Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SKKN phương pháp dạy học tác phẩm trữ tình ở THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.9 KB, 26 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, trước khi đến trường các em đã được tiếp xúc với văn
chương qua lời ru của bà, của mẹ. ngay từ lúc lọt lòng mẹ, các em đã được nghe
những điệu hát ru dân ca mượt mà đằm thắm, lớn lên chút nữa các em lại được
thưởng thức những giai điệu quê hương qua đài, tivi, qua truyện tranh, sân khấu,
xem phim qua các nghệ thuật ấy các em đã tiếp xúc với văn chương. Mỗi em ở
mức độ khác nhau, đã phân biệt được một cách đại thể cái tốt, cái xấu, cái hay cái
dở đó là những cảm xúc hình thành “như một năng lực bẩm sinh, hồn nhiên nhưng
rất mạnh, rất dai dẳng và lâu bền, đúng hoặc sai cũng đều như vậy”.
Khi đến trường các em được tiếp xúc với văn chương qua môn học Tiếng Việt và
tập đọc ( ở Tiểu học). Lên THCS các em mới được học văn chương với tư cách là
môn học. Các em thực sự đối diện với tác phẩm văn chương qua hình tượng nghệ
thuật một cách có hướng dẫn và khi đó những cảm xúc thẩm mỹ của các em mới
thực sự được và cần phải được uốn nắn, sửa chữa và bồi dưỡng nâng lên thành năng
lực cảm thụ thẩm mỹ đúng đắn. song trong thực tế tác phẩm văn chương lại được
phân chia thành nhiều loại khác nhau. hiện nay, chương trình và sgk mới đưa ra sáu
kiểu văn bản: tự sự, miêu tả, biểu cảm ( trữ tình), lập luận (nghị luận), thuyết minh
và hành chính công vụ, mỗi kiểu văn bản có một vị trí và chức năng riêng trong toàn
bộ chương trình trong đó văn biểu cảm là loại hình chiếm vị trí đặc biệt hơn cả trong
chương trình THCS. Biểu cảm (trữ tình) là loại hình chiếm vị trí khá quan trọng
trong chương trình và sgk ngữ văn THCS. Cũng như tác phẩm tự sự các tác phẩm
trữ tình chiếm đến gần một nữa khối lượng và thời gian trong chương trình sgk chưa
kể những bài kí, những nghị luận mà yếu tố trữ tình khá đậm. đó là những bài thơ,
bài ca dao trữ tình và trào phúng, những bài thơ đường luật, những bài thơ lục bát,
thơ năm chữ, những bài thơ tự do rất phù hợp với sự hiểu, cảm của học sinh. đó là
những sáng tác, những nhà thơ lớn của dân tộc từ nguyễn trãi, nguyễn du, nguyễn
khuyến cho đến Hồ Chí Minh, Tố Hữu,Huy Cận là tiếng nói cao đẹp về tình yêu
quê hương đất nước, tình yêu con người, là tiếng đập khẽ khàng của con tim trước
vẻ đẹp thiên nhiên, của tình người mà bất kì học sinh nào đặt chân đến trường cũng
cần được học tập, bồi dưỡng để mở rộng tâm hồn, nâng cao mơ ước và bồi dưỡng


tình cảm và mĩ cảm. Vì vậy khi dạy học tác phẩm trữ tình phải nắm được đặc điểm
của tác phẩm trữ tình và các biện pháp, hình thức dạy học tác phẩm trữ tình một
cách cụ thể và sâu sắc.
Và việc tiếp cận dạy học kiểu văn bản này cũng mang những nét đặc trưng riêng.
Tuy nhiên trong thực tế dạy học đặc biệt qua dự giờ thăm lớp của nhiều giáo viên
trong trường, trong cụm chuyên môn mấy năm gần đây tôi nhận thấy còn chung
chung mơ hồ trong phương pháp dạy kiểu văn bản này. Vì thế việc học kiểu văn bản
trữ tình của học sinh nhiều khi vẫn giống với kiểu văn bản tự sự. vậy làm thế nào để
có cách tiếp cận, cách dạy học tác phẩm trữ tình cho đúng đắn và có hiệu quả cao:
Đó là cả vấn đề lớn đối với hầu hết các trường THCS và cũng là của nhiều giáo viên
dạy Văn ở trường THCS.
Đứng trước vướng mắc trên, bản thân tôi là một giáo viên chưa có nhiều kinh
nghiệm trong công tác giảng dạy nhưng lại trực tiếp dạy môn Ngữ Văn tôi không
khỏi lúng túng và bỡ ngỡ. Song nhiệm vụ chuyên môn đặt ra và để thích ứng được
với phương pháp dạy học mới – vấn đề chất lượng học sinh, uy tín, danh dự của
người thầy trước phụ huynh học sinh tôi không khỏi băn khoăn, trăn trở. bằng sự
hiểu biết nhất định của mình tôi cũng dám mạo muội đưa ra một vài ý kiến của mình
về phương pháp dạy học tác phẩm trữ tình nhằm phần nào giải đáp những vướng
mắc nói trên của nhiều giáo viên đứng lớp nói chung và bản thân tôi nói riêng. đây
cũng chính là lí do khiến tôi chọn vấn đề này làm dề tài nghiên cứu.
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:
1. Thực trạng:
.
Trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy thực trạng của vấn đề được trình bày ngắn
gọn như sau:
- Thứ nhất, qua việc chấm bài của học sinh và thực tế giờ dạy trên lớp cho thấy các
em tiếp thu bài một cách máy móc, cứng nhắc không đúng với đặc trưng bộ môn
văn học vốn là môn khoa học- nghệ thuật đặc biệt đối với văn bản biểu cảm. do đó
các em chưa thể hiện được năng lực cảm thụ và cảm xúc văn chương của ình qua bài
làm. điều đó cho thấy các em còn lúng túng trong cách tiếp cận tác phẩm do mới

được khám phá với tư cách là một môn học độc lập.
- Mặt khác hiện nay do nhận thức sai lệch về chọn môn học của học sinh và các bạc
phụ huynh thường coi trọng học toán hơn học văn. Nên phần lớn các em chưa thực
sự ham học môn văn và cũng chưa đầu tư cho việc mua tài liệu phục vụ cho môn
học này.
- Một nguyên nhân quan trọng khác là phương pháp dạy học mới theo sgk cải cách
còn gây nhiều lúng túng đối với giáo viên. Đặc biệt việc dạy học tác phẩm theo đặc
trưng thể loại ít được quan tâm đúng mức trong dạy học. Quan niệm văn bản tự sự
hay biểu cảm cũng đều là văn bản văn học, việc học, dạy tác phẩm tự sự cũng như
trữ tình đều như nhau vẫn còn tồn tại. Vì vậy phương pháp dạy học tác phẩm trữ
tình ít được trú trọng trong quá trình dạy học do đó chưa kích thích được trí tò mò,
sự yêu thích môn học của học sinh.
2. Kết quả thực trạng.
Qua khảo sát chất lượng đầu năm 2009 – 2010 của hai lớp 6A, 9A chất lượng bộ
môn cụ thể là:
Lớp Sĩ số Điểm < 5 Điểm 5 - 6 Điểm 7 - 8 Điểm 9 - 10
B. GIẢI QUYẾT VÂN ĐỀ
I. NHỮNG GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Nắm chắc bao quát toàn bộ chương trình sgk
Tìm ra phương pháp dạy học phù hợp đối với kiểu văn bản biểu cảm( trữ tình),
phát huy được năng lực cảm thụ, tư duy sáng tạo của học sinh cũng như các chức
năng cơ bản của môn học ngữ văn ở THCS .
- Nắm đặc điểm của tác phẩm trữ tình
- Nắm các biện pháp, hình thức dạy học tác phẩm trữ tình
+ Đọc thơ trữ tình
+ Giảng bình thơ
+ Tìm hiểu tâm trạng trong tác phẩm trữ tình
+ Tìm hiểu các yếu tố thi pháp thơ trữ tình
- Phác thảo diện mạo về mặt lý thuyết một bài dạy học tác phẩm trữ tình
II. CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN:

Xuất phát từ thực tiễn của trường THCS Nga Thiện và những nguyên nhân đã nói
ở trên, đồng thời thấy rõ vai trò, ý nghĩa to lớn của phương pháp dạy học văn biểu
cảm. trong quá trình giảng dạy tôi đã áp dụng một số giải pháp sau:
1. Trước hết người giáo viên phải giúp các em nắm vững đặc điểm của văn bản
biểu cảm:
Nếu tự sự là loại tác phẩm dùng lời để tái hiện thực tại khách quan nhằm dựng lại
một dòng đời qua những biến cố, những con người, qua đó thể hiện một cách hiểu,
một thái độ nhất định thì trữ tình là loại tác phẩm được cấu trúc bởi một kiểu ngôn
ngữ đặc biệt, khác hẳn ngôn ngữ hàng ngày và ngôn ngữ văn xuôi để bộc lộ ý thức,
tình cảm con người một cách trực tiếp.
Đặc điểm quan trọng nhất của tác phẩm trữ tình là sự bộc lộ trực tiếp ý thức của con
người. là tiếng nói của tình cảm mãnh liệt, là sản phẩm của những rung động đột
xuất, độc đáo. Trong tác phẩm trữ tình, con người trực tiếp bộc lộ ý nghĩ, cảm xúc
chủ quan của mình. câu ca dao: “Thân em như trái bần trôi
Mưa dập sóng dồi biết tấp vào đâu”
Là tiếng nói trực tiếp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải chịu số phận
chìm nổi, lênh đênh vô định bị trà đạp không có quyền quyết định cuộc đời mình.
cái “Tôi” trữ tình luôn cảm xúc thực sự, bộc lộ hẳn ra. Tiếng nói trữ tình trở thành
tiếng lòng thầm kín của mọi người. Nó là “ Lời gửi của người nghệ sĩ với cuộc đời”.
và như tố hữu đã nói: “thơ là tiếng nói của người nào đó đến với những người nào
đó, dựa trên cơ sở đồng ý, đồng tình. Thơ là là tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói
đồng chí ”.
“Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”
Đó không chỉ là tâm trạng của người con gái lấy chồng xa quê nhớ thương, buồn
sâu lắng âm thầm mà không biết chia sẻ cùng ai. Đó cũng là tâm trạng chung của
những người xa quê và của cả chúng ta nữa.
Ngôn ngữ được tổ chức một cách khác thường _ kiểu ngôn ngữ đặc biệt, có thể biểu
hiện được các sắc thái tinh vi của tư tưởng. ngôn ngữ trữ tình vừa có tính chất cường
điệu vừa có tính chất cách điệu tạo ra nhịp điệu, âm vang. đó là thứ ngôn ngữ hàm

súc, gợi cảm, giàu nhạc điệu .
Những bài thơ trữ tình được chọn lọc đưa vào chương trình Ngữ văn THCS từ bài
lượm, Đêm nay Bác không ngủ, đến Qua đèo ngang, Ông Đồ, Viếng lăng Bác đều
là tiếng lòng thầm kín của tác giả trước cuộc đời bằng thứ ngôn ngữ đặc biệt đó.
2. Các biện pháp, hình thức dạy học tác phẩm trữ tình.
a. Đọc thơ trữ tình:
Đọc diễn cảm là bước đầu tạo tiền đề cho hoạt động tái hiện và khả năng thực hiện
dễ dàng, đầy đủ hoạt động tái hiện . Với tác phẩm trữ tình đọc vừa là đồng cảm, vừa
là diễn cảm. Cũng nhờ đọc mà học sinh như vừa được chứng kiến vừa được thể
nghiệm. vì thế, đọc, tái hiện, tri giác hình tượng là hoạt động không thể coi nhẹ
trong quá trình dạy học thơ trữ tình . Tái hiện hình tượng thơ không những là một
thao tác tư duy để đi vào tác phẩm mà còn là một bí quyết truyền thụ nữa. Một bài
thơ như “ Bếp lửa” ở Ngữ văn 9 mà việc đọc và tái hiện hình tượng không được
thực hiện tốt thì khó mà thu được kết quả. Cả một dòng hoài niệm tuôn chảy theo
thời gian, sống dậy trong tâm tưởng nhà thơ, nếu không được tái hiện thì khó mà gợi
được rung động, cảm xúc. Chỉ một đoạn thơ ngắn ở phần đầu cũng là một sự liên
tưởng mạnh mẽ:
“ Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói.
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi.
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy.
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay ”
Nhờ đọc và tái hiện hình tượng và cảm quan nghe, nhìn được khơi động theo âm
vang của ngôn ngữ tác phẩm. Kết quả nhận thức bằng cảm giác, tri giác tạo điều
kiện cho tưởng tượng bay bổng và tái hiện được sáng rõ những hình ảnh do tác giả
vẽ nên trong tác phẩm. ngoài đọc diễn cảm, giáo viên cần mô tả, kích thích trí tưởng
tượng ở học sinh. hình ảnh càng sáng rõ, sức cảm thụ càng mạnh, sức đồng cảm
càng cao, giáo viên và học sinh càng có điều kiện giao cảm với nhau và với tác giả.
Để dạy tốt bài thơ trữ tình, giáo viên cần nghiên cứu kĩ, tìm ra giọng điệu và do đó
tìm ra cách đọc, cách tái hiện hình tượng thích hợp để hướng học sinh đọc tốt; chỗ

nào cần nhấn mạnh, chỗ nào cần đọc chậm, ngắt nghỉ như thế nào Đọc thơ là đọc
theo nhịp, dựa vào dòng thơ nhưng không lệ thuộc vào dòng thơ. Ý tưởng của nhà
thơ không bị dòng thơ câu thúc. cho nên đọc thơ trữ tình phải làm sao thể hiện đúng
tình cảm, ý nghĩ của nhà thơ. Dạy –học bài Lượm-ngữ văn 6 không thể không quan
tâm đặc biệt tới việc đọc và hướng dẫn học sinh đọc. bài thơ đã thay đổi nhiều lần
nhịp điệu, với học sinh lớp 6, nếu không được hướng dẫn kĩ thì khó mà thể hiện
được. ở đoạn đầu, đoạn miêu tả lượm và cuộc gặp gỡ của hai chú cháu, cần đọc với
giọng vui tươi, làm rõ được hình ảnh chú bé liên lạc hồn nhiên, nhí nhảnh, hoạt bát.
nhưng đến đoạn chú bé “ Vụt qua mặt trận, đạn bay vèo vèo” thì phải đọc sao cho
thể hiện được không khí căng thẳng ở mặt trận. Đến câu “ Thôi rồi ! Lượm ơi!” thì
thật là bàng hoàng tê tái. Câu thơ lại ngắt làm đôi như cuộc đời bị gãy giữa chừng.
phải đọc sao cho diễn tả được “ Hiện thực ngoài đời” cũng như tâm trạng nhà thơ
lúc đó. cũng như với câu: “ Lượm ơi! còn không?”. Một tiếng kêu thân thương, một
câu hỏi xót xa. một câu hỏi tu từ mà cả đoạn thơ cuối là câu trả lời đúng đắn nhất.
Câu thơ có giá trị như lời chuyển tiếp mở đầu cho đoạn thơ sau. Như vậy phải đọc
sao cho lột tả được tinh thần của đoạn thơ, của câu thơ. Đó thực sự là một đòi hỏi
cao đối với giáo viên văn học.
b. Giảng bình thơ.
Giảng bình là biện pháp có tính đặc thù của cảm thụ và truyền thụ văn học.
thông qua sự hiểu biết và rung cảm của giáo viên mà học sinh hiểu biết và rung cảm
một cách đúng đắn. Gảng bình là biện pháp đắc lực trong dạy học văn ở THCS vừa
có tác dụng trau dồi ngôn ngữ vừa có tác dụng giáo dục văn học. Giảng bình giúp
học sinh đi từ giai đoạn trực cảm sang giai đoạn cảm thụ có lý tính bài văn và cuối
cùng là hoàn chỉnh quy luật tâm lý về cảm thụ văn học. Về mặt tư duy, đây là khâu
học sinh được vận dụng thao tác phân tích-tổng hợp từ thấp đến cao để đạt được
hiệu quả rèn luyện tư duy tốt nhất.
Nội dung giảng bình trong một bài văn ở THCS là những sắc thái tu từ về ngữ
âm, từ vựng, cú pháp mà chủ yếu là sắc thái tu từ từ vựng.
Giảng làm cho học sinh hiểu thuần tuý về mặt ngôn ngữ đối với một chi tiết nghệ
thuật được phân tích. Bình là làm cho học sinh hiểu sự biến đổi nghệ thuật của tác

phẩm trong văn cảm, chỉ ra giá trị nghệ thuật của từ, ngữ , câu, đoạn chỉ ra sức
thông báo đặc biệt của chi tiết nghệ thuật đó.
Sự kết hợp giữa giảng và bình cũng rất cần linh hoạt; có khi giảng trước bình sau,
có khi bình trước giảng sau, có khi giảng kết hợp với bình, giảng có thể có có thể
không nhưng nhất thiết phải có bình, nhất thiết phải phân tích giá trị văn học của
ngôn ngữ nghệ thuật. người bình phải biết chọn để bình, chọn lọc cách bình và tốt
nhất phải dừng lại đúng lúc, đúng chỗ để cho học sinh tự suy nghĩ, liên tưởng, mơ
mộng.
Giảng bài “ Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến -Ngữ văn 7- tập 1 có thể
chọn cụm từ “ ta với ta” để bình.
Lâu ngày bạn mới đến chơi nhưng nhà không có trẻ nhỏ để sai bảo, không gần
chợ để mua thức ăn, không bắt được gà vì vườn quá rộng, rào lại thưa, không chài
được cá vì ao quá sâu, không có cải vì cải chưa ra cây, không có cà vì cà mới nụ,
không có bầu vì bầu vừa rụng rốn, không có mướp vì mướp đương hoa. kể cả miếng
trầu tiếp khách cũng không có nữa. nhưng “ bác đến chơi đây ta với ta” là cái cần
nói nhất. cụm từ “ta với ta” chính là cái cười xoà, là sự kết hợp giữa hai người: tuy
hai mà một, tuy một mà hai.
Để giảng bình một cách có hiệu quả, giáo viên phải có sự hiểu biết nhiều, có tình
cảm đẹp, có sự nhạy cảm thẩm mĩ và có năng lực diễn đạt. Đó là kết quả của một sự
phấn đấu rèn luyện rất cao.
c. Tìm hiểu tâm trạng trong tác phẩm trữ tình.
Nếu hình tượng trong tác phẩm tự sự là hình tượng tính cách thì hình tượng trong
tác phẩm trữ tình là hình tượng tâm tư. Tiếng nói trong tác phẩm trữ tình là tiếng nói
tình cảm mãnh liệt, là sản phẩm của những tâm trạng. thơ trữ tình chứa đầy tâm
trạng nên việc tìm hiểu tâm trạng trong thơ trữ tình cần được chú ý và hướng dẫn
học sinh tìm hiểu.
Đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích-Ngữ văn 9 chứa đầy tâm trạng. Kiều sống ở lầu
Ngưng Bích lúc này chẳng khác gì một cô gái “ cấm cung”. Từ trên lầu cao trông ra,
nàng ngắm dãy núi xa, mảnh trăng gần như trong cùng một bức tranh đẹp:
“Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”
Cảnh vật thiên nhiên thật là khoáng đạt và ngoạn mục song không thấy một sự
hào nhập nào giữa người với cảnh, chỉ thấy “bẽ bàng” chua xót. Trong cảnh ấy,
nàng chỉ thấy cồn lên một nỗi nhớ, nỗi chua xót, nỗi buồn lo mênh mông sâu thẳm
trước những cơn tai biến dữ dội vừa ập đến cuộc đời nàng và chưa thôi thách thức
đe doạ.
Để hướng dẫn học sinh tìm hiểu tâm trạng trong thơ trữ tình ta có thể dùng biện
pháp gợi mở với một hệ thống câu hỏi: Bằng con đường đàm thoại, gợi mở giáo
viên sẽ tạo cho lớp học một không khí thoải mái để tìm sự đồng cảm với nhân vật
trữ tình.để làm nổi bật tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài “ Qua đèo ngang”-Ngữ
văn 7 ta có thể bắt đầu từ những câu hỏi: Hai câu đề tác giả tả Cảnh đèo ngang như
thế nào? về không gian? về thời gian? về những nét chung? bốn câu thực và luận đã
đi vào tả cảnh cụ thể đèo ngang như thế nào? Cảnh được miêu tả theo trình tự nào?
Cách miêu tả của nhà thơ gợi nên cảnh đèo ngang là một cảnh như thế nào? Những
âm thanh được miêu tả trong bài thơ làm cho cảnh vui lên hay buồn thêm? Hai câu
kết đã khéo thâu tóm cả bài thơ như thế nào? Và tâm trạng của nhà thơ nổi lên trong
bài thơ là tâm trạng gì ?
Cũng có thể dùng biện pháp đối chiếu so sánh. so sánh để làm sáng tỏ tâm trạng
điển hình của nhân vật trữ tình.
Tâm trạng nhân vật trữ tình trong “ Viếng lăng Bác” – Ngữ văn 9 như được hiện
dần lên qua các hình ảnh :
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Có khi như ngược lại mà rất thân mật :
Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.

Tâm trạng cảm xúc trong thơ phải là tâm trạng cảm xúc rất thật. Tâm trạng của
Viễn Phương khi Viếng lăng Bác là tâm trạng điển hình, cũng là tâm trạng chung
của nhiều người, của chúng ta khi Viếng lăng Bác. bởi thế, tìm hiểu tâm trạng nhà
thơ, giáo viên cũng phải cảm được trạng thái cảm xúc của nhà thơ, phải có tâm trạng
cảm xúc rất thật.
d. Tìm hiểu các yếu tố thi pháp thơ trữ tình.
- Nói đến thơ là nói đến chất thơ, lời thơ. Điều đáng chú ý từ dấu hiệu đầu tiên
của hình thức thơ là nhịp điệu. Thơ là văn bản được tổ chức bằng nhịp điệu của
ngôn từ. Nhịp điệu thơ được tổ chức đặc biệt thể hiện nhịp điệu tâm hồn, nhịp điệu
cảm nhận thế giới một cách thầm kín. nhịp điệu được tạo ra bằng sự trùng điệp,
trùng điệp của âm vận, trùng điệp ở nhịp, trùng điệp ở ý thơ, trùng điệp ở câu thơ
hoặc bộ phận của câu thơ. bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải-Ngữ văn 9
thành công nổi bật là ở việc sử dụng nhịp điệu. Sự gợi cảm của bài thơ nhờ ở cách
đặt câu ngắn gọn, trùng điệp ở câu thơ, ở các bộ phận thơ. Cách gieo vần cũng rất
linh hoạt. Nhịp điệu trong thơ còn có sự cộng hưởng với nhịp điệu bên trong của
tâm hồn:
“ Tiếng suối trong như tiếng hát xa”. Sự rung động của vần điệu nằm trong sức rung
động mạnh mẽ của cảm hứng sáng tạo. Bài thơ “ Lượm” của Tố Hữu-Ngữ văn 6 là
một biểu hiện thành công trong sử dụng nhịp điệu. Chính nhịp điệu góp phần dựng
lại hình ảnh một bé Lượm hồn nhiên, nhí nhảnh, yêu đời phân tích bài thơ Lượm
phải chú ý đến việc phân tích nhịp điệu là vì thế.
- Hình ảnh thơ: hình ảnh trong thơ trực tiếp truyền đạt sự cảm nhận thế giới một
cách chủ quan. Hình ảnh thơ thường gợi lên sự ngâm ngợi và liên tưởng. hình ảnh
có khi là những nhân tố trực tiếp của nội dung, là những bức tranh nhỏ trong cuộc
sống:
Bước tới đèo ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
hình ảnh có khi được qua sự so sánh:

Ca lô đội lệch
Mồm huyết sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng.
- Tìm hiểu thơ trữ tình không thể không tìm hiểu ngôn ngữ thơ. Thơ là tiếng nói
hàm xúc cô đọng nhưng lại có sức vang ngân. Ngôn ngữ thơ quan trọng đến mức
một câu thơ có thể biểu hiện được một ý nghĩ lớn. Một chữ có thể biểu hiện một tình
cảm lớn. một chi tiết có thể biểu hiện được cả một sự kiện lớn. Khi đọc bài thơ
“Nhớ rừng” của Thế Lữ nhà phê bình Hoài Thanh đã đánh giá rất cao: “ Đọc đôi
bài, nhất là bài “Nhớ rưng” ta tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy , bị dằn vặt
bởi một sức mạnh phi thường. Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt
ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được” .
3. Phác thảo diện mạo về mặt lý thuyết một bài dạy- học văn bản biểu cảm ( trữ tình)
a. Hướng dẫn tìm hiểu tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
+ Hướng dẫn tìm hiểu tác giả.
+ Hướng dẫn tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
Có thể cho học sinh đọc trong sgk, giáo viên bổ sung, đặc biệt là hoàn cảnh ra đời
của tác phẩm( hoàn cảnh ra đời của “đêm nay bác không ngủ” rất đáng chú ý đã được
tác giả minh huệ kể rất nhiều lần, hoặc hoàn cảnh ra đời của bài “nhớ rừng” đã được
thế lữ kể lại như sau : “ Tôi làm một chân chữa bài in của báo “ ý muốn đông dương” ở
phố cửa bắc. Từ nhà tôi ở muốn đến toà báo phải qua đường Ngọc Hà, thành ra qua
vườn Bách thảo. Chính vì qua vườn Bách thảo mà nảy ra bài “ Nhớ rừng”.
Một trưa hè ngồi nghỉ ở vườn, tôi nghe thấy người làm vườn uể oải kéo lê đôi
guốc dưới đường sỏi nghe ghê người lắm. Tôi bỗng nghĩ con hổ bị giam trong này
thì buồn biết bao nhiêu. bỗng nảy ra một câu thơ đùa : Chú nó trong nắng hè uể
oải.cũng không buồn thương nhớ cảnh rừng xa. Nhưng sau đó, tôi lại chuyển tứ
sang thương nhớ rừng. khi đã nảy ra tứ nhớ rừng thì bài thơ đến rất nhanh, từ sáng
đến trưa là xong không phải sửa chữa gì lắm”.
b. Hướng dẫn tìm hiểu tác phẩm.
+ Hướng dẫn học sinh tái hiện tác phẩm:

Đọc và hướng dẫn đọc: làm sao đọc diễn cảm thể hiện được tâm trạng nhân vật trữ
tình qua hình ảnh, qua nhịp điệu Tốt nhất là giáo viên đọc diễn cảm hoặc đọc một
cách nghệ thuật. Cũng có thể cho học sinh diễn thành văn xuôi-để hiểu và cảm được
chữ nghĩa của lời thơ.
+ Hướng dẫn học sinh tìm hiểu tác phẩm.
- Đọc-liên tưởng, đọc-tưởng tượng
- Đọc để giảng bình, mở rộng, đào sâu, hệ thống hoá, khái quát hoá
- Đàm thoại, gợi mở : liên hệ-giáo viên bổ sung, hệ thống hoá.
c. Hướng dẫn luyện tập -tổng kết.
+ Đọc diễn cảm, ngâm thơ, hát.
+ Bài tập về nhà:
- Diễn ra văn xuôi bài thơ, vẽ minh hoạ
- Sáng tác theo thể tài. phát biểu cảm nghĩ
- Học thuộc lòng, tập ngâm thơ
trên đây là một số biện pháp, hình thức cơ bản tối thiểu nhất khi dạy học văn bản biểu
cảm mà bất cứ một giáo viên văn thcs nào cũng cần phải nắm vững. nó góp phần nâng
cao hiệu quả dạy học-phát huy được tính tích cực chủ động-phát triển năng khiếu văn
học ở học sinh. từ đó giúp các em có cách học mới tự tìm ra kiến thức.
II. Kết quấu khi thực hiện đề tài
Thực tiễn khảo sát sau khi áp dụng đè tài.
Sau thời gian áp dụng đề tài và qua kết quả thi các học kì của các lớp tôi trực tiếp
giảng dạy và áp dụng đề tài ở trường thcs nga thiện đã cho kết quả khả quan, cụ thể
như sau:
- Học kì I, II năm học 2009-2010:
lớp
sĩ số
học kì điểm < 5 điểm 5 - 6 điểm 7 - 8 điểm 9 - 10
sl % sl % sl % sl %
6a
30

i
3 10.0 17 56.7 10 33.3 0 0
ii
1 3.3 15 50.0 14 46.7 0 0
9a
33
i
1 3.0 23 69.7 9 27.3 0 0
ii
0 0 15 45.5 17 51.5 1 3.0
Qua bảng số liệu trên cho thấy tất cả các lớp dạy áp dụng đề tài đều cho kết
quả cao hơn. điều đó chứng tỏ các biện pháp hình thức đưa ra trong đề tài này là
thiết thực.
C. KẾT LUẬN
I. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
- Những thành công trong việc thử nghiệm .
Về phía bản thân tôi nhận thấy qua đề tài trình độ chuyên môn của bản thân được
nâng cao hơn một bước, phương pháp dạy học mới được phát huy- giải quyết được
vướng mắc và lúng túng của bản thân khi bước vào công cuộc “ cải cách” lớn của
ngành. xây dựng được cho bản thân được một phương pháp dạy học tác phẩm văn
học biểu cảm nói riêng và dạy học tác phẩm văn chương theo thể loại nói chung. đặc
biệt trong các giờ thực tập ở trường đều được xếp giờ giỏi và luôn vượt khoán
chuyên môn.
- Bài học thực tiễn:
Qua việc thực hiện đề tài tôi nhận thấy:
+ Phương pháp dạy học văn bản biểu cảm là cơ sở cho việc đổi mới phương pháp
dạy học và xây dựng phương pháp cho từng loại bài cụ thể.
+ Phương pháp dạy học văn bản biểu cảm góp phần vào việc nâng cao chất lượng đào
tạo, khắc phục sự đơn điệu trong tổ chức dạy học trên lớp của giáo viên, phát huy được
tính tích cực, năng động của học sinh, tạo nên sự hứng thú trong học tập, chủ động sáng

tạo trong nhận thức và rèn luyện được các kỹ năng rất khác nhau cho học sinh.
+ Cũng là dạy học tác phẩm văn chương, nhưng với văn bản biểu cảm, học sinh
phải thật sự rung cảm với tác phẩm. muốn thế giáo viên phải thật sự hiểu và cảm tác
phẩm, khâu phát hiện phát động trí liên tưởng, tưởng tượng của học sinh.
+ Hướng dẫn học sinh tìm hiểu theo các bước nhưng phải phù hợp với từng thể tài
+ Trong quá trình áp dụng đề tài đòi hỏi giáo viên phải có sự phối hợp linh hoạt
với các phương pháp dạy học khác tránh sự máy móc. phải có sự chuẩn bị kĩ lưỡng
và hướng dẫn tỉ mĩ với học sinh quan trọng hơn cả là phải thực sự có lòng yêu nghề,
có năng khiếu sư phạm và năng lực cảm thụ văn học.
II. NHỮNG ĐỀ XUẤT
Đối với cụm chuyên môn khi sinh hoạt ngoài việc thực tập các giờ dạy cần
đưa ra thảo luận, thống nhất chung nhất về phương pháp dạy học tác phẩm văn
chương theo thể loại nói chung và dạy học văn biểu cảm nói riêng. ứng dụng vào
dạy một số bài cụ thể.
Trên đây là một số ý kiến nhỏ của bản thân rất mong được sự góp ý bổ sung của
các đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn!


SỞ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO THANH HÓA
Phßng gi¸o dôc - ®µo t¹o nga s¬n
Trêng T.H.C.S nga thiÖn
DẠY HỌC VĂN BIỂU CẢM Ở TRƯỜNG THCS
NGƯỜI THỰC HIỆN: PHAN THỊ HỢP
CHỨC VỤ: GIÁO VIÊN
ĐƠN VỊ CÔNG TÁC: THCS NGA THIỆN
SKKN MÔN: NGỮ VĂN
N¨m häc: 2011 – 2012
Héi ch÷ thËp ®á nga s¬n
Chi héi Trêng T.H.C.S nga thiÖn
Biên bản

Sinh hoạt chi hội chữ thập
đỏ
Nhiệm kỳ: 2011 - 2012

Nga Thiện, Tháng 9 năm 2011
Phòng giáo dục - đào tạo nga sơn
Trờng T.H.C.S nga thiện
GIÁO ÁN
phô ®¹o häc sinh YÕu - kÐm
MÔN: NGỮ VĂN 6
NĂM HỌC: 2011 - 2012
`


HỌ VÀ TÊN: PHAN THỊ HỢP
CHỨC VỤ: GIÁO VIÊN
TỔ: KHOA HỌC XÃ HỘI
Phßng gi¸o dôc - ®µo t¹o nga s¬n
Trêng T.H.C.S nga thiÖn
KẾ HOẠCH
c¸ nh©n - BỘ MÔN
MÔN: NGỮ VĂN 6
NĂM HỌC: 2011 - 2012
HỌ VÀ TÊN: PHAN THỊ HỢP
CHỨC VỤ: GIÁO VIÊN
TỔ: KHOA HỌC XÃ HỘI
phòng giáo dục - đào tạo nga sơn
trường t.h.c.s nga thiện
*********************************
sáng kiến kinh nghiệm

dạy học văn biểu cảm ở trường thcs

tên tác giả : phan thị hợp
tổ : xã hội
chức vụ : giáo viên
đơn vị công tác : trường thcs nga thiện
năm học 2007 – 2008
những tư liệu tham khảo
1. sách giáo khoa, sách giáo viên ngữ văn 6-9
2. bồi dưỡng thường xuyên chu kì iii (2004-2007) môn ngữ văn
3. phương pháp dạy học văn- nhà xuất bản gd 1994
mục lục
nội dung trang
- tư liệu tham khảo 2
- lí do chọn đề tài 3
- mục đích nghiên cứu 4
- khách thể và đối tượng nghiên cứu 4
- giả thuyết khoa học 4
- các nhiệm vụ nghiên cứu 4
- giới hạn đề tài 4
- những luận điểm bảo vệ 4
- những đóng góp mới cũng như ý nghĩa lí luận 4
- cơ sở phương pháp – phương pháp nghiên cứu 5
- cơ sở lí luận 5
- tình hình thực tiễn 5
- kết quả 12
SỞ GD ĐT THANH HÓA
PHONG
TRƯỜNG
DẠY HỌC VĂN BIỂU CẢM Ở TRƯỜNG THCS

NGƯỜI THỰC HIỆN:
CHỨC VỤ:
ĐƠN VỊ CÔNG TÁC:
SKKN MÔN: NGỮ VĂN
NĂM HỌC(LỆCH BÊN PHẢI)
D. ĐẶT VẤN ĐỀ
III.LỜI MỞ ĐẦU
IV. NHỮNG GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Nắm chắc bao quát toàn bộ chương trình sgk
V. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. THỰC TRẠNG
- ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- PHƯƠPNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- THỜI GIAN NGHIÊN CỨU

×