Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Sự vận động của truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay nhìn từ góc độ hình thức thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (838.63 KB, 121 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC
***



LƯU THỊ THU HÀ






SỰ VẬN ĐỘNG CỦA TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM
TỪ 1986 ĐẾN NAY
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ HÌNH THỨC THỂ LOẠI





LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN


Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Hà Văn Đức







Hà Nội - 2008

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC




LƯU THỊ THU HÀ






SỰ VẬN ĐỘNG CỦA TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM
TỪ 1986 ĐẾN NAY
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ HÌNH THỨC THỂ LOẠI





LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN













Hà Nội - 2008

Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà


Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại
1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 3
1. Lý do chọn đề tài 3
2. Phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ đề tài 5
2.1 Phạm vi nghiên cứu 5
2.2 Nhiệm vụ của đề tài 6
3. Lịch sử vấn đề 7
3.1 Tình hình nghiên cứu khái quát về văn học 1986 - 2006 7
3.2 Tình hình nghiên cứu truyện ngắn 1986 - 2006 11
4.1 Phƣơng pháp nghiên cứu 14
4.2 Bố cục luận văn 15
PHẦN NỘI DUNG 16

CHƢƠNG 1: SỰ VẬN ĐỘNG CỦA CỐT TRUYỆN VÀ KẾT CẤU 16
1.1 Sự vận động của cốt truyện và kết cấu truyện ngắn trƣớc 1986 17
1.1.1 Giai đoạn trƣớc 1932 17
1.1.2 Giai đoạn 1932 - 1945 21
1.1.3 Giai đoạn 1945 - 1985 24
1.2 Những xu hƣớng tổ chức cốt truyện và kết cấu truyện ngắn 1986 - 2006 26
1.2.1 Kiểu cốt truyện chặt chẽ đƣợc kế thừa và phát triển đến đỉnh cao 26
1.2.2 Cốt truyện tâm lý đƣợc sử dụng phổ biến 37
2.2.3 Cốt truyện phân rã, vai trò của tình huống đƣợc đẩy mạnh 41
CHƢƠNG 2: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT 52
2.1 Một số mẫu nhân vật nổi bật 53
Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà


Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại
2
2.1.1 Con ngƣời cô đơn 53
2.1.2 Con ngƣời giả cổ tích, giả huyền thoại, giả lịch sử 63
2.2 Những đóng góp mới về nghệ thuật xây dựng nhân vật 71
2.2.1 Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật 71
2.2.2 Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ nhân vật 77
2.2.2.1 Đối thoại gia tăng mạnh tính khẩu ngữ 77
2.2.2.1 Độc thoại có xu hƣớng trộn lẫn vào lời ngƣời kể chuyện 85
CHƢƠNG 3: ĐỔI MỚI VỀ NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT 89
3.1 Sự đa dạng hóa điểm nhìn trần thuật 89
3.2 Những biến đổi về ngôn ngữ trần thuật 93
3.2.1 Ngôn ngữ trần thuật mang tính hiện thực - đời thƣờng 93
3.2.2 Ngôn ngữ giàu tính thông tin, nhịp điệu trần thuật nhanh 95
3.3 Sự vận dụng các hình thức và giọng điệu trần thuật 99
3.3.1 Ảnh hƣởng của ngƣời trần thuật ngày càng bị thu hẹp 99

3.3.2 Tính chất phức điệu của giọng trần thuật 103
PHẦN KẾT LUẬN 108
DANH MỤC VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………112



Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà


Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm tháng chống ngoại xâm, lịch sử Việt Nam hiện đại
đƣợc phản chiếu trong văn học chủ yếu ở những biểu hiện của tinh thần yêu
nƣớc, lòng căm thù giặc, ở những sự kiện, những chiến thắng quan trọng
quyết định đến vận mệnh của cả dân tộc cũng nhƣ hạnh phúc của mỗi cá
nhân. Có một mảng sáng tác lớn trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945 -
1975 ghi lại lịch sử chiến tranh oai hùng và vinh quang của đất nƣớc. Bƣớc
sang thời bình, sự thay đổi của điều kiện sống khiến cho thị hiếu thẩm mỹ của
ngƣời đọc cũng có những biến chuyển lớn. Cuộc sống thực tại đã nhắc nhủ
con ngƣời về những phƣơng diện của đời sống sinh hoạt, đời sống văn hóa,
văn minh vẫn âm thầm trôi chảy cùng công cuộc chống ngoại xâm, giữ nƣớc
của dân tộc. Họ không rũ bỏ, nhƣng đã bắt đầu xếp chiến tranh vào ký ức.
Thay cho tâm thế đấu tranh vì quyền lợi của cả cộng đồng, cả dân tộc, họ
quan tâm hơn đến cuộc đấu tranh với cái khốn khó của đời sống thƣờng ngày.
Thay vì dõi theo cục diện thế giới, họ hứng thú hơn với những mối quan hệ cá
nhân, với những câu chuyện gần gũi xảy ra xung quanh mình. Kết thúc chiến
tranh, văn học cũng không còn lý do để chỉ chăm chắm phục vụ những mục
đích cách mạng. Với bối cảnh lịch sử mới và những đổi thay về nhu cầu của

ngƣời đọc, văn học, với tƣ cách là một hình thức phản ánh hiện thực, tất yếu
phải đối mới. Nhà văn tất yếu không thể viết theo lối cũ.
Cơ hội chuyển mình của loại hình nghệ thuật ngôn từ đƣợc tiếp sức nhờ
công cuộc Đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xƣớng vào năm 1986.
Không chỉ ý thức văn học đƣợc cởi trói, bản thân nhà văn cũng nỗ lực cởi trói
cho chính mình. Sự cởi mở nhiều chiều đã mang đến biến chuyển lớn lao về
Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà


Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại
4
tƣ duy. Là một bộ phận của nền nghệ thuật phát triển trong bối cảnh cuộc
sống thời bình, văn học Việt Nam sau 1986 phản ánh hiện thực theo cách nhìn
mới, quan niệm mới. Không chỉ mở rộng đề tài theo hƣớng tiếp cận gần gũi
hơn với hiện thực đời sống sinh hoạt, đời sống văn hóa, quan điểm của các
nhà văn về một số vấn đề của lịch sử Việt Nam cũng mang những sắc thái
thẩm mỹ mới. Cảm hứng sử thi của giai đoạn trƣớc đƣợc thay thế bằng cảm
hứng đời tƣ - thế sự. Xu hƣớng ngợi ca đƣợc thay thế bằng cái nhìn phê phán
hiện thực. Thói quen nhìn cuộc sống ở khía cạnh lạc quan, tƣơi đẹp đƣợc thay
bằng sự khai thác trực diện những tồn đọng của xã hội, những khát vọng của
đời sống cá nhân con ngƣời. Văn học giai đoạn này vì thế đa giọng điệu, đa
sắc màu và gây nhiều tranh cãi hơn.
Với đặc thù là một thể loại nhỏ gọn và cơ động, truyện ngắn bắt nhịp
rất nhanh với những biến chuyển của đời sống. Tuy không phải là thể loại chủ
chốt của nền văn học, nhƣng với thế mạnh của một loại hình tự sự, truyện
ngắn nhanh nhạy len lỏi vào mọi ngóc ngách của xã hội, phản chiếu cuộc
sống trong từng mảnh ghép nhỏ. Nhà nghiên cứu Nguyên Ngọc nhận xét:
“Đây có thể coi là một thời kỳ có nhiều truyện ngắn hay trong văn học Việt
Nam, tiếp theo „vụ đƣợc mùa truyện ngắn‟ những năm 1960 và một vụ mùa
khác, trong chiến tranh. Tuy nhiên, truyện ngắn lần này có những khác biệt rõ

rệt. Những năm 1960 từng để lại nhiều truyện ngắn đẹp nhƣ thơ, trong veo,
trữ tình. Truyện ngắn thời chiến tranh thì vạm vỡ, chắc chắn. Đặc điểm nổi
bật lần này là cầm cái truyện ngắn trong tay có thể cảm thấy cái dung lƣợng
của nó nặng trĩu. Có những truyện ngắn, chỉ mƣơi mƣời trang thôi, mà sức
nặng có vẻ còn hơn cả một cuốn tiểu thuyết trƣờng thiên” [44; 7].
Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà


Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại
5
Nhƣ vậy, truyện ngắn giai đoạn từ 1986 đến nay đóng vai trò quan
trọng trong việc hình thành diện mạo nền văn học Việt Nam đƣơng đại. Chính
vì vậy, chúng tôi hƣớng tới truyện ngắn khi triển khai luận văn này nhƣ một
cách tiếp cận với một giai đoạn văn học đặc biệt sôi động từ thể loại đƣợc
đánh giá là năng động và tích cực nhất.
Với tên gọi Sự vận động của truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay,
nhìn từ góc độ hình thức thể loại, luận văn tập trung nghiên cứu về những
biến chuyển hình thức thể loại, bởi sự vận động của thể loại bộc lộ quan điểm
thẩm mỹ, tƣ duy nghệ thuật của mỗi thời kỳ. Mikhail Bakhtin cho rằng:
“Đằng sau cái mặt ngoài sặc sỡ và đầy tạp âm ồn ào của tiến trình văn học,
ngƣời ta không nhìn thấy vận mệnh to lớn và cơ bản của văn học và ngôn
ngữ, mà những nhân vật chính nơi đây trƣớc hết là các thể loại, còn trƣờng
phái, trào lƣu chỉ là những nhân vật hạng nhì và hạng ba” [9; 5].
2. Phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ đề tài
2.1 Phạm vi nghiên cứu
Từ mốc khởi đầu mang tính chất tƣơng đối - 1986, luận văn sẽ dừng lại
ở những tác phẩm ra đời trƣớc 2006. Trong vòng 20 năm phát triển, truyện
ngắn Việt Nam đã đi đƣợc những bƣớc dài với số lƣợng tác phẩm đồ sộ. Hàng
trăm tuyển tập truyện ngắn, đƣợc tập hợp theo những hệ tiêu chí khác nhau,
đã ra đời. Với khuôn khổ hạn chế của luận văn thạc sĩ, chúng tôi không có

điều kiện khảo sát mọi tác phẩm, vì vậy đề tài sẽ khoanh vùng vào những
tuyển tập tiêu biểu nhƣ:
- Văn mới 5 năm đầu thế kỷ, NXB Hội Nhà văn, 2005
- Văn mới 2004 - 2005, NXB Hội Nhà văn, 2005
Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà


Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại
6
- Văn mới 2005 - 2006, NXB Hội Nhà văn, 2006
- Những tuyển tập truyện ngắn của các cây bút tiêu biểu cho giai đoạn
này nhƣ: Nguyễn Huy Thiệp, Lê Minh Khuê, Phan Thị Vàng Anh…
- Những truyện ngắn đƣợc giải thƣởng các cuộc thi uy tín do Báo Văn
Nghệ, tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức.
… và một số tác phẩm riêng lẻ khác.
Do hạn chế về tƣ liệu, chúng tôi chƣa có điều kiện khảo sát mảng
truyện ngắn Việt Nam ở hải ngoại giai đoạn 1986 - 2006. Đây là mảng truyện
ra đời trong bối cảnh lịch sử xã hội khác hẳn với phạm vi chúng tôi sẽ đề cập
ở trên. Vì vậy, để đảm bảo sự thống nhất về đối tƣợng nghiên cứu, chúng tôi
sẽ bàn đến đến phần truyện này trong một công trình khác.
2.2 Nhiệm vụ của đề tài
- Cung cấp cái nhìn tổng quan về sự vận động và biến đổi của truyện
ngắn Việt Nam hiện đại ở phƣơng diện hình thức thể loại.
- Tìm hiểu sự vận động và phát triển của truyện ngắn 1986 - 2006 về
hình thức thể loại qua việc tập hợp, hệ thống hóa và phân tích tác phẩm.
- Khát quát những đặc điểm nổi bật của truyện ngắn Việt Nam giai
đoạn 1986 - 2006 trên những phƣơng diện chủ yếu nhƣ: Cốt truyện - kết cấu,
Nghệ thuật xây dựng nhân vật, Ngôn ngữ và giọng điệu…
Đạt đƣợc những mục đích trên, luận văn sẽ có ý nghĩa nhƣ một cách
nhìn bổ sung vào những đánh giá, nhận định về một giai đoạn văn học đang

vận động và gây nhiều tranh cãi. Đồng thời, luận văn sẽ là tƣ liệu tham khảo
cho những ai quan tâm đến truyện ngắn đƣơng đại Việt Nam.
Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà


Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại
7
3. Lịch sử vấn đề
Là giai đoạn có nội lực và tiềm năng, văn học Việt Nam 1986 - 2006
thu hút sự quan tâm của nhiều nhà phê bình, nghiên cứu, nhà văn và độc giả.
Trong đó, truyện ngắn đƣợc đánh giá là một trong những thể loại chủ đạo của
đời sống văn học thời kỳ Đổi mới. Tuy nhiên, do đây là một giai đoạn văn
học chƣa ổn định nên chúng ta chƣa có nhiều những công trình khái quát,
đánh giá một cách toàn diện những đặc điểm của 20 năm phát triển này so với
các giai đoạn trƣớc. Liên quan tới đề tài, chúng tôi tổng kết một số thành tựu
của những ngƣời đi trƣớc trên những nét lớn nhƣ sau:
3.1 Tình hình nghiên cứu khái quát về văn học 1986 - 2006
* Các công trình nổi bật:
- Chuyên luận 50 năm Văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng 8 -
NXB Đại học Quốc gia, 1996 với những bài viết quan trọng:
Tiểu thuyết về chiến tranh - mấy ý nghĩ góp bàn - Lê Thành Nghị
Những biến đổi trong cấu trúc thể loại tiểu thuyết sau 1975 - Bùi Việt
Thắng
Mấy nhận xét về nhân vật văn xuôi Việt Nam sau 1975 - Nguyễn Thị
Bình
- Chuyên luận Văn học Việt Nam hiện đại - Nhận thức và thẩm định -
Vũ Tuấn Anh, NXB Khoa học Xã hội, 2001
- Luận án tiến sĩ Thời gian nghệ thuật trong cấu trúc văn bản tự sự - Lê
Thị Tuyết Hạnh, 1997
Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà



Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại
8
- Luận án tiến sĩ Những dấu hiệu đổi mới trong văn xuôi nghệ thuật từ
1980 - 1986 - Nguyễn Thị Huệ, 2000
- Hội thảo Quốc tế Văn học Việt Nam trong bối cảnh giao lưu văn hóa
khu vực và quốc tế - Viện Văn học Việt Nam tổ chức
- Thảo luận về Truyện ngắn hôm nay - Báo Văn Nghệ số 11/1991
- Tiểu luận Văn học quá độ - khái quát văn học Việt Nam thời đổi mới -
tác giả Dana Healy.
* Những nhận định chung:
- Sự đổi mới quan niệm và ý thức nghệ thuật của văn học sau 1986
đƣợc đánh giá là nhân tố đặc biệt quan trọng, có ảnh hƣởng chi phối đến
mọi thể loại, trong đó có truyện ngắn. Các tác giả Vũ Tuấn Anh, Nguyễn
Thị Bình, Nguyễn Thị Huệ khẳng định, văn học đƣơng đại phát triển theo xu
hƣớng dân chủ hóa, có ý nghĩa bổ sung, hoàn thiện những quan niệm hiện
thực về con ngƣời cho văn học giai đoạn trƣớc. Trong chuyên luận Văn học
Việt Nam hiện đại - Nhận thức và thẩm định, tác giả Vũ Tuấn Anh viết: “Nếu
nhƣ cách nhìn sử thi là thích hợp cho việc thể hiện tầm rộng lớn của những
vấn đề lịch sử xã hội và cộng đồng thì cách nhìn tiểu thuyết là cái nhìn tập
trung, xoáy sâu vào những vấn đề của con ngƣời cá nhân cũng nhƣ mối quan
hệ cá nhân - xã hội trên hành trình tìm kiếm và khẳng định giá trị nhân văn”
[3; 54]. Sự chuyển biến ấy, theo các nhà nghiên cứu, xuất phát từ nguyên
nhân khách quan là không khí dân chủ của công cuộc Đổi mới và nguyên
nhân chủ quan là cá tính sáng tạo của ngƣời nghệ sĩ. Cái nhìn của nhà văn
trong khi phản ánh hiện thực không còn bị ảnh hƣởng bởi ý thức cộng đồng
mà phụ thuộc vào ý thức cá nhân. “Tác giả xuất phát từ kinh nghiệm bản thân,
Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà



Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại
9
thể nghiệm bản thân chứ không phải thể nghiệm cộng đồng” [63; 6], Nguyên
Ngọc viết.
Chia sẻ cách nhìn này, tác giả Nguyễn Thị Bình trong bài viết Mấy
nhận xét về nhân vật văn xuôi Việt Nam sau 1975 cũng khẳng định: “Văn
xuôi sau 1975 phát triển trong bối cảnh đất nƣớc chuyển đổi kinh tế, giao lƣu
văn hóa nhiều chiều. Ý thức cá nhân đƣợc sự cổ vũ của cơ chế thị trƣờng trỗi
dậy mạnh mẽ. Nhu cầu thức tỉnh gắn liền với cảm hứng khám phá, nghiền
ngẫm hiện thực, nhu cầu công bố tƣ tƣởng riêng trong thái độ nhập cuộc của
nhà văn…” [11; 67].
Từ bối cảnh lịch sử đó, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra những đặc điểm kế
thừa và khác biệt của giai đoạn văn học này so với các giai đoạn trƣớc. Trong
tiểu luận Văn học quá độ - khái quát văn học Việt Nam thời đổi mới, tác giả
Dana Healy, giảng viên tiếng Việt tại Trƣờng nghiên cứu phƣơng Đông và
châu Phi, Đại học London đánh giá: “Một trong những đặc điểm đáng chú ý
nhất của nhiều tác phẩm hiện đại là mức độ phê phán cao đối với cuộc sống
thƣờng ngày. Sau nhiều năm tụng ca hiện thực, nhiều năm ca ngợi và tự ca
ngợi, cũng nhƣ hô hào một thứ lạc quan phi lý, các nhà văn bây giờ đã vứt bỏ
bức tranh lý tƣởng hóa hiện thực và đƣa ra một cái nhìn điềm đạm hơn về
cuộc sống” [24; 8].
Trong bài viết Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới tại cuộc Hội
thảo quốc tế Văn học Việt Nam trong bối cảnh giao lưu văn hóa khu vực và
quốc tế, nhà lý luận Lê Ngọc Trà nêu ra 3 đặc điểm của văn học sau 1986.
Đặc điểm nổi bật, theo ông là tính chất phê phán. “Nếu trƣớc đây nhân vật
chính của các tác phẩm hầu hết là ngƣời tốt, là nhân vật chính diện, thì bây
giờ, ngƣợc lại, trong nhiều tác phẩm các nhân vật chính thƣờng là nhân vật
Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà



Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại
10
tiêu cực, giả dối, làm ăn phi pháp, thấp kém về đạo đức. Và một khi các nhân
vật chính đã nhƣ vậy thì dĩ nhiên cảm hứng chủ đạo của tác phẩm cũng thay
đổi: nhiệt tình ca ngợi, khẳng định đƣợc thay thế bằng sự phê phán, châm
biếm” [73; 21]. Đặc điểm thứ hai là tinh thần phân tích xã hội và sự chiêm
nghiệm lại lịch sử. “Những năm hòa bình sau 1975 và tiếp theo là phong trào
đổi mới đã tạo ra cơ sở xã hội để các nhà văn nghĩ lại về công việc sáng tác
của mình. Giờ đây nhu cầu ghi chép, phản ánh hiện thực theo kiểu trƣớc đây
không còn đặt ra cấp bách nhƣ trong những năm chiến tranh. Cuộc sống cũng
đã bộc lộ những mặt phức tạp mà những lời giải thích đơn giản, công thức
không còn thuyết phục nữa. Mỗi ngƣời cầm bút cũng nhận ra rằng sức mạnh
của tác phẩm văn học không chỉ nằm ở khối lƣợng hiện thực đƣợc ghi chép,
phản ánh mà còn phụ thuộc vào sự nghiền ngẫm của nhà văn, vào chiều sâu
của những tƣ tƣởng, tình cảm mà anh ta gửi gắm trong đó. Trên bối cảnh ấy
đã xuất hiện hàng loạt tác phẩm không chỉ ghi chép các tính cách, các sự kiện
mà còn soi sáng chúng dƣới nhiều góc độ khác nhau” [73; 22]. Đặc điểm thứ
ba là sự trở lại với đời thường, với số phận riêng. “Sự trở lại này hoàn toàn tất
yếu, bởi vì trƣớc đây, trong giai đoạn 1930 - 1945 nhiều nhà văn đã viết về
chủ đề này, hơn nữa nói chung đã là văn học thì nền văn học nào cũng quan
tâm đến số phận con ngƣời, đến cái riêng. Song vấn đề là ở chỗ do hoàn cảnh
chiến tranh suốt mấy chục năm qua, văn học cách mạng chủ yếu nói về cái
chung, chỉ xem xét cái riêng xuất phát từ quyền lợi chung của giai cấp, của
dân tộc, thành ra vấn đề đời thƣờng, số phận riêng của con ngƣời bị chìm đi,
thậm chí đôi khi còn bị xem nhƣ cái gì xa lạ với một nền văn học lành mạnh.
Điều này giải thích vì sao khi quay lại với chủ đề này, văn học đƣợc đánh giá
nhƣ đã có một hành động đổi mới” [73; 5].
Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà



Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại
11
Có thể nói, các nhà nghiên cứu đã có sự thống nhất khá cao về những
đặc điểm nội dung của giai đoạn văn học 1986 - 2006.
Về đổi mới thi pháp. Tuy chƣa đi vào nghiên cứu một cách sâu rộng
các vấn đề thi pháp của văn xuôi sau 1986, song các bài viết gần đây đã nhấn
mạnh vào một số biến đổi về hình thức biểu đạt của tác phẩm nhƣ: Sự suy
giảm vai trò cốt truyện; sự đa dạng các hình thức cấu trúc tác phẩm; tính chất
đa thanh trong nghệ thuật trần thuật, những khám phá về hệ thống nhân vật…
Từ đó, các nhà nghiên cứu bƣớc đầu đi đến kết luận về khả năng mở rộng, gia
tăng tính đối thoại của tự sự đƣơng đại trƣớc các vấn đề hiện thực và lịch sử.
Nhà nghiên cứu Lê Ngọc Trà cho rằng: “Nền tảng của thi pháp này là việc
xem sáng tác văn học không phải nhƣ hoạt động tuyên truyền, mà là hoạt
động nhận thức và tự nhận thức, ở đó nhà văn không áp đặt cho ngƣời đọc tƣ
tƣởng có sẵn, đƣợc hình tƣợng hóa mà mang đến cho họ bức tranh sinh động
về cuộc sống thấm nhuần những cảm xúc, suy nghĩ của mình, gợi ra cho họ,
cùng thảo luận với họ và để họ tự phán xét” [73; 40].
3.2 Tình hình nghiên cứu truyện ngắn 1986 - 2006
* Các công trình nổi bật
- Chuyên luận: Truyện ngắn Việt Nam: Lịch sử, thi pháp, chân dung -
Phan Cự Đệ, NXB Đại học Quốc gia, 2000
- Chuyên luận: Truyện ngắn - Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể
loại - Bùi Việt Thắng - NXB Đại học Quốc gia, 2000
- Chuyên luận Bình luận truyện ngắn - Bùi Việt Thắng, NXB Văn học,
1999
Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà


Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

12
- Bài viết: Văn xuôi Việt Nam hiện nay, logic quanh co của các thể loại,
những vấn đề đang đặt ra, và triển vọng - Nguyên Ngọc
- Bài viết: Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay - Phạm Xuân Nguyên
- Tập bài giảng Văn học Việt Nam sau 1975, Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, ĐHQG HN
* Những nhận định chung
Không đƣợc coi là thể loại chủ đạo trong đời sống văn học nhƣ tiểu
thuyết, nhƣng khả năng khái quát hiện thực của truyện ngắn giai đoạn 1986 -
2006 không hề thua kém phƣơng thức tự sự cỡ lớn này. Trƣớc sự chín muồi
của đội ngũ các cây bút đã có thành tựu và sự nở rộ của lớp các nhà văn mới,
1986 - 2006 đƣợc coi là một trong những giai đoạn hoàng kim của lịch sử
truyện ngắn Việt Nam.
Thất vọng trƣớc khả năng nắm bắt cuộc sống của tiểu thuyết thời kỳ
này, nhà nghiên cứu Nguyên Ngọc viết: “Văn học đã chọn lấy một thể loại
khác để làm cái công việc mà tiểu thuyết chƣa làm đƣợc, một thể loại tự bản
thân nó, do chính đặc điểm thể loại của nó, đòi hỏi khái quát: truyện ngắn…
Truyện ngắn đạt đƣợc dung lƣợng nặng nhƣ vậy chính là vì nó đƣợc cả một
giai đoạn văn học của phóng sự và tiểu thuyết tích lũy và chuẩn bị cho nó. Nó
có ngồn ngộn tƣ liệu xã hội để mà làm công việc chƣng cất, chắt lọc… Rõ
ràng, trong các thể loại, truyện ngắn đã tiến xa hơn cả” [10; 34]. Nhà phê bình
Bùi Việt Thắng cũng khẳng định: “Nhìn tổng thể, truyện ngắn 1975 - 2000
vƣợt trội so với thơ và kịch vì nhiều lý do - trong đó phải kể đến sự ƣu ái của
đời sống là mảnh đất màu mỡ cho các thể của văn xuôi phát triển. Nếu có thể
so sánh thì truyện ngắn Việt Nam trong thế kỷ 20 có hai thời hoàng kim của
nó: 1930 - 1945 và 1986 - 2000” [68; 113].
Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà


Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

13
Đây cũng là nguyên nhân khiến truyện ngắn trở thành đối tƣợng thu hút
nhiều công trình phê bình, nghiên cứu về giai đoạn này. Các công trình, bài
viết nhìn chung đều đánh giá cao đóng góp của truyện ngắn trong việc phản
ánh hiện thực đời sống xã hội. Phạm Xuân Nguyên trong bài Truyện ngắn và
cuộc sống hôm nay đánh giá: “Truyện ngắn hôm nay tiếp xúc, xới lật các
mảng hiện thực ở cả hai chiều quá khứ và hiện tại để mong góp một tiếng nói
định vị cho ngƣời đọc, một thái độ nhìn nhận, đánh giá những việc, những
ngƣời của bây giờ, nơi đây [47; 10]. Chỉ rõ sự phát triển mạnh mẽ cả về số
lƣợng và chất lƣợng của thể loại này, nhà nghiên cứu Lý Hoài Thu viết:
“Cùng với sự gia tăng của những tên tuổi mới và số lƣợng tác phẩm, truyện
ngắn thời kỳ này đã mở ra nhiều tìm tòi cả trong tiếp nhận hiện thực lẫn thi
pháp thể loại. Đó là chiều sâu triết lý và những cảm nhận về sự cô đơn của
thân phận con ngƣời, là sự đan cài giữa cái ảo và cái thực, giữa chất thơ và
văn xuôi” [73; 182].
Còn trong bài viết Từ một góc nhìn về sự vận động của truyện ngắn
chiến tranh, tác giả Tôn Phƣơng Lan lý giải chi tiết hơn: “Những truyện ngắn
đã khai thác yếu tố tâm linh và tạo ra những chi tiết, cảnh huống ly kỳ, hấp
dẫn, đem lại cho các truyện này một vóc dáng hiện thực mới khiến ngƣời đọc
không chỉ cảm mà còn thấy” [38; 34].
Những đổi mới về nội dung tất yếu dẫn đến sự thay đổi về hình thức
thể loại truyện ngắn. Nhà phê bình Bùi Việt Thắng nhận xét: “Về khía cạnh
thi pháp, truyện ngắn 1986 - 2000 đã trở nên phong phú về hình thức, phong
cách và bút pháp. Đã có thể tách bạch ra những dòng phong cách chủ yếu sau:
phong cách cổ điển (ứng với lớp nhà văn nhƣ Nguyễn Thành Long, Nguyên
Ngọc, Nguyễn Kiên, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Hồng Nhu…), phong
Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà


Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

14
cách trữ tình (ứng với các nhà văn Nguyễn Bản, Đỗ Chu, Nguyễn Quang
Thiều, Võ Thị Hảo, Võ Thị Xuân Hà, Trần Huyền Trang…); phong cách hiện
thực (ứng với Y Ban, Phạm Ngọc Tiến, Nguyễn Thị Thu Huệ…). Về hình
thức, truyện ngắn giai đoạn này khá đa dạng - có thể nói đến một kiểu Truyền
kỳ hiện đại (kiểu Bến trần gian của Lƣu Sơn Minh, Hai người đàn bà xóm
trại của Nguyễn Quang Thiều), kiểu truyện giả cổ tích (Những ngọn gió Hua
Tát của Nguyễn Huy Thiệp), truyện ngắn - kịch (kiểu Kịch câm của Phan Thị
Vàng Anh), truyện ngắn rất ngắn (Vùng lặng của Phạm Sông Hồng), truyện
ngắn triết luận (Tâm tưởng của Bùi Hiển, Sống mãi với cây xanh của Nguyễn
Minh Châu, Thương nhớ đồng quê của Nguyễn Huy Thiệp)…” [65; 45].
Nhƣ vậy, là một thể loại phát triển rực rỡ trong giai đoạn văn học 1986
- 2006, truyện ngắn là đối tƣợng của không ít các công trình nghiên cứu, phê
bình đƣơng đại. Nhƣng với tham vọng khảo sát một cách tƣơng đối hệ thống
sự vận động của thể loại truyện ngắn giai đoạn 1986 - 2006, chúng tôi hy
vọng, việc triển khai đề tài này không phải là một công việc thừa thãi.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu và bố cục luận văn
4.1 Phương pháp nghiên cứu
* Vận dụng kiến thức lý luận về thi pháp truyện ngắn đối với các vấn
đề: Cốt truyện - kết cấu, Nghệ thuật xây dựng nhân vật, Ngôn ngữ, giọng điệu
trần thuật…
* Sử dụng các thao tác:
- So sánh giữa các giai đoạn văn học nhằm làm rõ quá trình vận động
của thể loại truyện ngắn sau 1986.
Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà


Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại
15
- So sánh đối chiếu các tác phẩm đồng đại để thấy đƣợc nét riêng biệt

của từng trào lƣu, từng xu hƣớng truyện ngắn nổi bật.
- Phân tích, tổng hợp những nét chung và riêng trong các tác phẩm để
thiết lập hệ thống luận điểm.
- Thống kê, mô tả các hiện tƣợng, các biểu hiện của hình thức, sau đó
lý giải sự vận động của hình thức thể loại truyện ngắn sau 1986.
4.2 Bố cục luận văn
Luận văn bao gồm Phần mở đầu, Phần nội dung và Phần kết luận. Phần
nội dung có 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Cốt truyện và kết cấu
Chƣơng 2: Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Chƣơng 3: Nghệ thuật trần thuật
Danh mục tài liệu tham khảo
Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà


Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại
16
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: SỰ VẬN ĐỘNG CỦA CỐT TRUYỆN VÀ KẾT CẤU
Khái niệm “cốt truyện” đƣợc sử dụng chủ yếu cho các thể loại văn học
thuộc phƣơng thức tự sự hoặc kịch. Trong cuốn Lý luận văn học, giáo sƣ Hà
Minh Đức xác định: “Cốt truyện là một hệ thống các sự kiện phản ánh những
diễn biến của cuộc sống, và nhất là các xung đột xã hội một cách nghệ thuật,
qua đó các tính cách hình thành và phát triển trong những mối quan hệ qua lại
của chúng nhằm làm sáng tỏ tƣ tƣởng và chủ đề tác phẩm” [17; 45]. Nếu cốt
truyện là một yếu tố nghiêng về nội dung thì kết cấu là một phƣơng diện của
hình thức liên quan tới cách tổ chức, bố trí, sắp xếp sự xuất hiện của các chất
liệu hiện thực hay tổ chức các yếu tố bên trong và bên ngoài của tác phẩm.
“Bố cục là một phƣơng diện của kết cấu. Ngoài bố cục, kết cấu còn bao gồm:
tổ chức hệ thống tính cách, tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật của tác

phẩm, nghệ thuật tổ chức những liên kết cụ thể các thành phần cốt truyện,
nghệ thuật trình bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt truyện” [17; 132]
Nhƣ vậy, trong quan hệ với cốt truyện, khái niệm kết cấu rộng hơn.
Mọi liên kết bên trong (giữa các sự kiện, chi tiết trong cốt truyện) và bên
ngoài (giữa cốt truyện và các thành phần khác của tác phẩm) đều là nhiệm vụ
của kết cấu. Cốt truyện là một đơn vị, một căn cứ để triển khai các công việc
kết cấu từ quy mô nhỏ cho đến quy mô lớn. Chính vì thế, trong khi nghiên
cứu cấu trúc của một tác phẩm văn học, ngƣời ta thƣờng phân tích đồng thời
các mối quan hệ qua lại, chi phối lẫn nhau giữa cốt truyện và kết cấu.
Đánh giá cao vai trò của cốt truyện, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân
trong cuốn 150 thuật ngữ văn học viết: “Cốt truyện trỏ lớp biến cố của hình
Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà


Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại
17
thức tác phẩm. Chính hệ thống biến cố đã tạo ra sự vận động của nội dung
cuộc sống đƣợc miêu tả trong tác phẩm. Tính truyện (có cốt truyện) là phẩm
chất có giá trị quan trọng của văn học, sân khấu, điện ảnh và các nghệ thuật
cùng loại” [22; 57]. Trong truyện ngắn, vai trò của cốt truyện càng đƣợc đẩy
mạnh do đặc trƣng phản ánh cuộc sống qua những khoảnh khắc tập trung nhất
các xung đột, mâu thuẫn của thể loại này. Chính vì vậy, sự vận động và biến
đổi của thể loại qua từng thời kỳ phát triển gắn liền với những biến chuyển về
mặt cốt truyện. Có thể thấy rõ điều này qua việc khảo sát những chặng đƣờng
truyện ngắn từ lúc thể loại này manh nha tại Việt Nam cho tới ngày nay.
1.1 Sự vận động của cốt truyện và kết cấu truyện ngắn trƣớc 1986
1.1.1 Giai đoạn trước 1932
Ra đời muộn hơn thế giới hàng trăm năm, truyện ngắn Việt Nam hình
thành vào khoảng thế kỷ 15, 16 với những tập truyện nhƣ Thiền uyển tập anh,
Tam tổ thực lục (đời Trần); Việt điện u linh, Nam ông mộng lục (1438), Thánh

Tông di thảo, Lĩnh Nam chích quái (thế kỷ XV), Truyền kỳ mạn lục (thế kỷ
16)… Nhƣng các đặc điểm thể loại trong những tập truyện này chƣa biểu hiện
một cách tập trung và rõ nét. Tình trạng diễn ra phổ biến là sự nhập nhằng
giữa tính chất ký, truyện lịch sử, truyện mô phỏng, phóng tác truyền thuyết
dân gian trong các tác phẩm. Giới nghiên cứu thƣờng dùng khái niệm “truyện
ngắn trung đại” nhƣ một cách ƣớc lệ để chỉ hiện tƣợng không thuần nhất về
nội dung và nghệ thuật, gồm rất nhiều kiểu tác phẩm khác nhau ra đời trong
một khoảng thời gian gần 10 thế kỷ. Trong cuốn Truyện ngắn - Những vấn đề
lý thuyết và thực tiễn thể loại, nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng viết: “Trong
khi nghiên cứu sự hình thành và phát triển của thể loại truyện ngắn Việt Nam,
chúng tôi quan sát thấy một hiện tƣợng sau: trong khu vực Đông Bắc Á (gồm
Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà


Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại
18
Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên), hình thức ban sơ của truyện ngắn là
truyền kỳ - đó là một thứ “truyện thần thoại có tác giả, cốt truyện của nó có
thể đƣợc lƣu hành trong dân gian, đƣợc các nhà văn sử dụng, nâng cao thành
tác phẩm văn học. Truyền kỳ là thể loại văn xuôi nghệ thuật sớm sủa của văn
học cổ điển Trung Quốc và theo quan niệm về thể loại này, nó là hình thức
ban đầu của truyện ngắn” [68;79].
Mới manh nha và chƣa có hình mẫu nào ổn định, truyện ngắn trung đại
phát triển khá đa dạng, nhiều chiều, nhiều khuynh hƣớng nhƣng có thể đƣợc
khái quát thành một số đặc điểm nhất định. Truyện thƣờng có nội dung và lối
kể dân gian. Dựa trên cốt truyện hoặc các nhân vật dân gian, nhà văn đắp
thêm phần hƣ cấu của mình cho tác phẩm có màu sắc hiện đại hoặc nhằm
phản ánh hiện thực nào đó. Người con gái Nam Xương là một ví dụ điển hình.
Tác phẩm có nguồn gốc từ truyện cổ tích dân gian Vợ chàng Trương. Nhƣng
Nguyễn Dữ đã sáng tạo thêm phần không gian truyện dƣới thủy cung nhằm

tăng tính diệu kỳ, tạo sức hấp dẫn cho tác phẩm. Truyện ngắn thời kỳ này
cũng chịu ảnh hƣởng lối văn tự sự trong các bộ sử, tạo nên tính chất sử ký văn
chƣơng cho tác phẩm. Theo đó, tác giả thƣờng vận dụng lối kể chuyện khách
quan với lời văn ngắn gọn, giàu chất truyện. Một số lƣợng lớn truyện ngắn
thời kỳ này lấy cảm hứng từ dã sử Trung Quốc hoặc Việt Nam và nhuận sắc
thêm. Mặt khác, do ảnh hƣởng của truyện dân gian và truyện lịch sử nên
truyện ngắn trung đại thƣờng có cốt truyện hấp dẫn, tình tiết ly kỳ.
Ngay trong thời kỳ sơ khai của truyện ngắn, cốt truyện đã đóng vai trò
quan trọng đối với các tác phẩm thuộc thể loại này. Chính vì thế, nhà nghiên
cứu Phan Cự Đệ cho rằng, truyện ngắn trung đại có thể phân loại theo tiêu chí
cốt truyện. Ông viết: “Xét về nguồn gốc cốt truyện, có thể chia truyện ngắn
Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà


Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại
19
trung đại thành 3 nhóm chính: 1. Nhóm tác phẩm lấy cốt truyện từ chính sử…
Các bộ sử cung cấp những ghi chép gốc về những nhân vật hay những sự việc
kỳ lạ, cố gắng ghi chép đúng với thực tế vốn có nhƣng chƣa quan tâm đến kỹ
thuật kể chuyện. Các nhà văn sẽ lựa chọn những nhân vật và sự kiện nào đƣợc
coi là thú vị và gia công nghệ thuật, có thể nhận thức và lý giải diễn biến cốt
truyện theo chiều hƣớng khác hẳn cốt truyện gốc… 2, Nhóm tác phẩm vay
mƣợn cốt truyện Trung Quốc. 3, Nhóm tác phẩm có cốt truyện hƣ cấu thuần
túy của Việt Nam. Loại này chiếm số lƣợng lớn nhất. Nội dung thƣờng kể về
các nhân vật của Việt Nam - những nhân vật hữu danh và vô danh trong lịch
sử, các mô típ thƣờng đƣợc sáng tạo trên cơ sở phỏng lại những lời kể của
ngƣời này ngƣời khác, tức là motif dân gian, đã đƣợc lƣu truyền theo con
đƣờng truyền miệng” [15; 45].
Chỉ với tập truyện duy nhất Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ là ngƣời có
công lớn đối với sự hình thành truyện ngắn trung đại. Tác phẩm gồm có 20

truyện, chủ yếu lấy cốt truyện từ những sự tích lƣu truyền trong dân gian.
Truyện đƣợc nhà văn viết bằng lối văn tổng hợp nhiều hình thức nhƣ tản văn,
biền văn, thơ… Truyền kỳ mạn lục phản ánh khá đầy đủ và sắc sảo bức tranh
xã hội phong kiến Việt Nam thế kỷ XVI. Tác phẩm đã vƣợt khỏi dấu ấn của
loại ký lịch sử, đã có thêm phần phóng tác và hƣ cấu của ngƣời viết. Những
truyện nhƣ Người nghĩa phụ ở Khoái Châu, Cây gạo, Lệ Nương, Người con
gái Nam Xương… chứa đựng những mầm mống phát sinh của chủ nghĩa hiện
thực.
Do ảnh hƣởng các cốt truyện dân gian và dã sử, nên kết cấu truyện
ngắn trung đại chƣa thực sự phức tạp. Phần lớn, truyện diễn tiến theo trình tự
tuyến tính, cái gì xảy ra trƣớc, kể trƣớc. Các nhà văn ít dụng công miêu tả
Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà


Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại
20
không gian và thời gian nghệ thuật, chủ yếu kể lại tiến trình xảy ra của sự
việc. Việc khắc họa đời sống tâm lý nhân vật cũng chƣa đƣợc chú trọng nên
những hình thức kết cấu tâm lý dƣờng nhƣ không xuất hiện trong truyện ngắn
trung đại. Đặc điểm này khiến truyện ngắn trung đại trở thành một thể loại dễ
đọc, dễ hiểu đối với độc giả buổi đầu tiếp cận. Nhƣng trong tƣơng quan với
các nền truyện ngắn trên thế giới, có thể thấy truyện ngắn Việt Nam phát triển
chậm hơn rất nhiều.
Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, truyện ngắn Việt Nam đã có sự phát
triển tuy chƣa mạnh mẽ, rầm rộ, nhƣng có thể nói đã tạo đƣợc bƣớc ngoặt,
đánh dấu sự chuyển biến từ cách kể chuyện trung đại sang cách kể chuyện
hiện đại. Dù khó xác định mốc thời gian chính xác, nhƣng một cách tƣơng
đối, các nhà nghiên cứu cho rằng, Truyện Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn
Trọng Quản xứng đáng là truyện ngắn Việt Nam hiện đại đầu tiên viết theo
kiểu phƣơng Tây. Tác phẩm đã mở đầu cho sự ra đời của một loạt truyện

ngắn của các tác giả nhƣ Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn… Cốt truyện về
một mối tình tay ba oái oăm vốn không quá phức tạp, nhƣng xu hƣớng hiện
đại hóa của tác phẩm bắt đầu bộc lộ từ cách kể chuyện ở ngôi thứ nhất của
nhân vật xƣng tôi. Đặc biệt, kết cấu truyện bộc lộ khuynh hƣớng tổ chức theo
quy luật tâm lý hơn là trật tự thời gian tuyến tính với kết thúc là tấn bi kịch
của nhân vật chính (hoàn toàn khác với lối kết thúc có hậu ảnh hƣởng từ
truyện kể dân gian trong các tác phẩm trƣớc đây). Sự ra đời của Truyện Thầy
Lazaro Phiền cùng với chữ quốc ngữ và sự ảnh hƣởng của văn hóa phƣơng
Tây đã tạo tiền đề cho một thời kỳ hoàng kim của truyện ngắn Việt Nam.
Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà


Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại
21
1.1.2 Giai đoạn 1932 - 1945
Giai đoạn 1932 - 1945 là bƣớc phát triển quan trọng trong tiến trình văn
học nói chung và của thể loại truyện ngắn nói riêng. Truyện ngắn thời kỳ này
khởi sắc, tạo nên mùa gặt bội thu với những tên tuổi nhƣ: Nguyễn Công
Hoan, Nam Cao, Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Bùi Hiển, Kim Lân,
Nguyên Hồng, Mạnh Phú Tƣ, Khái Hƣng, Nhất Linh, Thanh Tịnh… Do
những đặc trƣng riêng về hoàn cảnh lịch sử và phong cách sáng tác, văn học
thời kỳ này chia làm hai dòng chính: hiện thực phê phán và lãng mạn trữ tĩnh.
Nhìn từ phƣơng diện cốt truyện và kết cấu, hai dòng văn học này cũng có
những đặc trƣng riêng.
Truyện ngắn hiện thực phê phán thể hiện cái nhìn trực diện vào bộ mặt
đời sống xã hội, bộc lộ các trạng thái nhân thế, phơi bày những hiện tƣợng
tầm thƣờng, kệch cỡm diễn ra hàng ngày trong đời sống. Cốt truyện của dạng
truyện ngắn này đƣợc xây dựng dựa vào những mâu thuẫn, xung đột đa dạng.
Chất liệu chính của cốt truyện thời kỳ này là những sự kiện, hành động giàu
kịch tính - loại sự kiện gắn liền với hành động bên ngoài của nhân vật. Nhà

văn luôn tìm cách dồn nén hàng loạt cử chỉ, động tác và lời đối thoại gay gắt
của các nhân vật vào quan hệ đối kháng. Khi đƣợc đặt trong những bối cảnh
văn học đặc biệt, chúng thƣờng đƣợc đẩy lên thành những hiện tƣợng mang
tính tƣợng trƣng, hay còn gọi là hoàn cảnh điển hình. Có thể nói, với dòng
văn học hiện thực phê phán, cốt truyện truyện ngắn đã đƣợc đẩy lên đến đỉnh
cao của sự mẫu mực. Sự phát triển của tác phẩm đi qua tiến trình cơ bản gồm
thắt nút, cao trào, mở nút. Cốt truyện đƣợc xây dựng dựa vào hệ thống sự
kiện; biến cố giữ vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy cốt truyện phát triển
và kết thúc tác phẩm thƣờng rất bất ngờ. Với kiểu cốt truyện này, kết cấu
Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà


Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại
22
truyện ngắn 1932 - 1945 cũng rất đa dạng, phong phú. Có kiểu kết cấu theo
trình tự thời gian, kết cấu hồi cố, kết cấu tâm lý, kết cấu truyện lồng trong
truyện. Trong đó nguyên tắc cơ bản của miêu tả là tạo sự đối lập tƣơng phản
và tăng cấp, giữa các nhân vật, trong mỗi nhân vật, giữa các tình huống và
ngay trong một tình huống. Nếu nhƣ Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố khai
thác xung đột kẻ giàu - ngƣời nghèo thì Nam Cao, Nguyên Hồng phản ánh sự
mâu thuẫn giữa nông dân và phú hào, khát vọng của trí thức và những kiềm
tỏa của đời sống vật chất.
Trong dòng văn học lãng mạn, truyện ngắn trữ tình là một trong những
giá trị nổi bật, với những sáng tác đặc sắc của Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ
Dzếnh Thƣờng bộc lộ tâm tƣởng của con ngƣời trƣớc đời sống, truyện ngắn
trữ tình về cơ bản là sự chủ quan hóa, nội tâm hóa cái nhìn thế giới. Truyện
không nặng về kể lể các sự việc mà chủ yếu thể hiện các trạng thái tâm lý của
con ngƣời. Sự kiện nội tâm là chất liệu cơ bản để xây dựng cốt truyện. Do đó,
truyện ngắn trữ tình thƣờng không có cốt truyện. Kết cấu chủ yếu theo dòng
tâm lý, suy tƣởng; xung đột nội tâm là điểm tựa cho cấu trúc của truyện. Cả

truyện thƣờng nhẹ nhàng nhƣ một bài thơ, trong đó, mỗi đoạn truyện đƣợc thể
hiện nhƣ một đoạn thơ.
Thạch Lam là cây bút nổi bật nhất của dòng truyện trữ tình 1932 - 1945
với những sáng tác nhƣ Hai đứa trẻ, Dưới bóng hoàng lan, Nhà mẹ Lê, Bóng
người xưa Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ nhận xét: “Nếu nhƣ ở truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan, cốt truyện có phần nào lấn át nhân vật thì Thạch Lam lại
ít sử dụng những cốt truyện sự kiện giàu hành động kịch tính. Một số truyện
ngắn của Thạch Lam rất khó kể lại, hay nói đúng hơn, Thạch Lam nghiêng về
những cốt truyện tâm lý. Truyện ngắn Thạch Lam tác động sâu vào lĩnh vực
Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà


Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại
23
tâm lý, tình cảm của ngƣời đọc. Ngòi bút Thạch Lam đi sâu vào thế giới bên
trong của tâm hồn con ngƣời, đặc biệt là thế giới của những ấn tƣợng và cảm
giác” [15; 34]. Những thành tựu truyện ngắn trữ tình 1932 - 1945 sẽ còn đƣợc
tiếp tục phát triển trong giai đoạn văn học sau.
Ngoài cách phân chia cốt truyện theo hai dòng văn học nói trên, sự phát
triển của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945 còn sản sinh ra những
tác phẩm mang khuynh hƣớng tiểu thuyết hóa. Là một thể loại độc lập, truyện
ngắn có khả năng ngang hàng với tiểu thuyết ở giá trị nhận thức hiện thực
nhƣng trong bản thân hình thức tự sự này luôn tiềm ẩn sự bứt phá khỏi khuôn
khổ thể loại. Mặc dù bình đẳng với tiểu thuyết ở phƣơng thức phản ánh (sử
dụng lời kể và lời miêu tả) song truyện ngắn không thể cạnh tranh đƣợc với
tiểu thuyết ở quy mô tổ chức và sự đa dạng các hình thức nghệ thuật biểu hiện
cuộc sống ở chiều sâu. Trong khi hƣớng tới con ngƣời và cuộc sống trong
những mối quan hệ ngày một đa chiều, phức tạp thì tính chất “một chủ đề,
một tiến trình sự kiện, một biểu đạt tình thái duy nhất thống nhất trong một
thời gian đối thoại ngắn” [26; 139] của thể loại này tỏ rõ những hạn chế nhất

định. Dung lƣợng tác phẩm bắt đầu giãn ra nhƣng chất tiểu thuyết chỉ thực sự
xuất hiện ở những truyện ngắn mang tƣ duy tiểu thuyết, biểu hiển rõ ở hệ
thống chủ đề, cốt truyện, tính cách và những vấn đề hiện thực đặt ra trong
đó… Nhìn từ góc độ cốt truyện và kết cấu, ở những tác phẩm thuộc xu hƣớng
này, tính chất đơn tuyến và sự hữu hạn của thời gian, không gian từng bƣớc bị
phá vỡ. Cốt truyện vẫn giữ lại sƣờn sự kiện mang tính dramatic truyền thống
song dấu hiệu đa tuyến đã xen vào cùng với nghệ thuật xử lý thời gian không
gian phức tạp và hiệu quả hơn. Đó là trƣờng hợp của những truyện ngắn nhƣ
Chí Phèo, Đời thừa… (Nam Cao).

×