Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Khảo sát thơ ca Phan Bội Châu 15 năm cuối đời qua ba phương diện Chủ đề, đề tài, thể loại và ngôn ngữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 103 trang )


1

MC LỤ C

MC LỤ C 1
MỞ ĐẦU 3
1. Lý do chọn đề tài 3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 8
4. Phương pháp nghiên cứu 8
5. Đóng góp của luận văn 9
6. Kết cấu của luận văn 10
NỘI DUNG 12
Chương 1. Tổng quan về thơ ca Phan Bội Châu Châu thời kỳ 1925 - 1940 12
1.1. Hoàn cảnh sáng tác 12
1.1.1. Tình hình chung về chính trị, xã hội và văn hóa Việt Nam
nói chung và Huế nói riêng từ 1925 đến 1940 12
1.1.2. Hoàn cảnh sống của Ông già Bến Ngự 15
1.2. Sơ lược về quá trình sáng tác thơ ca của Phan Bội Châu
mười lăm năm cuối đời 17
1.3. Quan niệm văn học của Phan Bội Châu mười lăm năm cuối đời 22
Chương 2. Khảo sát thơ ca Phan Bội Châu mười lăm năm cuối đời qua
phương diện chủ đề - đề tài 30
2.1. Quan niệm về chủ đề - đề tài 30
2.2. Hệ thống chủ đề - đề tài và sự chuyển biến của nó trong thơ
Ông già Bến Ngự 31
2.2.1. Đề tài về cuộc sống người dân nghèo 33
2.2.2. Đề tài về tình bạn bè, đồng chí 38
2.2.3. Đề tài thiên nhiên 43
2.2.4. Đề tài tâm sự riêng tư của nhà thơ 46


2.3. Tiểu kết 56

2

Chương 3. Khảo sát thơ ca Phan Bội Châu mười lăm năm cuối đời
qua phương diện thể loại và ngôn ngữ 57
3.1. Khảo sát thơ ca Phan Bội Châu thời kỳ Ông già Bến Ngự
qua phương diện thể loại 57
3.1.1. Quan niệm về thể loại 57
3.1.2. Hệ thống các thể thơ chính trong thơ ca Phan Bội Châu thời kỳ
Ông già Bến Ngự 58
3.1.2.1. Thể thơ bốn chữ 58
3.1.2.2. Thể thơ lục bát 59
3.1.2.3. Thể thơ song thất lục bát 61
3.1.2.4. Thể tứ tuyệt 63
3.1.2.5. Thể thất ngôn bát cú 63
3.1.2.6. Hát nói 65
3.1.2.7. Phú 68
3.1.3. Tiểu kết 69
3.2. Khảo sát thơ ca Phan Bội Châu thời kỳ Ông già Bến Ngự
qua phương diện ngôn ngữ 72
3.2.1. Quan niệm về ngôn ngữ thơ 72
3.2.2 Ngôn ngữ thơ trong thơ ca Phan Bội Châu mười lăm năm cuối đời 73
3.2.2.1. Ngôn ngữ dân tộc 73
3.2.2.2. Ngôn ngữ ngoại nhập 79
3.2.3. Tiểu kết 84
KẾT LUẬN 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO 90
PH LC 95





3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nói đến Phan Bội Châu, từ trước tới nay, chúng ta thường đánh giá ông là
một nhà yêu nước, một chí sỹ cách mạng hơn là chú ý đến khía cạnh một nhà
văn lớn. Có thể khẳng định rằng, Phan Bội Châu là một trong vài ba tác giả văn
học quan trọng bậc nhất của văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XIX – đầu
thế kỉ XX. Thời gian gần đây, Phan Bội Châu đã từng bước được nhìn nhận và
nghiên cứu với tư cách một nhà văn lớn. Tuy nhiên, những công trình hiện có
vẫn chưa xứng với tầm vóc và vị trí của ông trong lịch sử văn học. Đặc biệt, với
tư cách là một trong những tác giả lớn cuối cùng của hệ hình văn học truyền
thống, có vai trò gạch nối giữa hai hệ hình văn học truyền thống và hiện đại,
Phan Bội Châu cần được quan tâm nghiên cứu hơn nữa, để từ đó thấy được sự
chuyển đổi hệ hình trong lịch sử văn học dân tộc với sự kết thừa cũng như đứt
gãy giữa truyền thống và hiện đại.
Cũng cần lưu ý một điểm: Phan Bội Châu là một trong những tác giả cuối
cùng đứng ở đỉnh cao của phương thức sáng tạo truyền thống – hệ hình văn học
truyền thống. Tuy nhiên, chỉ có số ít người đọc hiện nay có thể cảm được cái hay,
cái đẹp trong văn chương truyền thống nói chung, sáng tác của Phan Bội Châu nói
riêng. Thị hiếu thẩm mỹ, môi trường văn hóa có sự khác biệt khiến văn thơ Sào
Nam có khoảng cách tiếp nhận đối với tầng lớp công chúng văn học hiện nay. Điều
này có nguyên nhân một phần là do bạn đọc chưa được trang bị hệ quy chiếu thẩm
mỹ đủ để đọc, hiểu và cảm văn chương truyền thống. Nguyên nhân sâu xa hơn nữa
xuất phát từ thực tế văn học nước nhà: sự đứt gãy trong quá trình chuyển đổi hệ
hình văn học từ truyền thống đến hiện đại. Sự đứt gãy đó được thể hiện trên nhiều
bình diện như đội ngũ sáng tác văn học mới hầu như tách rời và không kế thừa

những giá trị tích cực của nền văn hóa, văn học truyền thống; ngôn ngữ văn học
truyền thống là chữ Hán, chữ Nôm không được nối dài trong hệ hình văn học
mới… Từ những biến chuyển từ nội tại bản thân văn học, công chúng văn học cũng

4

có sự giãn cách về mặt văn hóa với quá khứ nên khó tiếp nhận di sản truyền thống
của văn học. Tất cả những điều này khiến công chúng hiện đại khó lòng đọc và
hiểu được văn học truyền thống, dẫn đến tình trạng những áng văn chương được
xem là tuyệt bút của người xưa không nhận được sự đồng cảm của người đọc bây
giờ. Văn chương Phan Bội Châu là một trường hợp như vậy.
Vì Phan Bội Châu là một tác giả truyền thống nên nếu đọc văn chương của
ông với thị hiếu và nhận thức thẩm mỹ thời hiện đại sẽ không cho được kết luận
chính xác. Không thể đưa bảng giá trị cao thấp về lý tưởng thẩm mỹ, trình độ nghệ
thuật, sự tiến bộ về mặt nội dung theo cách hiểu hiện nay… để đánh giá những hiện
tượng mang tính giao thời như Phan Bội Châu. Cần có cái nhìn mang tính lịch sử xã hội
cụ thể để có thể đánh giá hết được sự nghiệp văn học của Phan Bội Châu trong tiến trình
văn học Việt Nam. Vì vậy, chúng tôi lựa chọn văn thơ Phan Bội Châu là đối tượng
nghiên cứu của luận văn để phần nào xóa nhòa khoảng cách đó, từng bước đưa văn
thơ của một tác giả văn học truyền thống đến với công chúng hiện đại rộng rãi hơn
chứ không phải bó hẹp trong khuôn khổ những người có chuyên môn hẹp.
Phan Bội Châu có số lượng tác phẩm rất lớn từ văn chương cử tử, thơ phú
chữ Hán, tiểu thuyết chương hồi, truyện ngắn, thơ ca viết bằng tiếng Việt….
Nghiên cứu từng bộ phận văn học này sẽ thấy được tầm vóc của một nhà văn
lớn trong giai đoạn giao thời. Tuy nhiên, có một tình trạng là nói đến văn thơ
Phan Bội Châu, người ta thường đề cập đến nội dung tư tưởng, tác dụng giáo
dục to lớn mà chưa chú ý đúng mức rằng văn thơ của ông là thứ văn học mới
mẻ so với văn học truyền thống của nhà Nho, nhất là văn chương thời kì ông
hoạt động cách mạng sôi nổi (1905 - 1925). Khi người nghiên cứu nhận thức
được văn chương Phan Bội Châu những năm hoạt động cách mạng có cách tân

lớn về cả nội dung lẫn hình thức thì một hệ quả khác lại xảy ra. Xuất phát từ
tình cảm đối với một nhân cách lớn, một tác giả lớn cũng như sự cách xa về mặt
cảm thụ văn học, thị hiếu thẩm mỹ nên văn chương, trong đó có thơ ca Phan
Bội Châu thời kì Ông già Bến Ngự bị xem nhẹ và tránh đề cập đến. Lúc này,

5

Phan Bội Châu chuyển hẳn sang viết văn nghệ, có những tìm tòi, đổi mới song
đã bị thời đại vượt qua. Lựa chọn nghiên cứu thơ ca Phan Bội Châu giai đoạn
này trên ba phương diện: chủ đề đề tài, thể loại và ngôn ngữ, chúng tôi hi vọng
sẽ góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề để thấy rằng mười lăm năm cuối đời của
Phan Bội Châu không phải là bỏ đi. Thơ ca giai đoạn này vẫn có ý nghĩa nhất
định trong quá trình sáng tác của Phan Bội Châu. Hơn thế nữa, mười lăm năm
ấy sẽ càng làm nổi bật tầm quan trọng của hai mươi năm trước đó của Phan Bội
Châu.
Chủ đề đề tài, thể loại và ngôn ngữ là ba trong năm tiêu chí đánh giá
mang tính lý thuyết để hình dung và mô tả một nền văn học (hai tiêu chí còn lại
là: Hệ thống những tư tưởng mang tính thẩm mỹ và quan niệm văn học chung
của cả nền văn học và Hệ thống những hình tượng văn học cơ bản). Sự thay đổi,
chuyển tiếp và chuyển hóa ba tiêu chí trên sẽ cho thấy sự chuyển đổi của hệ
hình văn học. Đặc biệt, trong những thời kì giao thời, quá độ, sự thay đổi của
những tiêu chí trên càng cần được quan tâm đặc biệt, để từ đó chúng ta nhận
thấy được sự đổi thay có tầm vóc và ý nghĩa thời đại của nền văn học. Mười
lăm năm cuối đời, Phan Bội Châu bị giam lỏng ở Huế, không còn trực tiếp tham
gia cách mạng, chỉ biết làm bạn với văn chương, xem văn chương là vũ khí
cách mạng duy nhất còn lại. Cũng trong thời gian này, văn học Việt Nam đã có
những thay đổi mạnh mẽ. Nền văn học hiện đại hình thành và phát triển nhanh
chóng với ba bộ phận: tự sự, trữ tình và kịch nói. Văn học Việt Nam được hiện
đại hóa, phát triển theo một nhịp độ rất gấp rút, nhanh chóng. Nghiên cứu thơ ca
Phan Bội Châu mười lăm năm cuối đời trên ba phương diện trên, chúng ta sẽ

nhận thấy được sự nỗ lực, cố gắng nhưng bất thành của nhà thơ gia nhập vào
đời sống văn chương lúc bấy giờ. Cũng từ đó, chúng ta có thể thấy kết cục tất
yếu của văn học nhà Nho cũng như sự đứt gãy truyền thống văn học khi hình
thành hệ hình văn học mới. Văn học hiện đại Việt Nam đã hình thành và phát

6

triển mà thiếu đi sự tham gia tích cực, chủ đạo của những tác giả lớn trong
truyền thống văn học cũ, mà Phan Bội Châu là một trong những tác giả lớn đó.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Thơ ca Phan Bội Châu thời kỳ 1925 – 1940 được tập hợp khá đầy đủ trong
sách Phan Bội Châu toàn tập, tập 8. Chương Thâu sưu tầm và biên soạn. Nxb
Thuận Hoá, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây. In lần đầu năm 1990, tái bản
năm 2001.
2.2. Nghiên cứu về thơ ca Phan Bội Châu nói chung và thời kỳ 1925 – 1940 (thời
kỳ Ông già Bến Ngự) được trình bày rải rác trong khá nhiều chuyên luận, giáo trình
như:
- Phan Bội Châu – thân thế và thơ văn 1867 – 1940. Thế Nguyên (1956)
- Giảng luận về Phan Bội Châu. Lam Giang. (1958)
- Luận đề về Phan Bội Châu. Kiêm Đạt (1959)
- Sào Nam Phan Bội Châu – con người và thi văn. Nguyễn Quang Tô (1974)
- Văn thơ Phan Bội Châu. Đặng Thai Mai (1958)
- Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 – 1930. Trần Đình Hượu, Nguyễn
Chí Dũng. (1988)
- Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại. Trần Đình Hượu. (1999)
- Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung. Trần Ngọc Vương. (1999)
- Phan Bội Châu về tác gia và tác phẩm. Chương Thâu, Trần Ngọc Vương giới
thiệu và tuyển chọn. (2003)
- Giáo trình Văn học Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỷ XX. Trần Ngọc Vương chủ

biên (2010).
Thơ ca Ông già Bến Ngự trong những công trình trên được nghiên cứu trong
trạng thái gộp chung với tổng thể văn chương Phan Bội Châu. Riêng chuyên khảo
Thơ văn Phan Bội Châu thời kì ở Huế do Trần Anh Vinh và Chương Thâu giới

7

thiệu và tuyển chọn (NXB Thuận Hóa, 1987) với đối tượng là thơ ca Ông già Bến
Ngự là cuốn sách đáng quan tâm khi tìm hiểu chủ đề này.
Bên cạnh đó, cũng có một số khóa luận tốt nghiệp có đối tượng chính là thơ
ca Phan Bội Châu thời kỳ này như: Thơ văn Phan Bội Châu 15 năm cuối đời, Ông
già bến Ngự trong mối quan hệ với sự biến đổi của thơ ca Việt Nam giai đoạn cùng
thời (Khóa luận tốt nghiệp ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn). Ngoài ra, có khá
nhiều bài viết bình giảng về những tác phẩm cụ thể mà Phan Bội Châu viết trong
những năm cuối đời như: Chân dung Cụ Sào Nam qua “Đêm trăng hỏi bóng” (Ngô
Thế Oanh), Bình giảng bài Bài ca chúc tết thanh niên của Lê Trí Viễn, Nguyễn
Đình Chú, Thử bình bài “Vào thành” của cụ Phan Bội Châu (Trinh Đường)…
Xuân Diệu trong Bút kí thơ xuân đã bình hai bài thơ xuân: Bài ca chúc tết thanh
niên và Vịnh tết của Ông già Bến Ngự. Vũ Tiến Quỳnh trong cuốn Nguyễn Thượng
Hiền, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng - tuyển chọn và trích
dẫn những bài phê bình, bình luận văn học của các nhà văn, nhà nghiên cứu của
Việt Nam cũng bình giảng khá nhiều bài thơ của Phan Bội Châu.
Với những công trình, bài viết kể trên, thơ ca Phan Bội Châu đã được nghiên
cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Kết luận của các nghiên cứu trên đều có điểm
chung ở chỗ: đánh giá cao số lượng thơ ca Ông già Bến Ngự, còn về chất lượng tác
phẩm, về tư tưởng nghệ thuật thì có nhiều sự đánh giá cao thấp khác nhau. Một số
công trình đã có hướng đi riêng vào những vấn đề như đề tài, chủ đề, hình tượng
nhân vật… trong thơ Phan Bội Châu giai đoạn này. Còn những bài bình giảng
những tác phẩm cụ thể đã khám phá được những điều hay của thơ Ông già Bến
Ngự.

Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan, tất cả những công trình trên chưa
tương xứng với sự nghiệp thi ca của Phan Bội Châu. Khá nhiều công trình nghiên
cứu ra đời sớm, mà người viết lấy chính trị là thước đo cho thơ ca nghệ thuật nên
có nhiều kết luận chưa khách quan. Đa số các bài viết đều mang tính điểm xuyết,
chưa hệ thống rõ ràng và đầy đủ những đặc điểm thơ ca Phan Bội Châu, từ đó đưa

8

ra những nhận xét mang tính tổng quát cho toàn bộ sự nghiệp thơ ca của ông những
năm cuối đời. Do đó, thơ ca Ông già Bến Ngự vẫn là đối tượng nghiên cứu cần
được đi sâu làm rõ và tìm hiểu hơn nữa. Tất cả những bài báo, công trình nghiên
cứu trên sẽ là xuất phát điểm cho đề tài nghiên cứu của chúng tôi: khảo sát và hệ
thống hóa về ba phương diện: chủ đề đề tài, thể loại và ngôn ngữ để từ đó nhận ra
những đặc điểm của thơ ca Phan Bội Châu thời kỳ này.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng chính của luận văn là nghiên cứu, khảo sát thơ ca Phan Bội Châu
dưới ba phương diện: chủ đề, đề tài, thể loại và ngôn ngữ. Từ đó, nêu lên những
mặt thành công và hạn chế của thơ Ông già Bến Ngự và xác lập vị trí của nó trong
tiến trình thơ của Phan Bội Châu nói riêng cũng như trong bối cảnh thơ ca Việt
Nam từ 1925 – 1940 nói chung.
Đề tài chỉ đặt trọng tâm nghiên cứu thơ ca Phan Bội Châu từ 1925 – 1940,
như thế có nghĩa là đối với thơ ca giai đoạn khác của ông không nằm trong đối
tượng trực tiếp của luận văn. Chúng chỉ là đối tượng liên hệ, so sánh khi cần thiết.
Về văn bản tác phẩm: luận văn dựa trên kết quả sưu tầm thơ Ông già Bến
Ngự trong bộ Phan Bội Châu toàn tập (Chương Thâu sưu tầm, biên soạn, tái bản
năm 2001). Tất cả những tác phẩm của Phan Bội Châu được trích dẫn trong luận
văn đều được dẫn từ toàn tập này. Công việc sưu tầm thêm văn bản cơ bản không
thuộc vào phạm vi luận văn này.


4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích thơ
- Phương pháp thống kê, phân loại
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp lịch sử xã hội


9

5. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần xác định một cách khoa học, cụ thể những đặc điểm cơ
bản mang dấu ấn cá nhân của thơ Phan Bội Châu thời kỳ 1925 – 1940. Ba phương
diện: chủ đề đề tài, thể toại và ngôn ngữ sẽ được chúng tôi tái hiện lại trong mối
quan hệ nội tại giữa nội dung và hình thức với mục đích làm rõ tư tưởng nghệ thuật
thơ ca Ông già Bến Ngự. Từ bộ phận thơ ca của giai đoạn văn học này, chúng tôi sẽ
làm rõ quá trình sáng tác, hay nói như nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu là quá trình
“lại giống” [18, tr. 133] của Phan Bội Châu nói riêng cũng như văn học nhà Nho
nói chung.
Luận văn góp phần khẳng định vai trò của Phan Bội Châu nói chung và thơ
ca của ông thời kỳ ở Huế nói riêng trong lịch sử văn học dưới cái nhìn khách quan.
Bên cạnh việc chỉ ra những điểm lạc hậu thì một phần cái hay, cái đẹp, những giá
trị có thật dù không nhiều trong thơ ca Ông già Bến Ngự những năm cuối đời bị
vùi lấp do cách đọc, sự gián cách về văn hóa, sự đứt gãy hệ hình văn học sẽ
được chúng tôi làm rõ trong luận văn. Đó cũng là nhiệm vụ của việc nghiên cứu
văn học trung đại nói chung khi điều chỉnh thị hiếu, nâng cao nhận thức thẩm
mỹ của người đọc hiện nay để họ có thể tiếp nhận giá trị di sản truyền thống của
dân tộc.
Thơ ca Phan Bội Châu thời kỳ này có tính điển hình cho một định hướng
hiện đại hóa của văn học Việt Nam – văn học nhà Nho nỗ lực cách tân nhưng bất
thành. Không tác giả văn học nào là nhà Nho, kể cả những nhà Nho hoạt động cách

mạng mà tiêu biểu là Phan Bội Châu cũng như nhà Nho tài tử mà tiêu biểu là Tản
Đà có thể bước qua ranh giới văn học truyền thống để tiến sang nền văn học hiện
đại. Tính quy luật của vận động văn học, của quá trình chuyển đổi hệ hình văn học
từ văn học trung đại sang văn học hiện đại và sự đứt gãy với truyền thống trong quá
trình chuyển đổi đó sẽ được người viết làm rõ trong luận văn này.



10

6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung chính
của luận văn gồm có 3 chương như sau:
Chương 1. Tổng quan về thơ ca Phan Bội Châu mười lăm năm cuối đời
1.1. Hoàn cảnh sáng tác
1.1.1. Tình hình chung về chính trị, xã hội và văn hóa Việt Nam nói chung và Huế
nói riêng từ 1925 đến 1940
1.1.2 Hoàn cảnh sống của Ông già Bến Ngự
1.2. Sơ lược về quá trình sáng tác thơ của Phan Bội Châu thời kỳ 1925 - 1940
1.3. Quan niệm sáng tác của Phan Bội Châu thời kỳ 1925 – 1940
Chương 2. Khảo sát thơ ca Phan Bội Châu mười lăm năm cuối đời qua
phương diện chủ đề - đề tài
2.1. Quan niệm về chủ đề - đề tài
2.2. Hệ thống chủ đề - đề tài và sự chuyển biến của nó trong thơ Ông già Bến Ngự
2.2.1. Đề tài về cuộc sống người dân nghèo
2.2.2. Đề tài về tình bạn bè, đồng chí
2.2.3. Đề tài thiên nhiên
2.2.4. Đề tài tâm sự riêng tư của nhà thơ
2.3. Tiểu kết
Chương 3. Khảo sát thơ ca Phan Bội Châu mười lăm năm cuối đời qua

phương diện thể loại và ngôn ngữ
3.1. Khảo sát thơ ca Phan Bội Châu thời kỳ 1925 – 1940 qua phương diện thể
loại
3.1.1. Quan niệm về thể loại, thể thơ
3.1.2. Hệ thống các thể thơ chính trong thơ ca Phan Bội Châu mười lăm năm cuối
đời
3.1.2.1. Thể thơ 4 chữ
3.1.2.2. Thể thơ lục bát

11

3.1.2.3. Thể thơ song thất lục bát
3.1.2.4. Thể tứ tuyệt
3.1.2.5. Thể thất ngôn bát cú
3.1.2.6. Hát nói
3.1.2.7. Phú
3.1.3. Tiểu kết
3.2. Khảo sát thơ ca Phan Bội Châu thời kỳ Ông già Bến Ngự qua phương
diện ngôn ngữ
3.2.1. Quan niệm về ngôn ngữ thơ
3.2.2 Ngôn ngữ thơ trong thơ ca Phan Bội Châu thời kỳ Ông già Bến Ngự
3.2.2.1. Ngôn ngữ dân tộc
3.2.2.2. Ngôn ngữ ngoại nhập
3.2.3. Tiểu kết
























12

NỘI DUNG
Chương 1. Tổng quan về thơ ca Phan Bội Châu Châu thời kỳ 1925 - 1940
1.1. Hoàn cảnh sáng tác
1.1.1. Tình hình chung về chính trị, xã hội và văn hóa Việt Nam nói chung và
Huế nói riêng từ 1925 đến 1940
Những năm 20 của thế kỉ XX, xã hội Việt Nam có những biến đổi sâu sắc về
chính trị, xã hội và văn hóa, ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống. Trong luận văn
này, chúng tôi không đi sâu vào liệt kê những sự thay đổi đó mà chỉ đưa ra những
điểm quan trọng ảnh hưởng đến đời sống văn học nghệ thuật nói chung, đến cá nhân
Phan Bội Châu nói riêng.
Phan Bội Châu bị bắt về nước đúng vào lúc trong nước cách mạng đã chuyển

sang hướng mới. Nhiệm vụ lớn nhất của dân tộc vẫn là cứu nước và duy tân, nhưng
về bản chất đã khác với thời của Phan Bội Châu – thế hệ nhà Nho chí sĩ tự nhận lấy
trọng trách lịch sử mà vốn dĩ là của giai cấp tư sản. Từ năm 1918, Nguyễn Ái Quốc
đã bước vào hành động chính trị. Trong nước, giai cấp công nhân đã giác ngộ tham
gia đấu tranh cách mạng; thanh niên trí thức đã bắt đầu làm quen với tư tưởng
Macxit. Trước năm 1925, dân tộc đã thức tỉnh bằng tấm gương duy tân của Nhật
Bản. Sau 1925, phong trào đấu tranh trong nước lấy cách mạng vô sản của nước Nga
làm tấm gương, tìm con đường giải phóng trong cuộc đấu tranh chung của giai cấp
vô sản và các dân tộc bị áp bức. Phong trào dân tộc, dân chủ trong nước đã có những
biến đổi về chất và người dẫn đường không phải là những nhà Nho chí sĩ, cũng
không phải là tầng lớp tư sản mà là giai cấp vô sản.
Cùng với sự gia tăng đầu tư khai thác thuộc địa sau chiến tranh của thực dân
Pháp, đời sống kinh tế và xã hội nước ta có những chuyển biến mạnh mẽ. Một nền
kinh tế với kiến trúc đa ngành đã xuất hiện. Một hệ thống đô thị đã hình thành và
phát triển. Một nền giáo dục Pháp – Việt, sau nhiều lần cải cách và tìm kiếm những
mô hình hợp lý, dĩ nhiên trong khuôn khổ một xã hội thuộc địa, đã phát huy tác
dụng. Các cơ sở in ấn, xuất bản đã xuất hiện ở các thành phố lớn. Hàng loạt những

13

tờ báo, tạp chí chữ Pháp và Quốc ngữ đã ra đời. Đó chính là những tiền đề để tiếp
nhận những trào lưu tư tưởng mới, những thành tựu khoa học – kỹ thuật, những
loại hình văn học – nghệ thuật phương Tây tràn vào. Chính vì vậy, những năm 20,
30 của thế kỉ XX là giai đoạn giao thoa, đan xen giữa các giá trị văn hoá truyền
thống và văn hoá ngoại nhập, giữa nền văn hoá thực dân và nền văn hoá mới, văn
hoá tiến bộ, cách mạng. Chính quyền thực dân sớm có ý thức sử dụng văn hoá như
một thứ vũ khí được quảng bá cho tư tưởng "Pháp – Việt đề huề", "Pháp - Nam hợp
tác", tạo ra một bầu không khí chính trị ổn định có lợi cho việc gọi vốn đầu tư vào
Đông Dương. Sự thay đổi trong đường lối cai trị của thực dân Pháp kéo theo sự
thay đổi của các phương tiện truyền thông. Pháp đã cho phép Phạm Quỳnh ra tờ

Nam Phong tạp chí 1917) và cho lập Hội Khai trí Tiến Đức (1919) để tập hợp lực
lượng trong giới thượng lưu. Trên các phương tiện thông tin đại chúng lúc đó xuất
hiện những bài viết của các học giả thân Pháp tán dương chủ trương "Pháp - Việt
đề huề", trình bày các chủ thuyết cai trị như thuyết "Trực trị" và thuyết "Quân chủ
lập hiến". Cùng với những việc trên, báo chí thực dân đã bắt đầu tung ra những bài
viết bôi nhọ chủ nghĩa cộng sản, lãnh tụ Lênin và cách mạng tháng Mười Nga.
Đối lập với nền văn hoá thực dân, văn hoá nô dịch đó là nền văn hoá
mới tiến bộ, cách mạng. Khởi đầu là dòng báo chí tiến bộ với tờ báo La Cloche
fêlée (Chuông rạn) và L’Annam (Nước Nam) đều ra đời cuối năm 1923 của Nguyễn
An Ninh và Phan Văn Trường. Tiếp đó, xuất hiện các Thư xã (Nhà xuất bản) Sài
Gòn, Huế, Hà Nội, nhờ đó mà các tác phẩm văn học mới định hình dần, được giới
thiệu với đông đảo công chúng và ngày càng được được người dân thành thị đón
nhận. Văn học hiện đại hình thành theo quỹ đạo văn học thế giới với ba bộ phận: tự
sự, trữ tình và kịch. Năm 1922 vở kịch nói đầu tiên Chén thuốc độc của Vũ Đình
Long được công diễn thành công tại Nhà hát lớn Hà Nội. Phong trào Thơ Mới hình
thành (năm 1932 với bài thơ Tình già của Phan Khôi). Còn văn xuôi cũng đã có
những thành tựu đáng ghi nhận mà tiểu thuyết Tố Tâm (1925) của Hoàng Ngọc
Phách là dấu ấn quan trọng. Giữa bộn bề đời sống văn hóa đó, Phan Bội Châu gia

14

nhập đời sống văn học nghệ thuật công khai ở thành thị, tham gia viết văn làm thơ
đăng báo hợp pháp.
Một điều ảnh hưởng khá lớn đến văn chương Phan Bội Châu thời gian này là
môi trường sống tại Huế. Thừa Thiên Huế là nơi tập trung cao nhất sự câu kết giữa
thực dân Pháp và phong kiến Nam triều. Sau cuộc khởi nghĩa năm 1916 ở Huế thất
bại, các thế lực thống trị càng củng cố bộ máy cai trị chặt chẽ hơn. Vua Duy Tân -
vị vua yêu nước tham gia cuộc khởi nghĩa Thái Phiên - Trần Cao Vân bị đưa đi đày
tại đảo Réunion. Tiếp đó, thực dân Pháp lập những ông vua bù nhìn lên ngôi: Khải
Định (1916 - 1925); Bảo Đại (1926 - 1945). Thực dân Pháp tiến hành thâu tóm

quyền lực, sáp nhập ngân sách Nam triều vào ngân sách Trung kỳ của Pháp, Khâm
sứ Pháp chủ tọa các cuộc họp của Hội đồng Thượng thư. Như vậy quyền hành đã
nằm hoàn toàn trong tay Pháp, biến vua quan nhà Nguyễn thành công cụ thừa hành
của chúng.
Khi Phan Bội Châu bị bắt về an trí tại Huế, Thừa Thiên Huế bắt đầu tiếp thu
con đường cứu nước theo cách mạng vô sản, tạo nên những chuyển biến mới trong
đấu tranh. Ở Thừa Thiên Huế xuất hiện nhiều tác phẩm của Mác, Ăng ghen như:
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Tư bản luận cùng nhiều bài viết ca ngợi thắng lợi
của cách mạng tháng Mười Nga. Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài,
cùng với những tác phẩm của Người như: Bản án chế độ thực dân Pháp, báo La
Paria cũng tác động rất sâu sắc tới nhận thức tư tưởng của thanh niên trí thức Huế,
hướng dẫn họ tham gia vào các hoạt động cách mạng.
Phong trào yêu nước của nhân dân Thừa Thiên Huế diễn ra trên nhiều mặt,
đặc biệt sôi nổi trên lĩnh vực báo chí và nghị trường. Báo chí cách mạng xuất bản
công khai đã ra sức tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ trương đường lối,
phương hướng hoạt động của Đảng. Trong những năm 1927 - 1938, ở Huế có
khoảng 20 tờ báo lần lượt ra đời, trong số đó, tờ Nhành lúa, Sông Hương tục bản,
Dân và Tiếng Dân đóng vai trò quan trọng trong cuộc vận động dân chủ ở đây. Còn
trong Viện dân biểu Trung Kỳ đã có đại biểu của nhân dân như Huỳnh Thúc

15

Kháng, Nguyễn Đăng Quế mặc dù quyền lực bị hạn chế nhưng đã trở thành diễn
đàn đấu tranh giữa lực lượng yêu nước tiến bộ chống lại thực dân phong kiến.
Sau cao trào cách mạng 1930 - 1931, cao trào cách mạng 1936 - 1939 được coi
là cuộc tổng diễn tập thứ hai của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản trước khi tiến hành Tổng khởi nghĩa. Giữa những ngày Huế sục sôi, khi
phong trào giải phóng dân tộc đã đi theo một phương hướng mới, gắn với cách mạng
xã hội chủ nghĩa, do giai cấp vô sản lãnh đạo, Phan Bội Châu càng ngày càng trở nên
xa lạ với đời sống cách mạng. Không phải Phan Bội Châu không thích chủ nghĩa xã

hội mà ngược lại. Nhưng ông quan niệm chủ nghĩa xã hội một cách khác và không
hiểu được phong trào đấu tranh cách mạng của công nông. Phong trào chính trị càng
phát triển thì Phan Bội Châu càng trở nên bỡ ngỡ, cô độc. Điều này sẽ được phản ánh
một cách rõ rệt trong những sáng tác của Phan Bội Châu giai đoạn cuối đời: những
ngỡ ngàng, lo lắng, những cảm giác lạc lõng, cô độc… Sống giữa không khí cách
mạng sôi sục nhưng không được trực tiếp tham gia hoạt động khiến ông bị thời đại
vượt qua. Không những vậy, từ chỗ bị lạc hậu về đường lối hoạt động cách mạng,
Phan Bội Châu cũng bị vượt qua trên lĩnh vực văn học nghệ thuật.

1.1.2. Hoàn cảnh sống của Ông già Bến Ngự
Ngày 30 tháng 6 năm 1925, Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt cóc tại
Thượng Hải và giải về nước xử án chung thân, mặc dù trước đó (1912), ông đã bị
kết án tử hình vắng mặt. Trước phong trào đấu tranh của nhân dân cả nước đòi thả
Phan Bội Châu, ông được về an trí tại Bến Ngự - Huế. Phan Bội Châu về sống tại
dốc Bến Ngự, gần chùa Từ Đàm, trong ngôi nhà ba gian, cột gỗ lợp lá, vách trát
đất. Ngôi nhà được dựng lên từ tiền đồng bào cả nước gửi biếu. Vì sống ở ngôi nhà
gần dốc Bến Ngự, nên nhân dân thường gọi ông là "Ông già Bến Ngự".
Là người tù bị giam lỏng, ông sống dựa vào sự giúp đỡ của đồng bào và bạn
bè, trong hoàn cảnh bị quản thúc:

16

Đêm nghe con Vá
1
chào ông trộm
Ngày bảo thằng Nghi
2
kể chuyện tù
Ông tự đánh giá đời mình là:
Trời đất may còn thân sống sót

Tháng ngày khuây khỏa lũ đầu xanh
(Bài ca chúc tết thanh niên)
nghĩa là sống đó mà vô nghĩa, không có ích. Khi viết Phan Bội Châu niên biểu, ông
cũng không viết về mười lăm năm cuối đời vì cho rằng đó là đời bỏ đi, không nên
ghi lại.
Thời gian đầu, ông vẫn còn có những hoạt động gắn liền với quần chúng
cách mạng, nhất là tầng lớp thanh niên học sinh như diễn thuyết tại trường Quốc
học Huế tháng 1 và tháng 3 năm 1926, tại trường Nữ học Đồng Khánh Huế tháng 3
năm 1926, nói chuyện với Hội Nữ công Huế tháng 6 năm 1926… Nhưng rồi những
hoạt động như vậy cũng dần bị hạn chế và chấm dứt dưới sự kiểm soát của thực
dân Pháp và tay sai. Trong hoàn cảnh sống bị giám sát nghiêm ngặt, ông dạy vài
đứa học trò nhỏ, viết một số thơ phú, truyện ngắn gửi đăng các báo, nhiều nhất là
báo Tiếng Dân. Ông cũng viết biên khảo: Khổng học đăng, Dịch kinh chú giải,
Phật học đăng và chép lịch sử hoạt động của mình thành tập Phan Bội Châu niên
biểu…
Trở về với cuộc sống của một người “bình thường”, làm bạn với trăng sao,
sông nước, cách xa với hoạt động cách mạng, cách xa với công cuộc đấu tranh của
đất nước, chỉ còn một phương tiện duy nhất để Phan Bội Châu giữ mối liên hệ với
người dân, cổ động cho phong trào yêu nước, cho chủ nghĩa xã hội; bày tỏ thái độ,
tâm tư tình cảm của mình. Phương tiện, công cụ duy nhất đó là văn chương. Điều
này lí giải tại sao khối lượng trước tác của Phan Bội Châu thời kì này lại tăng đột
biến: chiếm gần 5 trên 10 tập trong Phan Bội Châu toàn tập (Chương Thâu sưu tầm

1
Con Vá: Tên con chó cụ Phan nuôi trong nhà, suốt đêm sủa vì bọn mật thát luôn luôn rình mò nơi cụ ở.
2
Phan Nghi: Con trai thứ hai của cụ Phan vừa ở tù Lao Bảo về, sống cùng với cụ. Lúc này, thực dân Pháp tăng
cường khủng bố, bắt bớ.

17


và biên soạn. NXB Thuận Hóa, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2001),
tức gần 1/2 khối lượng toàn bộ trước tác của ông trong khi thời gian sáng tác chỉ
chiếm gần 1/5 cuộc đời.
Với hoàn cảnh cô đơn, già nua, bệnh tật, nghèo đói, lại đối diện với trời nước
sông Hương đất Huế hữu tình phù hợp với cảm hứng thơ ca, dễ hiểu khi Phan Bội
Châu tìm đến thơ ca như người bạn thân thiết để tìm sự đồng cảm. Dường như đã
thành quy luật của văn chương nghệ thuật, thi ca thường gắn với sự cô đơn, nỗi
buồn. Những nhà thơ nổi tiếng với những bài thơ hay nhất thường gắn nhiều hơn
với nỗi đau, nỗi buồn của tác giả, của con người. Và Phan Bội Châu cũng vậy. Khi
con người hướng nội, độc thoại nhiều hơn là đối thoại, thì thơ ca là cách thức
thường được lựa chọn để giãi bày nỗi lòng, tìm tiếng nói tri âm. Ông già Bến Ngự
thường thả một chiếc thuyền trên sông Hương tìm đến trăng sao, sông nước và làm
thơ.

1.2. Sơ lược về quá trình sáng tác thơ ca của Phan Bội Châu mười lăm
năm cuối đời
Tìm hiểu quá trình sáng tác của Phan Bội Châu, cần thiết đặt ông trong dòng
văn chương yêu nước do nhà Nho chí sĩ sáng tác trong ba thập niên đầu thế kỉ XX
Những năm đầu thế kỉ XX chứng kiến sự xuất hiện động đảo của các nhà Nho chí
sĩ hoạt động theo tinh thần duy tân và cách mạng xã hội. Văn chương yêu nước và
cách mạng của nhà Nho chí sĩ trở thành bộ phận áp đảo cả về số lượng lẫn tầm ảnh
hưởng trong khoảng mười năm đầu tiên của thế kỉ mà Phan Bội Châu có thể xem là
đại diện tiêu biểu, tập hợp xung quanh mình những ngòi bút xông xáo, xem văn
chương là vũ khí tuyên truyền cách mạng. Sau những hoạt động sôi nổi cả trong lẫn
ngoài nước, từ cuối năm 1908 trở đi, phong trào yêu nước do các nhà Nho chí sĩ
lãnh đạo đi vào thoái trào. Nhiều yếu nhân của phong trào bị tù đầy, hành quyết.
Một số nhà yêu nước hoạt động ở nước ngoài tiếp tục tìm kiếm những con đường
cứu nước (điển hình là Phan Bội Châu) nhưng đều thất bại. Văn chương yêu nước


18

do nhà Nho sáng tác trong giai đoạn này phân hoá thành hai bộ phận: văn chương
của các nhà chí sĩ trong tù và văn chương ở hải ngoại. Nội dung chủ yếu của văn
chương yêu nước trong giai đoạn này là những tâm sự của nhà cách mạng trong tù
ngục và những ký ức về những người đồng chí anh hùng.
Cho đến thời điểm năm 1925 khi Phan Bội Châu, dòng văn học yêu nước của
các nhà Nho chí sĩ đã đi đến tàn cục. Những nhân vật tiêu biểu của phong trào lần
lượt qua đời: Nguyễn Thượng Hiền (1925), Phan Châu Trinh (1926), Ngô Đức Kế
(1929)… Không ai là người đồng thời với Phan Bội Châu, và trong những bạn bè,
đồng chí của Phan, gồm cả những tên tuổi lừng lẫy như Nguyễn Thượng Hiền,
Phan Châu Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng có một hành trình viết dài
như thế, và dồi dào như thế trong đời hoạt động của mình. Ông là người đã kéo dài
dòng văn học yêu nước của nhà Nho, nỗ lực để lấy lại vị thế của nó trên văn đàn
nhưng bất thành. Điều này dẫn đến tình trạng mà nhà nghiên cứu Trần Ngọc
Vương đã chỉ rõ: “Từ sau năm 1908, đã xuất hiện một khoảng chân không
(vacuum) trong đời sống tinh thần nói chung, đời sống văn học dân tộc nói riêng…
Khoảng chân không của sáng tạo văn học xuất hiện khi đội ngũ tác giả của hệ hình
văn học truyền thống đã có dấu hiệu kiệt lực, mà đội ngũ tác giả của hệ hình văn
học mới, nói một cách chặt chẽ, chưa xuất hiện một cách thực thụ” [43, tr. 298,
300]. Quá trình sáng tác kéo dài của Phan Bội Châu – một tác giả lớn của văn học
truyền thống có vai trò quan trọng trong việc duy trì hào quang văn học cũ trong
khi chờ đợi văn học mới xuất hiện. Mười lăm năm cuối đời của Ông già Bến Ngự
có vai trò quan trọng không chỉ đối với dòng văn học yêu nước của các nhà Nho
chí sĩ mà còn đối với cả lịch trình phát triển văn học dân tộc. Nó góp phần lấp đầy
“khoảng chân không” đó, với tất cả những điểm được và chưa được.
Có thể chia giai đoạn sáng tác này của Phan Bội Châu thành hai thời kỳ nhỏ:
thời kỳ 1925 – 1932 và 1932 – 1940. Sau khi bị bắt, Phan Bội Châu vẫn còn ý định
và ôm ấp khát vọng hành động cứu nước. Nội dung văn thơ của cụ giai đoạn này vẫn
tiếp tục mạch nguồn từ trước đó như thể hiện nỗi khổ của đất nước khi bị thực dân


19

chiếm đóng, trách nhiệm của người quốc dân đối với đất nước, đoàn kết dân tộc, ca
ngợi chủ nghĩa xã hội , đồng thời bộc lộ lòng yêu nước, tinh thần dân tộc của mình.
Thời gian này, ông viết nhiều thơ ca, văn vần bằng tiếng Việt như: Nữ quốc dân tu
tri, Nam quốc dân tu tri, Luân lý vấn đáp, Cao đẳng quốc dân, Bài hát chữ Cần, Bài
hát chữ Kiệm, Bài hát chữ Nhân ái, Thuốc chữa dân nghèo… Quãng thời gian này,
sáng tác thơ văn của Phan Bội Châu vẫn được đông đảo công chúng đón nhận. Đặc
biệt, thông qua kênh báo chí, sáng tác của ông có sức lan tỏa lớn, chưa bị lạc hậu,
vượt qua Lúc này, Thơ Mới mới chỉ manh nha, chưa tạo được dấu ấn. Những người
nắm giữ vị trí quan trọng trên văn đàn là những tác giả cựu học như Phan Bội Châu
và Tản Đà.
Nhưng sau năm 1932, mọi chuyện đã khác. Văn học hiện đại nhanh chóng
trưởng thành với Thơ Mới, tiểu thuyết và kịch nói theo mô hình phương Tây. Những
nỗ lực cách tân cuối cùng của giới cựu học mà tiêu biểu là Phan Bội Châu và Tản Đà
không thể kéo dài hào quang của văn học truyền thống. Văn học nhà Nho không
thích nghi được với sự thay đổi thời cuộc để lấy lại vị trí dẫn đầu. Công chúng văn
học không còn mặn mà với sáng tác của hai ông. Những năm cuối đời của Tản Đà
hiu hắt và buồn thảm khi ông phải dịch thơ, dạy làm thơ, đoán số Hà Lạc để sống
qua ngày. Còn Phan Bội Châu những năm này chuyên viết biên khảo về Nho giáo, về
Phật giáo. Thơ ca những năm cuối đời này chủ yếu thể hiện con người đạo đức Nho
gia cô độc, bi quan, thất vọng và chán nản.
Như đã nói, khối lượng sáng tác của Phan Bội Châu những năm cuối đời rất
lớn, bao gồm tác phẩm trên nhiều lĩnh vực như sáng tác văn chương, biên khảo…
Trong Phan Bội Châu toàn tập (Chương Thâu sưu tầm và biên soạn), giai đoạn này
chiếm 5 tập trên 10 tập trước tác, gồm có:
- Tập 6: Chuyên tập “Tự truyện”, gồm Ngục trung thư, Dư ngu sám, Phan Bội
Châu niên biểu. Trong tập 6, chỉ có Phan Bội Châu niên biểu được sáng tác giai
đoạn này.



20

- Tập 7: Văn xuôi 1925 – 1940, gồm:
1. Lời cãi trước Tòa đề hình. Tuyên ngôn thông cáo với toàn quốc
2. Các bài diễn thuyết và đáp từ
3. Cao đẳng quốc dân
4. Luân lí vấn đáp (Lời hỏi thanh niên)
5. Vấn đề phụ nữ
6. Vấn đề Giáo dục và Giá trị văn chương
7. Xã hội chủ nghĩa
8. Nhân sinh triết học
9. Chủng diệt dự ngôn
10. 15 truyện ký
11. 48 bài báo
- Tập 8: Văn vần, thơ ca các loại (1925 - 1940):
1. Nam quốc dân tu tri
2. Nữ quốc dân tu tri
3. Thuốc hoàn hồn (Gia huấn ca)
4. Thuốc chữa bệnh dân nghèo
5. Việt nam quốc bình diễn ca
6. Thơ Nôm các loại: gần 700 bài
7. Thơ chữ Hán: 20 bài
8. Phú Nôm: 6 bài
9. Văn tế: 27 bài
10. Biểu – bia ký: 11 bài
11. Câu đối đề từ:
Câu đối chữ Hán: 38 đôi
Câu đối chữ Nôm 23: đôi

Đề từ 2 câu


21

- Tập 9: Chu dịch quốc văn diễn giải
- Tập 10: Khổng học đăng
Thơ ca các loại giai đoạn này được tập hợp khá đầy đủ trong tập 8. Chỉ tính
riêng thơ ca nghệ thuật, thời kì này Phan Bội Châu sáng tác khoảng 700 bài, tính
trung bình mỗi năm nhà thơ sáng tác 47 bài. So với giai đoạn trước 1925, đây là sự
đột biến về mặt số lượng. Giai đoạn hoạt động cách mạng sôi nổi, Phan Bội Châu
có thiên hướng sáng tác văn xuôi hơn thơ ca. Tổng số bài thơ các loại mà ông sáng
tác trước khi về Huế an trí ước tính chỉ khoảng 100 bài. Điều này một phần xuất
phát từ cá tính và thiên hướng sáng tạo của người nghệ sĩ, một phần gắn bó mật
thiết với quá trình hoạt động cách mạng khi người nghệ sĩ đồng thời là nhà cách
mạng có ý thức thay đổi phương thức sáng tác văn học một cách năng động, sáng
tạo. Dễ nhận thấy điểm chung giữa Phan Bội Châu và Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh
về vấn đề này. Nguyễn Trãi trong kháng chiến chống quân Minh xâm lược chủ yếu
viết văn chính luận. Ông viết thơ ca nhiều hơn khi về Côn Sơn ở ẩn với tâm sự
buồn đau. Nguyễn Ái Quốc cũng vậy. Những năm 20 của thế kỉ XX, do yêu cầu
cách mạng, Người viết báo, truyện ngắn, kịch là chủ yếu. Chỉ khi bị Tưởng Giới
Thạch bắt giam, số lượng thơ ca tăng lên rất nhiều với tập Nhật ký trong tù. Với
Phan Bội Châu, khi không còn trực tiếp gắn bó với hoạt động cách mạng, ông
chuyển dần sang viết văn nghệ, đặc biệt là thơ ca. Trước đó, khi ra tù ở Quảng
Đông, Phan Bội Châu cũng đã có một thời gian chuyên viết văn chương nghệ thuật,
kiếm kế sinh nhai bằng nghề “bán chữ”, viết bài gửi đăng các báo Trung Quốc,
Đông Á tân văn ở Bắc Kinh, Binh sự tạp chí ở Hàng Châu, làm biên tập viên cho
Binh sự tạp chí. Khi bị giam lỏng ở Bến Ngự, không có hoàn cảnh để hoạt động
chính trị, dần dần xa lạ với phong trào cách mạng đã đi theo hướng mới ở trong
nước, ông làm nhiều thơ, phú, văn tế và viết truyện ngắn gửi đăng báo, chuyên tâm

viết văn nghệ. Trên báo Tiếng Dân, hầu như tháng nào cũng có thơ ông, có lúc
đăng hàng chục bài vào một số. Khối lượng tác phẩm lớn như vậy không chỉ cho
thấy sức sáng tạo lớn của cụ mà còn thể hiện tâm sự, tấm lòng không thể giãi bày

22

được với ai ngoài gửi gắm trong văn chương, tìm niềm vui trong công việc biên
khảo của Ông già bến Ngự. Tuy nhiên, lúc này vị trí mà Phan Bội Châu có được
trên văn đàn không còn được như trước, cho dù ông đã tham gia hoàn toàn vào đời
sống văn học hợp pháp, không còn tình trạng văn thơ viết trong tù, lưu vong, gặp
khó khăn trong việc truyền bá và phổ biến.

1.3. Quan niệm văn học của Phan Bội Châu mười lăm năm cuối đời
Phan Bội Châu là nhà cách mạng luôn có những thay đổi trong đường lối và
cách thức hoạt động tùy theo tình hình cách mạng. Tuy nhiên, khác với hoạt động
cách mạng có nhiều thay đổi, quan niệm văn học của ông lại có sự thống nhất từ
trước đến sau, với cốt lõi là quan niệm văn chương của Nho gia. Tìm hiểu quan
niệm văn học của Phan Bội Châu trong mười lăm năm cuối đời sẽ cho chúng ta cái
nhìn mang tính định hướng để nhìn nhận và đánh giá chính xác thơ ca của ông
trong giai đoạn này.
Trước hết, cần phải nói rằng: Phan Bội Châu cũng như các nhà Nho đề cao
tinh thần “văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ ngôn chí”. “Ham mê đến sùng bài văn chương
nghệ thuật, nhìn ra trong đó khả năng to lớn làm xúc động cải tạo con người, dành
cho nó một vị trí đặc biệt cao quý và giao cho nó những chức năng vinh dự, Nho
giáo xác định văn học nghệ thuật là phương tiện giáo hóa chính tâm, chế dục, là
công cụ chính trị động viên, tổ chức xã hội nhằm biến thành hiện thực hài hòa của
Trời, sự trật tự của Đất” [7, tr. 32]. Ở Phan Bội Châu mục đích hoạt động chính trị
và quan niệm văn chương giáo huấn vị đời chi phối khá chặt chẽ tư tưởng khi cầm
bút. Trước năm 1925, mặc dù là người rất giỏi văn chương cử tử, Phan Bội Châu
kịch liệt phản đối loại văn học này, đồng thời, ông tích cực đổi mới các thể loại văn

học truyền thống, đem lại cho nó những nội dung rất mới, hay nói chính xác hơn là
những chức năng mới: tuyên truyền chính trị, cổ vũ lòng yêu nước, cổ động, tập
hợp lực lượng… Một mặt, Phan Bội Châu phủ nhận văn chương khoa cử với tính
chất chính thống của nó; một mặt Phan Bội Châu vẫn đề cao và tôn thờ tinh thần

23

“văn dĩ tải đạo” trong sáng tác văn chương của Nho gia. Bộ phận văn học ngoài
văn chương khoa cử trong thời gian này cho thấy điều đó rất rõ. Tuy nhiên, về cơ
bản, quan niệm văn học của Phan Bội Châu vẫn là quan niệm văn học của những
nhà Nho, những đổi mới văn chương của ông không dựa trên cơ sở nhận thức lại
quan niệm văn học. Do vậy, đó là sự đổi mới không triệt để, không hòa nhập được
với tiến trình hiện đại hóa của văn học dân tộc.
Mười lăm năm cuối đời, việc quay trở lại với quan niệm văn học Nho gia thể
hiện càng rõ nét, khi Phan Bội Châu bị cắt đứt hẳn với những hoạt động cách mạng
và không theo kịp những vận động của đời sống – những động lực khiến ông đã có
những thay đổi trong văn chương trước kia. Phan Bội Châu trở lại sáng tác văn học
theo những thể loại, chủ đề, phương thức thể hiện hiện quen thuộc của văn chương
Nho giáo, và vì thế ông càng trở nên lạc hậu so với thời đại. Năm 1932, trên báo
Phụ nữ tân văn Phan Bội Châu đăng tin mở thi đàn Mộng Du thi xã với mục đích:
“Bà con ai dốt hơn tôi, muốn học làm thi, bằng lòng bảo tôi dạy, vô luận hạng
người nào, miễn có cao hứng muốn học làm thi, thì không cần giáp mặt tôi, cũng
không cần cho tôi biết họ tên quê quán làm gì cả, chỉ viết thư cho tôi biết cái ý
muốn học làm thi, hoặc là đăng báo gửi cho tôi số ấy, hoặc đưa thi tới bảo tôi
chấm, tôi xin hết lòng hoan nghênh… Nay, tôi viết một bài thi làm mẫu như sau
này, luôn thể cũng bày giải một vài cách về lối làm thi, gọi là mối rao hàng, xin bà
con xem thử có vừa mắt hay không”… Lối thơ mà Phan Bội Châu cổ vũ và khuyến
khích mọi người là lối thơ cũ, viết tuân theo quy tắc, niêm luật cụ thể mà trong bài
khai trương Mộng Du thi xã, Phan Bội Châu cũng đã nêu ra. Mộng Du thi xã được
khai trương nhằm tập hợp những người say mê và muốn làm văn chương theo kiểu

cũ. Tất nhiên, trong buổi giao thời cũ mới, Mộng Du thi xã vẫn nhận được rất nhiều
sự ưu ái và tán thành, hưởng ứng của bạn đọc. Một phần vì sự ngưỡng mộ đối với
cá nhân Phan Bội Châu. Mặt khác, cũng không thiếu những người vẫn đang say mê
với thơ cũ – bộ phận văn học đang bị phủ định dần.

24

Mộng Du thi xã là xu thế đi ngược sự phát triển của văn học, bởi cũng năm
1932, cũng trên báo Phụ nữ tân văn, Phan Khôi viết bài Một lối thơ mới trình
chánh giữa làng thơ. Trong bài này, Phan Khôi đưa ra một cách viết thơ không bị
gò bó, rập khuôn: “Đem ý thật có trong tâm khảm ta ra bằng những câu, có vấn đề
mà không phải bó buộc bởi những niêm luật gì hết”. Ngay chính bản thân Phan Bội
Châu cũng nhận thấy sự thất bại của Mộng Du thi xã. Trong bài trả lời phỏng vấn
báo Đông Tây số 138 ra ngày 9 – 1 – 1932, Phan Bội Châu tự nhận: “Tôi về nước,
ngày tháng vô liêu, không biết lấy chi giải muộn cũng tưởng vui chơi trong xóm
văn chương, nào có cầu ai học. Những người gửi thư cho tôi chấm, tôi đã dặn trước
không cần phải đề tính danh hay địa điểm chi cả, ngày nay xảy việc lợi dụng, thật
tôi không ngờ tới. Những điều tiên sinh nói, tôi xin bái phục, thi xã Mộng Du sẽ
khóa kín với đời, mà thú ngâm vịnh từ nay tôi lại một mình một bóng vậy”. Khát
vọng tìm người cùng chí hướng thơ văn của cụ thất bại. Khát vọng hướng văn
chương tới đông đảo quần chúng cũng không thành. Mộng Du thi xã bị phủ nhận
dần trong đời sống văn học.
Thơ Mới xuất hiện, không như Tản Đà phản ứng khá mạnh: Đờn là đờn/ Thơ
là thơ/ Thơ thời còn có chữ, đờn có tơ/ Nếu không phá cách, vứt điệu luật/ Khó cho
thiên hạ đến bao giờ thì Phan Bội Châu không có phản ứng quyết liệt, mặc dù ông
nhận thấy được vị trí của mình trên văn đàn đã không còn như trước, thậm chí thấy
sốc khi văn chương đã khác. Trong cuộc tranh luận thơ Mới – thơ Cũ, Phan Bội
Châu còn viết bài Lối thi từ mới đăng trên Văn học tuần san số 2 ngày 1 - 10 –
1933, cổ vũ cho lối viết mới và cũng cho đăng ba bài thơ cụ thử làm theo lối mới
(Uống rượu dưới trăng, Khóc hào phú, Khóc bạn trẻ). Dường như sự kiện này cho

thấy Phan Bội Châu đã tự phủ định mình? Năm trước vừa khai trương Mộng Du thi
xã để tập hợp những người viết văn chương theo lối cổ, năm sau lại cổ vũ cho lối
viết mới. Song, nhìn nhận một cách khách quan, điều đó thể hiện quá trình tự nỗ
lực để cách tân văn học, theo kịp với sự phát triển của đời sống văn học của Phan
Bội Châu. Nó không phải là một sự phủ định lại chính mình. Cần phải ghi nhận nỗ

25

lực đó của Phan Bội Châu, điều mà không phải nhà nho chí sỹ nào cũng làm được
trong hoàn cảnh mới. Thất bại trên con đường làm chính trị, nay thêm cả sự thất bại
trên con đường văn chương - mặt trận mà Phan Bội Châu từng được ngợi ca là
“người hay chữ nhất nước Nam”, tay hiệt kiệt trong trường văn trận bút, đó thực sự
là bi kịch của một vĩ nhân. Tấm lòng vẫn còn tha thiết với đời nhưng không có
nhiều người đồng cảm và thấu hiểu, bị lịch sử vượt qua, đó thực sự là một bi kịch.
Thế nhưng, cổ vũ cho lối thi từ mới là một chuyện còn viết thi từ theo lối mới lại là
một chuyện khác. Chính quan niệm văn học của nhà Nho là cái ngưỡng ngăn cản
đổi mới để nhà Nho có thể hiện đại hóa văn học. Đặt ba bài thơ nói trên bên cạnh
một số bài Thơ Mới có hình thức tương tự, ta sẽ thấy những bài thơ mà chính Phan
Bội Châu cho là lối thi từ mới lại khá cũ. Tại sao thơ Phan Bội Châu mười lăm năm
cuối đời cũ và cũ như thế nào so với Thơ Mới, chúng tôi sẽ làm rõ hơn trong những
phần tiếp theo của luận văn.
Những năm cuối đời, Phan Bội Châu hoạt động văn nghệ khá nhiều, như một
nhà văn nghệ thực thụ. Ông viết báo, viết tựa, bạt cho nhiều quyển sách, tham gia
vào những cuộc tranh luận về những vấn đề về Truyện Kiều, về thơ Cũ – thơ Mới.
Nhưng chính trong những lần tham gia vào những cuộc tranh luận như vậy, quan
niệm văn học của Phan Bội Châu lại càng thể hiện rõ sự trở về với quan niệm văn
học Nho gia. Trong cuộc tranh luận về Truyện Kiều, Phan Bội Châu cho rằng: “Coi
mà không hiểu, thì chỉ biết tác giả thuật chuyện một người con gái vì gia cảnh lâm
vào chốn thanh lâu ô uế. Rồi những đoạn hay như khẩu khí anh hùng tự lập Từ Hải
thì không lưu ý, mà chỉ ham đọc những đoạn như Kim Kiều tình tự, Thúc Kiều ái

ân. Đọc đi đọc lại cho thuộc lòng đặng sau này có đề thơ lá thắm, tình tự với ai thì
cứ việc bắt chước… Cái hại ở đó chớ ở đâu nữa” (Trả lời phỏng vấn nhà báo Yên
Sơn tại Huế về Truyện Kiều năm 1926. Theo bài đăng lại trên báo Trung Lập, số 8
– 3 – 1931). Nghĩa là quan niệm văn chương của Phan Bội Châu trở về với văn
chương đề cao đạo lý, phân biệt văn chương chính thống và văn chơi, văn mua vui,
đồng quan điểm với Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế – những nhà nho chí sĩ, trở

×