Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Quyền bào chữa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.1 KB, 17 trang )

Mở bài
Quyền bào chữa là một phương tiện pháp lý cần thiết mà pháp luật tố tụng hình sự
trao cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Bảo
đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không chỉ là một nguyên tắc quan
trọng trong pháp luật tố tụng hình sự
1
mà còn là một quy tắc hiến định, được ghi nhận trong
Hiến pháp (Điều 132 Hiến pháp năm 1992 ghi nhận “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo
đảm…”)
Với quyền bào chữa các chủ thể này có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau trong
phạm vi pháp luật cho phép để bác bỏ lời buộc tội của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc
làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình. Họ có thể trực tiếp thực hiện quyền bào chữa
nếu như có được sự hiểu biết nhất định về pháp luật hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình
(khi đó cũng không làm mất đi quyền tự bào chữa của họ). Tuy nhiên trong thực tế trường
hợp tự bào chữa rất hiếm vì không phải ai cũng hiểu biết sâu về pháp luật, hơn nữa tố tụng
hình sự là một quá trình rất phức tạp với nhiều công đoạn khác nhau do đó đòi hỏi người
tham gia tố tụng phải có kinh nghiệm nhiều năm trong hoạt động này mới có thể thành thục
được. Hiện nay phổ biến hơn đó là hình thức nhờ người bào chữa. Cách thức này đem lại
hiệu quả cao hơn hẳn so với việc tự bào chữa bởi những người bào chữa thường là những
người hoạt động chuyên nghiệp và lâu năm trong lĩnh vực bào chữa và có vốn hiểu biết nhất
định về pháp luật.
Như vậy khi đề cập đến vấn đề bảo đảm quyền bào chữa thì trước hết phải quan tâm
đến việc bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người bào chữa. Đây cũng chính là
nội dung chính của bài tiểu luận này “Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng
hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của
người bào chữa”
1 Được ghi nhận tại ĐIều 11 BLTTHS 2003
Luật Tố tụng hình sự Việt Nam Page 1
Bài làm
1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về người bào chữa
1.1. Khái niệm người bào chữa


Người bào chữa là người được các cơ quan tiến hành tố tụng chứng nhận, tham gia tố
tụng với vai trò đưa ra những tình tiết để xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội
hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và giúp đỡ họ về mặt pháp lý
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Khoản 1 Điều 56 BLTTHS 2003 quy định người bào chữa có thể là những người sau:
- Luật sư: là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật, tham gia
vào tố tụng hình sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức theo
yêu cầu của chính cá nhân, tổ chức đó hoặc của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án.
- Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: là cha mẹ hoặc
người giám hộ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc người có
nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần. Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo phải là người đã thành niên, không bị tâm thần, có quốc tịch
Việt Nam, cư trú tại Việt Nam trừ trường hợp pháp luật có quy định khác đối với
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người có quốc tịch nước ngoài, người không có
quốc tịch, người Việt nam ở nước ngoài.
- Bào chữa viên nhân dân: là người được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ
chức thành viên của Mặt trận cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
là thành viên của tổ chức mình.
Khi tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa, luật sự, đại diện hợp pháp của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bào chữa viên nhân dân đều có các quyền và nghĩa vụ như
nhau. Tuy nhiên vì hoạt động bào chữa của luật sư mang tính chuyên nghiệp hơn nên thường
đạt hiệu quả cao hơn, do đó cũng phổ biến hơn hai đối tượng kia.
Luật Tố tụng hình sự Việt Nam Page 2
Ngoài ra, khoản 2 Điều 56 BLTTHS 2003 còn quy định những người sau không được
tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa: Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó;
người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó; người tham gia
trong vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định hoặc người phiên dịch. Mặt
khác, luật tố tụng hình sự còn cho phép một người có thể bào chữa cho nhiều người trong
cùng một vụ án nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau và ngược lại nhiều người

cũng có thể bào chữa cho một người.
1.2. Sự tham gia của người bào chữa trong tố tụng hình sự.
Sự tham gia của người bào chữa phụ thuộc vào ý chí của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo hoặc người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Đối với bị can, bị cáo
từ đủ mười tám tuổi trở lên, không có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì chỉ họ mới
có quyền lựa chọn người bào chữa, nếu người khác lựa chọn cho họ thì phải có sự đồng ý
của họ. Đối với bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất
thì họ và người đại diện hợp pháp đều có quyền lựa chọn người bào chữa.
Tuy nhiên trong một số trường hợp luật tố tụng hình sự quy định nếu bị can, bị cáo
hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì sự tham gia của người
bào chữa vào vụ án là do chỉ định. Đó là những trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều
57 BLTTHS 2003: thứ nhất, bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử
hình được quy định tại BLHS 1999; thứ hai, bị can, bị cáo là người chưa thành niên (trừ
trường hợp khi phạm tội, người phạm tội là người chưa thành niên nhưng khi khởi tố, truy
tố, xét xử họ đã đủ mười tám tuổi), người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Khi đó
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn
phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ
chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình.
Nhưng khi đó bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu cầu
thay đổi hoặc từ chối người bào chữa đã được chỉ định trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên
tòa. Đặc biệt nếu trước khi mở phiên tòa họ yêu cầu từ chối người bào chữa thì vẫn tiến hành
triệu tập người bào chữa; nếu tại phiên tòa họ vẫn tiếp tục từ chối thì Hội đồng xét xử cần
Luật Tố tụng hình sự Việt Nam Page 3
phải giải thích cho họ biết vai trò của người bào chữa và chi phí cho người bào chữa do Tòa
án thanh toán. Nếu sau khi giải thích mà cả bị cáo (là người chưa thành niên hoặc người có
nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất) và người đại diện hợp pháp của họ vẫn từ chối người
bào chữa thì phải ghi vào biên bản phiên tòa và tiến hành xét xử vụ án mà không có mặt
người bào chữa. Còn nếu chỉ có bị cáo hoặc chỉ có người đại diện hợp pháp của bị cáo từ
chối thì vẫn tiến hành xét xử với sự tham gia của người bào chữa đã được cử
2

.
Quy định về vấn đề chỉ định người bào chữa cho bị can, bị cáo là rất cần thiết và thể
hiện tính nhân đạo của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Những trường hợp trên hoặc do tính chất
nghiêm trọng của vụ án hoặc do bị can, bị cáo không đủ khả năng nhận thức đúng đắn về
quyền và lợi ích mà mình được hưởng cũng như khả năng tự bảo vệ mình, nên rất cần có sự
tham gia của người bào chữa. Quy định này còn thể hiện sự đánh giá cao của pháp luật đối
với vai trò của người bào chữa khi cố gắng hạn chế tối đa những trường hợp không có sự
tham gia của người bào chữa. Vai trò của người bào chữa không chỉ là bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà còn góp phần đảm bảo tính công minh,
đúng đắn của pháp luật.
Nói đến sự tham gia của người bào chữa không thể không nói đến thời điểm tham gia
tố tụng của họ. Luật tố tụng hình sự đang phát triển theo hướng mở rộng quyền bào chữa
bằng cách quy định thời điểm tham gia của người bào chữa ngày càng sớm. Từ chỗ BLTTHS
1988 quy định thời điểm sớm nhất người bào chữa có thể tham gia tố tụng là từ khi có quyết
định khởi tố bị can, cho đến BLTTHS 2003 quy định thời điểm sớm nhất có thể là từ khi có
quyết định tạm giữ (trong trường hợp bắt người khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang hoặc đang
bị truy nã). Tham gia càng sớm thì người bào chữa càng có nhiều quyền lợi hơn đồng nghĩa
với việc họ càng có nhiều cơ hội để trợ giúp bị cáo hơn.
1.3. Quyền của người bào chữa
Điều 19 BLTTHS 2003 ghi nhận quyền đầu tiên và cũng là cơ bản nhất của người bào
chữa đó là tại phiên tòa, người bào chữa có quyền bình đẳng với Kiểm sát viên trong việc
2 Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 hướng dẫn thi hành một
số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
Luật Tố tụng hình sự Việt Nam Page 4
đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Tòa án. Tòa án có trách
nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật của vụ án.
Theo khoản 2 Điều 58 BLTTHS 2003, người bào chữa còn có các quyền sau:
● Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra
viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra
khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố

tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;
Việc được tham gia vào các hoạt động điều tra, đặc biệt việc được hỏi người bị tạm
giữ, bị can sẽ giúp người bào chữa theo dõi được quá trình điều tra và chủ động nắm bắt các
tình tiết, chứng cứ, từ đó chuẩn bị lời bào chữa và phần tranh tụng của họ tại phiên tòa.
Sự có mặt của người bào chữa trong quá trình điều tra có thể coi như một sự giám sát.
Các hoạt động điều tra sẽ được tiến hành cẩn thận, tuân thủ pháp luật hơn và tránh được các
trường hợp như Điều tra viên bức cung, dùng nhục hình hoặc dùng các thủ đoạn khác để làm
sai lệch kết quả điều tra. Tương tự việc người bào chữa được xem các biên bản về hoạt động
tố tụng và các quyết định tố tụng liên quan đến mình hoặc người được bào chữa cũng là một
hình thức pháp luật trao quyền kiểm tra cho người bào chữa. Nếu phát hiện bất kỳ vi phạm
pháp luật nào người bào chữa có quyền khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền.
Ngoài ra khi có mặt người bào chữa thì tâm lý của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sẽ
ổn định hơn. Tâm lý cũng là một yếu tố ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động điều tra, đặc biệt
là khi lấy lời khai hay hỏi cung. Nếu người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoảng sợ, mất bình tĩnh
thì sẽ gây khó khăn cho việc lấy lời khai, hỏi cung.
● Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có
mặt khi hỏi cung bị can;
Luật Tố tụng hình sự Việt Nam Page 5
Quy định này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa tham gia vào hoạt
động hỏi cung. Cơ quan điều tra khi được yêu cầu phải cung cấp đầy đủ thông tin về thời
gian và địa điểm cho người bào chữa
● Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo
quy định của BLTTHS 2003;
Nếu nhận thấy sự tham gia hoặc tiến hành tố tụng của một trong số những người tiến
hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch có thể gây ảnh hưởng không tốt đến quyền
và lợi ích hợp pháp của người mà mình bào chữa thì người bào chữa có quyền đề nghị thay
đổi một trong số những người đó nếu có đầy đủ căn cứ chứng minh theo luật định.
● Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo, người thân thích của họ hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác;

Quy định này cũng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa chủ động nắm
bắt được các tình tiết của vụ án, từ đó thực hiện tốt nhiệm vụ của mình là gỡ tội hoặc làm
giảm nhẹ tội cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
● Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
Người bào chữa có quyền đưa ra những tài liệu, đồ vật mà mình thu thập được có liên
quan tới vụ án, giúp chứng minh cho những lập luận của mình. Người bào chữa cũng có
quyền đưa ra yêu cầu theo hướng có lợi cho người được bào chữa như yêu cầu triệu tập thêm
người làm chứng, trưng cầu giám định nếu xét thấy cần thiết. Cơ quan tiến hành tố tụng phải
tôn trọng những yêu cầu đó của người bào chữa.
● Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;
Luật Tố tụng hình sự Việt Nam Page 6

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×