Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Anh chị hãy làm rõ vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Vấn đề này hiện hay được Đẳng và Nhà Nước chúng ta giải quyết như thế nào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.56 KB, 13 trang )

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
BÀI TẬP LỚN
M Ô N: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề bài:
“Anh chị hãy làm rõ vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Vấn đề này hiện hay được Đẳng và Nhà Nước chúng ta giải quyết như
thế nào?”
Giáo viên hướng dẫn:
Thạc sỹ: Lê Thị Hoa
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Thị Vân Anh
Mã SV : CQ520173
Lớp : Tư tưởng Hồ Chí Minh
Hà Nội, tháng 10 năm 2011
Cả cuộc đời chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành trọn cho nhân dân, đất nước,
cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng con người, giải phóng nhân loại cần lao
thoát khỏi mọi áp bức, bất công, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc.
Cũng chính vì vậy, vấn đề dân tộc, vấn đề giai cấp và giải quyết các vấn đề dân
tộc, giai cấp đã được Người quan tâm, nghiên cứu suốt cả cuộc đời. Tư tưởng
Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề
cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến
cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển
chủ nghĩa Mác-Lênin và điều kiện cụ thể nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh
hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và
giải phóng con người. Tư tưởng của Người chính là kim chỉ nam, là ngọn đuốc
sáng soi đường cho Cách mạng dân tộc ta thắng lợi.
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
Thứ nhất, giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam - một nước thuộc địa
nửa phong kiến, trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc,
đánh đuổi quân xâm lược, đánh đổ bọn tay sai, giành độc lập cho dân tộc, tự
do cho nhân dân, hoà bình và thống nhất đất nước.


Chủ nghĩa thực dân luôn che đậy sự xấu xa, độc ác, chế độc bóc lột giết
người của mình bằng những châm ngôn bác ái, bình đẳng… Là 1 người con của
nước nô lệ đi tìm đường cứu nước, nhiều lần chứng kiến tội ác dã man của Chủ
nghĩa thực dân đối với đồng bào mình và các dân tộc bị áp bức trên thế giới,
người thấy rõ một dân tộc không có quyền bình đẳng vì dân tộc đó mất độc lập
tự do. Muốn có bình đẳng dân tộc thì các dân tộc thuộc địa phải được giải
phóng khỏi chủ nghĩa thực dân.
Dân tộc đó phải được độc lập toàn diện về chính trị, kinh tế, an ninh, toàn
vẹn lãnh thổ và quan trọng nhất là độc lập về chính trị.
Mọi vấn đề chủ quyền quốc gia phải do người dân nước đó tự quyết định.
Nền độc lập thực sự phải được thể hiện ở cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc của người dân.
Vì thế, nền độc lập của Việt Nam phải theo nguyên tắc nước Việt Nam
của người Việt Nam, mọi vấn đề về chủ quyền quốc gia phải do người dân Việt
Nam tự quyết định, không có sự can thiệp của nước ngoài.
Quyền độc lập, bình đẳng dân tộc là quyền thiêng liêng, quý giá nhất và
bất khả xâm phạm. “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là lẽ sống, là triết lý
cách mạng của Hồ Chủ Tịch và của dân tộc VIệt Nam. Đó cũng là nguồn cổ vũ
to lớn đối với các dân tộc bị áp bức, đấu tranh cho một nền độc lập tự do, thống
nhất đất nước, dân chủ, ấm no, hạnh phúc của người dân.
Hồ Chí Minh luôn luôn lên án mạnh mẽ chế độ cai trị hà khắc, sự bóc lột
tàn bạo của thực dân Pháp ở Đông Dương trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hóa, giáo dục. Người chỉ rõ sự đối kháng giữa các dân tộc bị áp bức với chủ
nghĩa đế quốc thực dân là mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa, đó là mâu thuẫn
không thể điều hòa được.
Người coi mục tiêu đấu tranh vì độc lập của Tổ quốc, tự do của đồng bào
là lẽ sống của mình. Quyền độc lập dân tộc không tách rời quyền con người và
độc lập là điều kiện tiên quyết để mang lại hạnh phúc cho mọi người dân của
đất nước mình. Đồng thời, độc lập dân tộc còn là điều kiện để dân tộc Việt Nam
được quyền sống bình đẳng với các dân tộc khác trên thế giới và các dân tộc

trong nước ta được chung sống bên nhau một cách bình đẳng, hoà thuận và
cùng nhau đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Thứ hai, lựa chọn con đường phát triển của dân tộc. Sau khi giành được
độc lập dân tộc phải đưa đất nước tiến lên xây dựng Chủ nghĩa Xã Hội, nhằm
giải phóng con người, giải phóng xã hội, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, vươn
tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi người, mọi dân tộc.
Để giải phóng dân tộc, cần xác định con đường phát triển của dân tộc, vì
phương hướng phát triển dân tộc quy định những yêu cầu và nội dung trước mắt
của cuộc đấu tranh giành độc lập. Mỗi phương hướng phát triển đều gắn liền
với một hệ tư tưởng và một giai cấp nhất định. Từ thực tiến phong trào cứu
nước của cha ông và lịch sử nhân loại, Hồ Chí Minh khẳng định phương hướng
phát triển của dân tộc trong bối cảnh thời đại mới là chủ nghĩa xã hội.
Hoạch định con đường phát triển của dân tộc thuộc địa là một vấn đề hết
sức mới mẻ. Từ một nước thuộc địa đi lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua nhiều
giai đoạn chiến lược khác nhau. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh có viết: “Làm tư sản dân quyền Cách mạng
và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Con đường đó kết hợp cả nội
dung dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; xét về thực chất chính là con đường
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam nếu chỉ dừng lại ở
cuộc đấu tranh để giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân thì sự nghiệp
cách mạng đó mới chỉ đi được một chặng đường ngắn mà thôi. Bởi có độc lập,
có tự do mà nhân dân vẫn đói khổ, thì nền độc lập tự do ấy cũng chẳng có ý
nghĩa gì.
Hồ Chí Minh đã thấu hiểu cảnh sống nô lệ, lầm than, đói rét và tủi nhục
của nhân dân các dân tộc Việt Nam trong thời thực dân, phong kiến. Bởi vậy,
một trong những nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định của sự nghiệp giải
phóng xã hội, giải phóng con người, theo Hồ Chí Minh là phải xoá bỏ nghèo
nàn và lạc hậu, vươn tới xây dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc thật sự
cho tất cả mọi người. Đó là ước nguyện, là ham muốn tột bậc của Hồ Chí Minh

và là ước nguyện mong mỏi bao đời nay của nhân dân các dân tộc Việt Nam.
Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho
nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
Chứng kiến cảnh sống lầm than, khổ cực, bị bóc lột tới thậm tệ của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động ở thuộc địa và chính quốc, chứng kiến
cảnh sống trái ngang của bọn tư sản, thực dân giàu có và gian ác, nên con
đường giải phóng xã hội, giải phóng con người mà cả Hồ Chí Minh và C. Mác,
Ph. Ăngghen, V. I. Lênin đều khẳng định là phải tiến lên chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản, chứ không phải là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa,
càng không phải là quay trở lại chế độ phong kiến.
Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định trước sau như một, là chỉ có
chủ nghĩa xã hội mới có đủ cơ sở và điều kiện để thực hiện công cuộc giải
phóng con người một cách triệt để và thiết thực. Tức là thực hiện được đầy đủ
các quyền của con người, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc của tất cả mọi người.
Cũng chính vì vậy mà con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và độc lập phải
gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, và là mục tiêu chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản
Việt Nam suốt hai phần ba thế kỷ và mãi mãi về sau.
Xuất phát từ hoàn cảnh của Việt Nam, đi lên chủ nghĩa xã hội từ một
nước nông nghiệp nghèo nàn, hậu quả của bọn thực dân, phong kiến để lại rất
nặng nề nên Hồ Chí Minh cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân
dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được học hành, ốm đau có
thuốc, già không lao động thì được nghỉ, những phong tục tập quán không tốt
dần dần được xoá bỏ… tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng,
tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”.
“Đi tới xã hội cộng sản” là hướng phát triển lâu dài. Nó quy định vai trò
lãnh đạo của Đẳng Cộng sản, đoàn kết mọi lực lượng dân tộc, tiến hành các
cuộc cách mạng chống đế quốc và chống phong kiến cho triệt để.

Con đường đó phù hợp với hoàn cảnh lịnh sử cụ thể ở thuộc địa. Đó cũng
là nét độc đáo, khác biệt với con đường phát triển dân tộc đã phát triển lên chủ
nghĩa tư bản ở phương Tây.
Thứ ba, phải thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc và đoàn kết,
giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Hồ Chí Minh chẳng những là người quan tâm đến đoàn kết dân tộc, mà
chính Người là hiện thân của sự đoàn kết đó, là người trực tiếp tổ chức khối đại
đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống lại mọi biểu hiện gây chia rẽ,
hiềm khích, kỳ thị dân tộc để thực hiện tình đoàn kết trong đại gia đình các dân
tộc Việt Nam. Bài học kinh nghiêm về đoàn kết trong cách mạng Việt Nam
được Người tổng kết thành 14 chữ vàng như sau:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
Để thực hiện quyền bình đẳng và xây dựng tình đoàn kết, giúp đỡ lẫn
nhau cùng tiến bộ trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, xuất phát từ hoàn
cảnh và điều kiện sống của các dân tộc ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đặc biệt
quan tâm đến đồng bào dân tộc ít người, sống ở miền núi, vùng sâu và vùng xa
của đất nước. Bởi, theo Người so với đồng bào sống ở miền xuôi, vùng đồng
bằng và đô thị, thì đời sống của đồng bào ở miền núi, xét trên mọi phương diện,
còn thấp và gặp rất nhiều khó khăn. Thực tế cho thấy, miền núi và vùng sâu,
vùng xa của đất nước ta, là nơi có điều kiện tự nhiên không thuận lợi, trình độ
sản xuất và văn hoá của nhân dân nơi đây còn rất thấp. Nơi ăn, chốn ở, trường
hợc, cơ sở y tế và giao thông đi lại còn nhiều khó khăn và thiến thốn. Bên cạnh
đó, do trình độ dân trí thấp nên những thủ tục lạc hậu, mê tín, di đoạn còn rất
nặng nề.
Hơn nữa, khu vực miền núi nước ta – nơi làm ăn sinh sống chủ yếu của
đồng bào các dân tộc ít người, là nơi giáp biên giới với số nước láng giềng, xa
đồng bằng, địa bàn hiểm trở, dân cư thưa thớt, nhiều vùng vốn là căn cứ địa
cách mạng quan trọng của cách mạng Việt Nam trước đây. Bởi vậy, quan tâm
đến đồng bào dân tộc ít người vừa thể hiện tính nhân văn sâu sắc của Hồ Chí

Minh trong chế độ mới, vừa có ý nghĩa kinh tế và quốc phòng to lớn đối với cả
hiện tại và tương lai của đất nước.
Sự quan tâm, giúp đỡ đối với đồng bào các dân tộc ít người theo Hồ Chí
Minh, là trách nhiệm của toàn Đảng và toàn dân, của tất cả các cấp, các ngành,
từ Trung ương đến địa phương, bằng những việc làm cụ thể và thiết thực.
Thứ tư, phải đoàn kết, thương yêu người Việt Nam sống ở nước ngoài và
thân thiện với người nước ngoài sống ở Việt Nam.
Vì nhiều lý do khác nhau, dẫn đến một thực tế của đời sống thế giới, là
người dân của nước này đến cư trú và làm ăn sinh sống ở nước khác và ngược
lại. Giải quyết thực trạng đó ở mỗi quốc gia, dân tộc và mỗi chính đảng, thậm
chí với từng nhà lãnh đạo có những quan điểm và chủ trương chính sách khác
nhau.
Đối với người nước ngoài sống ở Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn thể hiện
thái độ ôn hoà và thân thiện với họ. Trong Lời tuyên bố với quốc dân sau khi đi
Pháp về (23/10/1946), Hồ Chí Minh nêu rõ: “Người Pháp ở Pháp đối với ta rất
thân thiện, thì người Việt ở Việt đối với người Pháp cũng nên thân thiện. Đối
với quân đội Pháp ta phải lịch sự. Đối với kiều dân Pháp ta phải ôn hoà. Để tỏ
cho thế giới biết rằng ta là một dân tộc văn minh. Để cho số người Pháp ủng
hộ ta càng thêm đông, sức ủng hộ càng thêm mạnh. Để cho những kẻ thù khiêu
khích muốn chia rẽ, không có thể và không có cớ mà chia rẽ. Để cho công cuộc
thống nhất và độc lập của chúng ta chóng thành công.”
Hồ Chí Minh hết sức trân trọng quyền con người. Người đã tìm hiểu và
tiếp nhận những nhân tố về quyền con người được nêu trong Tuyên ngôn độc
lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách
mạng Pháp, như quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc. Người khẳng định: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi
được”.
Nhưng từ quyền con người, Hồ Chí Minh đã nâng cao lên thành quyền
dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có quyền bình đẳng, dân
tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.

Độc lập tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Hồ Chí
Minh nói: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả
những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Khát vọng đó được thể
hiện trong ản Yêu sách mà Hồ Chủ Tịch gửi tới hội nghị Véc-xây năm 1919,
bản Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng năm 1930. Tháng 8-1945, Người
đúc kết ý chí đấu tranh cho độc lập, tự do của nhân dân ta trong câu nói bất hủ:
“dù hy sinh đến đâu, dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên
quyết dành cho được độc lập”. Tuyên ngôn độc lập được Hồ Chí Minh thay mặt
Chính phủ lâm thời đọc tại Quảng trường Ba Đình đã long trọng khẳng định
trước toàn thế giới “Nước Việt Nam có quyền hưởng tư do và độc lập. Toàn thể
dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải
để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Ý chí và khát vọng của dân tộc Việt Nam, tư tưởng vĩ đại của Hồ Chủ
Tịch luôn được khẳng đinh trong các văn kiện lịch sử. Độc lập, tự do là mục
tiêu phấn đấu, là nguồn sức mạnh tạo nên chiến thắng của dân tộc Việt Nam
trong thế kỷ XX, một tư tưởng lớn trong thời đại giải phóng dân tộc. “Không có
gì quý hơn độc lập, tự do” là khẩu hiệu hành động của dân tộc Việt Nam, đồng
thời cũng là nguồn cổ vũ các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới đang đấu tranh
chống chủ nghĩa thực dân.
Từ những năm 20 của thế ky XX, khi các quốc gia tư bản phương Tây đã
chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, chiến tranh xâm lược thuộc địa và
thiết lập ách thống trị ngày càng hà khắc, tàn bạo, Nguyễn Ái Quốc đã nhận
thấy sự bóc lột của bọn chúng ngày càng nặng nề. Càng nhân nhượng chúng sẽ
càng lấn tới, vì vậy chúng ta càng phải đấu tranh. Không chỉ quần chúng lao
động mà cả các giai cấp và tầng lớp trên trong xã hội đều phải chịu nỗi nhục
của người dân mất nước, của một dân tộc mất độc lập, tự do.
Cùng với sự lên án chủ nghĩa thực dân và cổ vuc các dân tộc thuộc địa
cùng dậy đấu tranh, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đối với các dân tộc thuộc địa ở
phương Đông, chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Vì thế, người ta
sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực

vĩ đại và duy nhất của đời sống xã hội họ”.
Hồ Chí Minh thấy rõ sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc với tư cách là chủ
nghĩa yêu nước chân chính của dân tộc thuộc địa. Đó là sức mạnh chiến đấu và
thắng lợi trước bất cứ thế lực ngoại xâm nào. “Chính do tinh thần yêu nước mà
quân đội và nhân dân ta đã mấy năm trường chịu đựng trăm đắng nghìn cay,
kiên quyết đánh cho tan bọn thực dân cướp nước và bọn Việt gian phản quốc,
kiên quyết xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do,
phú cường, một nước Việt Nam dân chủ mới”. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
chủ nghĩa dân tộc chân chính “là một bộ phận của tinh thần quốc tế”, “khác
hẳn với tinh thần “vị quốc” của bọn đế quốc phản động”.
Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định trước sau như một, là chỉ có
Chủ nghĩa xã hội mới có đủ cơ sở và điều kiện để thực hiện công cuộc giải
phóng con người một cách triệt để và thiết thực. Tức là thực hiện được đầy đủ
các quyền của con người, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc của tất cả mọi người.
Cũng chính vì vậy mà con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và độc lập phải
gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, và là mục tiêu chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản
Việt Nam suốt hai phần ba thế kỷ qua và mãi mãi về sau.
II. QUAN HỆ GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP
TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân
tộc với vấn đề giai cấp là một trong những nhân tố đảm bảo thành công của
cách mạng Việt Nam, một trong những đóng góp xuất sắc của Người vào kho
tàng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Quá trình hình thành tư tưởng về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của
Hồ Chí Minh đã gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người ngay từ
những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Trước khi học thuyết Mác – Lênin
được truyền bá vào Việt Nam thì các phong trào yêu nước của người Việt Nam
chống thực dân Pháp liên tục nổ ra, nhưng kết cục đều thất bại. Nguyên nhân

quan trọng nhất khiến cho các phong trào đó thất bại chính là do bế tắc về
đường lối, mặc dù các bậc lãnh tụ của những phong trào yêu nước ấy đã dành
nhiều tâm huyết cho sự nghiệp của mình, nhưng họ không nhận thức được xu
thế của thời đại, nên không thấy được giai cấp trung tâm của thời đại lúc này là
giai cấp công nhân - giai cấp đại biểu cho một phương thức sản xuất mới, một
lực lượng tiến bộ xã hội. Do đó, mục tiêu đi tới của những phong trào ấy không
phản ánh đúng xu thế vận động của lịch sử và thời đại, nên không thể đem lại
kết quả và triển vọng tốt đẹp cho sự phát triển của xã hội Việt Nam.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã đấu
tranh và chỉ đạo giải quyết mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng
giai cấp, bền bỉ chống các quan điểm không đúng về vấn đề dân tộc và thuộc
địa, đã phát triển lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc. Ngay từ khi hoạt
động trong phong trào công nhân ở Pháp, Người đã nhận thấy một hố sâu ngăn
cách giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động ''chính quốc'' với giai cấp
công nhân và nhân dân lao động thuộc địa. Đó là chủ nghĩa sô-vanh nước lớn
của các dân tộc thống trị và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi đối với các dân tộc bị
thống trị.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, “Chính
cương vắn tắt” do Hồ Chí Minh khởi thảo đã khẳng định: “Chủ trương làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Như vậy là, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh,
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng Xã hội Chủ
nghĩa. Cuộc cách mạng này kết hợp trong bản thân nó tiến trình của hai sự
nghiệp giải phóng: giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân và giải phóng
giai cấp khỏi ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường
của giai cấp công nhân - điều đó phù hợp với xu thế thời đại và lợi ích của các
giai cấp và lực lượng tiến bộ trong dân tộc. Sức mạnh đi tới thắng lợi của cách
mạng Việt Nam không phải là cái gì khác mà là mục tiêu dân tộc luôn thống
nhất với mục tiêu dân chủ trên cơ sở định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Đặc điểm
nổi bật của cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân triệt

để, tạo tiền đề cho bước chuyển sang thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã Hội. Tức
là, cách mạng Xã hội chủ nghĩa là bước kế tiếp ngay khi cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân thắng lợi và giữa hai cuộc cách mạng này không có một bức
tường nào ngăn cách. Đây là quan điểm hết sức căn bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh: chỉ có hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc mới có điều kiện để tiến
lên chủ nghĩa Xã hội và chỉ có cách mạng Xã hội Chủ nghĩa mới giữ vững được
thành quả cách mạng giải phóng dân tộc, mới mang lại cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc cho mọi tầng lớp nhân dân, mới có độc lập dân tộc thực sự.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình
đấu tranh cách mạng: giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ là
chứng minh cho sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn là sự phát
triển sáng tạo và có giá trị định hướng rất cơ bản. Qua thực tiễn đấu tranh và
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn bám sát đặc điểm thực tiễn Việt Nam và
tham khảo kinh nghiệm các nước khác, Hồ Chí Minh đã có những giải pháp
đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng đòi hỏi của lịch sử, góp phần làm phong phú thêm
kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; đó cũng chính là nguồn gốc sức
mạnh của cách mạng nước ta trong suốt bảy thập kỷ qua.
III. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP
CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA
Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN
hiện nay, việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hố Chí Minh về mối
quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp càng có ý nghĩa cực
kỳ quan trọng hết sức cấp thiết. Bởi vì, thực tế cho ta bài học là, có thời kỳ, khi
triển khai các nhiệm vụ xây dựng CNXH, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng
vội, chủ quan, duy ý chí, quá nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề
dân tộc trong việc hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội,
dẫn đến lợi ích các giai cấp, tầng lớp không được tính đến đầy đủ và kết hợp hài
hoà, sức mạnh dân tộc không được phát huy như một trong những động lực chủ
yếu nhất. Nhưng ngay sau đó, Đảng ta đã kịp thời khắc phục có hiệu quả cả về
phương điện nhận thức lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn về vấn đề

này.
Tuy thế, trong những năm gần đây, ở nước ta đã nảy sinh một ý kiến cho
rằng: mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp luận chứng trong chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đúng với một số nước khác nào
đó, còn ở Việt Nam vốn là nước thuộc địa, nửa phong kiến, vấn đề dân tộc bao
giờ cũng chi phối, khi nào Đảng nhấn mạnh vấn đề giai cấp thì đều dẫn đến sai
lầm. Từ đó, họ đề xuất ý kiến theo hướng nhấn mạnh một chiều vấn đề dân tộc,
tách vấn đề dân tộc khỏi vấn đề giai cấp, hạ thấp ý nghĩa quan trọng, bức thiết
của vấn đề giai cấp, không lấy quan điểm giai cấp làm quan điểm cơ sở lập
trường để xem xét, giải quyết vấn đề dân tộc. Theo họ, nước ta hiện nay chỉ nên
đề ra và giải quyết những vấn đề dân tộc, còn vấn đề giai cấp không nên đặt ra.
Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được
họ đồng tình, nhưng giải thích theo hướng phi giai cấp, nghĩa là không nhất
thiết phải theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Thực chất là họ bác bỏ đường lối
giải quyết vấn đề dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân. Quan điểm
nêu trên đi ngược với con đường mà Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã
lựa chọn, và rõ ràng là không phù hợp với thực tiễn của lịch sử cách mạng Việt
Nam. Thực tiễn đó đã chỉ ra rằng, trong bất cứ giai đoạn nào, sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta đều phải kết hợp nhuần nhuyễn lợi ích giai cấp với lợi ích
dân tộc; trong chủ nghĩa yêu nước Việt Nam luôn luôn gắn bó hữu cơ với lý
tưởng của giai cấp công nhân Việt Nam. Nền độc lập thật sự của dân tộc; tự do,
sự giàu mạnh, văn minh và hạnh phúc của nhân dân chỉ có thể đạt được một
cách bền vững trong sự nghiệp cách mạng theo mục tiêu, lý tưởng của giai cấp
công nhân. Bởi vậy, ngay từ khi khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới,
Đảng ta đã xác định rõ: đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ
nghĩa mà là quan niệm đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội và thực hiện mục tiêu
ấy bằng những hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp. Nói cách khác, giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc cơ bản của quá trình đổi mới.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến
nay, Đảng ta đã ngày càng cụ thể hoá và hoàn thiện đường lối đổi mới toàn

diện, mà thực chất là nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc với vấn đề
giai cấp trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở nước ta.
Văn kiện của Đảng ta tại Đại hội lần thứ IX đã xác định rõ: “Mối quan hệ
giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong
nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây đựng và bảo
vệ Tổ quốc được sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất
với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội”.
Đảng đã vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trong công
cuộc đổi mới hiện nay:
- Khởi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dt, nguồn động
lực mạnh mẽ xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Hội nghị Trung Ương 6 (khóa 7) đã
xác định rõ nguồn lực và phát huy nguồn lực để xây dựng và phát triển đất
nước. Trong đó nguồn lực con người cả về thể chất và tinh thần là quan trọng
nhất. Đảng đã chú trọng giáo dục và có nhiều phong vào thiết thực khơi dậy
truyền thống yêu nước của con người Việt Nam, biến nó thành động lực để
chiến thắng mọi kẻ thù, xây dựng và phát triển đất nước.
- Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức và giải quyết vấn đề dân
tộc trên quan điểm giai cấp. Đảng đã khẳng định rõ vai trờ, sứ mệnh lịch sử của
giai cấp vô sản, kết hợp vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp đưa Cách Mạng Việt
Nam từ giair phóng dân tộc lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Đại đoàn kết dân tộc rộng
rãi trên nền tảng liên minh công-nông và tầng lớp trí thức do Đảng Cộng Sản
Việt Nam lãnh đạo. Trong đấu tranh giành chính quyền phải sử dụng bạo lực
của quần chúng cách mạng chống bạo lực phản cách mạng. Kiên trì mục tiêu
độc lập dân tộc và Chủ Nghĩa Xã Hội.
- Đảng đã chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, giải quyết tốt mối
quan hệ giữa các dân tộc anh em trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã nêu: vấn đề dân tộc và đại đoàn
kết dân tộc luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Lịch sử ghi

nhận công lao của các dân tộc miền núi đóng góp to lớn vào thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống xâm lược. Truyền thống quý báu đó của dân tộc Việt Nam
như Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán,
Giarai hay Êđê, Xơđăng hay Bana… đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em
ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau.”.
Bên cạnh việc lên án thủ đoạn đê hèn của bọn thực dân, phong kiến dùng chính
sách “chia để trị” nhằm chia rẽ các dân tộc Việt Nam và để kìm hãm các dân
tộc trong vòng nghèo nàn và dốt nát, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tính ưu việt của chế
độ mới để nhằm giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc ở Việt Nam: “Chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là: Các dân tộc đều bình đẳng và phải đoàn
kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em. Đồng bào miền xuôi phải ra
sức giúp đỡ đồng bào miền ngược cùng tiến bộ về mọi mặt.”
- Đoàn kết, thương yêu người Việt Nam sống ở nước ngoài và thân thiện
với người nước ngoài sống ở Việt Nam. Vì nhiều lý do khác nhau, dẫn đến một
thực tế của đời sống thế giới, là người dân của nước này đến cư trú và làm ăn
sinh sống ở nước khác và ngược lại. Giải quyết thực trạng đó ở mỗi quốc gia,
dân tộc và mỗi chính đảng, thậm chí với từng nhà lãnh đạo có những quan điểm
và chủ trương chính sách khác nhau. Đối với người Việt Nam sống xa Tổ quốc,
học tập theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà Nước ta đã chủ trương
đoàn kết, thương yêu họ, kêu gọi họ hướng về quê hương đất nước, nơi quê cha,
đất tổ của mình, vì tất cả bà con đều là “con Lạc cháu Hồng” của đất Việt.
Đồng thời, cũng kêu gọi và khuyên nhủ bà con phải giữ mối quan hệ thân thiện
với nhân dân các nước và thực hiện tốt luật pháp của họ.
- Trong công tác đền ơn, đáp nghĩa Hồ Chủ Tịch chỉ thị, các cấp bộ Đảng
phải thi hành đúng chính sách dân tộc, thực hiện sự đoàn kết, bình đẳng, tương
trợ giữa các dân tộc sao cho đạt mục tiêu: nhân dân no ấm hơn, mạnh khỏe hơn.
Văn hóa sẽ cao hơn. Giao thông thuận tiện hơn. Bản làng vui tươi hơn. Quốc
phòng vững vàng hơn.
Nhìn lại lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ XX, một thế kỷ vận động và phát
triển mau lẹ và phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta càng thấy sự đúng đắn,

sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp.
Vấn đề đó đã được kiểm nghiệm bằng thực tế, cả trong chiến tranh ác liệt
lẫn trong những khó khăn của hoà bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay,
tư tưởng Hồ Chí Minh đang thể hiện giá trị trường tồn nhất là trong bối cảnh
các dân tộc đang đứng trước những thách thức cực kì nguy hiểm khi các thế lực
hiếu chiến dựa vào tiềm lực quân sự hiện đại tiến hành chiến tranh xâm lược
những nước có chủ quyền, bất chấp luật pháp.
Điều đó càng cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, học tập,
quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tình
hình mới, làm cơ sở vững chắc cho việc vận dụng, hoạch định, tổ chức và thực
hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, để đưa dân tộc ta vượt qua
mọi thử thách, vững bước trong quá trình xây dựng một đất nước vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Chẳng đường lịch sử hơn 70 năm qua kể từ ngày ra đời đến nay, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn trung thành với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin và những quan điểm tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân tộc và giải
quyết vấn đề dân tộc đề ra chính sách dân tộc đúng đắn cho cách mạng Việt
Nam. Chính sách đó vừa phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt
Nam, vừa phù hợp với xu thế phát triển tiến bộ của nhân loại, nên nó đã được
cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam đón nhận với niềm phấn khởi và đầy tin tưởng,
cũng bởi lẽ đó mà cách mạng Việt Nam có được sức mạnh to lớn để hoàn thành
thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.

×