thiết. Điều đó có đúng không? Nếu không, Kênh 2 sẽ tiếp tục
phát triển ra sao? Vai trò của nó đối với an ninh và phát triển của khu vực Đông Nam
Á cũng như châu Á – Thái Bình Dương như thế nào?
Nhiều vấn đề đặt ra, nhưng cho đến nay, trên thế giới và ở Việt Nam có rất ít
nghiên cứu về kênh này. Đó chính là lí do tôi chọn vấn đề “Quá trình hình thành và
phát triển của kênh đối thoại không chính thức về an ninh và chính trị của
ASEAN (Kênh 2)” làm đề tài luận án Tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử thế giới
cận đại và hiện đại.
2.2. Với mục tiêu nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của kênh đối
thoại không chính thức về an ninh và chính trị của ASEAN, Luận án nhằm những mục
đích sau:
 Kênh 2 được chính thức đề cập trong văn kiện của ASEAN từ tháng
8/1995 nhưng nó xuất hiện từ đầu những năm 1980. Cùng với quá trình phát triển của
ASEAN, đặc biệt là quá trình mở rộng tổ chức ASEAN, Kênh 2 ngày càng phát triển
về bề rộng và đang từng bước thể chế hoá. Luận án sẽ làm rõ quá trình hình thành
Kênh 2, và quá trình phát triển các thể chế và mạng lưới của Kênh 2.
 Mặc dù ASEAN đang từng bước thể chế hoá các hoạt động của mình
nhưng vai trò của Kênh 2 không hề suy giảm. Kênh 2 được dùng trong khuôn khổ hoạt
động của ASEAN và chủ yếu liên quan đến lĩnh vực an ninh và chính trị. Luận án sẽ
làm rõ sự đa dạng và nhạy cảm của lĩnh vực này trong hợp tác ASEAN, từ đó làm rõ
nhiệm vụ và triển vọng phát triển của Kênh 2.
 Luận án sẽ nghiên cứu quá trình Việt Nam tham gia Kênh 2, các lợi ích
cũng như những khó khăn đối với Việt Nam, từ đó khuyến nghị phương hướng mở
rộng sự tham gia Kênh 2 của Việt Nam trong thời gian tới.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Do tầm quan trọng của ASEAN trong lịch sử phát triển của khu vực Đông Nam
Á, đã có rất nhiều ấn phẩm, trong nước cũng như ngoài nước, viết về ASEAN. Tuy
nhiên, mối quan tâm của các nghiên cứu về ASEAN chủ yếu mới hướng về các cơ cấu
hoạt động chính thức, có tính chất chính phủ, tức là Kênh 1 trong ASEAN.
Cho tới những năm 1980, xuất hiện các cuộc đối thoại không chính thức về
chính trị - an ninh ở Đông Nam Á để từng bước hình thành ngoại giao Kênh 2 rồi
mạng lưới Kênh 2 của ASEAN nhưng không tìm thấy ấn phẩm nào viết về các hoạt
động này.
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, đã có một số sách và bài báo, bằng tiếng Việt
cũng như bằng tiếng nước ngoài, đề cập đến các hoạt động trong Kênh 2 của ASEAN.
Tuy nhiên, các công trình này chỉ đề cập đến từng mảng riêng lẻ, như về Hội đồng
Hợp tác An ninh Khu vực châu Á – Thái Bình Dương (CSCAP), về một số Nhóm làm
việc trong CSCAP, về một số Diễn đàn không chính thức trong ASEAN , số lượng lại
chưa nhiều, và chỉ mang tính chất thông tin.
Từ đầu những năm 2000 trở lại đây, cả ở trong và ngoài nước, có nhiều công
trình nghiên cứu về Kênh 2 của ASEAN hơn thời kỳ trước đó.
3.1. Các nhà nghiên cứu của các nước ASEAN đã có nhiều công trình nghiên
cứu về quá trình hình thành và phát triển của tổ chức này. Song còn ít công trình
nghiên cứu về Kênh 2. Trong số đó, hai cuốn sách dưới đây là hai công trình quan
trọng.
Kao Kim Hourn trong cuốn sách “Whispering in the Ears of Power: The Role
of ASEAN Track-Two Diplomacy” (Thì thầm bên Tai các Quyền lực về Vai trò của
Ngoại giao Kênh 2 của ASEAN) được Viện Hợp tác và Hòa bình Cam-pu-chia (CICP)
xuất bản năm 2002 miêu tả rất rõ sự ra đời của mạng lưới Viện nghiên cứu Chiến lược
và Quốc tế ASEAN (ASEAN-ISIS), và phần nào vai trò của ASEAN-ISIS. Tuy nhiên
cuốn sách chưa đề cập nhiều đến Kênh 2 của ASEAN. Thứ nhất, cuốn sách chỉ đề cập
đến giai đoạn lịch sử 1984 đến 1988, là giai đoạn các viện nghiên cứu của ASEAN bắt
đầu đối thoại với nhau và tiến tới thành lập ASEAN-ISIS. Thứ hai, cuốn sách chưa gắn
được ASEAN-ISIS với Kênh 2 của ASEAN. Tác giả nói đến vai trò của ASEAN-ISIS
là một thể chế tập hợp các viện nghiên cứu chiến lược của các nước ASEAN, cùng

nhau thu thập, xử lý thông tin, bàn chiến lược, đưa ra kiến nghị chính sách cho các
chính phủ ASEAN. Song tác giả đã không đề cập đến vai trò của thể chế này góp phần
vào quá trình phát triển ngoại giao Kênh 2 trong ASEAN và trở thành một mạng lưới
Kênh 2 của ASEAN hoạt động không chỉ trong khu vực ASEAN mà cả ở khu vực
Đông Á và châu Á – Thái Bình Dương rộng lớn hơn. Tác giả chỉ nói rằng ASEAN-
ISIS nên mở rộng phạm vi hoạt động của mình ra ngoài khu vực ASEAN.
Cuốn sách “Twenty Two Years of ASEAN-ISIS” (22 năm của ASEAN-ISIS)
(2006) của ba tác giả Hadi Soesastro, Clara Joewono và Carolina Hernandez là một
công trình khá toàn diện về Kênh 2 của ASEAN. Các tác giả là những người tham gia
các cuộc gặp gỡ và đối thoại ban đầu đưa đến việc thành lập ASEAN-ISIS, nên đã làm
rõ những ý tưởng cũng như mục đích ra đời của ASEAN-ISIS. Các tác giả cũng làm rõ
vai trò của ASEAN-ISIS đối với các vấn đề chính trị - an ninh ở khu vực Đông Nam
Á, Đông Á, cũng như châu Á – Thái Bình Dương.
Cuốn sách đã cung cấp một bức tranh khá toàn diện về ASEAN-ISIS nhưng lại
chưa đề cập một cách tổng thể về Kênh 2 của ASEAN với một mạng lưới nhiều cơ chế
và diễn đàn, nội dung hoạt động của từng cơ chế và diễn đàn này như thế nào.
Cuốn sách của Mely Cabellero-Anthony “Regional Security in Southeast Asia:
Beyond the ASEAN Way” (An ninh Khu vực Đông Nam Á: Vượt ra ngoài Phương cách
ASEAN) (2005), nói đến vai trò của xã hội dân sự và một cơ chế Kênh 2 quan trọng, đó
là Hội đồng Nhân dân ASEAN (APA) trong việc giải quyết các vấn đề chính trị - an
ninh của khu vực cũng như việc xây dựng các cộng đồng ở khu vực nhưng chưa phân
tích được vị trí của diễn đàn này trong toàn bộ mạng lưới Kênh 2 của ASEAN.
Bên cạnh đó cũng có một số bài viết và tham luận của các học giả ASEAN bàn
về một số cơ chế và diễn đàn Kênh 2 của ASEAN.
Tại hội thảo “Các Hệ thống An ninh Thay thế” tổ chức tại trường Đại học
Chualalongkorn, Bangkok, Thái Lan, tháng 3/1997, Carolina Hernandez đã có tham
luận “Governments and NGOs in the search for peace: ASEAN-ISIS and CSCAP
experience” (Các chính phủ và các tổ chức phi chính phủ tìm kiếm hòa bình: Kinh
nghiệm của ASEAN-ISIS và CSCAP) (1997), xem xét đánh giá hai thể chế Kênh 2 này
của ASEAN.

Tại hội thảo “Lịch sử và Vai trò của các Thể chế Kênh 2 ở châu Á” do quỹ
Friedrich-Ebert-Stiftung tổ chức tại Jakartar, In-đô-nê-xi-a, tháng 1/2002, Norodom
Sirivudh đã có tham luận “The Cambodian Experience” (Kinh nghiệm của Cam-pu-
chia) (2002) viết về quá trình Viện Hợp tác và Hòa bình Cam-pu-chia (CICP) thông
qua các thể chế Kênh 2 của ASEAN tham gia xây dựng lòng tin, hội nhập khu vực và
thúc đẩy quan hệ đối tác. Thể chế Kênh 2 của ASEAN mà Sirivudh đề cập là ASEAN-
ISIS và CSCAP (Hội đồng Hợp tác An ninh châu Á – Thái Bình Dương).
Rizal Sukma có bài tham luận “ASEAN-ISIS and Political-security Cooperation
in Asia-Pacific” (ASEAN-ISIS và Hợp tác Chính trị-an ninh tại khu vực châu Á – Thái
Bình Dương) (2006) tại cuộc họp của các nhà lãnh đạo ASEAN-ISIS tổ chức tại
Jakartar, In-đô-nê-xi-a, tháng 6/2006. Trong tham luận của mình, Rizal nói đến vai trò
của ASEAN-ISIS trong sự phát triển Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), trong việc xây
dựng Cộng đồng An ninh ASEAN (ASC), cũng như những thách thức mà ASEAN-
ISIS đang gặp phải. Thách thức thứ nhất là làm sao để thế hệ trẻ ở các ASEAN-ISIS
tại các nước ASEAN có được tính kế thừa. Thứ hai là làm thế nào để ASEAN-ISIS có
ngân sách hoạt động, tránh sự phụ thuộc quá nhiều vào ngân sách của chính phủ, do
vậy sẽ phụ thuộc vào quan điểm của chính phủ. Thứ ba là làm thế nào để ASEAN-ISIS
tiếp tục đóng vai trò đưa ra các ý tưởng mới cho Kênh 1.
Trong tham luận“The Asia-Pacific Roundtable: An ASEAN-ISIS Initiative to
build trust and confidence” (Hội nghị Bàn tròn châu Á - Thái Bình Dương (APR): Sáng
kiến để xây dựng niềm hy vọng và sự tin tưởng) (2006) tại cuộc họp của các nhà lãnh
đạo ASEAN-ISIS tổ chức tại Jakartar, In-đô-nê-xi-a, tháng 6/2006, Mohamed Jawhar
Hassan giới thiệu Hội nghị bàn tròn châu Á – Thái Bình Dương (APR), cả thành tựu
lẫn thiếu sót, khẳng định đây là một tiến trình Kênh 2 của ASEAN.
Tham luận tại cuộc họp của các nhà lãnh đạo ASEAN-ISIS này, Jusuf Wanandi
trong “ASEAN-ISIS and its regional and international networking” (ASEAN-ISIS với
mạng lưới khu vực và quốc tế) (2006) đề cập đến việc mở rộng mạng lưới Kênh 2 của
ASEAN nhưng chỉ ở góc độ tăng cường giao lưu giữa Kênh 1 và Kênh 2. Jusuf kiến
nghị tổ chức phối hợp họp ASEAN-ISIS với Hội nghị Quan chức cao cấp (SOM) nhiều
lần trong năm và với Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (AMM) cũng như với

Tổng thư ký ASEAN thường xuyên hơn để tăng cường sự gắn kết Kênh 2 với Kênh 1.
Chap Sotharit tham gia cuộc họp với tham luận “Challenges and Prospects for
ASEAN-ISIS” (Thách thức và Triển vọng của ASEAN-ISIS) (2006). Chap cho rằng
ASEAN-ISIS đã đạt được nhiều thành tựu nhưng còn nhiều thách thức phải giải quyết:
nhân lực, tài chính, lãnh đạo.
Tham luận về “Challenges and Prospects for ASEAN-ISIS: Policy, Renewal
and Institutionalization” (Thách thức và Triển vọng của ASEAN-ISIS: Chính sách, Đổi
mới và Thể chế hóa) (2006) tại cuộc họp, Simon Tay giới thiệu quá trình mở rộng
ASEAN-ISIS và việc thể chế hóa mạng lưới này. Simon đề nghị thành lập Ban thư ký
ASEAN-ISIS.
Tất cả các tham luận trên giúp người đọc hiểu thêm về Kênh 2 của ASEAN ở
các góc độ khác nhau nhưng lại chưa đưa ra cách nhìn toàn diện về kênh này do các
tham luận chỉ tập trung vào vai trò và các vấn đề đặt ra đối với ASEAN-ISIS.
3.2. Các nhà nghiên cứu và học giả của các nước bên ngoài ASEAN cũng có
một số công trình nghiên cứu Kênh 2 của ASEAN.
Sheldon Simon trong cuốn sách “Future of Asia Pacific Security Cooperation”
(Tương lai Hợp tác An ninh châu Á – Thái Bình Dương) (1988) nói đến các vấn đề an
ninh khu vực, từ vấn đề cạnh tranh quyền lực giữa các nước lớn, đến các liên minh
quân sự, vai trò của ASEAN cũng như các nước tầm trung (Ô-xtrây-lia, Niu Di-lân)
trong các dàn xếp an ninh của khu vực. Bàn về vai trò của ASEAN, tác giả nhấn mạnh
đến các cuộc đối thoại riêng lẻ của các học giả ngoài ASEAN với các học giả ASEAN
về các vấn đề chính trị - an ninh. Diễn đàn Hội nghị bàn tròn châu Á – Thái Bình
Dương (APR), một cơ chế đối thoại an ninh – chính trị của ASEAN, ra đời năm 1987,
được tác giả đánh giá cao là một đóng góp quan trọng cho an ninh, hòa bình của khu
vực. Tuy nhiên, trong cuốn sách của mình, Sheldon Simon chưa đề cập đến vai trò của
APR như một mô thức hợp tác mới của ASEAN, không chính thức, hữu hiệu, khởi đầu
cho một loạt cơ chế, diễn đàn đối thoại về an ninh và chính trị không chính thức của
ASEAN ra đời sau này.
Trong tham luận “ARF and CSCAP” (ARF và CSCAP) tại Diễn đàn an ninh
châu Á - Thái Bình Dương (Đài Loan, 1997), Paul M. Evans có đề cập đến CSCAP và

coi nó là một cơ chế của Kênh 2, nhưng không giải thích rõ ngoài CSCAP, Kênh 2 còn
có những cơ chế hoạt động nào khác.
Cuốn sách “The Next Stage: Preventive Diplomacy and Security Cooperation
in the Asia Pacific Region” (Giai đoạn Tiếp theo: Ngoại giao Phòng ngừa và Hợp tác
An ninh ở Khu vực châu Á – Thái Bình Dương) của Desmond Ball và Amitav
Acharya (1999) đề cập đến Kênh 2 như một kênh hoạt động quan trọng trong ARF
nhưng lại không nêu rõ thực chất Kênh này là gì và những nhiệm vụ cụ thể của nó
trong ARF.
Herman Josephs Kraft viết bài “Dilema of Track-Two Diplomacy in Southeast
Asia” (Tình thế Tiến thoái lưỡng nan của Ngoại giao Kênh 2 ở Đông Nam Á) trong tạp
chí Đối thoại An ninh (tháng 9/2000) nêu rõ ASEAN-ISIS đã tạo ra nền ngoại giao
không chính thức ở Đông Nam Á. Đồng thời, Kraft đã nêu lên các vấn đề của ngoại
giao Kênh 2 ở Đông Nam Á: vấn đề an ninh rộng lớn, phạm vi đề cập hẹp, Kênh 2
không độc lập với Kênh 1, cơ cấu Kênh 2 mỏng manh, chỉ là các diễn đàn đối thoại và
đối thoại, chưa thực sự giải quyết được các xung đột. Song Kraft lại không nêu cách
thức giải quyết các vấn đề này như thế nào để Kênh 2 thoát được tình thế tiến thoái
lưỡng nan, do đó không làm rõ được triển vọng phát triển của kênh này ra sao.
Barry Desker viết bài “The role of Institutes in East Asia” (Vai trò của Các
Viện nghiên cứu ở Đông Á) trong cuốn sách “Châu Á và Thế kỷ mới” (2003) của
Amitav Acharya và Lee Lai To đã điểm tên các viện nghiên cứu ở Đông Á tham gia
vào ngoại giao Kênh 2, đồng thời cũng nêu vài nét quá trình mở rộng Kênh 2 của
ASEAN ra khu vực Đông Á. Tuy nhiên tác giả lại chưa thực sự lảm rõ được vai trò
của các viện này trong mạng lưới Kênh 2 của ASEAN.
“Unofficial Diplomacy in Southeast Asia: Civil Society or Civil Service?”
(Ngoại giao Không chính thức ở Đông Nam Á: Xã hội Dân sự hay Dịch vụ Dân sự?) là
bài viết của See Seng Tan trong tạp chí Gìn giữ hòa bình quốc tế (tập 12, số 1, năm
2005) cho thấy đối thoại không chính thức ở khu vực Đông Nam Á là một trong những
phương cách góp phần giải quyết các vấn đề an ninh – chính trị ở khu vực hữu hiệu.
Tan còn miêu tả ngoại giao không chính thức, đối thoại không chính thức là cách
“nghĩ ra những điều tưởng chừng không thể nghĩ được”. Ông nói rõ hơn phương pháp

quân sự là phương pháp chống lại nguyên tắc không can thiệp, vì vậy khi Đông Nam
Á của ASEAN theo đuổi nguyên tắc không can thiệp thì sự lựa chọn thích hợp nhất là
đối thoại không chính thức. Tuy nhiên, bài viết lại chỉ đề cập đến ASEAN-ISIS và
CSCAP như là hai cơ chế Kênh 2 duy nhất của ASEAN.
Nghiên cứu của ba giáo sư Desmond Ball, Anthony Milner và Brendan Taylor
với tựa đề “Maping Track-Two Institutions in Australia, New Zealand and Asia” ( Vẽ
bản đồ các Thể chế Kênh 2 ở Ô-xtrây-lia, Niu Di-lân và châu Á) (2005) đã giải thích
vì sao ngoại giao Kênh 2 lại cần thiết đối với khu vực châu Á. Nghiên cứu miêu tả các
cơ chế Kênh 2 ở Ô-xtrây-lia và Niu Di-lân và nêu hai ví dụ phát triển Kênh 2 ở châu Á
là Hội đồng Hợp tác An ninh châu Á – Thái Bình Dương (CSCAP) và Mạng lưới tư
tưởng Đông Á (NEAT). Tuy nhiên nghiên cứu không nêu được ngoại giao Kênh 2
quan trọng đối với khu vực Đông Nam Á của ASEAN như thế nào.
Ngoài ra còn một số bài viết trong sách cũng như trong các tạp chí nước ngoài
của các tác giả ngoài ASEAN đề cập đến vai trò Kênh 2 của ASEAN, từ ASEAN-ISIS
đến các diễn đàn, cơ chế đối thoại không chính thức khác của ASEAN như “Security
Prospects in Southeast Asia: cooperative efforts and ARF” (Triển vọng An ninh ở
Đông Nam Á: các nỗ lực hợp tác và diễn đàn ARF) (Sheldon Simon, 1998),
“Southeast Asian experts in global and regional study network” (Các chuyên gia
nghiên cứu Đông Nam Á trong mạng lưới nghiên cứu khu vực và toàn cầu) (Helen
Nesadura và Diane Stone, 2000), “Fullfilment of ASEAN Economic Community by
2020 - ASEAN-ISIS and ISEAS’s approaches”(Xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN
vào năm 2020 - cách tiếp cận của Viện nghiên cứu Đông Nam Á - ISEAS và ASEAN-
ISIS) (Denis Hew và Hadi Soesastro, 2003) …
3.3. Ở Việt Nam, có rất nhiều công trình nghiên cứu về ASEAN. Mặc dù các
công trình đã tập trung nghiên cứu kỹ quá trình hình thành, phát triển, cơ cấu tổ chức,
phương thức hoạt động và vai trò của tổ chức, nhưng chưa có công trình nào đi sâu
nghiên cứu Kênh 2 của ASEAN và chỉ có một số công trình đề cập ít nhiều đến kênh
này.
Cuốn sách “Hiệp hội các nước Đông Nam Á” của Vụ ASEAN, Bộ Ngoại giao
(1995) có đề cập đến các tổ chức phi chính phủ trong khuôn khổ ASEAN như Các

Phòng Thương mại và Công nghiệp ASEAN, Hội Công nghiệp Khu vực, Hội Thương
mại Khu vực, Hội đồng Bảo hiểm ASEAN, Hội đồng Ngân hàng ASEAN, Hiệp hội
Chủ tàu biển ASEAN, Hiệp hội Các nhà sản xuất đồ gỗ, Hiệp hội Thúc đẩy Phát triển
ngành Tiểu thủ công nghiệp ASEAN, Liên đoàn Các chủ doanh nghiệp ASEAN, Liên
đoàn Các nhà xây dựng ASEAN, Liên đoàn Các tổ chức Kỹ thuật ASEAN, Liên đoàn
Các hiệp hội Khai khoáng ASEAN, Liên đoàn Các tổ chức Phụ nữ ASEAN, Cuốn
sách phân biệt rõ đây là các tổ chức phi chính phủ trong khuôn khổ ASEAN. Bên cạnh
đó có các tổ chức phi chính phủ không là hội viên liên kết chính thức của ASEAN như
Liên đoàn Kế toán ASEAN, Liên đoàn Các Nhà báo ASEAN, Hội đồng Giáo viên
ASEAN, Hội đồng Các Công đoàn ASEAN, Hiệp hội Các Nhà văn ASEAN, Hiệp hội
Các Sân bay Quốc tế ASEAN, Tổ chức Liên minh Quốc hội ASEAN, Tuy nhiên
cuốn sách chỉ dừng ở góc độ liệt kê các tổ chức kinh tế - xã hội phi chính phủ, không
coi đây là các cơ chế Kênh 2 của ASEAN.
Tác giả Đào Huy Ngọc với cuốn sách “ASEAN và sự hội nhập của Việt Nam”
(1997) có đề cập đến vai trò những diễn đàn của giới học giả ASEAN và Việt Nam
trong quá trình Việt Nam hội nhập vào ASEAN. Tuy nhiên, tác giả không phân tích
các diễn đàn này dưới góc độ Kênh 2.
Trong cuốn sách “35 năm ASEAN – Hợp tác và Phát triển” (2003), tác giả
Nguyễn Trần Quế đề cập đến một số tổ chức phi chính phủ đóng góp vào từng lĩnh
vực hợp tác của ASEAN như Hội đồng bảo hiểm ASEAN (trong hợp tác về tài chính),
Hiệp hội chủ tàu biển ASEAN (trong hợp tác vận tải liên lạc) Song tác giả không
phân biệt các cơ chế hoạt động phi chính phủ với các cơ chế hoạt động của chính phủ,
do vậy không làm rõ được các cơ chế Kênh 2.
Cuốn sách “Liên kết ASEAN trong thập niên đầu thế kỷ 21” của tác giả Phạm
Đức Thành (2007) và cuốn sách “Hợp tác đa phương ASEAN + 3: vấn đề và triển
vọng” của tác giả Hoàng Khắc Nam (2008) đề cập khá hoàn chỉnh các hợp tác của
ASEAN. Hai tác giả cũng đề cập đến hợp tác giữa các viện nghiên cứu, các học giả ở
Đông Nam Á và Đông Á. Tuy nhiên, tác giả Phạm Đức Thành không coi đây là hợp
tác Kênh 2 của ASEAN. Tác giả Hoàng Khắc Nam nói đến Kênh 2 và giới thiệu cách
thức hoạt động của kênh này nhưng chưa làm rõ vai trò của Kênh 2 trong hợp tác

ASEAN + 3.
Bộ Ngoại Giao, đặc biệt là Học viện Ngoại Giao đã có một số đề tài nghiên cứu
khoa học đề cập đến ASEAN và hợp tác ở Đông Á, ở châu Á – Thái Bình Dương như
“Vai trò của các thể chế đa phương đối với trật tự an ninh khu vực Đông Á – Thái
Bình Dương sau Chiến tranh lạnh” (đề tài cấp cơ sở, 2004), “Khuôn khổ hợp tác
ASEAN + 3 và tiến trình hợp tác Đông Á” (đề tài cấp cơ sở, 2004) “Chiều hướng phát
triển của các liên kết ở Đông Á – Thái Bình Dương” (đề tài cấp Bộ, 2008)… Tuy
nhiên các đề tài này chưa làm rõ vai trò Kênh 2 của ASEAN trong các hợp tác khu
vực.
Trong Tạp chí Cộng sản số 14 (134) năm 2007 có bài viết của Nguyễn Thu Mỹ
“ASEAN trong quá trình phát triển ASEAN + 3” đề cập đến Diễn đàn Đông Á – một
cơ chế Kênh 2 của ASEAN đã nỗ lực tuyên truyền và vận động cho sự ra đời của Hội
nghị Cấp cao Đông Á.
Ngoài ra có một số tham luận của các học giả Việt Nam tại các hội thảo quốc tế
bàn về hợp tác an ninh – chính trị ở Đông Nam Á có đề cập đến Kênh 2 của ASEAN
như “Tiếp cận an ninh phi truyền thống ở Đông Nam Á” (Nguyễn Vũ Tùng, 2008),
“Vấn đề an ninh con người ở Đông Nam Á” (Hà Anh Tuấn, 2008), “Xóa bỏ khoảng
cách giữa các nước Đông Nam Á: Ưu tiên của hội nhập sâu hơn” (Đỗ Thanh Hải,
2008)…
3.4. Điểm lại các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến
đề tài nghiên cứu của Luận án (mà tác giả đã tập hợp và hệ thống được), có thể rút ra
những nhận xét sau:
Một là, các tác giả trong và ngoài ASEAN, trong các công trình nghiên cứu của
mình, đã phần nào làm rõ sự ra đời của ASEAN-ISIS, một cơ chế Kênh 2 đầu tiên của
ASEAN, nhưng chưa làm rõ quá trình hình thành và phát triển của toàn bộ mạng lưới
Kênh 2 của ASEAN.
Hai là, các tác giả khi đề cập đến Kênh 2 của ASEAN tập trung nhiều vào
ASEAN-ISIS và CSCAP, nhưng chưa làm rõ được các cơ chế, thể chế, và diễn đàn
khác của Kênh 2 ASEAN.
Ba là, các công trình nghiên cứu đã đề cập ít nhiều đến vai trò Kênh 2 của

ASEAN ở Đông Á và châu Á - Thái Bình Dương nhưng chưa làm rõ được quá trình
mở rộng vai trò này như thế nào.
Bốn là, nhiều công trình nêu thành tựu và thách thức đối với Kênh 2 của
ASEAN nhưng chưa làm rõ triển vọng phát triển của Kênh này ra sao.
Do vậy, việc nghiên cứu quá trình hình thành Kênh 2 trong ASEAN, các hoạt
động cụ thể và vai trò của nó đối với an ninh khu vực Đông Nam Á cũng như châu Á -
Thái Bình Dương là những khoảng trống mà Luận án này muốn đi sâu.
4. Phạm vi nghiên cứu của Luận án
Về mặt không gian, mặc dù Luận án đề cập đến Kênh 2 của ASEAN, nhưng
phạm vi hoạt động của kênh này trên thực tế đã vượt ra khỏi khu vực Đông Nam Á, do
vậy Luận án sẽ không bó hẹp nghiên cứu Kênh 2 trong khu vực Đông Nam Á, mà
trong trường hợp cần thiết sẽ mở rộng ra khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Về mặt thời gian, Kênh 2 của ASEAN bắt đầu hình thành từ đầu những năm
1980, nhưng đối thoại về an ninh và chính trị của ASEAN được bắt đầu cùng sự ra đời
của tổ chức ASEAN. Kênh 2 không có thời điểm kết thúc, tuy nhiên thời điểm bảo vệ
Luận án là 2010 nên sẽ tạm dừng việc nghiên cứu kênh này tại thời điểm đó.
Về mặt nội dung, "Kênh 2" được đề cập trong Luận án sẽ dựa trên khái niệm và
định nghĩa được nêu trong các văn kiện của ARF, nhưng phạm vi hoạt động của kênh
này trên thực tế đã vượt ra khỏi phạm vi hoạt động của ARF, nên Luận án sẽ không bó
hẹp nghiên cứu Kênh 2 trong khuôn khổ của ARF.
Luận án sẽ tập trung chủ yếu vào quá trình hình thành và phát triển của Kênh 2,
song cũng sẽ xem xét vị trí và vai trò của kênh này trong quá trình phát triển tổng thể
của ASEAN để có thể đánh giá đúng hơn triển vọng phát triển của Kênh 2 trong
ASEAN.
Luận án sẽ tập trung chủ yếu vào lĩnh vực an ninh và chính trị trong hoạt động
của ASEAN mà Kênh 2 bao trùm. Tuy nhiên việc nghiên cứu cũng sẽ được xem xét
bên cạnh Kênh 1 và Kênh 3 (kênh đối ngoại nhân dân), trong lĩnh vực kinh tế và xã
hội, để thấy được mối liên hệ và vị trí của Kênh 2, một kênh đối thoại không chính
thức về an ninh và chính trị, trong tổng thể hoạt động của ASEAN, và triển vọng phát
triển của kênh này.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu của Luận án
5.1. Phương pháp luận Mác Lê-nin, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và chủ
trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam với hệ thống những nguyên lý, quan
điểm về các vấn đề thế giới được Luận án sử dụng để nhìn nhận sự phát triển Kênh 2
của ASEAN phù hợp với tiến trình phát triển của thời đại.
5.2. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của Luận án là phương pháp lịch sử -
logic, trình bày quá trình hình thành và phát triển của vấn đề bằng các sự kiện lịch sử
điển hình, phân chia các giai đoạn phát triển bằng các mốc lịch sử theo thời gian, phân
tích bối cảnh và diễn biến vấn đề, qua đó rút ra những kết luận cần thiết.
5.3. Luận án sử dụng đồng thời phương pháp khoa học liên ngành từ các bộ
môn có liên quan đến sử học như địa – chính trị, địa – văn hóa, quan hệ quốc tế, kinh
tế quốc tế. Phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế được sử dụng trong quá trình thu
thập thông tin, dữ liệu, quy nạp và đưa ra các đánh giá, suy luận.
5.4. Luận án sử dụng phương pháp phỏng vấn và trao đổi với các cá nhân trực
tiếp tham gia vào quá trình xây dựng Kênh 2 của ASEAN.
5.5. Luận án kết hợp các phương pháp đối chiếu, so sánh, thống kê, tổng hợp…
trong một hệ thống cấu trúc của phép biện chứng để làm rõ hơn các bước phát triển
Kênh 2 của ASEAN.
6. Nguồn tài liệu của Luận án
6.1. Các văn kiện của Đảng và Nhà nước Việt Nam, và các văn kiện của
ASEAN là những tư liệu gốc được Luận án sử dụng làm cơ sở cho các mốc lịch sử
quan trọng.
6.2. Nguồn tài liệu chủ yếu của Luận án là các công trình, các đề tài nghiên cứu
khoa học, các bài báo, tạp chí, viết về ASEAN, hoặc đề cập trực tiếp đến Kênh 2, bằng
tiếng Việt và bằng tiếng Anh.
6.3. Luận án cũng sử dụng các tài liệu trong các thư viện chuyên ngành, các báo
cáo khoa học của các Viện nghiên cứu, và của Bộ Ngoại giao.
6.4. Luận án khai thác và tiếp cận các bài viết liên quan đến đề tài trên nhiều
trang điện tử quốc tế (mạng internet).
6.5. Đồng thời, là người tham gia trực tiếp các hoạt động Kênh 2 của ASEAN,

tác giả có cơ hội tiếp xúc, phỏng vấn các học giả, sử dụng các tham luận hội thảo, góp
phần làm cho nguồn tài liệu thực tiễn, phong phú và khách quan hơn cho quá trình
nghiên cứu vấn đề.
7. Kết quả nghiên cứu và đóng góp của Luận án
7.1. Luận án nghiên cứu kênh đối thoại không chính thức của ASEAN – Kênh 2
nhằm đạt những kết quả sau:
 Bước đầu sưu tầm, tập hợp và khai thác các tư liệu, trình bày một cách
cơ bản và hệ thống quá trình hình thành và phát triển của Kênh 2, và mối quan hệ của
Kênh 2 với các kênh khác trong quan hệ quốc tế ở khu vực Đông Nam Á.
 Qua sự hình thành và phát triển của tổ chức ASEAN, phân tích cơ sở
khoa học và lí luận về sự ra đời của Kênh 2, vị trí và vai trò của kênh này trong tổ
chức ASEAN.
 Kế thừa có chọn lọc những công trình của các tác giả đi trước, đồng thời
đưa ra những nhận xét, đánh giá có tính độc lập về triển vọng phát triển của Kênh 2.
 Từ thực tiễn tham gia Kênh 2 ASEAN của Việt Nam, Luận án phân tích
một số vấn đề khó khăn, thuận lợi, và nêu một vài kiến nghị về sự tham gia của Việt
Nam trong Kênh 2 nói riêng và trong ASEAN nói chung.
7.2. Tác giả mong muốn kết quả nghiên cứu của Luận án sẽ được áp dụng ở
các góc độ sau:
 Cung cấp những thông tin cơ bản về Kênh 2, nêu lên mối liên hệ và vị trí
của kênh này trong tổng thể hoạt động của ASEAN.
 Có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo, trong việc đánh giá
chính sách và triển khai quan hệ Việt Nam - ASEAN, góp phần vào việc định hướng
và tham gia trực tiếp của Việt Nam vào các hoạt động Kênh 2 của ASEAN.
 Đóng góp vào việc nghiên cứu ASEAN, nghiên cứu lịch sử cận hiện đại
Đông Nam Á, cung cấp thêm tài liệu dùng cho việc giảng dạy và học tập về lịch sử
quan hệ quốc tế và Đông Nam Á học của Học viện Ngoại giao và một số trường đại
học khác.
8. Kết cấu của Luận án
Với tiêu đề “Quá trình hình thành và phát triển của kênh đối thoại không

chính thức về an ninh và chính trị của ASEAN (Kênh 2)”, ngoài phần mở đầu, kết
luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung Luận án được chia làm 3 chương:
Chương 1: nêu khái niệm chung về ngoại giao đa kênh và đặc điểm của ngoại
giao Kênh 2. Trên cơ sở đó xem xét sự ra đời của ASEAN và Kênh 2 của nó.
Chương 2: chương trọng tâm của Luận án, tập trung phân tích các giai đoạn
phát triển của Kênh 2, sự hình thành và hoạt động cụ thể của từng thể chế thuộc Kênh
này. Từ đó làm rõ phạm vi hoạt động và vị trí của Kênh 2 trong tổng thể hoạt động của
ASEAN.
Chương 3: nghiên cứu đặc điểm và những vấn đề đặt ra cho việc mở rộng
phạm vi hoạt động và nâng cao vai trò của Kênh 2 trong khuôn khổ hoạt động của
ASEAN, đồng thời nêu một số khuyến nghị về việc Việt Nam tham gia kênh này.



























Chƣơng 1

BỐI CẢNH LỊCH SỬ
RA ĐỜI KÊNH 2 CỦA ASEAN

1.1. TIẾP CẬN LÝ LUẬN VỀ KÊNH 2
1.1.1. KHÁI NIỆM NGOẠI GIAO ĐA KÊNH
Ngoại giao là một nghệ thuật tiến hành trong đàm phán, dàn xếp, thương lượng,
giữa những người đại diện cho một nhóm hay một quốc gia. Đồng thời ngoại giao là
một hoạt động thực hiện các mối quan hệ quốc tế liên quan đến các vấn đề như kinh tế,
thương mại, văn hoá, du lịch, chiến tranh và hòa bình Các hình thức ngoại giao có
thể phân theo công cụ mà ngoại giao sử dụng hoặc tương tác: ngoại giao chính trị,
ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa. Ngoại giao văn hóa sử dụng các giá trị văn
hóa, hình thức văn hóa, lợi thế văn hóa để thúc đẩy quan hệ với các quốc gia khác.
Ngoại giao kinh tế tận dụng những thuận lợi và mặt mạnh của ngoại giao để xúc tiến
thương mại, đầu tư, xuất khẩu lao động, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi cho
phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.
Đôi khi ngoại giao được phân biệt theo chính sách đối ngoại sử dụng, ví dụ
“ngoại giao bóng bàn”, “ngoại giao cây tre” Ngoại giao cây tre ám chỉ chính sách đối
ngoại linh hoạt, mềm dẻo, với hàm ý có thể ngả ngiêng theo chiều gió, nhưng không
bao giờ đổ, lợi ích quốc gia luôn đặt trên hàng đầu. Ngoại giao bóng bàn là chính sách
được chính phủ Mỹ thực hiện khi thúc đẩy quan hệ với Trung Quốc trong thời kỳ
chiến tranh lạnh. Tháng 4/1971, đội bóng bàn của Mỹ cùng các phóng viên đã sang

thăm và giao hữu ở Trung Quốc, mở đầu cho mối quan hệ giữa hai quốc gia thù địch,
tạo điều kiện cho chuyến thăm lịch sử của tổng thống Mỹ khi đó là Richard Nixon tới
Trung Quốc 10 tháng sau đó. Người ta đặt tên cho sự kiện này là "ngoại giao bóng
bàn". Nó cho thấy thể thao cũng có thể góp phần thúc đẩy các nước ngồi lại với nhau.
Các cách tiếp cận và khái niệm dưới đây lại phân ngoại giao theo đặc điểm
(chính thức và không chính thức) và theo chủ thể (ngoại giao nhân dân, ngoại giao
chính phủ, ngoại giao phi chính phủ).
Trong hệ thống quan hệ quốc tế hiện nay, các chủ thể phi quốc gia, xuyên quốc
gia và phi chính phủ ngày càng chi phối mạnh mẽ quan hệ quốc tế. Mặt khác, các vấn
đề chính trị - an ninh, xung đột quốc tế, ngày càng phức tạp và đa dạng hơn. Trong
tình hình đó, nhiều khi hoạt động ngoại giao chính thức không thể giải quyết một cách
hiệu quả. Do vậy, ngoại giao đa kênh được xem là một cách tiếp cận mới nhằm góp
phần giải quyết các vấn đề chính trị - an ninh và xử lí các xung đột quốc tế phức tạp,
có lợi ích chồng chéo giữa các bên liên quan.
Thuật ngữ ngoại giao đa kênh, cũng như thuật ngữ Kênh 1 và Kênh 2 được
Joseph Montville đưa ra lần đầu tiên vào năm 1981: “ngoại giao đa kênh là sự kết hợp
các hoạt động ngoại giao chính thức, chính phủ (Kênh 1) với các hoạt động ngoại giao
không chính thức, phi chính phủ (Kênh 2) nhằm xử lí các xung đột giữa các quốc gia
và trong một quốc gia” [185]. Sau đó John McDonald phát triển khái niệm về Kênh 2
thành bốn kênh nhỏ của từng giới: học giả, doanh nghiệp, công dân và truyền thông.
Đến năm 1991, Louise Diamond và John McDonald phát triển ngoại giao đa
kênh thành 9 kênh: chính phủ, chuyên gia giải quyết xung đột, doanh nghiệp, công
dân, nghiên cứu - giáo dục - đào tạo (học giả), hoạt động xã hội, tôn giáo, tài trợ, và
truyền thông-công luận [187].
Trong nền chính trị quốc tế hiện đại, quốc gia được coi là chủ thể chủ yếu chi
phối quan hệ quốc tế. Hoà ước Westphalia năm 1648 được coi là đã sinh ra hệ thống
các quốc gia – dân tộc tồn tại cho đến ngày nay. Chủ nghĩa hiện thực chính trị xem các
quốc gia là các thực thể cấu kết chặt chẽ, hành động một cách nhất quán nhằm bảo vệ
lợi ích quốc gia trên trường quốc tế. Do vậy, nền hoà bình và an ninh quốc tế chủ yếu
bị các quốc gia chi phối thông qua cạnh tranh quyền lực và cân bằng quyền lực nhằm

duy trì “trật tự” trong một hệ thống quốc tế “vô chính phủ”.
Song hành với sự thống trị của các quốc gia trong nền chính trị quốc tế là nền
ngoại giao truyền thống. Chính phủ là cơ quan hoạch định đồng thời là cơ quan thực
thi chính sách đối ngoại. Vì vậy, ngoại giao mang tính chính thức, thể hiện bản chất
của chính phủ, cơ quan đại diện của giai cấp cầm quyền trong một quốc gia, thể hiện
lợi ích chính trị của giai cấp đó cũng như lợi ích của các quốc gia – dân tộc. Ngoại
giao chính thức đã từng chiếm vị thế độc quyền trong bang giao quốc tế trong suốt một
thời gian dài.
Tuy nhiên, sự chi phối của các quốc gia đối với chính trị quốc tế ngày càng bị
thách thức. Sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất mà cốt lõi là cuộc cách mạng
khoa học công nghệ, đã dẫn đến xu thế quốc tế hoá đời sống xã hội. Những tiến bộ
trong viễn thông, vận tải, công nghệ thông tin đã làm cho quá trình sản xuất, trao đổi
hàng hoá, dịch vụ vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Đồng thời, quá trình này cũng làm
xuất hiện những chủ thể xuyên quốc gia như các tập đoàn đa quốc gia, các phong trào
quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, các cộng đồng khoa học – kỹ thuật
Mặt khác, cùng với sự tiến bộ trong lực lượng sản xuất là xu thế dân chủ hoá
đời sống chính trị - xã hội. Những thay đổi này tạo nên sự thách thức tính đại diện của
chính phủ. Từ thập kỷ 60 của thế kỷ XX, nền chính trị quốc tế đã chứng kiến sự nổi
lên của các chủ thể phi quốc gia và việc chúng tham gia ngày càng sâu vào quá trình
hoạch định chính sách của các chính phủ.
Trong xu thế đó, ngoại giao không còn là công cụ độc quyền của các chính phủ
nữa. Các tổ chức phi chính phủ tham gia ngày càng nhiều vào các lĩnh vực trước đây
vốn là độc quyền của các chính phủ như vấn đề hoà bình và an ninh quốc tế.
Các chủ thể phi quốc gia cũng có lợi ích chính trị đối ngoại riêng, tuỳ thuộc vào
đặc tính của từng chủ thể (tổ chức nhân đạo, tổ chức kinh tế, tổ chức tôn giáo, tổ chức
khoa học ). Các chủ thể này tìm kiếm lợi ích của mình thông qua việc gây ảnh hưởng
đối với chính sách đối ngoại của các chính phủ tương ứng, đồng thời sử dụng công cụ
ngoại giao để tiến hành đối ngoại trên trường quốc tế. Ngoại giao của các chủ thể này
được gọi dưới một tên chung là ngoại giao phi chính phủ hay ngoại giao không chính
thức.

Mặt khác, xử lý xung đột quốc tế, vấn đề cốt lõi của việc bảo đảm hoà bình và
an ninh quốc tế, cũng đang có nhiều thay đổi căn bản. Dưới tác động của xu thế toàn
cầu hoá, các xung đột quốc tế phát triển ngày càng phức tạp. Xung đột quốc tế không
chỉ phát sinh giữa các quốc gia, mà còn giữa các chủ thể quốc gia với các chủ thể phi
quốc gia và giữa các chủ thể phi quốc gia với nhau. Hơn nữa, các xung đột cũng trở
nên vô cùng đa dạng, không chỉ xung đột trên các vấn đề truyền thống như lãnh thổ,
chính trị, quân sự mà còn xung đột trên các vấn đề kinh tế, môi trường An ninh phi
truyền thống nổi lên ngày càng nhiều trên phạm vi toàn cầu. Trong bối cảnh đó, ngoại
giao chính phủ với tư cách là công cụ truyền thống để giải quyết xung đột quốc tế trở
nên khiếm khuyết trong việc xử lý.
Hơn nữa, nhiều khi ngoại giao chính phủ cũng tỏ ra bất lực trong việc giải
quyết các xung đột truyền thống như tranh chấp biên giới, lãnh thổ. Trường hợp tranh
chấp chủ quyền, lãnh thổ ở biển Đông là một điển hình. Các xung đột ở đây quá nhạy
cảm, phức tạp, tế nhị, xoáy vào chính những điểm yếu của ngoại giao chính thức.
Quan hệ giữa hai bờ Eo biển Đài Loan, nơi mà ngoại giao phi chính phủ, giao
lưu nhân dân, đang đóng một vai trò đầu tàu, cũng là ví dụ thích đáng. Đây là xung đột
thuộc dạng truyền thống, tồn tại đã lâu mà không giải quyết được bằng con đường
ngoại giao chính thức. Điều này đòi hỏi một cách tiếp cận mới đối với những vấn đề
cũ.
Bên cạnh đó, ngày nay các xung đột trong nội bộ quốc gia xuất hiện ngày càng
nhiều. Về mặt luật pháp quốc tế, không một cơ chế bên ngoài nào được phép can thiệp
vào công việc thuộc lĩnh vực tài phán của một quốc gia có chủ quyền. Trong trường
hợp này, ngoại giao chính thức thường không phù hợp và không thể giải quyết được
gốc rễ xung đột.
Việc phối hợp các kênh ngoại giao chính thức – không chính thức để xử lý
xung đột quốc tế trở nên bức thiết. Công cuộc gìn giữ hoà bình và an ninh quốc tế hiện
nay đòi hỏi một cách tiếp cận ngoại giao đa tầng nấc.
Trong bối cảnh đó, ngoại giao đa kênh (multi-track diplomacy) được xem là
một cách tiếp cận mới trong việc xử lý xung đột quốc tế. Quan trọng hơn, các học giả
đang tái cơ cấu quan hệ giữa các kênh ngoại giao. Thay cho việc đặt ngoại giao Kênh

1 ở vị trí cao nhất, các học giả cho rằng kênh nào cũng có tầm quan trọng của nó và
các kênh đều có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Chúng hoạt động theo một hệ thống
trục bánh xe. Mỗi kênh có một nguồn riêng, giá trị riêng và cách tiếp cận riêng, nhưng
chúng có quan hệ tương tác với nhau. Quan hệ giữa các kênh được mô tả theo Sơ đồ
1.1 (trang 26).
Minh họa cho sơ đồ này, một ví dụ về ngoại giao của giới chuyên gia giải quyết
xung đột (Kênh 2) là Hội nghị Dartmouth. Tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower tổ
chức cuộc họp giữa các giới chuyên gia của Mỹ và Liên Xô để bàn về quan hệ Xô -
Mỹ. Hội nghị được tổ chức lần đầu tiên ở Đại học Dartmouth vào tháng 10/1960, sau

×