Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng TMCP Quân đội chi nhánh Hoàn Kiếm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (737.75 KB, 110 trang )

Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Phan Hồng Mai
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động tín dụng là một mảng hoạt động lớn và đóng một vai trò hết sức quan
trọng trong toàn bộ hoạt động của Ngân hàng thương mại (NHTM). Tính quan trọng
của hoạt động tín dụng được thể hiện trước hết do nó mang lại nguồn thu nhập chiếm
tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập của NHTM, bên cạnh đó nhờ hoạt động này mà
NHTM có thể bán chéo sản phẩm, tạo nền tảng thu

hút hỗ trợ cho các hoạt động khác
như Bảo lãnh, thanh toán quốc tế, chuyển tiền Quan trọng hơn và đáng quan tâm hơn
cả là mặt trái của hoạt động này, hoạt động tín dụng có mang lại hiệu quả cao như vai
trò vốn có của nó hay không thì hoàn toàn phụ thuộc vào những rủi ro tiềm ẩn do nó
mang lại. Những rủi ro này không những làm cho hoạt động của NHTM kém hiệu quả,
mà hơn nữa nó làm cho NHTM mất đi tính thanh khoản vốn hết sức cần thiết và nhạy
cảm gây ra những tổn thất lớn thậm chí là sự phá sản đối với một NHTM.


Thực hiện quản trị tốt Hoạt động tín dụng không chỉ nâng cao hiệu quả, làm
tăng khả năng cạnh tranh của NHTM trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập ngày nay
mà còn đóng góp tích cực vào sự vận hành của nền kinh tế thông qua sự tác động của
cung - cầu tiền tệ dẫn đến làm thúc đẩy hay kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế, lạm
phát, khủng hoảng tiền tệ giúp cho Nhà nước thực hiện tốt vai trò quản lý Nhà
nước về hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
Ngân hàng TMCP Quân đội được thành lập năm 1994 theo Quyết định số
00374/GP-UB của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và hoạt động theo Giấy phép
số 0054/NH-GP của Ngân hàng Nhà nước. Định hướng trong giai đoạn đầu là trung
gian tài chính phục vụ các doanh nghiệp Quân đội tham gia phát triển kinh tế và
thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. Tuy nhiên, hòa cùng sự phát triển vượt bậc của nền
kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây, yêu cầu đa dạng hóa loại hình khách
hàng, mở rộng quy mô cho vay là một thực tế đặt ra cho NHQĐ.


Theo số liệu thống kê, hiện nay ở Việt Nam DNN&V chiếm tới 97% tổng số
doanh nghiệp, sử dụng 50% lực lượng lao động của nền kinh tế và đóng góp khoảng
40% GDP hàng năm. Tuy nhiên, một trong những khó khăn lớn nhất của các
DNN&V khi phát triển là thiếu vốn, chỉ khoảng 30% DNN&V tiếp cận được vốn
vay ngân hàng. Năng lực tài chính hạn chế đang trở thành cản trở trong quá trình
sản xuất kinh doanh của các DN. Các Ngân hàng thương mại nói chung và NHQĐ
nói riêng đã và đang có những chủ trương, chính sách mở rộng tín dụng cho vay đối
SV: Bùi Thị Cẩm Tú Mã SV: CQ502956
1
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Phan Hồng Mai
với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. NHQĐ nhận định đây là thị trường mục tiêu của
mình trong hiện tại và tương lai. Tuy nhiên, mặc dù chiếm hơn 97% tổng số doanh
nghiệp hiện có trên cả nước, các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang hoạt động trong môi
trường kinh tế chưa hoàn toàn thuận lợi cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Đó là những khó
khăn về công nghệ sản xuất kinh doanh, mô hình quản lý, trình độ, kỹ năng của đội
ngũ lãnh đạo và tay nghề của người lao động, phương thức tiếp thị sản phẩm. Đồng
thời, các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng gặp khá nhiều trở ngại trong việc tiếp cận các
thông tin, dịch vụ tài chính và vốn đầu tư.
Những đặc điểm nêu trên của doanh nghiệp nhỏ và vừa đặt ra yêu cầu cho
NHQĐ là làm thế nào để mở rộng thị phần cho vay nhưng vẫn phải đảm bảo chất
lượng tín dụng đối với đối tượng khách hàng này nhằm đưa NHQĐ trở thành một
trong những Ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu tại Việt Nam.
Trong bối cảnh hiện nay, nền kinh tế lạm phát tăng cao, các doanh nghiệp hoạt
động khó khăn do sự gia tăng lãi suất dẫn đến chất lượng tín dụng của các NHTM
nói chung cũng như NHQĐ bộc lộ những hạn chế nhất định, làm tăng nguy cơ nợ
xấu. Với tầm quan trọng của hoạt động tín dụng đối với NHTM và nền kinh tế cùng
kinh nghiệm thực tiễn công tác tại NHQĐ kết hợp với kiến thức được học tại
trường, em chọn đề tài nghiên cứu “Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng TMCP Quân đội chi nhánh Hoàn Kiếm” nhằm
củng cố kiến thức bản thân và góp phần nâng cao chất lượng tín dụng đối với loại

hình doanh nghiệp này của Ngân hàng TMCP Quân đội chi nhánh Hoàn Kiếm.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về Doanh nghiệp nhỏ và vừa, chất lượng tín dụng
đối với Doanh nghiệp nhỏ và vừa tại NHTM.
- Phân tích thực trạng thực trạng chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ
và vừa tại Ngân hàng TMCP Quân đội qua 3 năm, từ năm 2009 đến năm 2011.
- Đề xuất những giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối
với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng TMCP Quân đội chi nhánh Hoàn Kiếm.
3. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
tại NHTM.
- Phạm vi nghiên cứu: Chất lượng tín dụng của Ngân hàng TMCP Quân đội
trong 3 năm từ năm 2009 đến năm 2011.
4. Phương pháp nghiên cứu
SV: Bùi Thị Cẩm Tú Mã SV: CQ502956
2
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Phan Hồng Mai
Trên cơ sở phương pháp luận Duy vật biện chứng và Duy vật lịch sử, phương
pháp được sử dụng trong quá trình nghiên cứu Chuyên đề là:
- Phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế
- Phương pháp phân tích và tổng hợp
- Phương pháp so sánh và diễn dịch
- Phương pháp Thống kê và chuyên gia kết hợp sử dụng bảng, biểu đồ
Qua đó rút ra kết luận tổng quát về vấn đề cần nghiên cứu
5. Cấu trúc của Chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục sơ đồ, bảng biểu, kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo, Chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Tín dụng và chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và
vừa của Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và

vừa tại Ngân hàng TMCP Quân đội.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp
nhỏ và vừa tại Ngân hàng TMCP Quân đội.
SV: Bùi Thị Cẩm Tú Mã SV: CQ502956
3
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Phan Hồng Mai
CHƯƠNG 1
TÍN DỤNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng thương mại gắn liền với sự
phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và sự
đòi hỏi khách quan đối với NHTM và NHTM phát triển tạo điều kiện ngược lại thúc
đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Hình thức ngân hàng đầu tiên là ngân hàng của những thợ vàng hoặc ngân
hàng của những kẻ Tín dụng nặng lãi, thực hiện chủ yếu là tín dụng đối với các cá
nhân giàu có, quan lại. Nhiều chủ ngân hàng lớn còn mở rộng tín dụng đối với Vua,
Chúa nhằm tài trợ một phần cho nhu cầu chi tiêu chiến tranh và hình thức chủ yếu
là tín dụng thấu chi. Do lợi nhuận từ việc tín dụng mang lại lớn, nhiều chủ Ngân
hàng đã lạm dụng ưu thế của chứng chỉ tiền gửi (lưu thông thay vàng hoặc bạc),
phát hành chứng chỉ tiền gửi khống để tín dụng và dẫn đến các ngân hàng mất khả
năng thanh toán. Sự sụp đổ của các Ngân hàng dẫn đến khó khăn cho những nhà
buôn, bên cạnh đó lãi suất vay cao dẫn đến các nhà buôn đã tự thành lập Ngân hàng
với mục đích ban đầu chủ yếu tài trợ ngắn hạn và thanh toán hộ, gắn liền với quá
trình luân chuyển tư bản thương nghiệp và Ngân hàng này được gọi là Ngân hàng
thương mại . NHTM thực hiện các nghiệp vụ truyền thống là nhận tiền gửi, thanh
toán, cất giữ hộ và Tín dụng. Sự khác biệt cơ bản giữa NHTM và Ngân hàng thợ
vàng lúc đó là NHTM chủ yếu Tín dụng chiết khấu thương phiếu dựa trên quá trình

luân chuyển hàng hoá (các khoản phải thu) với lãi suất Tín dụng phù hợp (thấp hơn
lợi nhuận được tạo ra do sử dụng tiền vay).
Sự phá sản của các Ngân hàng dẫn đến sự hình thành nên các Ngân hàng tiền
gửi (chỉ giữ hộ, thanh toán hộ để thu phí, không Tín dụng). Đồng thời tại mỗi nước
trong những điều kiện khác nhau mà hình thành nên những loại hình Ngân hàng
khác nhau như: Ngân hàng tiết kiệm, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng đầu tư, Ngân
hàng Trung ương (Ngân hàng Nhà nước) … tạo nên hệ thống các Ngân hàng (trừ
Ngân hàng Trung ương có chức năng chủ yếu là xây dựng và quản lý chính sách
tiền tệ quốc gia) mỗi Ngân hàng thực hiện một số nghiệp vụ khác nhau song đều là
SV: Bùi Thị Cẩm Tú Mã SV: CQ502956
4
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Phan Hồng Mai
các trung gian tài chính thực hiện kinh doanh tiền tệ.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế, công nghệ đã tạo điều kiện cho hệ
thống Ngân hàng phát triển đa dạng. Do quá trình tích tụ và tập trung vốn trong ngân
hàng đã hình thành nên Ngân hàng cổ phần. Đồng thời tại mỗi nước trong những điều
kiện khác nhau mà hình thành nên những loại hình Ngân hàng khác nhau. Quá trình
phát triển đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa vai trò của Nhà nước đối với hoạt động
ngân hàng đã tạo ra các Ngân hàng sở hữu Nhà nước (NHTW). Sự mở rộng hoạt
động của các Ngân hàng sang các quốc gia khác đã thúc đẩy sự ra đời của Ngân
hàng liên doanh và các tập đoàn Ngân hàng phát triển mạnh mẽ vào những năm
cuối thế kỷ 20, tạo ra những nghiệp vụ mới như mở rộng cho vay trung - dài hạn,
cho vay đầu tư bất động sản, cho vay kinh doanh chứng khoán, cho vay tiêu dùng,
cho thuê tài sản … Bên cạnh đó, nhiều hình thức huy động tiền gửi cũng phát triển
như tiết kiệm trả lãi cuối kỳ, đầu kỳ, theo định kỳ, tiết kiệm an sinh, tích luỹ… đồng
thời nhờ có sự phát triển vượt bậc về công nghệ, trong lĩnh vực Ngân hàng nhiều
dịch vụ khác cùng phát triển như rút tiền tự động qua máy ATM 24/24 giờ, bảo lãnh
trong nước, mở L/C, mobile banking, internet banking Về qui mô Ngân hàng cũng
phát triển mạnh mẽ không chỉ mang tính quốc gia mà còn xuyên quốc gia mang tính
khu vực và toàn cầu.

NHTM là một định chế tài chính có vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh
tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng, vậy NHTM là gì:
Theo Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khoá
10 thông qua ngày 12/12/1997: “Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức
tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có
liên quan.(cũng theo luật này thì Tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp được
thành lập theo qui định của luật này và các qui định khác của pháp luật để hoạt
động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận
tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán)”
1.1.2. Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Huy động vốn
Là hoạt động khởi điểm sơ khai của NHTM trong quá trình hình thành và phát
triển. Ngày nay huy động vốn là một trong những hoạt động hết sức quan trọng của
NHTM. Huy động vốn đóng vai trò chủ đạo trong việc tạo ra nguồn vốn cho hoạt
động của NHTM. Vốn huy động chiếm tỷ trọng rất lớn trong nguồn vốn tín dụng và
là cơ sở cho hoạt động này.
SV: Bùi Thị Cẩm Tú Mã SV: CQ502956
5
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Phan Hồng Mai
Huy động vốn có các hình thức cơ bản sau:
- Huy động vốn chủ sở hữu: Là vốn thuộc quyền sở hữu của NHTM, là
nguồn tiền được đóng góp từ chủ Ngân hàng bỏ vào đầu tư ban đầu để thành lập
NHTM hoặc được hình thành thêm trong quá trình kinh doanh (các quỹ dự trữ, lợi
nhuận không chia). Ngoài ra, khi cần thiết vốn chủ sở hữu còn được huy động trong
quá trình hoạt động thông qua việc phát hành cổ phiếu để tăng vốn (về cơ bản cổ
phiếu bao gồm cổ phiếu thông thường và cổ phiếu ưu đãi).
- Huy động vốn nợ: Là hình thức huy động đóng vai trò quan trọng, mang lại
nguồn vốn lớn cho hoạt động của NHTM. Huy động vốn nợ bao gồm nhiều hình
thức huy động khác nhau:
+ Huy động vốn tiền gửi: Huy động theo hình thức này chủ yếu là tiền gửi của

dân cư và tổ chức dưới hình thức có kỳ hạn (chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm của dân
cư, tiền gửi chờ thanh toán của tổ chức) và không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán của tổ
chức). Đây là nguồn vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn
huy động vốn nợ của NHTM.
+ Huy động từ phát hành các công cụ nợ: Chủ yếu là phát hành kỳ phiếu và trái
phiếu. Kỳ phiếu dùng chủ yếu huy động vốn ngắn hạn cho các NHTM. Trái phiếu
phát hành để huy động vốn trung - dài hạn cho NHTM. Hình thức huy động thông
qua các công cụ nợ này mang tính ổn định hơn, làm tăng khả năng huy động vốn của
NHTM trong thời gian ngắn và hoàn toàn chủ động trong sử dụng nguồn vốn.
+ Huy động từ vay các NHTM: Các NHTM thực hiện việc đi vay nhằm điều
hoà vốn trong toàn hệ thống, tăng dự trữ đảm bảo tốt khả năng thanh khoản của
NHTM. Việc huy động vốn thông qua hình thức này thường đơn giản và nhanh gọn
có thể vay trực tiếp, vay qua Ngân hàng đại lý (hoặc NHTW) và khoản vay thường
không có bảo đảm (nếu có thường là chứng khoán của kho bạc).
+ Huy động từ vay NHTW: Thường là hình thức huy động cuối cùng trong
hoạt động huy động vốn của NHTM. Thường áp dụng cho việc vay để đảm bảo duy
trì dự trữ bắt buộc hay thiếu hụt thanh toán. Hình thức huy động này thường làm
giảm uy tín của NHTM trên thị trường.
+ Huy động từ nợ khác: Bao gồm huy động các khoản uỷ thác; tiền ký quỹ;
các khoản nợ thuế chưa nộp, lương chưa trả đây là hình thức huy động mang tính
thụ động và thường có khối lượng nhỏ không đáng kể.
1.1.2.2. Hoạt động Tín dụng
“Tín dụng là hoạt động cơ bản, cũng là hoạt động tiếp theo sau huy động vốn và
SV: Bùi Thị Cẩm Tú Mã SV: CQ502956
6
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Phan Hồng Mai
kinh doanh ngoại tệ. Hoạt động Tín dụng là hoạt động kế tiếp của hoạt động huy động
vốn và là hoạt động trọng yếu trong sử dụng vốn của NHTM, mang lại thu nhập chủ
yếu cho NHTM”. Thu nhập từ hoạt động tín dụng thường chiếm tỷ trọng lớn thậm chí
đến trên 90% trong tổng thu nhập của NHTM. Khi ngân hàng càng phát triển thì tỷ

trọng thu nhập từ hoạt động này có xu hướng giảm xuống do có các hoạt động nghiệp
vụ phái sinh và kèm theo là thu nhập từ các hoạt động phi tín dụng ngày càng gia tăng
nhằm đáp ứng nhu cầu dịch vụ cho khách hàng hiện đại như: Thanh toán, bảo lãnh,
kinh doanh ngoại tệ, rút tiền tự động Tuy nhiên về tỷ trọng thu nhập giảm, nhưng về
số lượng tuyệt đối (qui mô) ngày càng tăng nhanh. Hoạt động tín dụng là hoạt động hết
sức quan trọng của NHTM, vì là hoạt động mang lại thu nhập chính cho NHTM, là
hoạt động không thể thiếu làm nền tảng nhằm thu hút các dịch vụ khác cho NHTM,
nhưng ngược lại đó cũng là hoạt động chứa đựng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho NHTM.
Hoạt động tín dụng không tốt sẽ gây ảnh hưởng lớn đến tính thanh khoản, thậm chí dẫn
đến sự sụp đổ của NHTM.
Tín dụng của NHTM tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà có tiêu thức phân biệt
khác nhau như: Thời hạn tín dụng; sản phẩm tín dụng; mục đích cấp tín dụng; theo
ngành kinh tế; hình thức bảo đảm tiền vay và từ đó có các hình thức tín dụng khác
nhau như: Tín dụng ngắn hạn, trung - dài hạn; tín dụng có bảo đảm và tín dụng không
có bảo đảm; tín dụng công nghiệp, nông nghiệp, thương mại - dịch vụ, tín dụng cá
nhân, hộ kinh doanh, doanh nghiệp…
1.1.2.3. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, bao gồm:
+ Dịch vụ cung ứng các phương tiện thanh toán
+ Dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng
+ Dịch vụ thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc, đá quý
+ Thực hiện dịch vụ thu hộ, chi hộ các tổ chức và cá nhân
+ Phát triển các sản phẩm ngân hàng điện tử
+ Các sản phẩm khác như giữ hộ tài sản, thanh toán séc
1.1.2.4. Các hoạt động khác của NHTM:
- Kinh doanh ngoại tệ: NHTM thực hiện mua - bán ngoại tệ không chỉ để
kiếm lời mà còn mang tính chất phục vụ khách hàng nhằm tăng tính tiện ích (trọn
gói sản phẩm) trong hoạt động dịch vụ của NHTM. Các phương thức kinh doanh
ngoại tệ bao gồm: Giao dịch trao ngay, giao dịch có kỳ hạn, giao dịch hoán đổi.
- Phát hành bảo lãnh (bao gồm cả trong nước và nước ngoài): Là nghiệp vụ
phát hành chứng thư bảo lãnh cho khách hàng để bảo đảm nghĩa vụ của khách hàng

SV: Bùi Thị Cẩm Tú Mã SV: CQ502956
7
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Phan Hồng Mai
đối với bên thứ 3 theo một số điều kiện nhất định. Hoạt động này có nhiều hình
thức bảo lãnh như: Dự thầu, thanh toán, tạm ứng, thực hiện hợp đồng, bảo hành
công trình, chất lượng sản phẩm, bảo lãnh thuế, giao hàng, L/C….
- Chiết khấu các loại giấy tờ có giá (thương phiếu, tín phiếu, hối phiếu):
NHTM mua lại các giấy tờ có giá theo một tỷ lệ giá mua nhất định dựa trên cơ sở
cơ bản là mức độ rủi ro và thời hạn thanh toán còn lại của các loại giấy tờ này.
- Đầu tư: Bao gồm đầu tư kinh doanh chứng khoán, đầu tư góp vốn hay đầu
tư thông qua cổ phiếu dài hạn nhằm tham gia vào hoạt động quản trị/điều hành của
pháp nhân, ngoài ra các NHTM còn tham gia các hoạt động đầu tư kiếm lợi khác
như: Kinh doanh bất động sản, liên doanh, liên kết
- Ngoài ra các NHTM còn có nhiều dịch vụ khác như: Thanh toán, bao thanh
toán, quản lý tài khoản, bảo quản vật có giá, cung cấp dịch vụ đại lý, trả lương, rút
tiền tự động …
1.2. Tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát
triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.2.1. Tín dụng ngân hàng và doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.2.1.1. Khái niệm và đặc điểm, vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền
kinh tế hiện nay
a. Khái niệm:
Trong mỗi nền kinh tế đều hiện diện rất đa dạng những doanh nghiệp có quy
mô, loại hình, ngành nghề khác nhau. Nếu xét về quy mô doanh nghiệp, hiện nay
thường phân biệt hai loại doanh nghiệp: Doanh nghiệp có quy mô lớn và doanh
nghiệp nhỏ và vừa. Ở mỗi nền kinh tế khác nhau cũng như trong từng giai đoạn
phát triển của nền kinh tế, việc xác định DNN&V thường không có tính chất cố
định.
Tại Việt Nam, theo Nghị định số 90/2001/NÐ-CP của Chính phủ ngày
23/11/2001 về trợ giúp phát triển DNN&V, khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa

được định nghĩa như sau: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh
độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không
quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hằng năm không quá 300 người”. Như
vậy, với định nghĩa này, DNN&V được định nghĩa một cách đơn giản, không phân
biệt ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như không
đưa ra tiêu chí cụ thể để phân biệt giữa doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa.
Theo Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009 về trợ giúp phát triển
SV: Bùi Thị Cẩm Tú Mã SV: CQ502956
8
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Phan Hồng Mai
DNN&V, thay thế cho Nghị định số 90/2001/NÐ-CP, khái niệm doanh nghiệp nhỏ
và vừa được định nghĩa lại như sau: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh
đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: Siêu nhỏ,
nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản
được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình
quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên)” , cụ thể như sau (Định nghĩa 1):
Quy mô
Khu vực
Doanh
nghiệp siêu
nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Số lao
động
Tổng
nguồn vốn
Số lao
động
Tổng
nguồn vốn

Số lao động
I. Nông, lâm
nghiệp và thủy
sản
10 người
trở xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20
tỷ đồng
đến 100 tỷ
đồng
từ trên 200
người đến
300 người
II. Công nghiệp
và xây dựng
10 người
trở xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20
tỷ đồng
đến 100 tỷ

đồng
từ trên 200
người đến
300 người
III. Thương mại
và dịch vụ
10 người
trở xuống
10 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
50 người
từ trên 10 tỷ
đồng đến
50 tỷ đồng
từ trên 50
người đến
100 người
Trên giác độ vĩ mô ở Việt Nam là vậy, nhưng tại NHQĐ hiện nay, khái niệm
DNN&V được xác định theo phương pháp riêng (theo chương trình xếp hạng tín
dụng nội bộ). Quy mô hoạt động của khách hàng phụ thuộc vào ngành nghề mà
khách hàng đang hoạt động. Trong hệ thống chấm điểm này có 35 ngành nghề kinh
tế tương ứng với 35 bộ chỉ tiêu quy mô. Quy mô của khách hàng được xác định trên
cơ sở chấm điểm 4 chỉ tiêu sau:
Lớn Trung bình Nhỏ
Mỗi chỉ tiêu xác định quy mô của khách hàng được tính trên thang điểm từ 1
SV: Bùi Thị Cẩm Tú Mã SV: CQ502956
9
Số lượng lao

động
Doanh thu
thuần
Nguồn vốn chủ
sở hữu
Tổng tài sản
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Phan Hồng Mai
đến 8. Tổng hợp điểm của 4 chỉ tiêu sẽ được xác định quy mô của khách hàng theo
nguyên tắc:
- Các doanh nghiệp lớn là doanh nghiệp có tổng hợp điểm từ 22 – 32 điểm
- Các doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có tổng hợp điểm từ 12 – 21 điểm
- Các doanh nghiệp nhỏ có tổng hợp điểm nhỏ hơn 12.
(Định nghĩa 2)
Trong phạm vi Chuyên đề này sẽ sử dụng cả hai định nghĩa trên. Vì định nghĩa 1
là định nghĩa có tính chất chính thức, do đó các cuộc điều tra hay thống kê thường
sử dụng định nghĩa này. Còn định nghĩa 2 được sử dụng trong trường hợp số liệu
thống kê về hoạt động tín dụng đối với DNN&V tại Ngân hàng TMCP Quân đội.
b. Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa:
- Năng động, linh hoạt, sáng tạo trong sản xuất kinh doanh
- Nguồn lao động dồi dào nhưng trình độ hạn chế
- Nguồn lực tài chính hạn chế.
- Trình độ khoa học công nghệ lạc hậu
- Trình độ quản lý doanh nghiệp thấp
c. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với nền kinh tế
Về mặt lý luận và thực tế, DNN&V có vị trí quan trọng ở nhiều nước trên thế
giới trong đó bao gồm cả các nước công nghiệp phát triển và các nền kinh tế đang
phát triển. Có thể khái quát vai trò của DNN&V trong nền kinh tế như sau:
 Doanh nghiệp nhỏ và vừa giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân
và thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Đóng góp quan trọng vào GDP và tốc độ tăng
trưởng kinh tế. Làm tăng hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

Với sự phát triển nhanh về số lượng lẫn chất lượng, DNN&V đã đóng góp đáng
kể vào tăng trưởng kinh tế và sự gia tăng thu nhập các nước, làm tăng tính cạnh tranh,
giảm bớt mức độ rủi ro trong việc vận hành nền kinh tế. Các DNN&V cung cấp
nguyên liệu, sản xuất và tiêu thụ hàng hóa thâm nhập vào ngõ ngách thị trường
những nơi doanh nghiệp lớn không làm được. Ngoài ra, DNN&V còn có thể tham gia
đến 30 - 50% trên tổng kim ngạch xuất khẩu toàn nền kinh tế.
DNN&V còn giữ vai trò ổn định nền kinh tế. Với đặc điểm thường là những
nhà thầu phụ cho các doanh nghiệp lớn, sự điều chỉnh hợp đồng thầu phụ tại các
thời điểm cho phép nền kinh tế có được sự ổn định. Vì thế, DNN&V được ví là
thanh giảm sốc cho nền kinh tế. Đồng thời, DNN&V thường chuyên môn hóa vào
sản xuất một vài chi tiết được dùng để lắp ráp thành một sản phẩm hoàn chỉnh tạo
SV: Bùi Thị Cẩm Tú Mã SV: CQ502956
10
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Phan Hồng Mai
nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng cho nền kinh tế.
 Doanh nghiệp nhỏ và vừa có khả năng tận dụng các nguồn lực xã hội làm
tăng tính năng động của nền kinh tế
Về vốn: Với sự đa dạng hóa trong các loại hình và ngành nghề sản xuất kinh
doanh, DNN&V góp phần thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, làm gia tăng
giá trị của vốn đầu tư, hạn chế tiêu dùng không sinh lợi.
Về lao động: Tổng số lao động làm việc trong các doanh DNN&V chiếm tỷ lệ
đáng kể trong tổng số lao động quốc gia, có thể chiếm từ 50 - 80%. Khi những
doanh nghiệp lớn ứng dụng công nghệ tự động hóa, lao động phổ thông dư thừa dẫn
đến tình trạng thất nghiệp có thể xảy ra. DNN&V chính là nơi thu hút, tiếp nhận và
đảm bảo thu nhập cho họ.
Về kỹ thuật: DNN&V thường lựa chọn kỹ thuật phù hợp với trình độ lao động
và khả năng về vốn. Vì vậy, DNN&V có thể đầu tư công nghệ - kĩ thuật mới ở mức
trung bình hoặc tái sử dụng các công nghệ đã được sử dụng trên thị trường.
 Doanh nghiệp nhỏ và vừa là trụ cột của kinh tế địa phương, góp phần vào quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Nếu như doanh nghiệp lớn thường đặt cơ sở ở những trung tâm kinh tế của đất
nước, thì DNN&V lại có mặt ở khắp các địa phương và đóng góp quan trọng vào
thu ngân sách, vào sản lượng và tạo công ăn việc làm ở địa phương. Với sự tham
gia đầu tư, phát triển của DNN&V vào lĩnh vực nông nghiệp đã góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, thực hiện các chương trình xóa đói giảm
nghèo, tạo sự phát triển đồng đều, bền vững giữa các vùng và tích lũy vốn cho quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.2.1.2. Hoạt động tín dụng ngân hàng
a. Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Có thể nói tín dụng là hoạt động kinh doanh đặc thù của ngân hàng “Tín dụng”
xuất phát từ chữ Latin là Creditium (tiếng Anh là Credit), có nghĩa là sự tin tưởng,
tín nhiệm. Trong thực tế hoạt động tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau
tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể mà mỗi cách hiểu có một nội dung riêng
Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam, “tín dụng” có nghĩa là sự vay mượn. Tín
dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng giá trị dưới hình thức
vật hay tiền tệ, từ người sở hữu sang người sử dụng, sau đó hoàn trả lại với một
lượng giá trị lớn hơn.
Khái niệm tín dụng trên đây được thể hiện trên ba mặt cơ bản sau đây:
SV: Bùi Thị Cẩm Tú Mã SV: CQ502956
11
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Phan Hồng Mai
+ Có sự chuyển giao quyền sử dụng một lượng giá trị từ người này sang
người khác.
+ Sự chuyển nhượng này mang tính chất tạm thời.
+ Khi hoàn trả lại lượng giá trị đã chuyển giao cho người sở hữu, phải kèm
theo một lượng giá trị dôi thêm gọi là lợi tức.
Một quan hệ được gọi là tín dụng phải đầy đủ cả ba mặt trên.
Hiểu theo một cách đơn giản, tín dụng là sự trao đổi các tài sản hiện tại để
được nhận các tài sản cùng loại trong tương lai. Nói cách khác, hoạt động tín dụng
là quan hệ kinh tế, theo đó một người thỏa thuận để người khác sử dụng số tiền hay

tài sản của mình trong một thời gian nhất định với điều kiện hoàn trả và có lãi.
Tín dụng xuất hiện từ thời kỳ cổ đại dưới hình thức cho vay nặng lãi và phát
triển lâu dài, đa dạng cho đến ngày nay. Tín dụng ra đời và phát triển gắn với sự ra
đời và phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Trong đời sống, tín dụng hiện
diện dưới nhiều hình thái khác nhau phân theo chủ thể tham gia hoạt động tín dụng:
- Tín dụng thương mại: Có bản chất là quan hệ mua bán chịu hàng hóa, dịch
vụ giữa các doanh nghiệp, cá thể kinh doanh với nhau.
- Tín dụng nhà nước: Là quan hệ tín dụng giữa một bên là Chính phủ, một bên
là các chủ thể kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của chính phủ và thực hiện các
mục tiêu quản lý kinh tế.
- Tín dụng ngân hàng: Là hoạt động tín dụng quan trọng nhất, đó là việc các
NHTM huy động vốn của các khách hàng để sau đó cho vay các khách hàng khác
với mục đích kiếm lời - đó là quan hệ tín dụng mà Ngân hàng là chủ thể cho vay đối
với các đối tượng khác trong nền kinh tế với những điều kiện mà hai bên thỏa
thuận. Hoạt động tín dụng của các NHTM làm cho NHTM trở thành một trong
những trung gian tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế.
- Ngoài ra, việc Chính phủ hay các doanh nghiệp phát hành trái phiếu ra ngoài
công chúng để vay tiền cũng được xem là một hình thức tín dụng. Bên cạnh đó, hoạt
động cho thuê tài chính của các công ty cho thuê tài chính cũng được coi là một hình
thức tín dụng phổ biến trên nền kinh tế thị trường hiện nay.
Trong quan hệ tài chính - tín dụng có thể được hiểu theo một số nghĩa như sau:
- Xét theo góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể có thặng dư tiết kiệm
sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì hoạt động tín dụng được coi là phương pháp
chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
SV: Bùi Thị Cẩm Tú Mã SV: CQ502956
12
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Phan Hồng Mai
- Trong một quan hệ tài chính cụ thể, hoạt động tín dụng là một giao dịch về
tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể.
- Xét trên góc độ quan hệ giữa bên cho vay và bên đi vay thì hoạt động tín dụng

có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng.
- Nếu hoạt động tín dụng được xem xét như một chức năng của NHTM thì được
hiểu như sau: Hoạt động Tín dụng là một hoạt động giao dịch về tài sản (tiền hoặc
hàng hoá) giữa bên cho vay (Ngân hàng và các định chế tài chính khác nhau) và bên đi
vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác sau đây gọi chung là khách hàng),
trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên vay sử dụng trong một khoảng thời
gian nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn
gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Bản chất hoạt động tín dụng là một
hoạt động quan hệ về tài sản có hoàn trả và có một số đặc trưng cơ bản sau:
+ Tài sản trong quan hệ tín dụng Ngân hàng dưới hai hình thức là bằng tiền
và bằng tài sản Bất động sản hay động sản.
+ Vì phải hoàn trả nên người cho vay phải có cơ sở tin tưởng rằng người đi
vay sẽ hoàn trả đúng hạn (tín nhiệm hay tài sản ràng buộc nghĩa vụ của Người vay
đối với người cho vay).
+ Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách
khác người đi vay phải hoàn trả cả vốn gốc vay và lãi (đủ đảm bảo cho hoạt động
của người cho vay bù đắp chi phí và có được mức lợi nhuận nhất định tương xứng
với rủi ro mà NHTM có thể gánh chịu).
Theo Luật Các Tổ chức tín dụng năm 1997 và Sửa đổi Luật Các Tổ chức tín
dụng năm 2004, Điều 20, Khoản 8 và 10: “Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín
dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Cấp tín dụng
là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với
nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính,
bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác”.
Điều kiện tín dụng chủ yếu của Ngân hàng bao gồm: Khối lượng vốn vay,
thời hạn vay, tiền lãi người vay phải trả ngân hàng. Các yếu tố này được hai bên
thỏa thuận sao cho tiện lợi nhất cho cả người vay và ngân hàng. Người vay có tiền
để bù đắp những thiếu hụt trong chi tiêu của mình. Ngân hàng có thể cho vay để
kiếm được lợi nhuận tương ứng với mức rủi ro mà họ chấp nhận.
Như vậy, Tín dụng ngân hàng mang bản chất của quan hệ tín dụng nói chung. Đó

là quan hệ tin cậy lẫn nhau trong việc vay và cho vay giữa các ngân hàng, các TCTD
SV: Bùi Thị Cẩm Tú Mã SV: CQ502956
13
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Phan Hồng Mai
với các pháp nhân và thể nhân, được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
b. Các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tín dụng của NHTM
Tuỳ theo cách thức nhìn nhận hay phân chia, ta có thể có các nguyên tắc khác
nhau, nhưng nhìn chung lại có 03 nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tín dụng của
NHTM là: Hoàn trả đầy đủ gốc lãi đúng hạn; Vốn vay phải được sử dụng đúng mục
đích; Vốn vay phải có tài sản tương đương để bảo đảm. Cụ thể:
- Vốn vay phải được hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn: Đảm bảo tính
thanh khoản trong hoạt động là mục đích tối thượng của các NHTM, bởi lẽ vốn của
NHTM cho vay có nguồn gốc chủ yếu là vốn huy động (đi vay). Việc huy động vốn
đều có thoả thuận rõ ràng về thời hạn hoàn trả và lãi suất kèm theo. Để có hiệu quả
trong hoạt động của NHTM, thì việc dự trữ càng thấp (tới mức dự trữ bắt buộc theo
qui định của NHTW) hay cho vay càng nhiều thì thu nhập càng cao và ngược lại.
Tuy nhiên giữa cho vay và dự trữ là hai mặt trái ngược, dự trữ thấp, cho vay nhiều
thì không đảm bảo cho việc chi trả vốn huy động (hay tính thanh khoản thấp), nếu
dự trữ cao đảm bảo chắc chắn hơn tính thanh khoản thì chi phí dự trữ tăng và làm
cho thu nhập của NHTM giảm. NHTM luôn phải cân nhắc giữa cơ cấu cho vay
trong mối quan hệ với dự trữ để đảm bảo một tỷ lệ thích hợp theo khẩu vị rủi ro của
mỗi NHTM nhưng mức dự trữ không thấp hơn mức dự trữ bắt buộc theo qui định
của Ngân hàng Nhà nước cho từng thời kỳ. Đáp ứng đòi hỏi trên, các NHTM luôn
phải phân bổ số lượng tiền cho vay và thời hạn cho vay với cơ cấu thích hợp để giải
quyết mâu thuẫn này vì thế việc cho vay phải được hoàn trả đúng hạn mới đảm bảo
được khả năng thanh khoản của NHTM. Việc huy động tiền gửi của NHTM đòi hỏi
phải thanh toán trả gốc và lãi cho người gửi, đồng thời bên cạnh đó phải đảm bảo
chi phí cũng như mức lãi nhất định để NHTM duy trì hoạt động và chấp nhận rủi ro
trong hoạt động của mình, do đó việc cho vay đòi hỏi phải được hoàn trả đầy đủ cả
gốc và lãi với mức lãi suất đảm bảo chi trả cho người gửi, cho chi phí hoạt động của

NHTM và một mức lãi thích hợp cho việc chấp nhận rủi ro trong hoạt động.
- Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích: Nhằm bảo vệ an toàn vốn của
mình (bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn nợ) cho vay đối với khách hàng, NHTM phải
thỏa thuận với khách hàng về các mục đích sử dụng vốn vay trên cơ sở đảm bảo tính
hợp pháp, tính an toàn và quay vòng của đồng vốn nên các NHTM phải tiến hành
phân đoạn thị trường, thực hiện cấp hạn mức tín dụng cho từng lĩnh vực, xây dựng
các điều kiện cho vay khuyến khích hay hạn chế cụ thể, Để thực hiện mục đích đó,
NHTM phải thoả thuận với khách hàng việc sử dụng vốn vay theo những mục đích
SV: Bùi Thị Cẩm Tú Mã SV: CQ502956
14
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Phan Hồng Mai
cụ thể và được NHTM tiến hành thẩm định nhằm đánh giá các rủi ro tiềm ẩn để đưa
ra quyết định cho vay hay không cùng các điều kiện, biện pháp phòng ngừa kèm
theo. Thỏa thuận các điều kiện kèm theo mục đích sử dụng vốn vay đó nhằm tạo điều
kiện cho các NHTM kiểm soát được rủi ro của đồng vốn và có được biện pháp kịp
thời, chủ động xử lý nhằm giảm thiểu rủi ro mất vốn, dẫn đến ảnh hưởng khả năng
thanh khoản của NHTM. Do vậy vốn vay cần phải được sử dụng đúng mục đích.
- Vốn vay phải có tài sản tương đương để làm đảm bảo: Rủi ro trong hoạt
động kinh tế có thể làm ảnh hưởng đến vốn của các khách hàng trong hoạt động là
một tất yếu khách quan và từ đó làm ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn vay của
NHTM. Nhằm đảm bảo hơn nữa việc hạn chế những rủi ro này, NHTM cho vay
trên cơ sở phải có tài sản tương ứng để đảm bảo cho vốn vay nhằm dự phòng nguồn
thu cho NHTM khi có rủi ro xảy ra và tạo khả năng kiểm soát của NHTM cũng như
động lực để khách hàng vay vốn thực hiện hiệu quả hoá hoạt động kinh doanh của
mình nhằm thực hiện đúng các thoả thuận với NHTM.
c. Các hình thức tín dụng ngân hàng
Để có thể quản lý tốt hoạt động tín dụng, các Ngân hàng thường chia hoạt
động tín dụng theo nhiều tiêu thức khác nhau như thời hạn vay và thời điểm hoàn
trả tiền vay, loại tiền vay, bảo đảm tiền vay, theo đối tượng vay…
Hiện tại, có rất nhiều tiêu chí để phân loại tín dụng ngân hàng. Sau đây là một

số tiêu chí phổ biến được sử dụng để phân chia các hình thức tín dụng ngân hàng:
 Phân loại theo thời gian: Đây là cách phân loại tín dụng quan trọng và phổ
biến nhất được sử dụng tại các NHTM. Dựa vào cách phân loại này, có thể đánh giá
phần nào sự phù hợp giữa nguồn vốn huy động và các khoản tín dụng của ngân
hàng hay tính thanh khoản trong hoạt động của ngân hàng. Phân loại theo thời gian
bao gồm các hình thức tín dụng sau:
Tín dụng ngắn hạn: Là các khoản cho vay mà thời hạn không quá 12 tháng
(không quá 1 năm). Mục đích sử dụng vốn chủ yếu là nhu cầu vốn lưu động phát
sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hoặc nhu cầu tiêu dùng,
thanh toán của cá nhân có giá trị nhỏ.
Tín dụng trung hạn: Là các khoản vay có thời hạn trên 12 tháng (trên 1 năm)
và không quá 60 tháng (dưới 5 năm). Mục đích sử dụng vốn chủ yếu đối với doanh
nghiệp là để mở rộng quy mô, đầu tư trang thiết bị, công nghệ, nhằm tăng cường
sức sản xuất và cạnh tranh trên thị trường; đối với cá nhân là để đầu tư những tài
sản có giá trị lớn như nhà đất, xe ô tô
SV: Bùi Thị Cẩm Tú Mã SV: CQ502956
15
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Phan Hồng Mai
Tín dụng dài hạn: Là các khoản vay có thời hạn trên 60 tháng (trên 5 năm).
Đối với đối tượng vay vốn là doanh nghiệp, mục đích sử dụng vốn vay tương tự tín
dụng trung hạn nhưng thời hạn thu hồi vốn lâu hơn.
 Phân loại theo hình thức cấp tín dụng:
Cho vay: Là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách
hàng sử dụng một khoản tiền nhất định để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất
định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Cho vay là hình thức
cấp tín dụng phổ biến nhất và chiếm tỉ trọng lớn trong tổng tài sản cũng như thu
nhập của ngân hàng. Có một số hình thức cho vay cơ bản như sau:
• Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay phục vụ những khách
hàng có nhu cầu không thường xuyên, phát sinh từng lần riêng lẻ. Mỗi khoản vay
được lưu trữ thành các hồ sơ độc lập với sự kiểm soát tách biệt từng hồ sơ đó.

• Cho vay theo hạn mức: Là hình thức cho vay theo đó ngân hàng kí một hợp
đồng hạn mức tín dụng với khách hàng vay trong đó quy định những điều kiện cho
vay cơ bản như số tiền hạn mức, doanh số cho vay, lãi suất, thời gian cho vay tối đa
cho từng lần giải ngân, thời gian duy trì hạn mức Dựa trên quy định của hạn mức
tín dụng, khi phát sinh nhu cầu vay từng lần trong kì, khách hàng chỉ cần trình
phương án sử dụng tiền vay, cung cấp các chứng từ chứng minh phù hợp để đề nghị
được ngân hàng giải ngân.
• Cho vay thấu chi: Là hình thức cho vay theo đó Ngân hàng cho phép người
vay chi vượt quá số dư tài khoản tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn
nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định (hạn mức thấu chi).
• Cho vay gián tiếp: Là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian.
Các tổ chức này có thể nhận vài khâu của hoạt động cho vay từ ngân hàng hoặc
đứng ra bảo lãnh cho các thành viên vay vốn. Hình thức cho vay này thường áp
dụng với những món vay nhỏ, người vay phân tán hoặc cách xa ngân hàng.
Chiết khấu thương phiếu: Thương phiếu là công cụ tín dụng thương mại dùng
để xác nhận cho người thụ hưởng một trái quyền ngắn hạn về tiền đối với người
phải trả. Chiết khấu thương phiếu là việc Ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng
tương ứng với giá trị của thương phiếu (mệnh giá) trừ đi phần thu nhập của ngân
hàng (lợi tức và hoa hồng phí) để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn.
Bảo lãnh: Là cam kết của Ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực
hiện nghĩa vụ tài chính đối với bên thứ ba thay cho khách hàng khi khách hàng
SV: Bùi Thị Cẩm Tú Mã SV: CQ502956
16
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Phan Hồng Mai
không thực hiện đúng nghĩa vụ như đã cam kết. Mặc dù không phải xuất tiền ngay
khi bảo lãnh, song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi.
Cho thuê tài chính: Là việc ngân hàng xuất tiền mua tài sản để cho khách hàng
thuê theo những thỏa thuận của hợp đồng cho thuê. Sau thời gian nhất định, khách
hàng phải trả đủ gốc và lãi cho Ngân hàng. Đây là phương thức vay tài sản thông
qua hợp đồng cho thuê, kèm theo lời hứa đơn phương bán cho người thuê một giá

nhất định sau thời hạn cho thuê (có tính đến số tiền thuê đã trả).
Bao thanh toán: Là hình thức cấp tín dụng của TCTD cho bên bán hàng thông
qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán hàng hoá đã được
bên bán hàng và bên mua hàng thoả thuận trong hợp đồng mua bán hàng.
 Phân loại theo mức độ đảm bảo:
Tín dụng có đảm bảo: Đây là hình thức tín dụng được đảm bảo bằng tài sản
bảo đảm. Tài sản bảo đảm là những tài sản của người nhận tín dụng hay tài sản, uy
tín của người thứ ba.
Tín dụng không có đảm bảo: Hình thức này thường chiếm tỉ lệ nhỏ trong cơ cấu
tín dụng của Ngân hàng và chỉ áp dụng với các đối tượng có uy tín, có giao dịch ổn
định và thường xuyên với Ngân hàng hoặc có những điều kiện ưu đãi đặc biệt khác.
 Phân loại theo chủ thể vay vốn: Tín dụng được chia thành
- Cho vay chính phủ, các tổ chức tài chính
- Cho vay doanh nghiệp: (Doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ)
- Cho vay tư nhân, cá thể
1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của DNN&V
1.2.2.1. Vai trò hoạt động tín dụng đối với Ngân hàng Thương mại
Hoạt động tín dụng có vai trò quan trọng đối với NHTM. Trước hết nó là hoạt động
mang lại nguồn thu chủ yếu cho các Ngân hàng. Tiền lãi và phí tạo ra từ các khoản cho
vay chiếm hầu hết các nguồn thu của ngân hàng. Theo số liệu thống kê không chính
thức, nguồn thu từ lãi cho vay chiếm tới 70% thu nhập từ các NHTM ở Việt Nam.
Tuy nhiên, tầm quan trọng tương đối của khoản mục thu từ cho vay so với các
nguồn thu ngoài lãi vay tín dụng đang thay đổi rất nhanh cùng với quá trình phát
triển các dịch vụ thu phí. Thu từ phí ngày nay đang tăng lên nhanh hơn so với thu
lãi từ cho vay.
Ngoài ra, bên cạnh việc dự trữ thanh khoản và đầu tư, hoạt động tín dụng là
hoạt động sử dụng vốn chủ yếu của các Ngân hàng. Trong xu hướng các Ngân hàng
ngày càng đa dạng hóa danh mục các dịch vụ cung cấp, hoạt động tín dụng vẫn giữ
SV: Bùi Thị Cẩm Tú Mã SV: CQ502956
17

Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Phan Hồng Mai
vai trò của mình. Cho vay vẫn là khoản mục tài sản lớn nhất của Ngân hàng, thường
chiếm từ ½ đến ¾ giá trị tổng tài sản của ngân hàng.
Hoạt động tín dụng còn là cơ sở để các Ngân hàng thu hút và phát triển khách
hàng. Một trong những lý do ban đầu khách hàng tìm đến ngân hàng là do họ muốn
vay tiền để trang trải cho các chi tiêu của mình. Từ việc bán sản phẩm tín dụng,
ngân hàng có thể bán kèm và bán chéo các sản phẩm khác như dịch vụ gửi tiền,
thanh toán, dịch vụ bảo hiểm, ngân quỹ…
1.2.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
Hiện nay, nền kinh tế nước ta đang phát triển lên một cấp độ mới, nền kinh tế
hội nhập. Điều này khiến cho các chủ thể kinh doanh, đặc biệt là các DNN&V phải
đối mặt với những thách thức mới là sự cạnh tranh gay gắt từ phía các doanh nghiệp
nước ngoài (bên cạnh sự cạnh tranh vốn có từ phía các loại hình doanh nghiệp nội
địa khác). Trong bối cảnh đó, tín dụng ngân hàng nổi lên với vai trò là nguồn vốn
quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các DNN&V.
 Có thể nói, trong thời điểm hiện nay, tín dụng ngân hàng được coi là một trong
những nguồn vốn quan trọng của các DNN&V, bên cạnh các nguồn vốn tự có và
chiếm dụng. Thông qua tín dụng ngân hàng, các DNN&V có cơ hội tiếp cận với các
nguồn vốn nhàn rỗi từ dân cư và các tổ chức khác trong xã hội với chi phí vốn hợp lý.
Đây là nguồn vốn mà DNN&V có thể tiếp cận một cách tương đối linh hoạt, phù hợp
với nhu cầu về lượng vốn và thời điểm cần vốn của doanh nghiệp. Từ đó, chủ thể kinh
doanh này có cơ hội mở rộng quy mô kinh doanh, tăng doanh thu và lợi nhuận.
 Các doanh nghiệp nhỏ và vừa phần lớn gặp khó khăn khi cạnh tranh là do sự
lạc hậu về công nghệ, dẫn đến những khó khăn trong việc tìm kiếm thị phần cho
những sản phẩm, dịch vụ của mình. Tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn
vốn chính giúp DNN&V trang bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, hiện đại. Với sự phù
hợp về thời điểm cho vay, lượng vốn cho vay và thời gian cho vay của nguồn vốn
tín dụng ngân hàng, các DNN&V có cơ hội tiếp cận với các kỹ thuật công nghệ hiện
đại, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
 Không chỉ hỗ trợ đắc lực cho các DNN&V trong việc trang bị tài sản cố định,

nguồn vốn tín dụng ngân hàng còn đóng vai trò quan trọng trong việc giúp cho hoạt
động sản xuất kinh doạnh của đối tượng này diễn ra liên tục thông qua việc tài trợ
vốn lưu động kịp thời, đúng lúc. Nhờ đó, các DNN&V có thể mua nguyên vật liệu
dự trữ cho sản xuất cũng như chớp được các cơ hội kinh doanh.
Bên cạnh đó, tín dụng ngân hàng cũng tác động tích cực trong việc tiêu thụ sản
SV: Bùi Thị Cẩm Tú Mã SV: CQ502956
18
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Phan Hồng Mai
phẩm cho các doanh nghiệp thông qua việc mở rộng các dịch vụ tín dụng tiêu dùng,
cho vay hoặc bảo lãnh các tổ chức kinh tế, cá nhân hoạt đồng trong lĩnh vực phân
phối hàng hóa.
 Tín dụng ngân hàng cũng bao gồm đặc điểm chung của tín dụng là nguyên tắc
hoàn trả có kèm theo một khoản dôi thêm (gọi là lợi tức). Do đó, các khoản tín dụng
ngân hàng tạo áp lực cho các DNN&V phải hoạt động hiệu quả, có lãi để có thể hoàn trả
vốn vay cũng như để có thể tiếp cận các khoản vay khác trong tương lai. Mặt khác, quá
trình thẩm định, kiểm tra, giám sát trước và sau khi cho vay của Ngân hàng cũng tư vấn
giúp cho doanh nghiệp điều chỉnh các hoạt động kinh doanh của mình phù hợp hơn.
1.3. Chất lượng tín dụng Ngân hàng - Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng
tín dụng Ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.3.1. Khái niệm chất lượng tín dụng ngân hàng
Như ta thấy, chất lượng là đặc tính, công dụng của một sản phẩm hay dịch vụ
cụ thể nhằm đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng (được xã hội thừa nhận -
mang tính xã hội), như vậy chất lượng ở đây chủ yếu nhằm đáp ứng cho xã hội và
đó là mục đích hàng đầu và cũng là mục đích cuối cùng mà người cung cấp quan
tâm trước khi đạt được mục đích lợi nhuận. Tuy nhiên tín dụng là một dịch vụ đặc
biệt và nó cũng được cung cấp bởi một tổ chức đặc biệt hơn đó là NHTM, do đó
chất lượng tín dụng cũng mang tính đặc biệt hơn cả. Tính đặc biệt thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, là dịch vụ, nhưng nó phải mang tính hoàn trả cao. Thứ hai, là dịch vụ này
phải đáp ứng được cả yêu cầu của người dùng và Ngân hàng Thương mại (người
bán, người phục vụ). Thứ ba, là như hàng hoá thông thường chỉ được đa số người

tiêu dùng thừa nhận và sử dụng, nhưng dịch vụ tín dụng ở đây phải được xem xét và
thừa nhận đặc biệt hơn nữa là trên góc độ vĩ mô quản lý Nhà nước về kinh tế. Như
vậy Chất lượng tín dụng được hiểu gắn liền với nhiều góc độ xem xét, nhìn nhận
trên nhiều phương diện khác nhau từ khách hàng, NHTM, Xã hội Chuyên đề sẽ
nghiên cứu chất lượng tín dụng dưới góc độ của NHTM. Đối với NHTM chất lượng
tín dụng trước hết đảm bảo được khả năng an toàn (đảm bảo thu hồi vốn vay đúng
hạn đáp ứng tốt khả năng thanh khoản) và khả năng sinh lời (đảm bảo thu hồi đủ lãi
cho vay và đồng thời thu hút tốt hơn các dịch vụ khác cho Ngân hàng tạo nguồn thu
nhập cao, ổn định) là mục tiêu quan trọng.
Các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển trong sự cạnh tranh của nền kinh
tế thị trường cần phải nâng cao chất lượng sản phẩm/dịch vụ cung cấp. Xét các yếu
tố của hàng hoá có mối quan hệ qua lại với nhau là chất lượng, giá cả và số lượng,
SV: Bùi Thị Cẩm Tú Mã SV: CQ502956
19
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Phan Hồng Mai
có thể thấy chất lượng là yếu tố quan trọng nhất. Chất lượng sản phẩm được hiểu là
toàn bộ tính năng của sản phẩm phù hợp với những điều kiện quy định và nhằm
thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của xã hội. Yêu cầu đặt ra đối với nền kinh tế quốc dân
nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng là phải nâng cao chất lượng sản phẩm
phục vụ thị trường. Vấn đề này đặc biệt quan trọng đối với hoạt động của các
TCTD trên cả hai mặt huy động vốn và cho vay.
Xét về hoạt động tín dụng, chất lượng tín dụng và tăng trưởng tín dụng thường
được đề cập như hai vấn đề then chốt để tạo nên hoạt động tín dụng hiệu quả, lành
mạnh cho một Ngân hàng. Tăng trưởng tín dụng phản ánh sự vận động, phát triển hoạt
động cho vay về mặt lượng, còn chất lượng tín dụng phản ánh sự phát triển của hoạt
động cho vay về mặt chất. Nếu tăng trưởng tín dụng nhanh và phiến diện, không đi liền
với chất lượng tín dụng sẽ dẫn đến thất thoát vốn, tình trạng nợ quá hạn gia tăng và
nguy cơ đe doạ trực tiếp đến hiệu quả hoạt động và năng lực tài chính của Ngân hàng.
Một số vấn đề liên quan đến chất lượng tín dụng trên giác độ Ngân hàng như sau:
• Rủi ro khoản vay và lãi suất cho vay là hai phạm trù đi liền với nhau, rủi ro

cao thì lãi suất phải cao tương ứng. Vì vậy, để đảm bảo chất lượng khoản vay, Ngân
hàng cần biết cân đối hợp lý giữa rủi ro tín dụng và lãi suất, cần thận trọng khi chạy
đua theo mục đích tăng trưởng tín dụng.
• Ngân hàng cần kiểm soát được mục đích sử dụng vốn của người vay. Trước
hết để đảm bảo tính hợp pháp của khoản vay, cũng như làm tăng hiệu quả thu nợ.
• Ngân hàng cần cung cấp kèm theo khoản vay những tiện ích, dịch vụ gia
tăng đem lại sự thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
• Là một thực thể kinh tế hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, tín dụng ngân
hàng phải góp phần mở rộng khách hàng, mở rộng thị phần để phát triển kinh
doanh, tối ưu hóa lợi nhuận ngân hàng.
Tuy nhiên, hoạt động tín dụng liên quan tới ba chủ thể của nền kinh tế là người đi
vay, người cho vay và toàn bộ nền kinh tế trong mối quan hệ mật thiết, qua lại lẫn
nhau. Vì vậy, chất lượng tín dụng không những phụ thuộc vào bản thân của Ngân hàng
với các nhân tố chủ quan, phụ thuộc vào chính năng lực hoạt động của khách hàng mà
còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như khuynh hướng phát triển của nền kinh tế, sự
thay đổi của giá cả thị trường, môi trường pháp lý Chất lượng tín dụng là một khái
niệm tổng hợp, được thể hiện qua rất nhiều chỉ tiêu định lượng như kết quả kinh doanh,
nợ quá hạn, tỉ lệ tài sản bảo đảm, lãi treo và qua khả năng cạnh tranh, thu hút khách
SV: Bùi Thị Cẩm Tú Mã SV: CQ502956
20
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Phan Hồng Mai
hàng, uy tín và mức độ ảnh hưởng của Ngân hàng tới nền kinh tế
Hiểu rõ phạm trù chất lượng tín dụng sẽ giúp cho Ngân hàng có sự tổ chức và
quản lý hoạt động tín dụng nói riêng, hoạt động kinh doanh nói chung một cách đồng
bộ, hiệu quả và linh hoạt nhằm thoả mãn ngày càng đầy đủ yêu cầu của khách hàng
nội bộ cũng như khách hàng bên ngoài, trên mọi phương diện. Đồng thời, đề ra giải
pháp khắc phục hạn chế trong hoạt động tín dụng, giúp cho Ngân hàng tìm được
phương thức kinh doanh thích hợp để có thể đứng vững và phát triển trong nền kinh
tế thị trường đầy cơ hội và thách thức.
1.3.2. Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của một NHTM

Do chất lượng tín dụng là một khái niệm rộng dưới góc nhìn của các lĩnh vực
khác nhau thì có các chỉ tiêu khác nhau để phản ánh chất lượng tín dụng. Tuy nhiên
trong bài Chuyên đề này đề cập tới chất lượng tín dụng của NHTM dưới góc nhìn
của NHTM. Để phản ánh được chất lượng tín dụng thì chúng ta phải sử dụng hệ
thống nhiều chỉ tiêu khác nhau, mỗi chỉ tiêu hay nhóm chỉ tiêu chỉ phản ánh một
hoặc vài khía cạnh nhất định trong tổ hợp nhiều mặt của chất lượng tín dụng. Do
vậy ta xem xét từng nhóm chỉ tiêu bao gồm:
1.3.2.1. Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn
Nợ quá hạn là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá chất lượng
tín dụng của ngân hàng, nó phản ánh những rủi ro tín dụng mà ngân hàng phải đối
mặt. Căn cứ vào Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 và Quyết
định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/4/2007, có thể hiểu nợ quá hạn là khoản nợ đã
được chuyển và hạch toán quá hạn, phát sinh do một phần hoặc toàn bộ gốc và
(hoặc) lãi của khoản nợ đã đến hạn nhưng không được ngân hàng cơ cấu lại thời
hạn trả nợ (bao gồm nợ điều chỉnh kì hạn trả nợ và nợ gia hạn).
Hoạt động tín dụng của ngân hàng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro do chịu sự tác
động của nhiều nhân tố, trong đó có những nhân tố tác động nằm ngoài tầm kiểm
soát của chính ngân hàng và khách hàng. Vì vậy, trên thực tế, bất kì ngân hàng nào
cũng có một lượng nợ quá hạn nhất định. Điều mà các ngân hàng đang cố gắng thực
hiện là tìm mọi biện pháp để kiểm soát, duy trì nợ quá hạn ở một mức độ hợp lý.
Chỉ tiêu phản ánh nợ quá hạn của ngân hàng là tỷ lệ nợ quá hạn. Tỷ lệ nợ quá
hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của NHTM ở một thời điểm
nhất định (thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm).
Tỷ lệ nợ quá hạn = Dư nợ quá hạn/Tổng dư nợ x 100%
Tỷ lệ nợ quá hạn càng thấp càng đảm bảo an toàn tín dụng. Các ngân hàng
SV: Bùi Thị Cẩm Tú Mã SV: CQ502956
21
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Phan Hồng Mai
thường chấp nhận một tỷ lệ nợ quá hạn nhất định, được coi như là giới hạn an toàn.
Mức độ giới hạn an toàn của từng thời kì, cũng như của mỗi nền kinh tế là khác

nhau. Ở Việt Nam hiện nay, theo quan điểm của một số chuyên gia kinh tế thì tỷ lệ
này nên ở mức dưới 5%.
Để đánh giá chất lượng tín dụng, người ta thường phân tích trên các khía cạnh
như: Nguyên nhân nợ quá hạn (nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan),
cơ cấu nợ quá hạn (tập trung vào nhóm nợ nào), các đối tượng thường có nợ quá
hạn (theo thành phần kinh tế), mức độ tài sản bảo đảm cho khoản vay, khả năng thu
hồi của khoản vay
Giải quyết nợ quá hạn là mối quan tâm thường trực của tất cả các NHTM. Do
vậy, các NHTM phải thiết lập đầy đủ một loạt các chính sách như chính sách đầu
tư, chính sách khách hàng và các quy chế cho vay, kiểm soát cho vay chặt chẽ
cũng như các biện pháp xử lý nợ quá hạn.
1.3.2.2. Chỉ tiêu lợi nhuận
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng phản ánh chênh lệch giữa chi phí đầu vào (trả
chi phí huy động) và thu nhập đầu ra (lãi, phí và các khoản thu khác). Chỉ tiêu này
cao sẽ thể hiện chất lượng tín dụng của ngân hàng cao và ngược lại.
1.2.2.3. Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn
Hiệu quả sử dụng vốn = Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng/Doanh số cho vay
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng phản ánh chênh lệch giữa chi phí đầu vào (trả
chi phí huy động) và thu nhập đầu ra (lãi, phí và các khoản thu khác). Chỉ tiêu này
cho thấy 1 đồng vốn tín dụng bỏ ra sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận, từ đó
phản ánh khả năng sinh lời của vốn tín dụng. Chỉ tiêu này cao cho thấy các khoản
cho vay của ngân hàng đạt hiệu quả, đem lại lợi nhuận cao và ngược lại, khoản cho
vay không có khả năng sinh lời chứng tỏ chất lượng tín dụng chưa tốt.
1.3.2.4. Chỉ tiêu lãi chưa thu được (lãi treo)
Cùng với chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn, chỉ tiêu lãi chưa thu được (hay còn gọi
là lãi treo) cũng phản ánh chất lượng tín dụng. Đối với khoản vay có nợ gốc phải
hạch toán chuyển nợ quá hạn mà chưa thu được lãi thì nợ lãi trong phạm vi 3 tháng
được ghi nhận là dự thu lãi. Trường hợp quá 3 tháng mà chưa thu được lãi thì lãi dự
thu được chuyển thành lãi treo và theo dõi ngoại bảng. Nếu tỉ lệ lãi treo trong kì so
với tổng số lãi tín dụng phải thu trong kì càng cao thì chất lượng tín dụng càng thấp.

1.3.2.5. Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng
Vòng quay vốn tín dụng = Doanh số thu nợ/Dư nợ bình quân
SV: Bùi Thị Cẩm Tú Mã SV: CQ502956
22
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Phan Hồng Mai
Doanh số thu nợ phản ánh tổng số nợ thu hồi được trong một kỳ (thường là một
năm). Dư nợ bình quân phản ánh quy mô tín dụng trung bình trong năm, được xác
định bằng tỉ số giữa tổng dư nợ các ngày trong kỳ và tổng số ngày trong kì. Chỉ tiêu
này cao thể hiện khả năng luân chuyển vốn tín dụng, công tác xác định kỳ hạn nợ và
tổ chức thu hồi nợ vay của ngân hàng tốt. Khi chỉ tiêu này thấp sẽ cho thấy một hoặc
cả hai vấn đề nợ khó đòi ở mức cao và/hoặc doanh số cho vay giảm dẫn đến giảm
chất lượng tín dụng của ngân hàng.
1.3.2.6. Dư nợ theo nhóm nợ
Là chỉ tiêu đóng vai trò quan trọng trong việc phản ánh chất lượng tín dụng,
chủ yếu mang tính định lượng về số lượng và cơ cấu dư nợ tín dụng được phân loại
theo nhóm nợ, thông qua đó các NHTM có thể biết được tình trạng tín dụng về mặt
số lượng, qui mô của mình và tiến hành thực hiện cơ cấu hóa lại các khoản vay theo
hướng qui mô và tỷ trọng có lợi nhằm nâng cao chất lượng tín dụng. Để có thể hiểu
phần này ta xem xét một số khái niệm phân loại nợ theo quyết định 493/2006/QĐ-
NHNN ngày 22/04/2006 của NHNN V/v Phân loại nợ và trích DPRR của các Tổ
chức tín dụng và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 của NHNN
về việc sửa đổi bổ sung quyết định 493/2006/QĐ- NHNN như sau:
 Nợ nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn): Là nợ
+ Trong hạn (chưa gia hạn) và các TCTD đánh giá là có khả năng thu hồi đầy
đủ cả lãi và gốc đúng hạn.
+ Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và các TCTD đánh giá là có khả năng
thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn còn
lại đúng hạn
 Nợ nhóm 2 (Nợ cần chú ý): Là các khoản nợ
+ Đã gia hạn nợ và còn trong thời gian đã gia hạn hoặc nợ quá hạn từ 10 đến

90 ngày.
+ Đã điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu và TCTD có hồ sơ đánh giá khách hàng có
khả năng trả nợ đầy đủ gốc và lãi đúng kỳ hạn đã được điều chỉnh lần đầu.
 Nợ nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn): Là các khoản nợ
+ Đã quá hạn từ 91 đến 180 ngày
+ Đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn
phân loại vào nhóm 2.
+ Được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không có khả năng trả nợ đầy đủ
theo hợp đồng tín dụng.
SV: Bùi Thị Cẩm Tú Mã SV: CQ502956
23
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Phan Hồng Mai
 Nợ nhóm 4 (Nợ nghi ngờ ): Là các khoản nợ
+ Đã quá hạn từ 181 đến 360 ngày
+ Đã được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời
hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
+ Đã được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai.
 Nợ nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn): Là các khoản nợ
+ Đã quá hạn trên 360 ngày.
+ Đã được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu và đã quá hạn trên 90 ngày trở lên.
+ Đã được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai và đã quá hạn theo thời hạn cơ
cấu lại lần thứ hai.
+ Đã được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên (chưa quá hạn và đã quá hạn).
Các nhóm nợ từ 3 đến 5 được gọi chung là nợ xấu
Ngoài những tiêu chuẩn cho từng nhóm nợ nêu trên còn có một số tiêu chuẩn khác
như phân loại lại nợ vào nhóm thấp hơn khi đáp ứng được một số điều kiện thanh toán nợ
hay phân nhóm nợ cao hơn khi có nhóm nợ được phân loại cao hơn với một số khoản nợ
khác đối với cùng một khách hàng. Bên cạnh đó các NHTM có thể chủ động xây dựng hệ
thống xếp hạng tín dụng nội bộ để chủ động phân loại nợ theo khả năng đánh giá của
NHTM dựa trên khả năng trả nợ của khách hàng. Trên cơ sở khái niệm trên, tương ứng

với các nhóm nợ ta có hệ thống các chỉ tiêu dư nợ theo nhóm nợ như sau:
(1) Tỷ trọng dư nợ nhóm (1)/ Tổng dư nợ: Phản ánh mức độ nợ đạt tiêu chuẩn
của NHTM
(2) Tỷ trọng dư nợ nhóm (2)/ Tổng dư nợ: Phản ánh mức độ nợ cần chú ý.
(3) Tỷ trọng dư nợ xấu/ Tổng dư nợ Phản ánh mức độ nợ dưới tiêu chuẩn.
1.3.2.7. Cơ cấu dư nợ và huy động vốn theo thời hạn (Hiệu suất sử dụng vốn vay):
Phản ánh quan hệ giữa sử dụng vốn và huy động vốn, xem xét cơ bản tính thanh
khoản trong hoạt động của Ngân hàng thương mại.
(4) Tỷ trọng dư nợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
(5) Tỷ lệ vốn huy động ngắn hạn sử dụng cho vay trung-dài hạn.
1.3.2.8. Cơ cấu dư nợ theo tài sản bảo đảm
Cho thấy mức độ tài sản đảm bảo để dự phòng khả năng rủi ro xấu nhất.
(6) Tỷ trọng dư nợ có bảo đảm/ Tổng dư nợ, Cho thấy một đồng dư nợ có
bao nhiêu đồng TSĐB kèm theo. Tỷ trọng này càng lớn cho thấy việc cho vay của
NHTM có nhiều dư nợ được đảm bảo an toàn bằng tài sản hay có nguồn thu nợ dự
phòng nhiều hơn
SV: Bùi Thị Cẩm Tú Mã SV: CQ502956
24
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Phan Hồng Mai
1.3.2.9. Cơ cấu dư nợ theo ngành kinh tế
(7) Cơ cấu dư nợ theo ngành KT: Phản ánh mức độ đa dạng hoá nợ cho vay
nhằm phân tán rủi ro của hoạt động tín dụng của NHTM theo từng ngành kinh tế.
Tỷ trọng dư nợ theo từng ngành kinh tế/ Tổng dư nợ.
1.3.2.10. Cơ cấu doanh thu
Cơ cấu doanh thu phản ánh được tỷ trọng doanh thu từ hoạt động tín dụng
trong tổng doanh thu của NHTM. Nếu cùng điều kiện dư nợ, nếu doanh thu từ hoạt
động tín dụng làm gia tăng doanh thu từ hoạt động phi tín dụng càng lớn thì rủi ro
tín dụng của NHTM càng nhỏ hơn và hoạt động tín dụng càng có hiệu quả.
(8) Tỷ trọng doanh thu từ hoạt động tín dụng = Doanh thu từ hoạt động tín
dụng / Tổng doanh thu.

Ngoài một số chỉ tiêu cơ bản phản ánh nêu trên, khi đánh giá chất lượng tín
dụng của một ngân hàng, người ta còn sử dụng một số chỉ tiêu như: Nhóm chỉ tiêu
về doanh số hoạt động tín dụng (gồm có doanh số cho vay và doanh số thu nợ qua
các năm), tỷ lệ vốn vay sử dụng sai mục đích Các chỉ tiêu này góp phần phản ánh
một cách toàn diện chất lượng tín dụng của ngân hàng.
1.3.3. Sự cần thiết nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa
Là chủ thể có vai trò quan trọng, chiếm tỉ lệ lớn về số lượng doanh nghiệp
trong nền kinh tế, DNN&V có mối quan hệ ngày càng chặt chẽ với các NHTM và
TCTD. Tín dụng ngân hàng góp phần gắn kết chặt chẽ hơn mối quan hệ này với
một chu trình từ hoạt động cho vay tới hoạt động sản xuất kinh doanh và tác động
của hai hoạt động này tới sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy, nâng cao chất lượng
tín dụng đối với DNN&V là yêu cầu tất yếu đối với sự tồn tại và phát triển của cả
ngành ngân hàng, các DNN&V và nền kinh tế nói chung.
Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNN&V được thể hiện
qua một số điểm sau:
• Với thực tế hiện nay là nguồn thu từ hoạt động tín dụng vẫn chiếm tới
khoảng 70% trong tổng doanh thu của NHTM thì mở rộng tín dụng phải đi đôi với
nâng cao chất lượng tín dụng để đảm bảo tính ổn định của nguồn thu này. Hiện nay,
ngoài các NHTM quốc doanh có danh mục khách hàng lớn và truyền thống, đối
tượng cho vay của hệ thống ngân hàng có xu thế hướng về DNN&V do đặc điểm linh
hoạt, nhạy bén trong hoạt động của các doanh nghiệp này. Hoạt động tín dụng đối với
DNN&V ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động tín dụng nói chung của
SV: Bùi Thị Cẩm Tú Mã SV: CQ502956
25

×