Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Giao dịch dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.62 KB, 22 trang )

A.LỜI MỞ ĐẦU.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, cũng như trong cuộc sống hàng
ngày một yếu tố không thể thiếu được là phải có sự giao dịch dân sự, đó là sự
chuyển giao tài sản, quyền tài sản hoặc thực hiện một dịch vụ nào đó giữa
người này với người khác, giữa tổ chức này với tổ chức khác, giữa pháp nhân
này với pháp nhân khác…
Sự thỏa thuận dân sự đó được hình thành thông qua sự thỏa thuận giữa
các bên, trên cơ sở đó pháp luật buộc các bên phải thực hiện quyền và nghĩa
vụ đó.
B.NỘI DUNG.
I.GIAO DỊCH DÂN SỰ.
1.Giao dịch dân sự là gì?
1.1.Khái niệm.
“Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” (Điều 121 BLDS
năm 2005).
Giao dịch dân sự được thực hiện là hành vi được thực hiện nhằm thu
được một kết quả nhất định và pháp luật tạo điều kiện cho kết quả đó trở
thành hiện thực. Giao dịch dân sự là một sự kiện pháp lý, bao gồm hành vi
pháp lý đơn phương hoặc đa phương ( hợp đồng ) làm phát sinh hậu quả pháp
lý. Tùy từng giao dịch cụ thể mà làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan
hệ pháp luật dân sự. Giao dịch là hành vi có ý thức của chủ thể nhằm đạt được
mục đích nhất định, cho nên giao dịch dân sự là hành vi mang tính ý chí của
chủ thể tham gia giao dịch, với mục đích và động cơ nhất định.
Hành vi pháp lý đơn phương là giao dịch dân sự trong đó thể hiện ý chí
của một bên nhằm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.
Thông thường, hành vi pháp lý đơn phương do một chủ thể thực hiện (ví dụ
như lập di chúc … ), nhưng cũng có thể nhiều chủ thể cùng thực hiện ý chí
1
trong giao dịch đó ( ví dụ: tổ chức cùng tuyên bố hứa thưởng…). Trong nhiều
trường hợp, hành vi pháp lý đơn phương chỉ phát sinh hậu quả pháp lý khi có


những điều kiện nhất định do người xác lập giao dịch đưa cho người khác.
Những người này phải đáp ứng được các điều kiện đó mới làm phát sinh
nghĩa vụ của người xác lập giao dịch.
Nếu hành vi pháp lý đơn phương là giao dịch dân sự thể hiện ý chí của
một bên chủ thể thì hợp đồng dân sự ngược lại là sự thỏa thuận của các bên về
việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Hợp đồng dân
sự là loại giao dịch dân sự phổ biến nhất trong đời sống hàng ngày. Thông
thường hợp đồng dân sự có 2 bên tham gia trong đó thể hiện sự thống nhất ý
chí của các chủ thể trong một quan hệ cụ thể ( mua bán, cho thuê… ) nhưng
cũng có những hợp đồng có nhiều bên tham gia.
Tất cả các loại giao dịch dân sự đều có một điểm chung là sự thống
nhất ý chí và sự bày tỏ ý chí của chủ thể tham gia giao dịch. Giao dịch dân sự
là hành vi có ý thức của chủ thể nhằm mục đích nhất định cho nên giao dịch
dân sự là hành vi mang tính ý chí của chủ thể tham gia giao dịch. Ý chí của
chủ thể tham gia giao dịch là nguyện vọng, mong muốn chủ quan bên trong
con người mà nội dung của nó được xác định bởi nhu cầu nhất định của bản
thân họ. Ý chí của chủ thể tham gia giao dịch dân sự phải được thể hiện ra
bên ngoài dưới một hình thức nhất định để các chủ thể khác biết được nội
dung, mục đích và động cơ cụ thể của giao dịch dân sự. Bởi vậy, giao dịch
dân sự là sự thống nhất ý chí của các bên chủ thể và sự bày tỏ ý kiến của chủ
thể tham gia giao dịch. Điều này đúng với các giao dịch dân sự có chủ thể là
cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Người đại diện của các chủ thể
pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác khi tham gia giao dịch dân sự phải thể hiện
được ý chí của chủ thể trong phạm vi, thẩm quyền đại diện của họ.
Giao dịch dân sự là phương tiện pháp lý quan trọng nhất trong giao
dịch dân sự, trong việc chuyển dịch tài sản và cung ứng dịch vụ, nhằm đáp
ứng nhu cầu ngày càng tăng của tất cả các thành viên trong xã hội.
2
1.2.Mục đích của giao dịch dân sự.
“Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mong

muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó” (Điều 123 BLDS 2005). Mục đích
của giao dịch chính là hậu quả pháp lý sẽ phát sinh từ giao dịch mà các bên
mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch. Nói cách khác, mục đích ở đây
luôn mang tính chất pháp lý ( mục đích pháp lý). Mục đích pháp lý (mong
muốn) đó sẽ trở thành hiện thực, nếu như các bên trong giao dịch thực hiện
đúng nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Ví dụ như trong hợp
đồng mua bán thì mục đích pháp lý của bên mua sẽ trở thành chủ sở hữu tài
sản mua bán, bên bán nhận tiền và chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua.
Mục đích pháp lý đó sẽ trở thành hiện thực khi hợp đồng mua bán tuân thủ
mọi nội quy định của pháp luật và bên bán thực hiện xong nghĩa vụ bàn giao
tài sản mua bán, khi đó, hậu quả pháp lý phát sinh từ giao dịch trung với
mong muốn ban đầu của các bên (tức là với mục đích pháp lý).
Có những trường hợp hậu quả pháp lý phát sinh không phù hợp với
mong muốn ban đầu (với mục đích pháp lý). Có thể là do giao dịch đó bất hợp
pháp cũng có thể do chính các bên không tuân thủ nghĩa vụ phát sinh từ giao
dịch có hiệu lực. Ví dụ như người mua đã mua phải đồ trộm cắp thì không
được xác lập quyền sở hữu, mà còn phải có nghĩa vụ hoàn trả lại chủ sở hữu
tài sản đó (người bán không phải là chủ sở hữu tài sản thì không có quyền
chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho người mua).
Dù hành vi tuyền bố đơn phương của một người, hay hành vi xác lập
hợp đồng dân sự, các chủ thể đều hướng tới mục đích nhất định. Tuy mục
đích hướng tới là khác nhau nhưng đều nhằm đáp ứng lợi ích vật chất hoặc lợi
ích tinh thần của họ.
Như vậy, mục đích của giao dịch dân sự chính là hậu quả trực tiếp phát
sinh từ giao dịch. Mục đích của giao dịch dân sự là yếu tố không thể thiếu
trong giao dịch dân sự, là cơ sở xác định việc xác lập và thực hiện giao dịch
dân sự đó có hiệu lực pháp lý hay không.
3
Mục đích của giao dịch dân sự khác với động cơ xác lập giao dịch.
Động cơ xác lập giao dịch dân sự là nguyên nhân thúc đẩy các bên tham gia

giao dịch, nếu động cơ không đạt được không làm ảnh hưởng đến hiệu lực
của giao dịch. Động cơ của giao dịch không mang tính chất pháp lý. Mục đích
luôn luôn được xác định còn động cơ thì không. Ví dụ: Trong giao dịch dân
sự về mua bán nhà, mục đích của người mua nhà là quyền sở hữu nhà, còn
động cơ có thể để ở, cho thuê, hoặc bán lại… Tuy nhiên, động cơ của giao
dịch có thể được các bên thỏa thuận và mang ý nghĩa pháp lý. Trong trường
hợp này động cơ đã trở thành điều khoản của giao dịch, là một bộ phận cấu
thành của giao dịch đó.
Giao dịch dân sự là căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và
nghĩa vụ dân sự; là phương tiện pháp lý quan trọng nhất trong giao dịch dân
sự, trong việc dịch chuyển tài sản và cung ứng dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng của tất cả các thành viên trong xã hội. Trong nền sản xuất
hàng hóa theo cơ chế thị trường, thông qua giao dịch dân sự (hợp đồng), các
chủ thể đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh các nhu cầu khác trong đời
sống hàng ngày của mình.
1.3.Hình thức giao dịch dân sự.
Đặc điểm chung của tất cả các giao dịch dân sự là sự thống nhất ý chí
và bày tỏ ý chí của chủ thể tham gia giao dịch. Sự thống nhất này phải được
thể hiện đươi một hình thức nhất định phù hợp với ý chí đích thực của các
bên. Hình thức của giao dịch dân sự là cách thức thể hiện ý chí ra bên ngoài
dưới một hình thức nhất định của chủ thể tham gia giao dịch dân sự. Thông
qua hình thức biểu hiện này mà các bên đối tác và người thứ ba có thể biết
được nội dung của giao dịch đã xác lập. Hình thức của giao dịch dân sự có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, là căn cứ xác nhận các quan hệ đã và đang tồn tại
giữa các bên, từ đó xác định trách nhiệm dân sự của mỗi chủ thể tham gia
giao dịch khi có hành vi vi phạm xảy ra. Có nhiều hình thức khác nhau:
4
- Hình thức của giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói hoặc hành
vi cụ thể. Hình thức này thường được áp dụng đối với các giao dịch được thực
hiện ngay và chấm dứt ngay sau khi thực hiện ( mua bán trao tay), hoặc giữa

các chủ thể có quan hệ thân thiết, tin cậy. Tuy nhiên, có những giao dịch dân
sự khi thể hiện bằng lời nói phải tuân thủ những điều kiện do pháp luật quy
định mới có giá trị (VD: di chúc miệng).
- Hình thức của giao dịch dân sự được thể hiện bằng văn bản. Giao dịch
dân sự được thể hiện bằng văn bản là việc các bên lập văn bản thỏa thuận các
điều khoản của giao dịch và cũng ký tên vào văn bản đó. Hình thức này có giá
trị làm chứng cứ cao hơn hình thức thể hiện bằng lời nói trong giải quyết các
tranh chấp phát sinh từ việc vi phạm quyền và nghĩa vụ của các bên. Trong
hình thức thể hiện giao dịch dân sự dưới dạng văn bản có thể phân chia thành
2 loại: văn bản thông thường và văn bản có chứng nhận công chứng của Nhà
nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền.
Nếu pháp luật không quy định, các bên có thể thỏa thuận với nhau việc
lập văn bản dưới dạng bất kỳ hình thức nào. Hình thức giao dịch có tính chất
bắt buộc đối với các bên khi tham gia giao dịch dân sự chủ yếu được áp dụng
đối với loại tài sản có giá trị lớn ( VD: mua bán nhà, chuyển nhượng quyền sử
dụng đất…). Hình thức của giao dịch dân sự bằng văn bản có công chứng của
Nhà nước chứng thực hoặc Ủy ban nhân dân có thẩm quyền chứng thực giúp
cho cơ quan nhà nước quản lý, kiểm soát được 1 số giao dịch dân sự, làm cơ
sở để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch.
Hình thức của giao dịch dân sự là căn cứ để xác định điều kiện hợp
pháp của giao dịch dân sự. Khi các bên không tuân thủ hình thức do pháp luật
quy định thì giao dịch dân sự có thể bị tuyên bố vô hiệu.
5
2.Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự.
Trong một Nhà nước, một xã hội, sự tự do thực hiện các giao dịch dân
sự được thừa nhận trong một mức độ nhất định. Nhà nước không can thiệp
sâu vào việc xác lập và thực hiện giao dịch dân sự của các chủ thể. Tuy nhiên,
để quản lý xã hội trong một thể thống nhất, bảo đảm sự hài hòa giữa các lợi
ích trong xã hội, Nhà nước đưa ra những chuẩn mực nhất định để bắt buộc các
chủ thể tham gia giao dịch dân sự phải tuân theo. Do vậy, Điều 122 BLDS

2005 quy định cụ thể các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự đương
nhiên hoặc có thể bị coi là vô hiệu.
2.1.Điều kiện về chủ thể.
Bao gồm các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự. Đó là cá nhân,
pháp nhân, hộ gia đình và tổ hợp tác.
Đối với chủ thể của giao dịch dân sự là cá nhân. Bản chất của giao dịch
dân sự là sự thống nhất ý chí và sự bày tỏ ý chí của chủ thể tham gia giao dịch
dân sự. Chỉ có những người có năng lực hành vi dân sự mới có ý chí riêng và
nhận thức được hành vi của mình để họ có thể tự xác lập, thực hiện các quyền
và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự, đồng thời phải tự chịu trách nhiệm
trong việc thực hiện các giao dịch dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của mỗi
cá nhân được pháp luật công nhận ở từng độ tuổi nhất định, qua đó có thể
đánh giá việc xác lập và thực hiện giao dịch dân sự của cá nhân đó có hợp
pháp hay không (từ Điều 17 đến 23 BLDS 2005).
+ Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ
trường hợp họ bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi, truyên bố hạn chế
năng lực hành vi. Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ được toàn quyền
xác lập mọi giao dịch dân sự.
+ Người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có năng lực hành vi dân sự
chưa đầy đủ khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải có sự đồng ý của
6
người đại diện theo pháp luật trừ những giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh
hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
+ Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi được xác lập, thực hiện các
giao dịch dân sự trong phạm vi tài sản riêng mà họ có, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác (lập di chúc phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ
đồng ý…)
+ Những người chưa đủ 6 tuổi, người mất năng lực hành vi không được
phép xác lập giao dịch. Mọi giao dịch dân sự của những người này đều do
người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.

Đối với cá nhân là người nước ngoài, thì theo quy định tại Điều 762
BLDS 2005 năng lực hành vi dân sự của họ được xác định theo pháp luật của
nước mà người đó là công dân. Tuy nhiên, khi xác lập và thực hiện giao dịch
dân sự trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, người nước
ngoài phải tuân theo quy định của Việt Nam về việc xác lập và thực hiện đối
với các hành vi dân sự đó. Trong một số trường hợp, người nước ngoài còn bị
hạn chế xác lập và thực hiện một số hành vi giao dịch dân sự.
Đối với các chủ thể khác ( pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác). Các chủ
thể này tham gia vào giao dịch dân sự thông qua người đại diện của họ ( đại
diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền).
Người đại diện của pháp nhân bao gồm người đại diện theo pháp luật
hoặc của người đại diện theo ủy quyền của pháp nhân nhân danh pháp nhân
trong quan hệ pháp luật dân sự.
Người đại diện của hộ gia đình là chủ hộ được xác lập những diao dịch
dân sự vì lợi ích chung của chủ hộ gia đình. Chủ hộ có thể ủy quyền cho các
thành viên khác đã thành niên trong gia đình đại diện cho hộ gia đình thực
hiện các giao dịch dân sự.
7
Người đại diện cho tổ hợp tác là tổ trưởng do các thành viên cử ra được
xác lập, thực hiện những giao dịch dân sự liên quan tới hoạt động của sản
xuất, kinh doanh của tổ, được xác định trong hợp đồng hợp tác. Tổ trưởng tổ
hợp tác cũng có quyền ủy quyền cho các thành viên khác thực hiện các giao
dịch dân sự.
Người đại diện cho pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác thực hiện các
giao dịch dân sự làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân
sự của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác trong phạm vi nhiệm vụ của chủ thể
đó được điều lệ hoặc pháp luật quy định.
2.2.Điều kiện về mục đích và nội dung của giao dịch dân sự.
Thực hiện giao dịch dân sự, chủ thể có nhằm đạt đến những mục đích
khác nhau. Để đạt được những mục đích này, các quyền và nghĩa vụ (nội

dung của giao dịch) phải được xác lập. Động cơ, mục đích cũng như nội dung
của giao dịch dân sự do các chủ thể xác định, tuy nhiên trên tinh thần đáp ứng
lợi ích của chủ thể nhưng không làm ảnh hưởng tới lợi ích chung, pháp luật
quy định: “Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của
pháp luật, không trái đạo đức pháp luật”.
Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích mà các bên mong muốn đạt
được khi xác lập giao dịch. Nội dung của giao dịch là tổng hợp các điều
khoản, cam kết trong giao dịch quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
tham gia giao dịch. Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm những
điều mà pháp luật cấm không xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác, của Nhà nước và của xã hội. Đối tượng của giao dịch phải là vật,
quyền tài sản được phép giao dịch; phải tuân thủ các điều kiện, trình tự, thủ
tục, nội dung của từng giao dịch dân sự đó.
Có những giao dịch dân sự mục đích vi phạm điều cấm của pháp luật,
trái đạo đức xã hội nhưng nội dung không vi phạm điều cấm của pháp luật và
8

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×